Tải bản đầy đủ (.pdf) (116 trang)

Sinh kế của người dao huyện thông nông tỉnh cao bằng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.21 MB, 116 trang )

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM



TRẦN THỊ THANH HUỆ




SINH KẾ CỦA NGƯỜI DAO
HUYỆN THÔNG NÔNG TỈNH CAO BẰNG





LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ






Thái Nguyên, năm 2010

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên



ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM



TRẦN THỊ THANH HUỆ



SINH KẾ CỦA NGƢỜI DAO
HUYỆN THÔNG NÔNG TỈNH CAO BẰNG


Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam
Mã số: 60.22.54



LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ



Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Hà Thị Thu Thuỷ



Thái Nguyên, năm 2010

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên


1


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

1
MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Sinh kế là cách sống con người lựa chọn phù hợp với điều kiện tự nhiên,
đặc điểm kinh tế - xã hội, môi trường sinh thái... Việc lựa chọn phương thức
mưu sinh đối với cư dân vùng đồng bằng đã khó, đối với đồng bào dân tộc
thiểu số ở khu vực miền núi càng khó khăn hơn. Do đó, vấn đề đảm bảo
nguồn sinh kế lâu dài cho đồng bào dân tộc thiểu số luôn được Đảng và Nhà
nước hết sức quan tâm. Đây là việc làm gắn liền với mục tiêu xoá đói giảm
nghèo, phát triển kinh tế - xã hội của các vùng dân tộc thiểu số trên đất nước ta.
Là huyện miền núi của tỉnh Cao Bằng, Thông Nông có nhiều dân tộc
anh em cùng sinh sống. Cùng với các dân tộc khác như Tày, Nùng, Mông,
Kinh, người Dao huyện Thông Nông đã xây dựng cho mình một nền văn hóa
phong phú, đa dạng nhưng có bản sắc riêng khó hòa lẫn. Từ bao đời nay, bằng
lao động cần cù, sáng tạo, người Dao huyện Thông Nông đã lựa chọn cho
mình các hoạt động mưu sinh phù hợp. Kinh tế trồng trọt, chăn nuôi, tiểu thủ
công nghiệp, khai thác các nguồn lợi từ tự nhiên… từng bước đảm bảo nhu
cầu cuộc sống. Hiện nay, dưới tác động của các yếu tố mới, sinh kế của người
Dao ở huyện Thông Nông có sự biến đổi. Trong quá trình vận động, có những
biến đổi phù hợp đem lại hiệu quả kinh tế nhất định, nâng cao chất lượng
cuộc sống của người Dao địa phương, song bên cạnh đó cũng có nhiều yếu tố
chưa phù hợp.
Từ nhận thức trên, tôi chọn nghiên cứu đề tài “Sinh kế của người Dao

huyện Thông Nông, tỉnh Cao Bằng”. Qua nghiên cứu, đề tài mong muốn
làm rõ sinh kế của người Dao huyện Thông Nông trong truyền thống và hiện
tại, từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm bảo tồn và phát huy tính hiệu quả hoạt

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

2
động mưu sinh và cũng là đem lại cuộc sống đầy đủ hơn cho người Dao tại
Thông Nông - một huyện vùng cao trong số 61 huyện nghèo nhất cả nước.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Cho đến nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu về người Dao ở Việt
Nam. Trong các tài liệu cổ như “Kiến văn tiểu lục” của Lê Quý Đôn (2007,
NXB Văn hoá Thông tin, Hà Nội), “Lịch triều hiến chương loại chí” của
Phan Huy Chú (1992, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội), “Đại Việt sử kí toàn
thư” (1998, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội) của Ngô Sĩ Liên… đã ghi chép
rải rác về sự phân bố dân cư, tình hình các dân tộc vùng biên giới. Các học giả
phong kiến đã cho thấy nguồn gốc tên gọi, một số phong tục tập quán của tộc
người Dao dưới khái niệm “Man”.
Thời kì thực dân Pháp thống trị, do yêu cầu cai trị và bóc lột, người
Pháp tiến hành nghiên cứu khá kĩ về các dân tộc ít người ở Việt Nam, trong
đó có người Dao. Tiêu biểu là các công trình của Auguste Bonifacy. Bonifacy
là một sĩ quan người Pháp, giỏi chữ Dao cổ, say mê nghiên cứu dân tộc học.
Ông đăng các kết quả nghiên cứu về người Dao trên “Tạp chí Đông Dương”
như: “Mán quần cộc” 1904 - 1905, “Mán quần trắng” - 1905, “Mán chàm
hoặc Lam Diên” - 1906, “Mán Tiểu Bản hay Đeo Tiền” - 1907, “Mán Đại
Bản, Cộc hoặc Sừng” - 1908 v.v… Các công trình này đã miêu tả khá sinh
động về nhà cửa, trang phục, kinh tế, tổ chức xã hội, các nghi lễ, văn học,
nghệ thuật, tôn giáo… của người Dao ở Việt Nam; thống kê các tên gọi của
từng nhóm tộc người Dao (cả tên tự gọi và tên các dân tộc khác gọi), phân
loại các ngành Dao thành 2 nhóm ngôn ngữ mà từ “người” gọi là Mun” (Mán

quần trắng, Mán Lam Điền) và từ “người” gọi là “Miên” (như nhóm Mán
Tiền, Mán Đại Bản).
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, Ban dân tộc các khu và các tỉnh
đã tiến hành điều tra xã hội học đối với các dân tộc thiểu số, trong đó có

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

3
người Dao để phục vụ cho chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước. Năm
1959, ngành Dân tộc học được thành lập, tiếp tục sưu tầm tài liệu và đi sâu
nghiên cứu đối với người Dao. Tiêu biểu là công trình “Người Dao ở Việt
Nam” (1971, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội) của nhóm tác giả Bế Viết Đẳng,
Nguyễn Khắc Tụng, Nông Trung, Nguyễn Nam Tiến. Với nhiều nguồn tư liệu
điền dã phong phú, chính xác, cụ thể, các tác giả đã đề cập khái quát về tên
gọi, nguồn gốc lịch sử, địa bàn cư trú, các hình thái kinh tế, đời sống vật chất,
phong tục tập quán, tôn giáo tín ngưỡng, văn học nghệ thuật, tri thức dân gian
và những biến đổi trong đời sống sinh hoạt của dân tộc Dao ở nước ta từ sau
Cách mạng Tháng Tám năm 1945.
Bài viết “Bước đầu tìm hiểu các nhóm Dao ở Việt Nam” của tác giả
Nguyễn Khắc Tụng (1996, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 3) đã làm rõ cơ sở
để phân chia các nhóm Dao ở Việt Nam là thông qua đặc điểm chủ yếu trên
trang phục của người phụ nữ, đồng thời tác giả cũng phần nào đề cập đến sự
phân bố các nhóm Dao ở Việt Nam.
Công trình nghiên cứu khoa học cấp Viện “Công cụ sản xuất nông
nghiệp của các dân tộc nhóm ngôn ngữ H’Mông - Dao” - Nguyễn Thị Ngân
(2000, Bảo tàng Văn hoá các Dân tộc Việt Nam) nghiên cứu sự đa dạng về
các loại hình công cụ sản xuất của dân tộc H’Mông, Dao, Pà Thẻn, thích ứng
với từng loại địa hình rẻo cao, rẻo giữa, rẻo thấp ở mỗi địa phương. Tác giả so
sánh công cụ sản xuất của nhóm ngôn ngữ H’Mông - Dao với các loại hình
công cụ tương ứng của dân tộc khác.

