Tải bản đầy đủ (.doc) (39 trang)

Gián án de tai chan nuoi lon

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (296 KB, 39 trang )

1 ĐẶT VẤN ĐỀ
Chăn nuôi lợn ở Việt Nam nói riêng và trên thế giới nói chung đóng vai trò
hết sức quan trọng trong hệ thống chăn nuôi. Lợn là loài gia súc được nuôi nhiều
và cung cấp lượng thực phẩm lớn nhất cho con người.
Việt Nam là một trong những quốc gia có nền chăn nuôi chưa phát triển,
năng suất chăn nuôi và chất lượng sản phẩm không cao. Kết quả này một phần là
do khó khăn về điều kiện tự nhiên, nhưng quan trọng hơn là do quy trình kỹ
thuật chăn nuôi còn hạn chế, hơn thế nữa các giống lợn được sử dụng cho chăn
nuôi có khả năng sản xuất và chất lượng sản phẩm chưa cao.
Chiến lược chăn nuôi lợn của Việt Nam trong thời gian tới là tăng số lượng
đầu lợn, nâng cao năng suất sản xuất và chất lượng sản phẩm bằng cách tăng tỉ lệ
máu ngoại cho đàn lợn nuôi trong nước. Thực hiện chiến lược chăn nuôi này
trong thời gian qua nhà nước ta đã cho nhập hàng loạt các giống lợn ngoại có
năng suất cao như Yorkshire, Landrace, Pietrian và Duroc. Từ đó tiến hành lai
tạo ra các con lai 2 máu, 3 máu, 4 máu nhằm nâng cao khả năng sản xuất và khả
năng thích nghi với điều kiện chăn nuôi Việt Nam.
Lai tạo có ý nghĩa quan trọng trong việc nâng cao khả năng và hiệu quả sản
xuất của vật nuôi. Con lai vừa kết hợp được các ưu điểm của những giống đem
lai vừa tận dụng được ưu thế lai của công thức lai. Nguyễn Thị Viễn và cs (2000)
ưu thế lai về tính trạng sinh sản của nhóm nái lai LY/YL đạt được từ 0,99-6,21%
và tính trạng tăng trọng g/ngày giai đoạn từ 90-150 ngày tuổi đã cải thiện được
2,03-3,48%. Trong chăn nuôi công nghiệp việc xác định công thức lai tốt, phù
hợp với điều kiện chăn nuôi của từng vùng là rất cần thiết.
Greenfed Việt Nam là công ty lớn trong lĩnh vực chăn nuôi lợn, có quy
trình chăn nuôi hiện đại. Trong thời gian qua công ty đã tiến hành nhập và lai tạo
thành công nhiều công thức lai và đưa các tổ hợp lai vào sử dụng trong chăn nuôi
công nghiệp. Điển hình là tổ hợp lai F
1
(♀Landrace x ♂Yorkshire) ) nuôi thịt
thương phẩm. Tuy nhiên chưa có nhiều nghiên cứu đánh giá năng suất sinh sản
của lợn nái F


1
(♀Landrace x ♂Yorkshire) , khả năng sinh trưởng và chất lượng
1
thịt của con lai 3 máu ♀(♀Landrace x ♂Yorkshire) x ♂(♀Landrace x ♂Duroc)
một cách cụ thể và có hệ thống. Xuất phát từ thực tiễn đó chúng tôi tiến hành
nghiên cứu: “Đánh giá khả năng sinh sản của lợn nái F
1
(♀Landrace x
♂Yorkshire)
- Mục tiêu của đề tài:
+ Xác định năng suất sinh sản của con lợn nái F
1
(♀Landrace x ♂Yorkshire)
trong điều kiện chăn nuôi công nghiệp.
+ Xác định khả năng sinh trưởng của lợn lai 3 máu ♀(♀Landrace x
♂Yorkshire) x ♂(♀Landrace x ♂Duroc) trong điều kiện chăn nuôi công nghiệp.
+ Khảo sát chất lượng thịt của lợn lai 3 máu ♀(♀Landrace x ♂Yorkshire) x
♂(♀Landrace x ♂Duroc) trong điều kiện chăn nuôi công nghiệp.
2 CƠ SỞ LÝ LUẬN
2.1Tình hình chăn nuôi lợn trên thế giới và ở Việt Nam
Nghề chăn nuôi lợn ra đời rất sớm. Bắt đầu xuất hiện ở châu Âu và châu Á
cách đây khoảng một vạn năm. Kỹ thuật chăn nuôi được hoàn thiện theo thời
gian, đặc biệt là từ thế kỷ XX đến nay chăn nuôi lợn đã phát triển theo hướng sản
xuất công nghiệp cho năng suất và chất lượng cao. Hiện nay lợn được nuôi trên
khắp thế giới, tuy nhiên đàn lợn thế giới phân bố không đều ở các châu lục.
Trong đó, châu Âu chiếm khoảng 52%, châu Á 30,4%, châu Úc 5,8%, châu Phi
3,2%, châu Mỹ 8,6%. Một số quốc gia chăn nuôi lợn có công nghệ cao và có
tổng đàn lợn lớn như: Nga, Anh, Pháp, Mỹ, Nhật, Canada, Hà Lan, Đan Mạch,
Đức, Ý, Úc, Trung Quốc, Singapore, Đài Loan. Nói chung ở các nước tiên tiến
và công nghiệp đều có chăn nuôi lợn phát triển theo hình thức công nghiệp và

