Tải bản đầy đủ (.pdf) (53 trang)

Tên và cách đặt tên của hai dân tộc nga việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (649.27 KB, 53 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN



ĐỀ TÀI
SINH VIÊN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
CẤP TRƯỜNG – 2009

TÊN VÀ CÁCH ĐẶT TÊN
CỦA HAI DÂN TỘC NGA – VIỆT

Sinh viên thực hiện

NGUYỄN MẠNH QUỲNH NHƯ
SV, NGÀNH SONG NGỮ NGA ANH
KHOA NGỮ VĂN NGA
KHÓA 2005 – 2010
Người hướng dẫn khoa học

Th.S PHẠM THỊ THU HÀ

TP. HỒ CHÍ MINH – 2009


ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN





ĐỀ TÀI
SINH VIÊN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
CẤP TRƯỜNG – 2009

TÊN VÀ CÁCH ĐẶT TÊN
CỦA HAI DÂN TỘC NGA – VIỆT

Sinh viên thực hiện:
NGUYỄN MẠNH QUỲNH NHƯ
SV, ngành song ngữ Nga Anh
Khóa 2005 – 2010
Người hướng dẫn khoa học:
TH.S PHẠM THỊ THU HÀ

TP. HỒ CHÍ MINH – 2009


MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU .....................................................................................................1
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: Tên và họ của người Việt.....................................................................3
1.1.Họ người Việt.....................................................................................................3
1.1.1.Họ kép .............................................................................................................4
1.1.2.Họ dân gian .....................................................................................................4
1.1.3.Ý nghĩa họ người Việt.....................................................................................5
1.2.Tên đệm (hay chữ lót) ........................................................................................6
1.2.1.Hình thức và mối liên kết ................................................................................7
1.2.2.Chức năng tên đệm .........................................................................................7

1.2.3.Tên đệm thường dùng .....................................................................................8
1.3.Tên chính (hay tên gọi) ......................................................................................8
1.3.1.Đặc điểm ........................................................................................................11
1.3.2.Tục lệ đặt tên ..................................................................................................12
1.3.3.Chọn tên chính ...............................................................................................12
1.3.4.Các tên khác ...................................................................................................13
Chương 2: Tên và họ của người Nga ...................................................................14
2.1. Họ người Nga ...................................................................................................14
2.2. Tên đệm............................................................................................................15
2.3. Tên chính..........................................................................................................17
2.3.1.Q trình hình thành và phát triển Nga tên ....................................................17
2.3.2.Cấu tạo Nga tên ..............................................................................................18
2.3.3.Hệ thống tên Nga cổ và ý nghĩa và những từ phái sinh của chúng................20
2.3.4. Ý nghĩa của 10 tên phổ biến nhất nước Nga hiện nay ..................................22
2.3.4.1.Tên dành cho nam giới................................................................................22
2.3.4.2.Tên dành cho nữ giới ..................................................................................22
Chương 3: Sự chi phối của các yếu tố địa lý và văn hóa lên cách đặt tên của
hai dân tộc Nga-Viêt ..............................................................................................24
3.1.Vị trí địa lý và tư duy của người Việt Nam .................................................... ..24
3.2.Điều kiện địa lý nước Nga và tư duy dân tộc Nga ............................................25
3.3.Mối quan hệ giữa văn hố và ngơn ngữ ............................................................27
3.4. Sự giao thoa văn hoá ........................................................................................28


Chương 4: So sánh cách đặt tên của hai dân tộc Nga-Việt .................................30
4.1.Những điểm giống và khác nhau về cấu trúc họ tên, tên, tên lót và
tên chính ..................................................................................................................30
4.1.1.Về cấu trúc và cách xưng hô ..........................................................................30
4.1.2.Khác nhau trong cách đặt tên .........................................................................30
4.1.2.1.Họ tên người Nga và họ người Việt ............................................................30

4.1.2.2.Đặt theo tên và họ của cha ..........................................................................31
4.1.2.3.Một số yếu tố liên quan đến tên, tên đệm, và số lượng của chúng trong
cấu trúc tên họ của hai dân tộc ................................................................................32
4.2.Những điểm giống và khác nhau trong cách đặt tên của hai dân tộc
Nga-Việt ..................................................................................................................33
4.2.1.Khác nhau về khía cạnh ngơn ngữ .................................................................33
4.2.2.Quan niệm về tên xấu của hai dân tộc ...........................................................34
4.2.3.Sự ảnh hưởng của bốn mùa trong năm lên việc đặt tên cho con của
người Nga ...............................................................................................................35
4.2.4.Quá trình hình thành và cách đặt tên của người Nga và người Việt ..............35
4.3.Những tên nên đặt cho các bé trai và bé gái của hai dân tộc Nga-Việt ............38
4.3.1.Tên nên đặt cho con trong tư duy của người Nga và người Việt...................39
4.3.2.Tên Nga hiện đại và tên Nga cổ .....................................................................40
4.3.2.1.Tên Nga hiện đại .........................................................................................40
4.3.2.2.Tên Nga cổ ..................................................................................................41
4.3.3.Một vài trường hợp hình thành tên đặc biệt nhờ sự kếp hợp của các từ
của người Nga .........................................................................................................43
KẾT LUẬN ............................................................................................................46