Nghiên cứu về lĩnh vực văn hoá vật chất, công trình “Trang phục cổ
truyền của người Dao ở Việt Nam” của Nguyễn Khắc Tụng (2004, NXB
Khoa học Xã hội, Hà Nội) đã cho thấy một số nét đặc trưng của 7 ngành,
nhóm Dao ở Việt Nam, từ việc nghiên cứu đặc trưng của văn hoá tộc người,
phân loại tiêu chí các ngành Dao ở địa phương. Đồng thời tác giả cũng phân

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

4
tích sự biến đổi, đánh giá nguyên nhân biến đổi trong trang phục của
người Dao.
Ngoài một số ít công trình nghiên cứu có tính chất chuyên khảo về người
Dao nói trên, còn có các công trình nghiên cứu về người Dao ở các địa
phương. Mỗi công trình là một đặc trưng của tộc người Dao hoặc một nhóm
Dao ở một địa phương cụ thể. Có thể kể đến công trình “Văn hoá truyền
thống của người Dao ở Hà Giang” của các tác giả Phạm Quang Hoan, Hùng
Đình Quý (1991, NXB Văn hoá Dân tộc). Công trình này đi sâu nghiên cứu
hai nhóm Dao tập trung và cư trú đông ở Hà Giang là Dao đỏ và Dao áo dài.
Các tác giả đã làm rõ những nét đặc trưng nhất của hai nhóm Dao này trên tất
cả các lĩnh vực lịch sử tộc người, các hoạt động kinh tế, văn hoá vật chất, tổ
chức làng bản, gia đình và nghi lễ gia đình, tín ngưỡng tôn giáo, văn hoá dân
gian, tri thức dân gian.
Công trình “Một số vấn đề người Dao Quảng Ninh” của Nguyễn Quang
Vinh (1999, NXB Văn hoá Dân tộc, Hà Nội), đã cho thấy nét đặc trưng về
lịch sử, văn hoá, kinh tế của người Dao ở Quảng Ninh. Ngoài ra, tác giả còn
cho thấy những nét đặc trưng của người Dao ở các huyện có người Dao sinh
sống và vai trò của người Dao trong việc phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh
Quảng Ninh.
Công trình “Các nghi lễ chủ yếu trong chu kì đời người của nhóm Dao
Tiền ở Bắc Kạn” của Lý Hành Sơn (2003, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội).

Trên cơ sở miêu tả khá sinh động các nghi lễ chủ yếu trong chu kì đời người
và quá trình biến đổi của nó, tác giả làm rõ vai trò, chức năng, giá trị của
những nghi lễ này cũng như đặc điểm văn hoá của nhóm Dao Tiền ở Bắc Kạn.
Đối với người Dao ở Cao Bằng, đáng chú ý có bài viết “Nương rẫy
truyền thống của người Dao ở Cao Bằng” đăng trên Tạp chí Dân tộc học số 3,
năm 1995 của tác giả Lý Hành Sơn, tác giả đã đề cập đến các phương pháp

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

5
canh tác nương du canh, nương thâm canh, thổ canh hốc đá và một số nghi lễ
tín ngưỡng liên quan đến nông nghiệp nương rẫy của người Dao ở Cao Bằng.
Bên cạnh đó, có công trình “Văn hóa dân gian Cao Bằng” (1993, Hội
văn nghệ Cao Bằng), Địa lý - lịch sử tỉnh Cao Bằng (2003, Ban tuyên giáo
tỉnh uỷ - Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Cao Bằng, NXB Chính trị Quốc gia, Hà
Nội) , Địa chí Cao Bằng (2000, Tỉnh uỷ - Uỷ ban nhân dân tỉnh Cao Bằng,
NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Các công trình này đã đề cập đến các vấn
đề liên quan đến người Dao ở Cao Bằng như lịch sử tộc người, các hoạt động
kinh tế chủ yếu, phong tục tập quán với những nét sơ lược nhất.
Điểm lại các công trình trên cho thấy, các tác giả đã cho thấy những nét
chung nhất về lịch sử tộc người, bản sắc văn hóa (các nghi lễ theo chu kì đời
người, trang phục cổ truyền v.v…) của người Dao ở Cao Bằng, song việc
nghiên cứu cụ thể về sinh kế của tộc người Dao ở một địa phương, cụ thể là
huyện Thông Nông tỉnh Cao Bằng chưa được nghiên cứu một cách toàn diện,
hệ thống. Các kết quả nghiên cứu trên là sự gợi mở và là những tài liệu quý
báu giúp tác giả hoàn thiện đề tài.
3. Mục đích, đối tƣợng, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu những hoạt động kinh tế chủ đạo nhằm đảm bảo nhu
cầu cuộc sống của người Dao ở huyện Thông Nông, tỉnh Cao Bằng trong lịch

sử và hiện tại. Từ đó làm rõ sự biến đổi của nó trong thời kì hiện nay để đề ra
một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống của người Dao ở
Thông Nông.