đạt trình độ chuyên môn hoá cao.
Theo số liệu thống kê FAO (2004). Ngành chăn nuôi lợn toàn thế giới liên
tục tăng trưởng ổn định trong 15 năm qua (bảng 1) và dự kiến sẽ tiếp tục tăng
trưởng trong thời gian tới.
Bảng 1: Diễn biến số lượng đàn lợn thế giới
2
Năm
1960 1990 1995 2000 2001 2002 2003 2004
Số lợn (triệu con)
521 880 920 950 1204 1215 1278 1257
Nguồn: FAO ( 2004)
Ở Việt Nam chăn nuôi lợn xuất hiện từ lâu đời và trở thành một nghề truyền
thống của nông dân, tuy nhiên trình độ chăn nuôi lạc hậu cùng việc sử dụng các
giống nguyên thủy sức sản xuất thấp nên hiệu quả không cao. Chăn nuôi lợn ở
nước ta chỉ thực sự phát triển mạnh từ những năm cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ
XXI. Trong thời gian gần đây do tình hình dịch bệnh diển biến phức tạp cùng với
các khó khăn của chăn nuôi trong thời gian khủng hoảng kinh tế toàn cầu làm
cho số lượng đầu lợn cả nước bị giảm nhẹ, tuy nhiên việc nâng cao chất lượng
giống và kỹ thuật chăn nuôi đảm bảo năng suất và sản lượng thịt lợn luôn có xu
hướng tăng lên. Số liệu của tổng cục thống kê năm 2007 cho thấy đàn lợn nước
ta tăng từ 23,2 triệu con năm 2002 lên đến 26,6 triệu con năm 2007. Sản lượng
thịt lợn hơi cũng tăng nhanh từ 1,65 triệu tấn năm 2002 đến 2,71 triệu tấn năm
2007 (bảng 2).
Bảng 2: Diễn biến số lượng đàn lợn và sản lượng thịt lợn Việt Nam
Năm
Chỉ tiêu
2002 2003 2004 2005 2006 2007
Đầu lợn (triệu con) 23,2 24,9 26,1 27,4 26,9 26,6
Sản lượng thịt (triệu tấn) 1,65 1,80 2,01 2,29 2,50 2,6
Nguồn: Tổng cục thống kê (2007)

Thịt lợn chiếm đến 76-77% trong tổng số các loại thịt sản xuất ở trong
nước. Hiện nay phần lớn lợn được nuôi theo hình thức nông hộ bán thâm canh.
Trong những năm gần đây thực hiện chính sách công nghiệp hoá nông nghiêp,
chuyển đổi cơ cấu vật nuôi cây trồng nên sản phẩm của ngành chăn nuôi lợn đã
tăng lên đáng kể đặc biệt là về chất lượng sản phẩm.
Định hướng chăn nuôi lợn Việt Nam trong những năm tới là: Tăng số đầu
lợn, nâng cao năng suất và chất lượng thịt bằng cách nghiên cứu và đưa vào nuôi
3
những công thức lai mới phù hợp với điều kiện tự nhiên nước ta. Đẩy mạnh
nghành chăn nuôi hàng hoá, từng bước tiếp cận với thị trường xuất khẩu, nâng
cao hiệu quả kinh tế, góp phần vào sự phát triển của đất nước.
2.2Đặc điểm sinh lý lợn nái
2.2.1 Lợn hậu bị và lợn chờ phối
2.2.1.1 Sự thành thục về tính
Gia súc sau một thời gian sinh trưởng và phát triển nhất định thì có khả
năng sinh sản. Tuổi con vật bắt đầu có khả năng sinh sản gọi là tuổi thành thục
về tính. Sự thành thục về tính được tính từ lần động dục và rụng trứng đầu tiên
của gia súc cái. Nếu trứng được gặp tinh trùng thì có khả năng thụ thai. Ở giai
đoạn này dưới ảnh hưởng của nội tiết sinh dục, cơ thể có những biến đổi đặc
trưng, cơ quan sinh dục phát triển, sinh ra các giao tử hoạt động, có khả năng kết
hợp với giao tử đực để sinh ra con cái. Đồng thời gia súc có những thay đổi về
hành vi, biểu hiện bên ngoài.
Lợn cái thành thục về tính vào khoảng 4-9 tháng tuổi. Thông thường các
giống lợn nội có tuổi thành thục về tính sớm hơn so với lợn lai và lợn ngoại.
Tuổi động dục lần đầu của các giống lợn nội như lợn ỉ, lợn móng cái là 3-5 tháng
tuổi. Lợn nái lai tuổi động dục lần đầu muộn hơn, ở lợn nái F1(nội x ngoại) động
dục bắt đầu lúc 5-7 tháng tuổi. Lợn ngoại thành thục về tính vào khoảng 6-8
tháng tuổi.
Các nhân tố ảnh hưởng đến tuổi thành thục về tính:
+ Giống: Hầu hết các giống nội thành thục sớm hơn giống nhập ngoại,