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài
Mỗi dân tộc đều có một ngơn ngữ riêng để thể hiện tiếng nói của dân tộc
mình. Ngơn ngữ được tạo ra do nhu cầu của cuộc sống, xã hội và đó là quy luật
tất yếu: con người cần phải giao tiếp với nhau và hiểu nhau. Công cụ thông
minh hữu hiệu giúp cho việc giao tiếp của con người trở nên dễ dàng đó là
ngơn ngữ.
Cũng như các dân tộc khác, tiếng Nga và tiếng Việt là ngơn ngữ thể hiện

tiếng nói của dân tộc Nga và dân tộc Việt Nam, nó được dùng làm phương tiện
giao tiếp của hai dân tộc này. Xã hội ngày càng phát triển, đặc biệt trong giai
đọan tồn cầu hóa như hiện nay, nhu cầu giao tiếp của con người không chỉ ở
trong phạm vi dân tộc mà cịn mở rộng ra phạm vi bên ngồi, ra thế giới. Đối
với mỗi dân tộc, cái tên của con người là một phần của lịch sử dân tộc. Cách
đặt tên người của mỗi dân tộc thể hiện phần nào văn hóa, tư tưởng, cách nhìn
nhận của họ về cuộc sống.
Và quan trọng hơn nữa, trong giao tiếp với nhau, cái tên cũng đem lại
cho con người những ấn tượng ban đầu về nhau. Mỗi cái tên đều có ý nghĩa và
lịch sử riêng của nó. Hiểu được ý nghĩa cái tên của đối tượng bạn đang giao
tiếp, giúp bạn có thể nắm bắt được phần nào tính cách của họ.
Dù là người Nga hay người Việt, mỗi người đều có một cái tên và kèm
theo chúng là ý nghĩa và niềm hy vọng mà cha mẹ họ gửi gắm trong những cái
tên ấy.
Trước đây, khi nghe đến những cái tên Nga, tơi thường tự hỏi chúng có
ý nghĩa gì, và nó được hình thành như thế nào, có gì giống và khác tên của
người Việt. Thực sự khi tôi đọc được bảng liệt kê những cái tên Nga và ý nghĩa
của những cái tên ấy, tôi cảm thấy rất thích thú. Chính vì vậy, việc nghiên cứu
đề tài “Tên và cách đặt tên của hai dân tộc Nga-Việt” giúp bản thân tôi, những
sinh viên đang theo học chuyên ngành tiếng Nga cũng như tất cả mọi người có
niềm đam mê với tiếng Nga có thêm kiến thức về quá trình hình thành những
cái tên của người Nga và ý nghĩa của chúng, hiểu thêm nền văn hóa của hai dân
tộc qua sự so sánh tên và cách đặt tên của người Nga và người Việt.
2.Tình hình nghiên cứu của đề tài
Ngồi những bài báo, cịn có một cuốn từ điển nhỏ viết về cách đặt tên
của người Nga, bảng liệt kê những cái tên, và ý nghĩa của những cái tên ấy.
Nhưng những tài liệu này rất ngắn gọn và chưa được dịch sang tiếng Việt.
Đề tài này giới thiệu về quá trình hình thành cái tên của dân tộc Nga và tập
trung vào việc so sánh cách đặt tên và ý nghĩa của những cái tên của hai dân
tộc Nga – Việt.

Đề tài cũng đã được nghiên cứu bởi những nhà nghiên cứu trong và
ngoài nước, song nghiên cứu đề tài này tôi hy vọng phần nào làm cho đề tài
phong phú hơn và giúp các bạn sinh viên có thêm kiến thức về một nền văn hóa
ẩn chứa trong những cái tên của dân tộc Nga và của dân tộc Việt Nam ta.


2

3.Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
Khi thực hiện đề tài này, tơi mong muốn đúc kết có hệ thống kiến thức
về quá trình hình thành và ý nghĩa của những cái tên của dân tộc Nga nhằm
giúp cho những người học hay yêu thích tiếng Nga hiểu hơn về hai nền văn hóa
Nga Việt trong cách đặt tên.
Để thực hiện được mục đích trên, đề tài cần phải làm được những nhiệm
vụ chính sau đây:
- Nêu lên được ý nghĩa và tầm quan trọng của những cái tên
- Chỉ ra được những nét văn hóa ảnh hưởng và chi phối cách đặt tên của người
Nga và người Việt
- So sánh sự khác nhau giữa các cách đặt tên ấy
- Liệt kê những cái tên điển hình và ý nghĩa của những cái tên ấy để các bạn
sinh viên có thể dễ dàng tiếp cận.
4.Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện dựa trên những cơ sở của phép biện chứng duy vật
và tư duy lơ-gich để tiến hành tìm hiểu và nghiên cứu. Các phương pháp chủ
yếu được sử dụng trong đề tài là: liệt kê, so sánh, phân tích, tổng hợp.
5.Giới hạn của đề tài
Đề tài nghiên cứu chỉ một phần nhỏ cách đặt tên và ý nghĩa của những
cái tên của dân tộc Nga – Việt.
6.Đóng góp của đề tài
Trên cơ sở kế thừa thành tựu của các cơng trình nghiên cứu về các vấn