3.2. Đối tượng nghiên cứu
Sinh kế của một tộc người, chủ yếu là các hoạt động kinh tế. Đối với
người Dao ở khu vực miền Bắc nói chung và huyện Thông Nông tỉnh Cao

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

6
Bằng nói riêng, hoạt động kinh tế chủ yếu là trồng trọt, chăn nuôi, tiểu thủ
nghiệp và việc trao đổi hàng hóa. Đề tài nghiên cứu các hoạt động kinh tế này
trong sự vận động và phát triển của tộc người.
3.3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu tổng quan về huyện Thông Nông tỉnh Cao Bằng: vị trí địa
lý, điều kiện tự nhiên v.v… Đây là những nhân tố có ảnh hưởng trực tiếp tới
sinh kế của người Dao ở Thông Nông.
- Khái quát về người Dao ở huyện Thông Nông, tỉnh Cao Bằng về nguồn
gốc lịch sử, tên gọi, số lượng, địa bàn cư trú để thấy được quá trình thiên di,
tồn tại và phát triển của tộc người này.
- Trên cơ sở đó, đề tài đi sâu nghiên cứu về sinh kế của người Dao trong
truyền thống và hiện tại, làm rõ sự biến đổi của nó trong thời kì hiện nay và
đề ra một số giải pháp nhằm bảo tồn và phát huy tính hiệu quả của hoạt động
mưu sinh, nâng cao chất lượng cuộc sống của người Dao ở huyện Thông
Nông, tỉnh Cao Bằng.
3.4. Phạm vi nghiên cứu
Về không gian, đề tài tập trung nghiên cứu tại các xóm, thôn, bản có tỉ lệ
người Dao lớn hơn so với các tộc người khác ở huyện Thông Nông, tỉnh Cao
Bằng là Lương Thông, Cần Nông, Bình Lãng, Yên Sơn, Ngọc Động,

Thanh Long.
Về thời gian, đề tài nghiên cứu sinh kế của người Dao ở huyện
Thông Nông, tỉnh Cao Bằng trong truyền thống và hiện tại.
4. Nguồn tƣ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Nguồn tư liệu
Để nghiên cứu, đề tài tham khảo hai nguồn tài liệu chính: Tài liệu thành
văn: Bao gồm các sách cổ như Kiến văn tiểu lục, Đại Nam nhất thống chí
v.v... các chuyên khảo về người Dao, các bài đăng trên Tạp chí chuyên ngành

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

7
Lịch sử, Dân tộc học đã công bố, xuất bản; các tài liệu địa phương như Dư địa
chí tỉnh Cao Bằng, Lịch sử Đảng bộ, các báo cáo về tình hình kinh tế - xã hội
huyện Thông Nông… Đây là nguồn tư liệu quan trọng giúp tác giả tìm hiểu
khái quát về người Dao cũng như những nét nổi bật về huyện Thông Nông
tỉnh Cao Bằng, là cơ sở để tác giả nghiên cứu về sinh kế của người Dao ở
huyện Thông Nông.
Tài liệu điền dã: Được thu thập qua khảo sát tại các xã Lương Thông,
Cần Yên, Bình Lãng, Yên Sơn, Ngọc Động, Thanh Long và thị trấn Thông
Nông - nơi có đông dân tộc Dao sinh sống của huyện. Nguồn tư liệu này gồm
những quan sát trực tiếp về cảnh quan, môi trường, các tư liệu truyền miệng
ghi lại qua phỏng vấn các bậc cao niên, các tài liệu sưu tầm trong nhân dân...
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Từ nguồn tư liệu trên, đề tài sử dụng phương pháp lịch sử để nghiên cứu
khái quát về huyện Thông Nông, nguồn gốc tộc người, sinh kế của người Dao
trong truyền thống và làm rõ sự biến đổi của nó trong thời kì hiện nay. Với
phương pháp logic, đề tài đã rút ra được những nhận xét, đánh giá khách quan
về vấn đề nghiên cứu; giúp người đọc có cái nhìn hệ thống, khái quát về các
hoạt động sinh kế của người Dao ở huyện Thông Nông tỉnh Cao Bằng.

Đồng thời, tác giả sử dụng phương pháp khai thác tư liệu thành văn kết
hợp với phương pháp điền dã dân tộc học, vừa quan sát trực tiếp nơi cư trú,
các nguồn tài nguyên, khu vực sản xuất, phỏng vấn nhân chứng, vừa thu thập
báo cáo của chính quyền và các ban ngành cấp xã, huyện để xác minh các tư
liệu nghiên cứu. Ngoài ra, đề tài còn sử dụng phương pháp tổng hợp, phân
tích, xử lí các thông tin đã khai thác, trình bày trong đề tài; kết hợp với
phương pháp đối chiếu, so sánh nhằm tìm ra những nét tương đồng và khác
biệt thể hiện trong hoạt động mưu sinh của người Dao với các dân tộc anh em
khác đang sinh sống tại huyện Thông Nông.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

8
5. Đóng góp của luận văn
Đây là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách hệ thống về sinh kế của
dân tộc Dao huyện Thông Nông. Dựa trên những nguồn tư liệu đã khai thác,
đề tài làm rõ sinh kế của người Dao - các hoạt động kinh tế nhằm đảm bảo
cuộc sống của tộc người. Trên cơ sở đó, đề tài đề ra những phương hướng,
giải pháp về kinh tế, xã hội để nâng cao chất lượng cuộc sống của người Dao
cũng như các dân tộc anh em cùng sinh sống ở huyện vùng cao Thông Nông.
Luận văn còn là nguồn tham khảo bổ ích cho quá trình học tập bộ môn
lịch sử địa phương, cơ sở văn hóa Việt Nam, nhân học, góp phần hiểu biết về
đất nước Việt Nam - một quốc gia đa dân tộc cũng như sự hiểu biết về người
Dao tại Thông Nông nói riêng.
6. Cấu trúc của đề tài
Luận văn gồm 3 phần: mở đầu, nội dung và kết luận. Phần nội dung
được chia làm 3 chương:
Chương 1: Khái quát về huyện Thông Nông tỉnh Cao Bằng
Chương 2: Sinh kế của người Dao ở huyện Thông Nông tỉnh Cao Bằng
trong truyền thống.

Chương 3: Sự biến đổi trong sinh kế người Dao ở huyện Thông Nông
tỉnh Cao Bằng hiện nay.
Cuối cùng là tài liệu tham khảo, phụ lục bao gồm một số bảng thống kê,
bản đồ và ảnh minh họa.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

9
Chƣơng 1
KHÁI QUÁT VỀ HUYỆN THÔNG NÔNG TỈNH CAO BẰNG

1.1. Vị trí địa lí, điều kiện tự nhiên
Thông Nông là một huyện vùng cao nằm ở phía Tây Bắc của tỉnh Cao
Bằng, cách trung tâm tỉnh lị 50 km (theo tuyến đường tỉnh lộ 204). Địa phận
huyện Thông Nông trải dài từ 22
o
40'58"-22
o
57'25" vĩ bắc, 105
o
50'21"-
106
o
03'28" kinh đông. Phía bắc giáp huyện Nà Po (Quảng Tây-Trung Quốc),
phía nam giáp huyện Nguyên Bình, phía đông giáp huyện Hà Quảng và Hòa
An, phía tây giáp huyện Bảo Lạc.
Nằm hoàn toàn trên dãy đá vôi, huyện Thông Nông có đặc điểm địa hình
thấp dần từ Bắc xuồng Đông Nam và được chia làm 3 lại hình: Thứ nhất,
dạng địa hình lòng máng, được phân bố tập trung trên địa bàn các xã Cần
Yên, Lương Thông, Đa Thông, Thị trấn và Lương Can dọc theo sông Dẻ Rào.