giống có tầm vóc nhỏ thường thành thục sớm hơn giống có tầm vóc lớn.
+ Chế độ dinh dưỡng: Gia súc được nuôi dưỡng với khẩu phần thức ăn đầy
đủ, phù hợp nhu cầu dinh duỡng thành thục sinh dục sớm hơn so với gia súc
được nuôi dưỡng với khẩu phần thức ăn có giá trị dinh dưõng thấp.
4
+ Ngoài ra tuổi thành thục về tính còn phụ thuộc vào việc tiếp xúc với con
đực. Sự có mặt của con đực trong giai đoạn trước tuổi động dục sẽ làm tăng
nhanh quá trình thành thục về tính.
2.2.1.2 Chu kì động dục
Gia súc cái khi đến tuổi thành thục về tính sẽ xuất hiện chu kỳ động dục.
Đó là sự phát triển của nang trứng theo tính chu kỳ dưới sự điều hoà của
hormone thùy trước tuyến yên làm cho trứng chín và rụng diễn ra một cách có
chu kỳ. Hiện tượng trứng chín và rụng kèm theo những biểu hiện bên ngoài cơ
thể thay đổi có tính quy luật từ khi gia súc thành thục về tính cho đến khi hết khả
năng sinh sản gọi là chu kì động dục. Chu kỳ động dục của lợn giao động trong
khoảng từ 18 - 24 ngày. Nếu gia súc động dục mà không cho phối hoặc phối
giống không có kết quả, trứng không được thụ tinh thì sẽ xuất hiện chu kỳ tiếp
theo. Chu kỳ động dục của lợn có thể được chia làm 4 giai đoạn:
- Giai đoạn trước động dục (proestrus): Là khoảng thời gian từ khi thể vàng
của chu kỳ trước tiêu biến đến khi gia súc bắt đầu xuất hiện động dục ở chu kì
tiếp theo. Đây thực chất là giai đoạn phát triển của nang trứng. Khi thể vàng tiêu
biến đi, nồng độ progesterone trong máu giảm nhanh, nó thôi không ức chế
tuyến yên do đó tuyến yên bắt đầu tiết FSH, hormone này kích thích bao noãn
phát triển, tăng lên khối lượng, kích thước và nổi lên trên bề mặt của buồng
trứng. Sự tăng tiết FSH của tuyến yên kích thích buồng trứng tiết estrogen hình
thành các đặc tính sinh dục thứ cấp. Ở giai đoạn này lợn cái có biểu hiện kêu rít,
bỏ ăn âm hộ đỏ tươi sưng mọng có nước nhầy chảy ra. Lợn cái có hiện tượng
nhảy lên lưng con khác nhưng không cho con khác nhảy lên lưng nó.
- Giai đoạn động dục (estrucs): Giai đoạn này bao gồm 3 thời kì liên tiếp là:
Hưng phấn, chịu đực và hết chịu đực. Một đặc trưng cơ bản trong giai đoạn này

đối với tất cả các gia súc là sự rụng trứng trong đường sinh dục cái và biểu hiện
chịu đực của gia súc cái thể hiện ra bên ngoài. Lợn vẩn bỏ ăn. Âm hộ chuyển từ
màu đỏ tươi sang màu đỏ sẩm. Lợn nái chịu đực, mê ì. Dùng tay ấn lên lưng và
vùng mông lợn đứng im, nước nhờn chảy dính và đục. Thời gian này kéo dài
khoảng 2 ngày, lợn nội ngắn hơn và khoảng 28- 30 giờ.
5
- Giai đoạn sau động dục (metestrus): Giai đoạn này được tính từ khi gia
súc kết thúc động dục và thường kéo dài trong vài ngày. Đặc trưng của giai đoạn
này là sự hình thành về thể vàng tại vị trí rụng trứng. Thể vàng tiết progesterone
ức chế trung khu sinh dục ở vùng dưới đồi từ đó ức chế tuyến yên làm giảm tiết
estrogen dẫn tới giảm hưng phấn sinh dục. Con vật trở lại trạng thái bình thường,
không biểu hiện đòi hỏi sinh dục nửa. Âm hộ hết sưng, lợn ăn uống như bình
thường.
- Giai đoạn yên tĩnh (diestrucs); thường bắt đầu từ ngày thứ 4 sau khi trứng
rụng, khi thể vàng bắt đầu hoạt động mạnh. Đây là giai đoạn kéo dài nhất. đối
với gia súc không có thai, giai đoạn này sẽ kết thúc khi thể vàng bị tiêu biến. Lợn
không còn biểu hiện sinh dục, cơ quan sinh dục phục hồi chức năng để chuẩn bị
cho chu kỳ sinh dục tiếp theo.
Các nhân tố ảnh hưởng đến chu kì động dục:
+ Giống: Các giống lợn khác nhau có chu kì động dục khác nhau như lợn ỉ
từ 19-21 ngày, lợn móng cái từ 19-25 ngày.
+ Tuổi: Nái tơ thường có chu kì tính ngắn hơn lợn nái trưởng thành.
+ Dinh dưỡng: Nếu dinh dưỡng tốt thì chu kì tính ổn định và ngược lại.
+ Ngoài các nhân tố trên chu kỳ động dục còn chịu tác động của một số
nhân tố khác như: Nhiệt độ, chế độ chiếu sáng, pheromon, tiếng kêu của con đực
(Lê Văn Thọ và Đàm Văn Tiện, 1992).
2.2.1.3 Sự thành thục về thể vóc
Sau một thời gian sinh trưởng và phát triển, đến một thời điểm nhất định
con vật đạt tới độ trưởng thành về thể vóc. Lúc này cơ thể đã tương đối hoàn
chỉnh về sự phát triển của các cơ quan bộ phận, tầm vóc, trọng lượng, kích thước