đề liên quan đến cái tên và ý nghĩa của chúng trong tiếng Nga và tiếng Việt, ở
đề tài này tơi trình bày một cách tập trung hơn, theo từng chuyên mục cụ thể
kết hợp với so sánh.
Với đề tài này, những người yêu thích và quan tâm đến tiếng Nga khơng
những có thêm những điều mới lạ về những cái tên tiếng Nga quen thuộc, biết
thêm phần nào nét văn hóa của dân tộc vĩ đại này mà cịn hiểu thêm về văn hố
của dân tộc mình.
7.Kết cấu của đề tài
Ngồi phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, mục lục, đề tài gồm 4
chương. Trong đó:
Chương 1: Tên và họ của người Việt
Chương 2: Tên và họ của người Nga
Chương 3: Sự chi phối của các yếu tố địa lý và văn hóa lên tư duy của hai dân
tộc Nga-Việt
Chương 4: So sánh cách đặt tên của hai dân tộc Nga-Việt


3

PHẦN NỘI DUNG
Chương 1

TÊN VÀ HỌ CỦA NGƯỜI VIỆT
1.1. Họ người Việt
Họ người Việt gồm các họ của người thuộc dân tộc Việt. Việt Nam nằm
ở khu vực Đông Dương nên chịu nhiều ảnh hưởng văn hóa từ Trung Quốc lẫn
các nước vùng Ấn Độ hay dân tộc Chàm, cho nên họ người Việt cũng vậy.
Nhưng đa số họ được đọc trại đi cho khác với nguyên gốc để hợp với cách phát
âm tiếng Việt. Tuy vậy họ người Việt không nhiều như Trung Quốc hay các
nước lớn khác. Các họ lớn ở Việt Nam đa số có một triều đại trong lịch sử nước

này.
Phần lớn các họ phổ biến ở Việt Nam gắn liền với các triều đại phong
kiến Việt Nam. Họ phổ biến nhất của người Việt là họ Nguyễn, theo một thống
kê năm 2005 thì họ này chiếm tới khoảng 38% dân số Việt Nam. Đây là họ của
triều đại phong kiến Việt Nam cuối cùng, triều nhà Nguyễn. Các họ phổ biến
khác như họ Trần, họ Lê, họ Lý cũng là họ của các hoàng tộc từng cai trị Việt
Nam, đó là nhà Trần, nhà Tiền Lê - Hậu Lê và nhà Lý.
Sau đây là danh sách 14 họ phổ biến của người Việt, 14 họ này chiếm
khoảng 90% dân số Việt Nam[1]:
Họ
Nguyễn
Trần

Phạm
Hồng/Huỳnh
Phan
Vũ/Võ
Đặng
Bùi
Đỗ
Hồ
Ngơ
Dương


[1]

Tỷ lệ
38,4%
11%

9,5%
7,1%
5,1%
4,5%
3,9%
2,1%
2%
1,4%
1,3%
1,3%
1%
0,5%

Các họ khác
 An, Ân, Ánh, Âu
 Bá, Bạch, Bàng, Bành, Biện
 Cái, Cao, Cấn, Châu, Chu, Chung, Cù
 Dã, Doãn
 Đàm, Đan, Đào, Đinh, Đồn
 Giang
 Hà, Hình, Huỳnh
 Khổng
 Lạc, Lâm, Lô, Liễu, Lương, Lưu
 Ma, Mã, Mạc, Mai
 Nhâm, Nhậm/Nhiệm
 Ơng
 Phí, Phó, Phùng
 Tạ, Tào, Thái, Thân, Tơn, Triệu, Trịnh, Trương
 Văn, Vương
1.1.1.Họ kép


Họ và tên người Việt Nam, PGS.TS Lê Trung Hoa, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, 2005


4

Nhiều gia đình mang họ kép, như Vũ-Ðỗ Thìn, Ðặng-Trần Huân, TrầnLê Quang, v.v.. Tuy nhiên cần phân biệt hai loại họ kép:
Họ + tên đệm: Các họ Ðặng-Xuân, Ðặng-Vũ và Ngơ-Vi, Ngơ-Thời,
xuất phát từ một gia đình gốc họ Ðặng và họ Vũ, nhưng vì muốn phân biệt chi
nhánh nên đã thêm tên đệm vào họ. Yếu tố này khơng phải là họ, nhưng giữ
nhiệm vụ tên lót trung gian giữa họ và tên. Nhưng những họ đi kèm với tên
đệm "Bá, Thúc" phải được coi như họ đơn, vì những tên lót này chỉ là những
chữ lót chung.
Họ kép hợp bởi hai họ: Ðây là những họ kép chính thức. Thường thấy
có: Vũ-Ðỗ, Nguyễn-Trần, Trần-Lê, Hồ-Ðặng, Lê-Phan, Vũ-Phạm, Ðặng-Trần.
Vì một lý do nào đó, một người xử dụng họ kép và truyền lại cho các thế hệ
sau.
Trước hết là trường hợp người con nuôi, y thêm họ gia đình cha mẹ
ni vào họ gốc. Họ mới đi trước họ gốc. Ðó là hồn cảnh của nhà thơ ÐặngTrần Cơn, tác giả Bích-Câu Kỳ-Ngộ và Chinh Phụ Ngâm Khúc. Là con ni
của một gia đình họ Ðặng, ơng vốn tên là Trần Côn. Con cháu thường vẫn tiếp
tục giữ họ kép đó. Nhưng có trường hợp có người con lấy lại họ cũ, như con
cháu Vũ-Phạm Hàm, gốc họ Phạm, làm con nuôi người bạn của cha họ Vũ nên
mới có họ kép là Vũ-Phạm. Về sau, có người còn giữ họ Vũ-Phạm, nhưng đa
số lấy lại họ gốc là Phạm vì ơng chỉ truyền họ kép Vũ-Phạm cho một trong chín
người con.
Một lý do khác thơng thường hơn là vua chúa ngày xưa thường cho
phép một số quan lại có cơng với triều đình hoặc đỗ đạt cao được đổi tên và có
khi cho phép theo họ của vua (quốc tính), xem đó là một cách tưởng thưởng
trọng hậu. Có người bỏ hẳn họ gốc để lấy họ vua như Mạc Cảnh Vinh được
chúa Sãi Nguyễn-Phúc Nguyên cho phép đổi thành Nguyễn-Phúc Vinh. Nhưng