Đây là vùng địa hình tương đối bằng phẳng, được hình thành chủ yếu do sự
bồi đắp phù sa từ con sông Dẻ Rào. Vùng này chủ yếu trồng lúa nước, cung
cấp 70% lương thực cho toàn huyện. Thứ hai, dạng địa hình lưng chừng, phân
bố tập trung trên địa bàn các xã Thanh Long, Bình Lãng, Vị Quang, có xen kẽ
các bãi bằng thung lũng hẹp và trên các sườn núi dốc thoải. Đất thung lũng do
sản phẩm dốc tụ là loại đất màu vàng trên đá vôi, rất thích hợp trồng cây lâu
năm, cây công nghiệp. Vùng địa hình này chiếm 15% tổng diện tích tự nhiên
của huyện. Thứ ba, dạng địa hình núi cao, được phân bố tập trung ở các xã
Yên Sơn, Thanh Long, Bình Lãng, Ngọc Động, Lương Can, chiếm 65% diện
tích tự nhiên. Đất này chỉ thích hợp trồng các loại cây lâu năm và cây lâm
nghiệp. Sự đa dạng về địa hình là điều kiện thuận lợi để phát triển một nền
kinh tế nông nghiệp đa dạng và phong phú.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

10
Thuộc miền núi cao, huyện Thông Nông mang đặc điểm khí hậu gió
mùa. Nhiệt độ trung bình 20,2
o
C, đối với vùng rẻo cao khi nhiệt độ xuống
thấp gây ảnh hưởng lớn đến sinh hoạt và đời sống. Lượng mưa trung bình
năm từ 1736,9 mm, năm cao nhất có thể lên tới 2000 mm. Do địa hình núi cao
lại dốc nên đôi khi xảy ra lũ vào tháng 7, tháng 8 trong năm. Gió mùa Đông
bắc thổi từ tháng 12 đến tháng 3 năm sau gây ra lạnh giá. Gió mùa Đông nam
bắt đầu từ tháng 4 kết thúc vào tháng 11, đôi khi gây ra gió lốc. Độ ẩm không
khí trung bình năm là 82%, cao nhất vào mùa hè (90%) và thấp nhất vào mùa
đông (55%). Trong năm, vào mùa đông giá có xảy ra sương muối ảnh hưởng
đến cây trồng, vật nuôi.
Về thủy văn, Thông Nông có con sông Dẻ Rào, bắt nguồn từ biên giới
Việt - Trung, chảy theo hướng Đông Bắc - Tây Nam chảy qua các xã Cần

Yên, Lương Thông, Đa Thông, Lương Can với chiều dài 36km. Con sông này
là nguồn cung cấp nước chính cho sinh hoạt và sản xuất, có nhiều tiềm năng
để phát triển thuỷ điện. Ngoài ra, hai khe suối Ngọc Động và Thanh Long
cũng góp phần cung cấp nước cho sinh hoạt và sản xuất của nhân dân. Do đặc
điểm nằm trên núi đá vôi nhiều hang động và rừng bị tàn phá nên các tháng
mùa khô thường thiếu nước, mùa mưa xảy ra lũ lụt, sụt lở đất.
Về tài nguyên thiên nhiên, toàn huyện Thông Nông có tổng diện tích đất
tự nhiên là 36.049 ha, chiếm 4,7% tổng diện tích của tỉnh Cao Bằng. Cơ cấu
đất đã đưa vào sử dụng (gồm đất nông nghiệp, lâm nghiệp, chuyên dụng, đất
ở…) là 17.397 ha chiếm 49% tổng diện tích tự nhiên, trong đó có đất lâm
nghiệp chiếm 40%; đất chưa sử dụng 18.651 ha chiếm 51% tổng diện tích tự
nhiên… Đây là tiềm năng cần được quy hoạch, khai thác hợp lí, phát huy thế
mạnh, góp phần phát triển kinh tế trên địa bàn.
Theo tài liệu của Liên đoàn địa chất quốc gia, huyện Thông Nông có một
số khoáng sản quý như quặng bôxit, atimon… Hàm lượng nhôm có trong

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

11
quặng bô xít ở địa bàn huyện chiếm tỉ lệ tương đối lớn trong toàn tỉnh, có khả
năng sản xuất alumin, bột đá mài, xi măng alumin, tập trung chủ yếu ở các xã
Yên Sơn, Thanh Long. Đất thịt pha sét là nguyên liệu sản xuất gạch ngói phân
bổ ở nhiều xã nhưng tập trung ở vùng lòng máng.
Rừng ở huyện Thông Nông khá phong phú, rừng tự nhiên có 14.413 ha,
rừng trồng mới 80 ha, độ che phủ 47%. Rừng là nơi cung cấp nguyên liệu cho
sản xuất đồ gỗ, đan lát và điều hoà nguồn nước, chống lũ, bảo vệ đất đai cũng
như bảo vệ đa dạng sinh học.
1.2. Dân cƣ và thành phần dân tộc
Theo số liệu điều tra dân số năm 2009, toàn huyện có 23.538 người, mật
độ dân số là 65 người/km

2
. Tỉ lệ các thành phần dân tộc của huyện Thông
Nông được thể hiện rõ ở bảng sau:
Bảng 1: Các thành phần dân tộc của huyện Thông Nông,
tỉnh Cao Bằng năm 2009
STT
Đơn vị hành chính
(xã, thị trấn)
Tổng
số dân
Thành phần dân tộc
Tày Nùng Mông Dao Kinh
1 Cần Nông 1757 23 677 64 978 15
2 Cần Yên 1961 824 1028 22 30 57
3 Vị Quang 911 180 418 0 311 2
4 Lương Thông 4424 896 636 1108 1778 6
5 Đa Thông 3798 1066 947 1709 73 3
6 Ngọc Động 1665 4 848 250 563 0
7 Lương Can 2080 1045 711 39 278 7
8 Thanh Long 1467 27 714 147 574 5
9 Bình Lãng 1525 130 547 45 801 2
10 Yên Sơn 1199 14 300 165 720 0
11 Thị trấn 2751 1153 1018 203 163 214

Cộng 23538 5362 7844 3752 6269 311
( Nguồn: Phòng Thống kê – Khoa học UBND huyện Thông Nông năm 2009)