các chiều đo ổn định và gia súc có khả năng sinh sản cao.
Tuổi thành thục về thể vóc của các giống lợn khác nhau là khác nhau. Lợn
Móng Cái thành thục về thể vóc lúc 6 tháng tuổi, trong khi đó lợn Ỉ là 8 tháng
6
tuổi. Ngoài ra sự thành thục về thể vóc còn phụ thuộc vào chế độ chăm sóc nuôi
dưỡng, bệnh tật,…
2.2.1.4 Tuổi phối giống lần đầu
Để có thể tiến hành phối giống lần đầu, lợn nái hậu bị phải thành thục về
tính và thể vóc. Lợn nái nội nên phối giống lần đầu ở 6 - 7 tháng tuổi, khi trọng
lượng của lợn đạt từ 40 kg trở lên. Nái ngoại từ 8 - 10 tháng tuổi, trọng lượng
đạt từ 90 kg trở lên. Không nên phối giống quá sớm hoặc quá muộn. Nếu phối
giống quá sớm khi cơ thể mẹ chưa trưởng thành, cơ thể sẽ ưu tiên dinh dưỡng
cho sự phát triển của bào thai, dinh dưỡng cho sinh trưởng và phát triển của con
mẹ bị giảm đi làm cho cơ thể mẹ yếu, bào thai kém phát triển, con nhỏ và yếu,
thời gian sử dụng lợn mẹ giảm xuống. Ngoài ra nếu phối giống quá sớm, lúc này
xương chậu của cơ thể mẹ chưa hoàn thiện, nhỏ và hẹp làm cho mẹ đẻ khó. Nếu
phối giống cho lợn quá muộn thì lảng phí nhiều thời gian và thức ăn để nuôi lợn
hậu bị. Để đạt được hiệu quả sinh sản tốt và duy trì con nái sinh sản lâu bền, cần
bỏ qua 1 - 2 chu kỳ động dục đầu rồi mới cho phối.
2.2.1.5 Thời gian động dục lại sau cai sữa
Sau khi cai sữa con khoảng 3 - 7 ngày, tuỳ theo sự hao mòn của lợn mẹ
trong giai đoạn nuôi con và sự phát dục lại sau cai sữa, lợn nái sẽ động dục trở
lại và bắt đầu một chu kỳ sinh sản mới. Để nâng cao hiệu quả sản xuất người
chăn nuôi phải chăm sóc, nuôi dưỡng tốt lợn nái trong thời gian nuôi con và sau
cai sữa nhằm rút ngắn thời gian động dục lại sau cai sữa. Ở các trang trại chăn
nuôi công nghiệp người ta thường tiêm hocmon hoặc vitamin ADE cho lợn nái
sau cai sữa đồng thời cho chúng gần gủi con đực để kích thích quá trình phát dục
lại sau cai sữa, nâng cao năng suất sinh sản của lợn nái.
2.2.1.6 Chăm sóc nuôi dưỡng lợn nái hậu bị
Việc chăm sóc nuôi dưỡng lợn nái hậu bị cần đảm bảo lợn không quá béo