thường người được đổi họ được phép giữ họ gốc ghép vào họ mới mà thành ra
họ kép. Huỳnh Ðức, quan triều đại Gia-Long trở thành Nguyễn-Huỳnh Ðức.
Các con ông là Nguyễn-Huỳnh Thành, Nguyễn-Huỳnh Thừa, v.v.. Tuy nhiên
con gái vẫn giữ họ gốc Huỳnh vì con gái khơng mang quốc tính. Chỉ có thời
Tống Nho mới có những phân biệt nam nữ như vậy.
Hiện nay người ta thấy có nhiều họ kép loại nhưng thường gồm hai họ
của vợ chồng dùng đặt cho con cái. Các họ kép mới này khơng thể trường tồn
vì khơng được mọi người và tục lệ chấp nhận. Hơn nữa, những người con của
họ, một khi lập gia đình lại sẽ đổi họ kép đặt cho con, họ kép của người phối
ngẫu mới có thể là một họ khác.
1.1.2.Họ dân gian
Trong số "trăm họ" hiện được dùng, có chừng 30 họ là gốc Việt hoàn
toàn, lúc đầu vốn là họ bộ tộc.
Ngược dòng lịch sử, Việt tộc xuất phát từ đồng bằng phía Nam sơng
Dương-tử bên Tàu. Bị người Hán xâm chiếm, tổ tiên ta đã phải thiên cư xuống
phía Nam và lập quốc ở vùng đồng bằng sông Hồng, Bắc Việt vào khoảng thế
kỷ thứ IV trước Công-nguyên. Từ năm 1069, người Việt nam tiến chiếm toàn
thể nước Chiêm-Thành năm 1693 và chiếm đóng phần đồng bằng phía đơng


5

Cam-Bốt tức Thủy Chân-Lạp năm 1759. Cuộc Nam tiến đã dừng lại khi người
Pháp chiếm đóng và thành lập Ðơng Dương thuộc địa.
Phần khác, nước ta từng bị nhà Hán và các triều đại Trung quốc sau đó
đơ hộ cả ngàn năm, một số quân lính sang đất Giao Chỉ rồi ở lại lập gia đình
sanh con đẻ cháu. Mặt khác nữa, nước ta đã từng đón nhận nhiều người Hoa
đến tị nạn hoặc di trú.
Ðó là lý do lịch sử của một số họ Việt gốc Hoa như Khổng, Lưu,
Trương, Mai, Lâm, Lữ, Nhan, Sử, Tăng, Trịnh, Vương, v.v. hoặc gốc Miên như

Thạch, Sơn, Danh, Kim, Lâm là năm họ nhà Nguyễn đã ban cho, hoặc gốc
Chàm như Chế, Chiêm, v.v. hoặc họ của đồng bào thiểu số (trong nước hiện
gọi là "dân tộc") như Linh, Giáp, Ma, Ðèo, Kha, Diêu, Vi, Qch, Nơng, Chữ,
Ngân, Ơng, Trà, Lang, Lục, v.v.
1.1.3.Ý nghĩa họ người Việt
Tất cả họ Việt Nam đều có một ý nghĩa ngữ nguyên. Trong số "trăm
họ", có những họ xưa tới ba bốn ngàn năm, vào thời đại mà mỗi bộ tộc có một
tượng vật riêng, hoặc cây cỏ hoặc cầm thú. Sau đó những tên biểu hiệu tượng
vật đó được một số gia tộc dùng làm họ, thí dụ họ Âu. Một số khác biểu tượng
nghề nghiệp như họ Ðào (thợ gốm), hoặc cách sinh sống của bộ tộc, như họ
Trần. Một số biểu tượng nơi bắt gốc bộ tộc hoặc gia đình. Họ lúc đầu là họ bộ
tộc, đó là lý do người Anh và Pháp gọi là "patronym(e)" để phân biệt với "nom
de famille / family name".
Lúc đầu được ghi chép bằng chữ Hán, sau thêm chữ Nơm rồi "quốc
ngữ" hóa, họ người Việt theo dòng lịch sử bị nhiều ảnh hưởng, đã biến đổi hoặc
hiểu sai lạc, khiến cho người thời nay khó hiểu được ý nghĩa sơ nguyên của họ.
Cùng một phát âm như của ngày hôm nay, chưa chắc một chữ đã gợi lên cùng
một ý nghĩa, như các họ Ðinh hiện được hiểu là "công dân", "người". Quách
nghĩa là vật chắc chắn, có sức đối kháng mà cũng có nghĩa là "lớp thành
ngoài". Họ Lê vốn nghĩa là "dân chúng" nói chung.
Vì những lý do đã nêu, các họ được ghi chép lại, được hiểu là phải viết
như một danh từ chung, nhưng khơng nên hiểu là có cùng một ý nghĩa như
danh từ đó. Cũng như người Pháp có các họ Boucher, Boulanger ... có thể từ
nguyên gốc để chỉ những nghề của tổ tiên họ. Các chữ không nhất thiết phải
gợi lên hành động, trạng thái hoặc đối tượng của danh từ, nhất là từ khi có chữ
quốc ngữ La-Tinh, các chữ gợi hình ít hơn và cũng dễ gây hiểu lầm hơn. Tên
họ ghi chép trong các từ điển hiện nay nên được xem như khơng có ý nghĩa
chắc chắn, vì thế ta khơng thể khẳng định họ viết như thế phải nghĩa là thế này
hoặc họ đó tương đương với danh từ chung diển tả sự vật hoặc hành động.
1.2.Tên đệm (hay chữ lót)