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

12

Số liệu bảng trên cho thấy, người Nùng có số lượng đông nhất chiếm
33%, thứ đến là người Dao chiếm 27%, thứ ba là người Tày với 22,7%, dân
tộc Mông là 16%, dân tộc Kinh là 1,3%. Trong đó, dân tộc Tày, Nùng sống
tập trung tại những khu vực thấp quy tụ thành từng làng, bản ở Thị trấn và các
xã Lương Thông, Đa Thông, Lương Can; đồng bào có tập quán canh tác lúa
nước, trồng ngô, sắn, đậu tương. Dân tộc Mông, Dao sinh sống rải rác ở các
vùng núi cao hoặc sống xen kẽ với các dân tộc khác ở các thung lũng tương
đối bằng phẳng, tập trung đông nhất ở các xã Lương Thông, Bình Lãng, Yên
Sơn. Một bộ phận dân cư còn sống du canh du cư, sống bằng nghề phát
nương làm rẫy, trồng lúa nương, ngô và các hoa màu khác. Dân tộc Kinh có
số lượng ít nhất, thường sống ở các phố, chợ, làm nghề buôn bán kinh doanh.
Việc tập trung và sống xen kẽ trên cùng một địa bàn cư trú là điều kiện thuận
lợi cho sự giao lưu về kinh tế và văn hoá giữa các dân tộc ở huyện Thông
Nông. Trong quá trình đó, người Dao đã tiếp nhận các tinh hoa văn hoá cũng
như những kinh nghiệm sản xuất tiến bộ của các dân tộc anh em khác để làm
phong phú thêm bản sắc văn hoá tộc người và góp phần làm cho nền kinh tế
phát triển hơn.
Có số dân đông, huyện Thông Nông có nguồn lao động khá lớn. Năm
2007, có 12.564 người trong độ tuổi lao động, trong đó 50% lực lượng trẻ,
85% lao động nông nghiệp; 8% lao động công nghiệp - xây dựng; 7% lao
động trong lĩnh vực dịch vụ - thương mại; lao động nữ chiếm 52%. Tuy
nhiên, số lao động được đào tạo chỉ đạt khoảng 15%, chủ yếu dưới hình thức
đào tạo bồi dưỡng qua các lớp ngắn ngày nên tay nghề thấp, tập trung vào
một số nghề như: nông nghiệp, mộc, cơ khí, nề…
1.2.2. Người Dao ở huyện Thông Nông
Nguồn gốc tộc người: Người Dao ở Việt Nam cư trú chủ yếu ở khu vực
miền núi và trung du Bắc bộ. Sống xen cư với các dân tộc anh em khác.ở

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên


13
những mức độ khác nhau, cả trong phạm vi xã cũng như thôn bản. Mặc dù, là
dân tộc có nhiều nhóm địa phương với các đặc trưng văn hóa mang phong
cách khác nhau nhưng họ đều có ý thức chung về một cội nguồn.
Để giải thích về lịch sử của mình, người Dao ở Việt Nam nói chung
thường kể câu chuyện “Quả bầu tiên” hay truyền thuyết “Bàn Hồ”. “Quả bầu
tiên” là chuyện truyền khẩu, kể rằng, xưa kia loài người gặp cơn đại hồng
thủy, nhân loại chết hết, chỉ còn hai chị em ruột nhà nọ sống sót. Cuối cùng,
hai người đành phải lấy nhau và đẻ ra một bọc thịt. Họ bèn bổ bọc thịt đó ra,
đem những mảnh vụn rải khắp trần gian. Những mảnh rơi lên núi hóa thân
thành người Dao, những mảnh rơi trên đồng ruộng hóa thân thành các dân tộc
khác. Theo cuốn “Quả sơn bảng văn ”, Bàn Hồ là con Long khuyển mình dài
3 thước, long đen, vằn vàng, mượt như nhung, từ trên trời giáng xuống và
được Hoàng Bình nuôi trong cung. Vì có công giúp Hoàng Bình đánh dẹp
giặc Thổ Phồn, Bàn Hồ được lấy công chúa. Hai người đem nhau đến núi Cối
Kê (Triết Giang - Trung Quốc) ở và sinh được 12 người con (6 trai, 6 gái).
Hoàng Bình ban sắc cho con cháu Bàn Vương thành 12 họ: Bàn, Lan, Mãn,
Uyển, Đặng, Trần, Lương, Tống, Phượng, Đối, Lưu và Triệu. Con cháu Bàn
Vương sinh sôi nảy nở ngày một nhiều, đến đời Hồng Vũ bị hạn hán 3 năm
liền, nhà vua phải cấp cho con cháu Bàn Vương mỗi người một cái búa và
một con dao quắm để họ đốn rừng làm rẫy. Con cháu của Bàn Vương lại ngày
càng nhiều mãi lên khiến nhà vua phải cấp sắc “Quả sơn bảng” để phân tán
họ đi nơi khác kiếm ăn. Con cháu Bàn Vương chia làm nhiều ngành đi các nơi
và ngành thứ sáu đi vào miền núi Việt Nam gọi là Tiểu bản mạn.
Về nguồn gốc lịch sử, các nhà dân tộc học Việt Nam đều khẳng định,
người Dao có nguồn gốc từ Trung Quốc, có quan hệ tộc thuộc với các nhóm
Dao hiện nay đang sinh sống ở Hoa Nam và họ mới chỉ có mặt ở nước ta từ
sau thế kỉ XIII. Người Dao di cư vào Việt Nam theo nhiều thời kỳ, nhiều

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên


14
đường, nhiều nhóm khác nhau và sớm hơn người Mông. Người Dao ở vùng
Tây Bắc bộ di cư đến Việt Nam vào thế kỷ XIII bằng đường bộ; còn người
Dao ở vùng Đông Bắc di cư từ thế kỷ XIII cho đến đầu thế kỷ XX bằng
đường bộ và một phần đường thủy. Trong khoảng thời gian này, cùng với quá
trình thiên di vào các tỉnh khác, người Dao ở các tỉnh Phúc Kiến, Quảng
Đông, Quảng Tây - Trung Quốc cũng đã di cư vào tỉnh Cao Bằng nói chung,
huyện Thông Nông nói riêng.
Như vậy, do nhiều biến cố lịch sử, nhóm Dao ở Trung Quốc bị phân tán
thành nhiều nhóm nhỏ. Họ phải rời khỏi cái nôi của mình là đất Châu Dương
và Châu Kinh, tản mát đi các nơi để sinh sống; trong đó có một số nhóm vào
Việt Nam. Trên đường di cư, người Dao ở Thông Nông đã tiếp thu thêm
những yếu tố văn hóa của nhiều tộc người, đồng thời những nét văn hóa mới
cũng được nảy sinh để rồi hình thành nên những bản sắc riêng.
Trước kia, người Dao được gọi bằng nhiều tên khác nhau như Động,
Dạo, Xá, Mán. Động là tên gọi một đơn vị cư trú vốn tương đối phổ biến ở
các dân tộc thiểu số phía nam Trung Quốc. Mỗi “động” thường có một người
đứng đầu, gọi là chúa động. “Đơn vị này có thể là một dạng công xã nông
thôn như “làng” của người Việt, “bản” của các dân tộc Tày, Thái hay
“buôn” của các dân tộc Tây Nguyên” [6, 5]. Tên gọi Mán có lẽ bắt nguồn từ
chữ Man mà ra. Các tộc người sinh tụ ngoài địa bàn cư trú của Hán tộc từ lưu
vực Trường Giang trở xuống phương Nam đều bị phong kiến Hán gọi là Man
(đông Di, tây Nhung, bắc Địch, nam Man). Tên này luôn xuất hiện trong
chính sử cũng như các cuốn thực lục Trung Quốc với hàm ý khinh miệt (lạc
hậu, mọi rợ). Tên gọi Xá chỉ thấy ở Yên Bái và Lào Cai, dùng để chỉ các dân
tộc có số dân ít, phụ thuộc vào người Thái và chuyên sống dựa vào việc canh
tác nương đốt. Dạo là tên gọi chệch của từ Dao, cũng như người Mèo được
gọi là người Mẹo.