hoặc quá gầy làm ảnh hưởng đến khả năng sinh sản của lợn nái sau này. Để Lợn
hậu bị phát triển tốt phải chú ý đến một số yêu cầu như:
7
- Thức ăn và dinh dưỡng: Thức ăn và lượng cho ăn phải đảm bảo cung cấp
đầy đủ dinh dưỡng cho nhu cầu duy trì và tăng trọng của lợn hậu bị. Dinh dưỡng
thức ăn quyết định trực tiếp đến thể trạng của lợn hậu bị, nếu cung cấp thừa dinh
dưỡng đặc biệt là năng lượng lợn sẽ mập gây hiện tượng nân sổi, nếu dinh dưỡng
không đảm bảo lợn sẽ gầy gây hiện tượng không động dục, động dục không đều
hoặc không đủ trọng lượng phối làm giảm khả năng sinh sản của lợn nái. Thức
ăn của lợn hậu bị cần cung cấp đầy đủ protein, năng lượng, vitamin, khoáng.
- Chuồng trại: Lợn nái hậu bị có thể được nuôi 4-10 con/ô chuồng, với diện
tích 2,5-3m
2
/con. Trong chuồng hậu bị nên bố trí 1 ô nọc nhỏ để lợn hậu bị được
tiếp xúc với con đực kích thích động dục sớm. Chuồng trại phải luôn khô sạch,
đảm bảo nhiệt độ, độ ẩm, và thông thoáng thích hợp.
-Vế sinh tắm chải: Lợn nái hậu bị phải được thường xuyên tắm chải đặc biệt
là về mùa hè nóng. Vệ sinh tắm chải có tác dụng ngăn được các bệnh ngoài da,
kích thích thèm ăn, nâng cao sức khoẻ và hoạt động tính dục.
2.2.2 Sinh lý thụ thai
2.2.2.1 Sự hình thành và phát triển của trứng
Tế bào trứng được hình thành trong buồng trứng được phát triển từ các
noãn nguyên bào (Ovogonie). Ở giai đoạn sớm của đời sống cá thể, các noãn
nguyên bào tương tự như tinh nguyên bào. Trải qua nhiều lần phân bào nguyên
nhiễm đến noãn bào sơ cấp. Tất cả các noãn nguyên bào được bao bởi lớp tế bào
biểu mô. Đến khi thành thục về tính, dưới ảnh hưởng điều hòa của trung khu
sinh dục ở vùng dưới đồi (Hypothalamus) thông qua các yếu tố giải phóng kích
dục tố RF, kích thích tuyến yên tiết hormon hướng sinh dục FSH, LH để điều
khiển quá trình phát triển của nang trứng và rụng trứng. Nói một cách khác từ
lần động dục đầu tiên các tế bào trứng nguyên thủy thay phiên nhau phát triển để

hình thành trứng chín.
2.2.2.2 Sự rụng trứng
Rụng trứng là một quá trình sinh lý phức tạp, quá trình rụng trứng được
điều khiển bởi thần kinh thể dịch và các hormon sinh dục. Trước khi rụng trứng,
8
ở bên trong nang trứng quá trình phân chia giảm nhiễm thành 1n ở lần một, rồi
giữ và kéo dài 1n như thế cho tới khi trứng được thụ tinh. Thùy trước tuyến yên
tăng tiết FSH, LH làm gia tăng tiết dịch nang trứng. Đồng thời ProtaglandingF2α
của tế bào tử cung xuất hiện trước khi trứng rụng một vài giờ. Hormon này có
tác dụng kích thích việc hình thành tổ chức chế tiết enzyme phân hủy vách nang
trứng tạo cơ hội giải phóng trứng. Relaxin (hormon của tử cung) cũng xuất hiện,
nó có hai tác dụng: một là kích thích tiết dịch nang trứng ở lớp tế bào hạt giống
như LH, tác dụng khác giống ProtaglandingF2α là kích thích công phá tổ chức
liên kết sợi của vách nang trứng tạo cơ hội phá vở vách nang trứng. Thùy trước
tuyến yên tiết FSH xúc tiến việc hình thành cấu trúc tiếp nhận LH ở lớp tế bào
hạt. Khi LH gắn nối với cấu trúc tiếp nhận, nó kích thích tế bào hạt tiết
Progesteron với hàm lượng thấp, từ lúc này lớp tế bào hạt bắt đầu có sự biến đổi
về cấu trúc để hình thành thể vàng. Hàm lượng Progesteron thấp lại làm cho hoạt
tính có oestrogen tăng cao, oestrogen bằng con đường liên hệ ngược dương tính
tăng tiết LH.
Sự rụng trứng gồm hai giai đoạn là vở nang trứng và thoát trứng, hàm lượng
LH quyết định quá trình này. Trứng rụng khi hàm lượng LH tiết cao nhất. Lúc
này áp lực dịch nang trứng là cao nhất, vách nang trứng bị phân huỷ và nang
trứng bị phá vở trứng được giải phóng. Nhiều nghiên cứu xác định rằng trứng
muốn rụng thì hàm lượng LH/FSH phải duy trì ở mức 3/1.
Hoạt động giao phối có ảnh hưởng đến thời điểm rụng trứng, nghiên cứu
của Ponevog (1955) cho rằng sự rụng trứng của lợn nái xảy ra trong khoảng 36 -
48 giờ từ khi bắt đầu chịu đực. Hugeus (1976) cho biết lợn nái tơ có số lượng
trứng rụng bình thường là 13,5 trứng. Mức độ dinh dưỡng trong thời kỳ hậu bị và
trong chu kỳ động dục đầu tiên có ảnh hưởng rõ đến số lượng trứng rụng.