Tên đệm hay tên lót nằm giữa tên họ và tên chính. Trong khi họ là để
phân biệt huyết thống và tên chính dùng để phân biệt người này với người khác
thì một số tên đệm thường dùng để phân biệt giới tính (nam, nữ) như Thị, Diệu,
Nữ dùng cho nữ giới; Bá, Mạnh, Văn dùng cho nam giới. Nhưng ngày nay một
số tên đệm như Thị đã ít được dùng như trước.


6

"Chữ lót" hay "tên đệm" trong tiếng Anh thường gọi là "middle name"
nhưng đúng ra phải là "padding/qualifying name". Tiếng Pháp có thể là "nom
intermediaire" hay "mot intercalaire". Chữ lót đã được sử dụng từ thời lập quốc
xa xưa: ngư phủ Chử Cù Vân trong huyền thoại Chử Ðồng Tử và công chúa
Tiên Dung thời vua Hùng (2 tới 3 ngàn năm trước Công Nguyên), anh bà Triệu
Ẩu (248) tên gọi là Triệu Quốc Ðạt.
Chữ lót hoặc tên đệm thường được sử dụng nhất là "Văn" và "Thị" phân
biệt phái nam với phái nữ. "Văn" nghĩa là "người có học", "nhà nho". "Thị" có
nghĩa là "đàn bà". Có thuyết lịch sử cho rằng "Thị" phát sinh ra gốc họ hàng
(thị tộc), có ý ám chỉ nhờ người đàn bà mà tộc họ được tồn tại và kéo dài. Theo
một số nhà ngữ học, "Văn" và "Thị" có nghĩa là "con trai của...", "con gái
của..." và là dấu vết ảnh hưởng văn hóa Mã Lai. Cách phân biệt nam nữ tiện lợi
và dễ hiểu này khơng cịn được người thời nay u chuộng lắm, vì người ta cho
là thiếu cá tính. Do đó người Việt nay có khuynh hướng chọn những chữ lót
khác, hay, đẹp và được chủ quan xem là thích hợp hơn với từng cá nhân.
Sự thay đổi này có thể có nhiều mục đích: làm rõ nghĩa tên gọi, tạo một âm
hưởng dễ nghe, hoặc tạo giây liên lạc họ hàng. Ngồi "Văn" và "Thị", những
tên lót chung thường thấy dùng là: Phúc, Đình, Ngọc, Bá, Thúc, Cao, Công,
Huy, Như, Tường, Anh, Đức, Sĩ, Viết, Quang,...
Một loại chữ lót thứ ba dùng để chỉ thứ tự con cái cùng một gia đình và
chỉ dùng cho con trai: "Mạnh" cho con cả, "Trọng" cho thứ nam và "Quý" cho

con trai thứ ba trở đi. “Mạnh”, “Trọng”, “Quý” vốn gốc chỉ ba tháng của một
mùa theo âm lịch. Cách dùng này đã thành thông thường dù nguyên gốc,
"Mạnh" dùng cho con cả dòng thứ trong khi "Bá" mới là con cả dịng trưởng.
Tuy nhiên “Bá”, “Trọng”, “Q” cịn có những nghĩa khác tùy tên gọi đi sau
chứ không nhất thiết thuộc vào ý nói trên. Thí dụ Bá Tịng, Trọng Kiều (cầu
nặng), Quý Châu. "Giáp" và "Nguyên" cũng thuộc loại chữ lót này, dùng để chỉ
con trai đầu lịng, thí dụ : Lê Giáp Hải, Vũ Nguyên Khang.
Loại chữ lót thứ tư dùng để phân biệt các ngành cùng một gia đình gốc
mà ra. "Bá", "Thúc" thường được dùng trong loại này. "Bá" dùng đặt cho con
nhà bác hoặc dòng trưởng, "Thúc" con nhà chú hoặc dịng thứ. Ngồi ra, cũng
cùng một mục đích kể trên, một số gia đình dùng những chữ lót khác như "Vi,
Thời", "Xn, Vũ": Ngơ Vi Thụ, Ngô Thời Nhậm và Ðặng Xuân Quang, Ðặng
Vũ Biền.
Một số gia đình khác, thường thuộc giới quan cách, sáng chế chữ lót để
phân biệt thế hệ: tất cả con cái một thế hệ sẽ mang cùng một chữ lót. Chế độ
đặt tên này rất bành trướng bên Trung Hoa trong giới quan lại, bắt chước người
Mãn Châu tức nhà Thanh lúc bấy giờ. Một ông tổ dụng công đặt chữ lót cho
nhiều đời nối tiếp giúp con cháu dù tẩu tán lập nghiệp phương xa cứ nhìn chữ
lót là nhận được họ hàng và biết thuộc thế hệ thứ mấy để tiện bề xưng hơ.
Thường những chữ lót định trước này được ghi trong gia phả để con cháu đời
sau biết mà theo, dưới hình thức những câu thơ 4, 5, hoặc 7 chữ. Những chữ
này theo thứ tự trở thành tên đệm. Đến thế hệ cuối cùng phải nghĩ ra những tên
đệm khác để tiếp tục sự kế thừa như các thế hệ trước.
Ở Việt Nam có họ Dương Kh (Hà Ðơng) đã phỏng theo cách này.
Ơng đã đặt một bài hệ thi gồm 16 chữ, mỗi thế hệ cứ dựa vào đó mà đặt tên lót:


7

Dương Tự Quán, Dương Tự Ðề, Dương Thiệu Tống, Dương Thiệu Tước,

Dương Hồng Tuân, Dương Hồng Phong, Dương Vân Hán, v.v.
Về phần phái nữ, ngồi chữ lót thơng dụng "Thị" cịn thấy dùng những
tên lót khác như "Nữ" và "Diệu", chữ lót sau thường dùng ở Huế: Lê Thị Diệu
Trang, ... Ở thời hiện đại, tên phụ nữ thường mất hẳn chữ lót "Thị" và nhiều
chữ lót khác được dùng như: Ngọc, Thanh, Mỹ, Tuyết, v.v. dù các chữ lót này
khơng hẳn chỉ dùng cho phái nữ. Nữ có thể là Vũ Ngọc Lan, Trương Thu Thủy,
Nguyễn Mỹ Dung,...trong khi Nguyễn Ngọc Sơn, Nguyễn Thành Cơng,... rõ là
nam giới.
1.2.1.Hình thức và mối liên kết
Xét về hình thức, tên đệm có thể là một từ: Nguyễn Đình Chiểu, Hồ
Xn Hương, Hồng Kim Vui; hai từ: Lê Thanh Minh Châu, Đỗ Văn Quang
Minh; nhưng cũng có thể khơng có: Lý Bí, Hồ Xí...
Xét về mặt liên kết với các thành phần khác trong tên, tên đệm có thể là
thành phần độc lập, cũng có thể liên kết với tên họ hoặc với tên chính:
Tên đệm đứng độc lập: là loại tên đệm khơng phối hợp được với
tên họ hay tên chính để làm thành từ kép. Ví dụ với Nguyễn Đình Chiểu
và Lê Văn Trương thì từ "Đình" hay "Văn" khơng thể phối hợp với tên
họ hoặc tên chính để làm thành từ kép có một ý nghĩa khác.
Tên đệm phối hợp với tên chính: Hầu hết tên chính người Việt
Nam xuất phát từ nguồn gốc Hán-Việt. Trong văn chương các từ này
được coi là hay hơn các từ Nôm nên khi đặt tên người ta cố gắng lựa tên
đệm nào có thể đi chung với tên chính để có ý nghĩa rộng hơn, tốt đẹp
hơn như Nguyễn Văn Quang Minh, Trần Hùng Dũng, Lê Phú Quý,
Nguyễn Văn Thông Minh, Lê An Bình...
Tên đệm phối hợp với tên họ: Rất ít tên người Việt có tên đệm
phối hợp được với tên họ để làm thành từ kép có ý nghĩa, ngoại trừ:
Hồng Kim Vui, Võ Văn Trung, v.v.
Tên đệm có hai chữ, một độc lập, một phối hợp với tên chính, ví
dụ Đỗ Văn Quang Minh: tên đệm "Văn" đứng độc lập, tên đệm "Quang"
đi với tên chính là "Minh" để thành "Quang Minh" (nghĩa là sáng sủa).

1.2.2.Chức năng tên đệm
Tên đệm có thể có nhưng cũng có thể khơng có nên chức năng của nó
đơi khi cũng khơng rõ ràng. Một số tên đệm có chức năng tương đối rõ là:
Phân biệt giới tính: nữ giới thường chọn tên đệm Thị, Diệu, Nữ; nam
là: Bá, Mạnh, Văn.
Phân biệt chi, ngành trong một dịng họ lớn: Ngơ Thì, Ngơ Vai;
Nguyễn Đức, Nguyễn Mậu...
Phân biệt thứ bậc trong gia đình: một số người dùng từ đệm Bá để chỉ
con cả dòng họ trưởng, “Mạnh” để chỉ con cả dòng họ thứ, ''Gia” chỉ con
trưởng, “Trọng” chỉ con thứ hai...