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

15
Tuy nhiên, những tên gọi trên đây đều không được người dân bản tộc
chấp nhận. Họ tự nhận mình là Kiềm Miền, Kìm Mùn, Yù Miền, Ìn Miền,
Bèo Miền… Sự khác nhau này là do cách phát âm ở mỗi nhóm, mỗi địa
phương khác nhau. Người Dao ở Thông Nông cũng tự nhận là Kiềm Miền, có
nghĩa là người ở rừng núi ( Kiềm, Kìm, Yù, Ìn = rừng; Miền, Mùn = người).
Hiện tượng những người dân miền núi tự nhận mình là người ở rừng là một
cách xưng danh tương đối phổ biến ở các dân tộc thiểu số nước ta, chứ không
riêng người Dao. Vì thế, có thể coi đây là một từ phiếm xưng, không thể coi
đây là một tên gọi chính thức. Ngoài tên Kiềm Miền, người Dao còn có tên là
Yù Miền, phát âm theo Hán - Việt là “Dao nhân” tức là người Dao. Tên này
được nhắc đến trong các câu chuyện truyền miệng hoặc trong các tài liệu cổ
của người Dao như “Quả bầu tiên”, “Quả sơn bảng văn”, trong bản trường
thi thất ngôn nói về cuộc di cư của người Dao Tiền và Dao Quần chẹt từ
Quảng Đông vào Việt Nam v.v… Sử sách cổ của Trung Quốc như: Tùy thư
địa lý chí, Thuyết man, Quế hải ngũ hành chí, Lĩnh ngoại đại đáp… cũng nói
tới tên Dao.
Như vậy, Dao là tên tự nhận của người Dao, nó gắn với lịch sử hình
thành tộc người và được họ thừa nhận. Vào những thập kỉ 60-70 của thế kỉ
trước, các nhà khoa học đã đề xuất và được Chính phủ công nhận “Dao” là
tên gọi chính thức. Dân tộc Dao được chia thành nhiều nhóm như Dao Tiền,
Dao Thanh Y, Dao Lô Gang, Dao Đỏ, Dao Quần Chẹt v.v… Ở Cao Bằng, dân
tộc Dao có hai nhóm chủ yếu là Dao Đỏ và Dao Tiền. Người Dao sống ở khắp
các huyện trong tỉnh, tuy nhiên đông nhất là ở các huyện miền Tây của tỉnh
như Nguyên Bình, Thông Nông, Bảo Lạc. Qua tìm hiểu cho thấy, ở Thông
Nông, dân tộc Dao thuộc một nhóm duy nhất là Dao Đỏ. Ở đây, người Dao
sinh sống đông nhất ở xã Lương Thông sau là các xã Cần Nông, Bình Lãng,
Yên Sơn, Thanh Long. Bên cạnh đó, người Dao cũng sống xen kẽ với các dân


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

16
tộc khác ở một số địa bàn thuộc dạng địa hình lòng máng thuộc các xã như Đa
Thông, Lương Can và khu vực thị trấn.
Người Dao ở đây sống tập trung thành xóm gọi là “lũng” (tương đương
với đơn vị hành chính là xóm). Lũng có từ 10 - 15 nóc nhà (xã Bình Lãng).
Cá biệt có một vài lũng có từ 40 - 50 nóc nhà như xóm Rặc Rạy (xã Lương
Thông). Nếu như người Tày ở Thông Nông đặt tên cho làng bản của mình là
đặc điểm của thửa ruộng, gốc cây to, khe suối, vị trí làng bản mình như Nà
Cáy, Nà Chia, Khuổi Mò, Bản Chang v.v… thì các bản làng của người Dao
không có đặc điểm như vậy. Các xóm người Dao sinh sống thường bắt đầu
bằng từ “lũng” như Lũng Vần, Lũng Tó, Lũng Nhùng (xã Ngọc Động), Lũng
Vảy, Lũng Chủm (xã Thanh Long), Lũng Rịch, Lũng Tỳ, Lũng Pèo, Lũng Vai
(xã Lương Thông), Lũng Đẩy (Thị trấn), Lũng Quang, Lũng Lừa (xã Đa
Thông), Lũng Sảng (xã Yên Sơn), Lũng Khinh (xã Bình Lãng), Lũng
Khoang, Lũng Bủng (xã Cần Yên). Trong mỗi lũng có nhiều dòng họ cùng
sinh sống. Ở Thông Nông, người Dao chủ yếu mang họ Triệu, Trịnh và Lý.
Trong quá trình sinh sống, tồn tại và phát triển, người Dao ở huyện
Thông Nông đã tạo dựng cho mình những nét riêng về bản sắc văn hoá. Cư
trú rải rác ở các sườn đồi, núi hoặc các thung lũng tương đối bằng phẳng, nhà
cửa người Dao huyện Thông Nông có phần đơn sơ. Đồng bào ở nhà trệt (quen
gọi là rườn bục hoặc nhà đất), thường đặt ở sườn núi, ít có nhà dựng ở đỉnh
đồi. Trong nhà, bàn thờ tổ tiên được để ở trên cao và ở gian giữa. Trên bàn
thờ có đại tự ghi rõ nguồn gốc lai cư của dòng họ. Trong nhà của người Dao
có ít nhất một buồng để làm nơi ngủ hoặc dành cho các sinh hoạt khác.
Trang phục cổ truyền của người phụ nữ Dao đỏ có khăn đội đầu hai lớp,
bên trong làm bằng vải chàm xếp thành vành, phía ngoài khăn là một miếng
vải hình chữ nhật thêu hoa văn hình xương cá, hình quả trám... Người phụ nữ