Nghiên cứu của Casid (1955) với chế độ dinh dưỡng cao thì số trứng rụng là
13,9 trứng, dinh dưỡng thấp thì số trứng là 11,1 trứng, mức dinh dưỡng thấp -
thấp thì số trứng rụng là 10,6 trứng, còn mức dinh dưỡng thấp - cao số trứng
rụng là 13,6 trứng. Nghiên cứu cũng chứng minh rằng, đối với các giống lợn
khác nhau thì số trứng rụng trong một chu kỳ cũng khác nhau. Theo Lưu Kỷ
9
(1982) lợn F1 (Đại Bạch x Ỉ ) ở chu kỳ động dục thứ ba có số lượng trứng là 11,3
trứng, còn theo Bruger (1972) thì lợn nái Đại Bạch có số lượng trứng rụng là
16,7 trứng.
2.2.2.3 Thời điểm phối tinh thích hợp
Thời điểm phối tinh thích hợp là thời điểm phối giống có nhiều nhất các
tinh trùng có khả năng thụ tinh gặp nhiều nhất các tế bào trứng có khả năng thụ
thai. Thời điểm này quyết định đến tỷ lệ thụ thai và số con đẻ ra trên ổ. Trứng và
tinh trùng tiến hành quá trình thụ tinh ở 1/3 đầu trên ống dẫn trứng là tốt nhất.
Tinh trùng mất 1-2 giờ ở đường sinh dục con cái để di chuyển vị trí thích hợp.
Đối với tế bào trứng sau khi rụng phải mất 1-2 giờ để di chuyển thích hợp và
thời gian tế bào rụng trứng là 8-12 giờ.
Để lợn nái đạt tỷ lệ thụ thai cao, số con đẻ ra nhiều cần tiến hành phối giống
đúng lúc, vì thời gian trứng tồn tại và hiệu quả thụ thai rất ngắn, trong khi đó thì
tinh trùng có thể kéo dài và sống trong tử cung khoảng 45-58 giờ. Do vậy thời
điểm phối giống thích hợp nhất là giữa giai đoạn chịu đực. Lợn nái lai và nái
ngoại cho phối vào cuối ngày thứ 3 và sang ngày thứ 4 tính từ lúc bắt đầu động
dục, hoặc sau khi có hiện tượng chịu đực khoảng 6-8 tiếng thì cho phối. Đối với
lợn nái nội cần phối sớm hơn nái lai và lợn ngoại thuần 1 ngày, cụ thể vào cuối
ngày thứ 2 và đầu ngày thứ 3 kể từ lúc bắt đầu động dục.
Thời gian lợn cái biểu hiện động dục cao độ nhất là lúc “mê ì”, âm hộ
chuyển từ màu đỏ hồng sang thâm tái, lợn có thể ít ăn hoặc bỏ ăn hoàn toàn,
thích nhảy lên lưng con khác, nếu ta ấn mạnh vào vùng hông khum thì thấy lợn
đứng yên, cong đuôi và thích giao phối. Đây là thời điểm phối tinh thích hợp
nhất cho lợn nái.

2.2.3 Lợn nái mang thai
Sau khi lợn nái phối giống có kết quả, hợp tử bám chặt vào cổ tử cung và
bắt đầu phát triển. Các bộ phận liên quan (nhau thai, bọc ối, niệu tử cung, bầu
vú…) cũng phát triển cùng bào thai trong suốt thời gian mang thai. Trong thời
gian mang thai lợn nái có nhiều đặc điểm thay đổi.
10
2.2.3.1 Đặc điểm phát triển của bào thai
Ngay sau khi thụ tinh hợp tử bắt đầu sử dụng chất dinh dưỡng của tử cung
làm chất dinh dưỡng cho mình. Sau 20 giờ sự phân chia được tiến hành sinh ra 2
tế bào phôi, sau kì thụ tinh 24 giờ các hợp tử có thể đến sừng tử cung nhưng
chúng cũng có thể ở trong ống dẫn trứng khoảng 67-72 giờ. Lúc này ở giai đoạn
phôi đầu với 16 đến 32 tế bào phôi. Việc di chuyển của tế bào phôi từ ống dẫn
trứng đến sừng tử cung được tiến hành nhờ sự co bóp dưới sự tác động của
Ostrogen do buồng trứng tiết ra.
Sau 5-6 ngày kể từ khi thụ tinh, hợp tử đã ở trong tử cung. Hợp tử chứa
nhiều tế bào phôi dạng túi phôi non. Đến ngày thứ 7-8 dấu hiệu của một cơ thể
mới được hình thành. Sự làm tổ của hợp tử được tiến hành vào ngày 18-24 sau
khi trứng được thụ tinh. Đây là sự khủng hoảng đầu tiên liên quan đến sự phát
triển của bào thai nhằm cố định phôi vào thành tử cung.
Sau khi cố được cố định vào thành tử cung, bào thai tiếp tục phát triển và
hoàn thiện các cơ quan bộ phận của cơ thể. Tốc độ lớn lên của bào thai là rất
nhanh, đặc biệt là giai đoạn mang thai cuối (bảng 4).
Bảng 4 : Sự phát triển của bào thai
Tuổi
(ngày)
Chiều dài Trọng lượng
centimet % so với 30 ngày gam % so với 30 ngày
30
51
72