8

Thẩm mỹ: một số tên đệm chỉ có chức năng thẩm mỹ và nam nữ đều có
thể dùng như: Nguyễn Bạch Dương và Lê Bạch Huệ; Phan Kim Huê và Đỗ
Kim Nga...
1.2.3.Tên đệm thường dùng
Dùng từ Hán-Việt có ý nghĩa tốt như các từ chỉ vật quý, mùa đẹp, màu
đẹp, từ chỉ phẩm hạnh, tài năng: Xuân, Thu, Cẩm, Châu, Hồng, Hồng, Đức,
Hạnh, Đình, Đại...
Lấy họ mẹ làm tên đệm hoặc lấy họ cha làm tên đệm mà không phải
theo chế độ mẫu hệ[2].
Lấy tên đệm của cha làm tên đệm hoặc một phần tên đệm cho con trai
và có thể con gái. - Lấy tên đệm của mẹ làm tên đệm hoặc một phần tên đệm
cho con gái hoặc trai.
Lấy tên chính của cha làm tên đệm cho con trai, lấy tên chính của mẹ
làm tên đệm cho con gái.
Lấy tên đệm và tên chính của cha làm tên đệm cho con trai và gái: Trần
Thành Đăng (cha), Trần Thành Đăng Chân Tín (con trai), Trần Thành Đăng

Chân Mỹ (con gái)...
1.3.Tên chính (hay tên gọi)
Có người nói “Nền văn minh của mỗi dân tộc là do dân tộc đó đặt tên
được nhiều hay ít những gì có trên cõi đời này. Dân tộc nào trong ngôn ngữ đặt
được nhiều tên thì dân tộc đó văn minh hơn”. Đó là câu nhận định thật đơn
giản, nhưng ngẫm ra thật chí lý. Những nước có nền văn minh cao thì từ điển
của họ có thật nhiều từ ngữ. Mà từ ngữ là gì? Có phải đó là tên do con người
đặt ra để chỉ người, thú vật, chim muông, cây cỏ, hành động, trạng thái, tư
duy...? Càng văn minh người ta càng có nhiều tên, tức nhiều từ ngữ.
Người ta đặt tên cho những cái gì cụ thể, mà cũng đặt tên cho những cái gì vơ
hình, trừu tượng nữa, như trời, tiên, thần thánh, niết bàn, thiên đường, âm phủ,
càn khơn, tư duy, lo lắng, nghĩ suy,...
Tìm gặp một ngơi sao mới, người ta vội vã đặt cho nó một cái tên. Đến
một vùng đất lạ, chuyện đầu tiên là lo đặt tên cho nơi đó. Phát hiện một cây
mới, một con thú mới, thậm chí một con vi trùng mới, người ta lo đặt tên trước
đã.
Khám phá ra được một bộ lạc còn đời sống sơ khai, người ta thấy tiếng
nói của bộ lạc đó rất ít. Đó có nghĩa là số tên do bộ lạc đó đặt ra thật ít. Cho tới
bây giờ, nền văn minh của lồi người tiến đến chỗ ta có cảm tưởng gần như
tuyệt đỉnh, vậy mà con người đầy tham vọng vẫn tiếp tục tìm kiếm tên mới để
đặt cho cái gì đó. Tức nhiên đó là cái mới tìm ra, mới phát minh ra.
Tên người Việt Nam được các nhà nghiên cứu cho rằng bắt đầu có từ thế
kỷ 2 trước Cơng nguyên và càng ngày càng đa dạng hơn[3], có ý kiến khác cho
rằng "sớm nhất Việt Nam có tên họ vào khoảng đầu Công Nguyên”[4].
[2]

Theo phong tục Việt Nam, người đi làm con ni một nhà họ nào đó thì lấy họ nhà ấy, và lấy họ
mình ra làm tên đệm
[3]
Họ và tên người Việt Nam, PGS.TS Lê Trung Hoa, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, 2005

[4]
Nguồn gốc tên họ Việt Nam, Nguyễn Long Thao


9

Khơng có một ngun tắc chung nào trong việc đặt tên, đối với tâm lý
của người Việt Nam, việc đặt tên rất quan trọng vì mỗi cái tên gắn chặt với mỗi
con người. Có thể căn cứ vào đặc điểm, giới tính, hồn cảnh gia đình, dịng họ,
q hương, xã hội và cả ước vọng của chính bản thân để người đặt tên gửi gắm
vào cái tên đó. Tên người Việt Nam ngoài chức năng để phân biệt người này
với người khác; ngồi ra, tên cịn có chức năng thẩm mỹ nên thường được chọn
lựa khá kỹ về mặt ngữ âm, ngữ nghĩa.
Tên chính là tên gọi của từng cá nhân, để phân biệt với những cá nhân
khác. Trong tên của người Việt, tên chính thường ở vị trí cuối cùng. Trong một
vài trường hợp, theo thói quen người ta gọi đệm thay cho tên chính[5].
Tên gọi cịn được gọi là "tên đẻ", đặt khi mới sinh và "tên bộ", tên ghi ở
sổ Bộ. Tên, người Pháp gọi là "prénom" và người Anh, Mỹ gọi là "first name"
(hay "personal name") vì đặt trước họ, trong khi người Việt cũng như nhiều dân
tộc Á Đông khác, tên được đặt sau họ. Một lý do là truyền thống tơn kính gia
tộc họ hàng trên trước cá nhân.
Tên thường được chọn một cách tự do hơn. Một cách tổng quát, người
nhà quê và bình dân chỉ lựa một tên (đơn, tức độc văn danh), người giàu hoặc
có học hoặc tự cho sang trọng hoặc học làm sang, thì có khuynh hướng đặt tên
kép (song văn thanh). Ý nghĩa tên gọi trong trường hợp sau cùng này nằm
trong cả hai hoặc ba yếu tố tạo nên tên gọi.
Tên gọi kép thường dễ tìm thấy trong các từ điển, thí dụ : Hào-Kiệt,
Tuấn-Kiệt, Anh-Hùng, Kỷ-Cương, An-Khang, Chi-Lan, Diễm-Kiều, ÐoanTrang, Tinh-Hoa, v.v.. Cùng trường hợp với một số chữ lót như "Ngọc, Thanh,
v.v.", nhiều tên gọi có thể dùng cho cả nam lẫn nữ vì nói chung toàn bộ tên họ
của một người thường mới cho biết người đó là nam hay nữ : Hiền, Tuyền,