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

17
Dao đỏ không mặc áo ngắn mà là loại áo dài mầu chàm đến bắp chân. Cổ áo
liền với nẹp ngực thêu rất đẹp và đính thêm nhiều len đỏ thành hai dải dài đến
thắt lưng, khuy áo bằng bạc, có chạm hình hoa văn trang trí. Thắt lưng được
thêu thùa công phu với nhiều họa tiết cầu kì, vừa để giữ y phục, vừa để trang
trí. Trong các lễ hội cưới xin, dây lưng được đính thêm các đồng bạc trắng,
tua vải đỏ. Quần thường là quần ống rộng được thêu trang trí các họa tiết
vuông bằng chỉ màu đỏ, nâu, trắng. Yếm là một băng vải hình chữ nhật có
đính đồ trang sức bằng bạc hoặc thêu hoa văn bằng chỉ màu. Trước đây, phụ
nữ Dao đỏ thường đi chân đất nhưng ngày nay họ đi dép quai hậu và giầy vải.
Ngược lại với bộ trang phục lộng lẫy của phụ nữ, trang phục của nam giới rất
đơn giản, chỉ với chiếc khăn xếp bằng vải chàm, áo chàm bốn túi, khuy vải,
quần ống rộng.
Người Dao đỏ rất ưa chuộng đồ trang sức bằng bạc. Bộ trang sức gồm
vòng cổ, vòng tay, vòng tai, xà tích. Vòng tai thường có đường kính khoảng
4 - 5 cm ở giữa có gắn hình cây thông hoặc hình ngọn núi; vòng cổ có nhiều
cỡ to nhỏ khác nhau song đều là kiểu tròn, có kẽ hở hai đầu vuốt nhỏ uốn
cong tạo thành lỗ để luồn dây treo chùm tua hoặc dây bạc. Đặc biệt, người
Dao đỏ huyện Thông Nông có tục bịt răng vàng, họ quan niệm những người
bịt răng vàng mới là đẹp và thể hiện sự giàu sang của mình. Nói chung, trang
phục của người Dao ở Thông Nông rất tinh tế, thể hiện bản sắc văn hóa đặc
trưng của tộc người này.
Về ăn uống, người Dao ở Thông Nông thường ăn hai bữa chính trong
ngày và một bữa phụ vào buổi sáng. Đồng bào thường ăn cơm tẻ là chính và
thỉnh thoảng ăn ngô thay cơm. Các cây có củ cũng tương đối phong phú với
nhiều loại như sắn, khoai sọ, khoai lang, trồng ở các nương đồi. Thức ăn hàng
ngày chủ yếu là rau, măng, bầu, bí, mướp, dưa v.v…Với nhiều loại rau xanh,

đồng bào có thể ăn tươi, xào, nấu canh hoặc đem muối dự trữ. Do đường xá đi

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

18
lại khó khăn, nhà cách xa trung tâm chợ nên đồng bào Dao có nhiều cách để
chế biến thức ăn dự trữ như thịt thính, thịt sấy khô, mắm thịt, mắm cá, mắm
tôm tép…độc đáo hơn cả là món thịt ướp chua. Vào dịp lễ, tết, đồng bào
thường làm nhiều loại bánh khác nhau: bánh chưng, bánh đường, khẩu si,
bánh chè lam, bánh gio, bánh gai, bánh rợm… Khác với nhiều dân tộc, người
Dao quây quần ăn cơm bên chiếc bàn gỗ vuông ở dưới bếp. Ngồi đầu là người
cao tuổi nhất rồi mới lần lượt là các thành viên trong gia đình, các thành viên
trong gia đình rất quan tâm đến nhau.
Cùng với văn hóa vật chất, đời sống tinh thần của người Dao huyện
Thông Nông khá phong phú, đa dạng. Hôn nhân của người Dao thường do
cha mẹ sắp đặt. Tục cưới xin của người Dao gồm các nghi lễ như dạm hỏi, ăn
hỏi chính thức và lễ cưới. Tục lệ cổ truyền của người Dao ở Thông Nông là
khi trong nhà có con trai từ 13 - 14 tuổi, bố mẹ tìm vợ cho con. Nếu xem ngày
sinh tháng đẻ của người con gái hợp người con trai thì quyết định làm lễ dạm
hỏi. Sau lễ ăn hỏi chính thức, người con gái phải ở nhà thêu quần áo, thắt
lưng, khăn. Nhà trai phải sắm đủ sính lễ sang nhà gái cho ngày cưới gồm thịt
lợn, gạo, rượu, đồ trang sức. Lễ cưới được tổ chức linh đình, nhộn nhịp.
Tục tang ma, người Dao ở Thông Nông tin rằng con người có linh hồn.
Khi chết, linh hồn người chết vẫn ở bên người sống. Con cái có hiếu với cha
mẹ là phải lo việc ma chay cho cha mẹ khi chết chu đáo, để linh hồn người
chết được thanh thản ở thế giới bên kia. Chính vì vậy mà đám tang của người
Dao thường được tổ chức linh đình, gồm nhiều nghi lễ với các thủ tục nhập
quan, hành tang và chôn cất. Trong tang lễ của người Dao cũng như nhiều dân
tộc ít người khác bao giờ cũng có bộ gõ gồm thanh la, chũm chọe, trống con,
kèn bầu để vĩnh biệt người qua đời. Đồng bào quan niệm con người có 12

hồn, gồm: hồn ở đầu, mắt, mũi, tai, miệng, cổ, ngực, bụng, tay, chân, lưng,
hậu môn. Họ còn cho rằng hồn chính là ở đỉnh đầu. Chỗ xoáy tóc là chỗ cao