93
114
2,5 ± 0,3
9,8 ± 1,0
16,3 ± 2.0
22,9 ± 2.0
29,4 ± 8,6
3,9
6,5
9,2
11,8
1,50 ± 0,005
49,80 ± 1,4
220,50 ± 7,3
616,9 ± 15,0
1049 ± 42,7
33,2
147,0
411,3
639,9
Nguồn: Ullrey và CS (1965)
Quá trình phát triển và bào thai chia làm 3 giai đoạn:
- Giai đoạn phôi thai: từ ngày có chửa thứ 1 - 22, hình thành các mầm mống
của các bộ phận cơ thể.
11
- Giai đoạn tiền bào thai: từ ngày có chửa thứ 23 - 38, giai đoạn này hình
thành các tổ chứa sụn, cơ, hệ thần kinh, tuyến sữa, đặc tính của giống tính đực,
cái và các đặc điểm cấu tạo cơ thể.
- Giai đoạn phát triển bào thai: từ ngày thứ 39 - 114, khối lượng và thể tích
bào thai tăng lên rất nhanh, chiều dài thân, cao vai phát triển mạnh, bộ xương

được hình thành, các cơ quan nội tạng và bốn chân phát triển hoàn thiện.
2.2.3.2 Quá trình phát triển của các tổ chức liên quan
Quá trình phát triển bào thai gắn liền với sự thay đổi của các cơ quan, các
bộ phận có liên quan như:
- Nhau thai: tác dụng quyết định tới trao đổi chất giữa mẹ và thai, tham gia
trao đổi, bài tiết và là nơi dự trữ dinh dưỡng tạm thời để cung cấp cho thai khi
cần thiết. Theo Elslay (1971) nhau thai đạt cực đại là 2,5 kg ở 70 ngày tuổi và
giữ nguyên cho đến lúc đẻ (bảng 5).
- Dịch ối và dịch niệu: các dịch này có tác dụng bảo vệ cơ giới cho thai và
là kho dự trữ khoáng, chứa các sản phẩm trao đổi như urea, creatine. Theo Elslay
(1971) thì dịch ối và dịch niệu có trọng lượng cực đại là 6 kg khi thai đạt được
70 ngày tuổi, sau đó thì giảm dần đến khi đẻ còn 2 kg (bảng 5)
Bảng 5: Sự phát triển của nhau thai, dịch ối, dịch niệu
Tuổi thai
(ngày)
Số thai
Nhau thai Dịch ối, niệu
(gam)
% so với
47 ngày
(gam)
% so với
47 ngày
47 12 800 1350
63 11 2100 263 5050 374
81 11 2550 319 5650 419
96 10 2500 313 2250 167
102 10 2500 313 1250 93
108 9 2500 313 1890 140
Nguồn: Elslay (1971)

12
- Tử cung lợn nái: Trong thời gian chửa, tử cung lợn nái không ngừng tăng
trưởng, để đảm bảo cho bào thai phát triển được bình thường. Moustagrad (1962)
cho rằng ở thời điểm mang thai 108 ngày khối lượng tử cung lợn nái nặng gần
gấp 3 lần so với lúc mang thai 47 ngày (bảng 6).
Bảng 6: Sự phát triển tử cung lợn mẹ trong thời gian mang thai
Tuổi thai (ngày) Tử cung (gam) % so với 47 ngày
47 1300
63 1450 189
81 2600 200
96 3411 265
108 3770 290
Nguồn: Moustagrad (1962)
2.2.3.3 Sự thay đổi của cơ thể lợn mẹ.
Trong thời gian mang thai cơ thể lợn mẹ cũng có những biến đổi như: Lợn
mẹ không động dục, trao đổi cơ bản tăng “quá trình đồng hóa chiếm ưu thế hơn
so với dị hóa”. Salmon và cs (1967) khi so sánh khả năng tăng trọng của lợn nái
mang thai so với lợn nái không mang thai ăn khẩu phần giống nhau đã kết luận
có sự sai khác rất lớn giữa 2 nhóm này (bảng 7).
Bảng 7: Sự thay đổi cơ thể lợn mẹ trong thời gian mang thai
Lợn nái FI (kg) W
1
(kg) W
2
(kg) Tăng (kg) Sai khác
Có chửa 225 230 250 20 16
Không chửa 224 231 235 4
Có chửa 418 230 284 54 15
Không chửa 419 231 270 39
Nguồn: Salmon và cs (1967)

FI = Lượng thức ăn vào, W
1
= Trọng lượng lợn mẹ lúc bắt đầu có chửa, W
2
=
Trọng lượng lợn mẹ sau khi đẻ
- Sự biến đổi toàn thân: Thời kỳ đầu, quá trình trao đổi chất tăng lên, con
vật ăn khoẻ, tiêu hoá nhanh, khả năng tích lũy lớn dẫn đến con vật nhanh béo. Ở
thời kỳ cuối của thai do yêu cầu phát triển của bào thai, nó phải hấp thụ chất dinh
13
dưỡng từ con mẹ nên con mẹ thường gầy đi. Trong thời gian có chửa Glycogen
được tích lũy ở gan, mỡ trung tính và Cholesterol trong máu tăng lên, lượng
Hemoglobin trong máu bình thường, máu nhanh đông hơn. Lượng Ca, P trong
máu giảm xuống vào thời gian có chửa sau nhưng lượng K lại tăng lên. Hoạt
động của tim, phổi trở nên khó khăn do áp lực của bào thai đè lên xoang bụng và
ngực. Quá trình lưu thông máu, sự hô hấp và bài tiết đều bị ảnh hưởng. Do vậy ở
thời cuối có chửa con vật thường bị phù nề, khó thở và hay đi tiểu tiện, có thể
mệt mỏi, toát mồ môi.
- Sự biến đổi của bộ máy sinh dục: Buồng trứng tăng thể tích, thể vàng
được duy trì và tiết ra hormone Progesterone có tác dụng an thai và ức chế động
dục thể tích và trọng lượng tử cùng tăng lên tỷ lệ thuận với sự lớn lên của bào
thai, dây chằng bị kéo căng, sừng tử cung tăng lên nhiều lần. Lượng máu lưu
thông đến tử cung để cung cấp đầy đủ dinh dưỡng cho thai. Cổ tử cung luôn
đóng kín để tách biệt âm đạo với tử cung, tránh các tác nhân cơ học, ký sinh
trùng và vi khuẩn.
- Sự biến đổi nội tiết trong cơ thể của thời kỳ mang thai: Progesterone trong
10 ngày đầu tăng nhanh, có tác dụng an thai và ức chế động dục. Một đến hai
ngày trước khi đẻ, Progesterone giảm đột ngột. Oestrogen trong suốt thời kỳ có
chửa duy trì ở mức thấp.
2.2.3.4 Chăm sóc lợn nái mang thai

Chăm sóc nuôi dưỡng lợn nái mang thai là khâu quan trọng quyết định đến
số con sơ sinh/ổ và trọng lượng sơ sinh/con. Việc chăm sóc nuôi dưỡng lợn nái
chửa phải đảm bảo các trứng đã thụ tinh thành hợp tử phát triển bình thường, hạn
chế sự tiêu biến của hợp tử trong quá trình mang thai.
- Thức ăn dinh dưỡng: Giai đoạn này cần cung cấp đầy đủ dinh dưỡng cho
sự duy trì của lợn mẹ và sự phát triển của bào thai. Ở giai đoạn mang thai cuối
(84 - 114 ngày), bào thai phát triển rất mạnh, nhu cầu dinh dưỡng cho lợn nái là
rất lớn trong khi thai phát triển chèn ép bộ máy tiêu hoá nên lợn không ăn được
nhiều, cần chia thành nhiều bữa trong ngày giúp lợn ăn đủ với nhu cầu. Thức ăn
cho lợn nái cần phải đầy đủ dinh dưỡng, có độ choán nhỏ (bảng 8).
14
Bảng 8: Chế độ dinh dưỡng cho lợn nái mang thai
Giống
Chỉ tiêu
Lợn lai ngoại và lợn nội
Lợn nái ngoại và lợn nái lai
ngoại x ngoại
Giai đoạn mang
thai
1-84 ngày 84-114 ngày 1-84 ngày 84-114 ngày
Mức ăn (kg)
NLTĐ (kcal/kg )
Protein thô (%)
1,3 - 1,4
2900- 3000
13
1,6 - 1,7
2900 - 3000
15
1,8 - 2,0

2800 - 3000
13 - 14
2,2 - 2,4
2800 - 3000
15 - 16
Nguồn: Hội chăn nuôi Việt Nam (2002)
- Chuồng trại: không sử dụng chuồng 2 bậc, không nhốt đông trong một ô
chuồng. Chuồng phải đảm bảo luôn khô sạch, ấm áp mùa đông, thoáng mát mùa
hè. Trước khi đẻ 7 - 10 ngày chuyển lợn mẹ sang chuồng đẻ để cho lợn mẹ làm
quen với chuồng mới. Chuồng phải được quét vôi, khử trùng sạch sẽ.
- Vệ sinh thú y: định kỳ tẩy giun sán trong thời gian có chửa, tẩy lần cuối
trước khi đẻ 2 tuần. Chú ý tắm rửa, diệt ký sinh trùng ngoài da như ghẻ, 1 tuần
trước khi chuyển sang ô chuồng mới. Trước khi đẻ 20 ngày tiêm vắc xin E.coli
phòng bệnh phân trắng cho lợn con về sau.
2.2.4 Lợn nái đẻ
2.2.4.1 Các giai đoạn đẻ của lợn
Quá trình phát triển của bào thai đến một giai đoạn nhất định, khi thai đã
phát triển hoàn chỉnh. Lợn nái có những biến đổi trong cơ thể để chuyển bị cho
qua trình đẻ của lợn nái. Thời gian mang thai của lợn trung bình là 114 ngày.
Quá trình đẻ của lợn được chia làm 4 giai đoạn:
- Giai đoạn mở cửa tử cung
Thân tử cung và sừng tử cung co bóp mạnh lúc đầu co bóp ngắn, nghỉ dài
về sau co bóp dài, nghỉ ngắn. Khi tử cung co bóp thai và nước màng thai ép vào
cổ tử cung làm cho cổ tử cung mở ra, một bộ phận màng thai chui qua cổ tử cung
và âm đạo. Do các co bóp mạnh màng thai vở, nước ối chảy ra làm trơn đường
15

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×