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

19
nhất trong cơ thể nên người ta rất kỵ xoa đầu trẻ con. Khi đồng bào ốm đau là
do hồn bị thần thánh ma quỷ bắt giữ hoặc do đi lạc đường. Lúc ấy, đồng bào
phải nhờ thầy bói giúp và khi đã biết hồn ở đâu thì họ phải cúng bái để gọi
hồn về. Do tin vào có hồn và thế giới linh hồn nên đồng bào có nhiều cách
làm phép thuật khác nhau để làm hại người khác hoặc để phòng thủ, trong đó
đồng bào thường dùng các lá bùa. Mỗi khi làm các lễ lớn, thầy tào, thầy cúng
cũng thường làm phép để đuổi tà ma, đề phòng ma thuật của người khác làm
hại mình.
Về quan hệ dòng họ, đồng bào có nhiều tông tộc tồn tại, tuy ở xa nhau
nhưng quan hệ thân thuộc giữa các gia đình trong tông tộc vẫn rất chặt chẽ,
gắn bó với nhau bởi nhiều yếu tố chung. Mỗi tông tộc có một tộc trưởng chịu
trách nhiệm đứng ra tổ chức cúng bái chung cho cả dòng họ. Tộc trưởng là
người có trách nhiệm giúp đỡ các gia đình trong tông tộc làm các việc lớn.
Trong quan hệ gia đình, gia đình phụ hệ là phổ biến ở người Dao. Chủ gia
đình là người có trách nhiệm to lớn trong sản xuất, cúng bái và quan hệ với
người ngoài. Giữa các thành viên trong gia đình luôn có tôn ti trật tự, vợ nghe
lời chồng, con cái nghe lời cha mẹ, em nghe lời anh chị. Gia đình luôn sống
hòa thuận, vui vẻ với nhau.
Tiểu kết chương 1
Thông Nông là một huyện miền núi của tỉnh Cao Bằng có 5 dân tộc anh
em cùng cư trú, trong đó người Dao chiếm tỉ lệ gần 30%. Trong quá trình sinh
sống, môi trường tự nhiên, xã hội là hai yếu tố tác động lớn đến sự phát triển
kinh tế và văn hóa của cộng đồng các dân tộc thiểu số nói chung và người
Dao ở Thông Nông nói riêng. Điều kiện thuận lợi về tài nguyên đất, nước,

rừng và nhân lực là nền tảng phát triển nền kinh tế đa dạng. Tuy nhiên, sự tồn
tại của những yếu tố không thuận lợi như địa hình chia cắt phức tạp, khí hậu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

20
khắc nghiệt lại có ảnh hưởng lớn đến đời sống của con người. Vì vậy, để mưu
sinh, người Dao huyện Thông Nông có những cách ứng xử hợp lí, thể hiện
sức chống chịu, khả năng thích nghi với đặc điểm tự nhiên. Điều này được thể
hiện rõ trong sinh kế của tộc người, đồng thời là cơ sở tạo nên nét riêng về
lịch sử hình thành, bản sắc văn hóa trong sự hòa hợp, kết nối với những tộc
người khác tạo nên đời sống vật chất và đời sống tinh thần khá đa dạng,
phong phú cho người Dao huyện Thông Nông.




















Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

21
Chƣơng 2
SINH KẾ CỦA NGƢỜI DAO Ở HUYỆN THÔNG NÔNG
TỈNH CAO BẰNG TRONG TRUYỀN THỐNG

Con người trong quá trình sinh sống và phát triển đều tìm ra một cách
sống phù hợp nhất cho mình. Để tìm ra cách sống không dễ dàng bởi vì phụ
thuộc vào nhiều điều kiện như địa hình, đất đai, tài nguyên thiên nhiên, giao
thông… Với mỗi vùng địa lý tự nhiên khác nhau con người sử dụng các
phương thức mưu sinh khác nhau. Cư dân vùng núi cao có phương thức canh
tác chủ yếu là trồng trọt khô cạn. Đây là giải pháp ưu việt nhất để khai khẩn
đất đồi núi cao vì trên đồi núi cao thường thiếu nước, đất dốc khó khai khẩn
thành ruộng nước như ở vùng đồng bằng. Ở vùng núi thấp, đồng bào vừa
trồng cấy lúa nước ở thung lũng lòng chảo, ở hạ lưu các dòng sông, lại vừa
trồng trọt khô cạn trên các sườn đồi. Cư dân ở vùng này thường sử dụng kết
hợp cả hai phương thức canh tác. Ở vùng đồng bằng, canh tác ruộng nước là
một giải pháp hiệu quả nhất trong việc mưu sinh của cư dân sinh sống ở vùng
đất này vì thuận lợi về điều kiện đất đai và nguồn nước. Với cư dân sinh sống
ở vùng ven biển, hải đảo, nghề kiếm sống chính của họ lại là đánh bắt thuỷ
hải sản.
Như vậy, sinh kế được hiểu là các hoạt động kinh tế, hay các cách thức
sản xuất mà con người thực hiện nhằm đảm bảo nhu cầu cuộc sống. Các hoạt
động kinh tế này chủ yếu được hình thành trong lịch sử dưới sự tác động của
nhiều yếu tố như môi trường, điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên,…
nơi mà con người sinh sống. Nó có thể bao gồm: nông nghiệp, tiểu thủ công
nghiệp, lâm nghiệp, thương nghiệp... Tùy vào các điều kiện cụ thể mà con

người định hướng, sử dụng các phương thức sinh kế cho phù hợp.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

22
Đối với người Dao ở Thông Nông, hoạt động kinh tế truyền thống là
trồng trọt kết hợp với các hoạt động kinh tế phụ khác như tiểu thủ công
nghiệp, săn bắt và hái lượm.
2.1. Trồng trọt
2.1.1. Nương rẫy
2.1.1.1. Lịch nông nghiệp
Do điều kiện địa hình quy định nên sản xuất nương rẫy là kế sinh nhai và
đã trở thành tập quán lâu đời của người Dao. Từ sau Cách mạng tháng Tám
năm 1945, đồng bào đã lấy nương rẫy làm nghề sinh sống chủ yếu. Trải qua
quá trình làm nương lâu dài, những kinh nghiệm và thói quen dần trở thành
truyền thống. Theo đó, chu kỳ sản xuất cũng ổn định tạo thành lịch nông
nghiệp của đồng bào:
Tháng giêng, chọn rừng, chọn đất để làm nương
Tháng hai, phát rẫy và trồng trọt một số loại hoa màu
Tháng ba, chăm sóc hoa màu và tiếp tục phát rẫy
Tháng tư, tháng năm, thu hoạch hoa màu và bắt đầu tra lúa
Tháng năm hoặc tháng sáu, làm cỏ đợt một
Tháng bảy, làm cỏ đợt hai
Tháng tám, tiếp tục chăm sóc nương rẫy
Tháng chín, tháng mười, thu hoạch
Tháng mười một, tháng 12: chuẩn bị cưới xin, đi chợ sắm tết [57]
Lịch nông nghiệp của người Dao huyện Thông Nông tỉnh Cao Bằng cho
thấy, việc sản xuất của đồng bào phụ thuộc chặt chẽ vào quy luật của thời tiết.
Đối với việc canh tác nương rẫy, nguồn nước mưa hàng năm là quan trọng
nhất. Do vậy, nương chỉ làm một vụ, trùng vào mùa mưa để bảo đảm đủ

lượng nước trong suốt thời kì sinh trưởng của cây trồng. Cùng với lịch nông
nghiệp là dự đoán thời tiết, người Dao ở Thông Nông cũng như các dân tộc

×