Kim, Hồng, Nhân, v.v.
Trên lý thuyết, mỗi người có một tên gọi khác nhau. Khác, vì tùy theo
tín ngưỡng hoặc tư tưởng người ta muốn gán cho tên gọi, hoặc tùy theo tính
tình và trí tưởng tưỡng của người đặt tên. Mỗi người có thể đặt tên cho con
cháu hoặc đổi tên mình theo ý muốn, cả những tên kỳ dị hay đặc thù không
giống ai. Tên đơn giản thường thấy ở giới bình dân hoặc ở thơn q như: Ổi,
Mít, Tèo, Bướm, Tí, Hĩm, Cu, ... Nhà nào sinh con khó ni hoặc hay bị bệnh
tật sài đẹn thường đặt cho con những tên xấu xí để "quỷ thần" tha như Vẹo,
Ðủi, Ðen, ... Có người khơng dám đặt tên con quá hay sợ bị quở hay chê cười.
Thời xưa, các cụ còn phải tham khảo các bậc túc nho hoặc biết chữ và tỏ ra
thận trọng trong việc đặt tên cho con cháu.
Tuy nhiên, theo thói tục, việc đặt tên thường được căn cứ theo truyền
thống và tín ngưỡng, nhất là trên nguồn gốc và quyền lực có thể có của tên gọi.
Tên gọi cịn có thể diễn tả những ước ao hoặc lý tưởng đặt cho đứa trẻ mới
chào đời như một thông điệp nhờ đứa trẻ tinh khiết làm người đưa tin hoặc báo
tin cho đời. Từ khi hàng triệu người Việt phải bỏ nước ra đi chẳng hạn, nhiều
người đặt tên cho con là Nam Quân, Phục Quốc, Hồi Hương,... cũng trong ý
nghĩa đó. Nhà nhân chủng học Claude Le'vi-Strauss trong La pensée sauvage
(1962) đã đề cao tầm quan trọng của ý nghĩa tiềm ẩn của tên gọi.
[5]

Thí dụ chị tên Thanh Nguyệt, em tên Hồng Nguyệt...


10

Ở hải ngoại, người Việt khi đổi quốc tịch có khuynh hướng đổi tên hoặc
thêm tên gọi tiếng bản xứ, đã làm mất hẳn hay giảm đi yếu tố duy nhất và độc
đáo của tên gọi. Dĩ nhiên có những tên gọi đẹp và đầy ý nghĩa trong tiếng Việt
đã trở nên khó nghe khi phát âm theo tiếng bản xứ như Côn, Công, Dung,

Dũng, Phúc, Quy, v.v. Tên gọi rất quan trọng vì nó có quan hệ đến tương lai
của đứa trẻ và mọi người nói chung sẽ cùng mang tên gọi suốt đời.
Một cách cụ thể, tên gọi có thể là tên sơng hồ, núi non, hoa quả, cây cỏ
(Tùng, Bách, Mai, Trúc, Lan, Hòe, Quế,...); màu sắc, chim chóc hoặc cầm thú
(Long, Lân, Quy, Phượng, Loan, Yến,...); bốn mùa (Xn, Hạ, Thu, Ðơng);
tháng, năm (Tí, Sửu, Dần. Mão, Mẹo, Thìn, Tỵ,...); ngọc quý (Pha, Châu,
Ngọc, Quỳnh,...); tên thuộc về loại kim (Cương, Chung, Liệu,...); loại đá
(Thạch, Bích, Thạc, Nha, Sa, ...); phúc đức, phẩm hạnh hoặc hình dung tốt
đẹp (Phúc, Lộc, Khang, Ninh, Thạnh, Vĩnh, Trường, ...). Nhiều người thơng
hiểu chữ Hán có khuynh hướng lấy từ kinh sách, châm ngơn, điển tích hoặc đặt
tên theo bộ chữ Hán. Học giả Phạm Quỳnh, tên Quỳnh thuộc bộ Ngọc, nên đã
đặt tên con theo cùng bộ Ngọc : Khuê, Dao, ... Người ta cũng lấy địa danh, chỗ
ở, nguyên quán hoặc tên các nhân vật tiểu thuyết (nhưng tránh lấy tên các
nhân vật lịch sử). Cũng vì lý do tôn trọng tổ tiên, mọi người đều tránh lấy tên
ông bà cha mẹ đặt cho con cháu, khác với người Tây phương. Cuốn gia phả là
cẩm nang để con cháu tránh đặt trùng tên gọi với ông bà tổ tiên.
Về cách đặt tên trong một gia đình, có người đặt tên con cái theo vần
hoặc lấy cùng một chữ cái, hoặc tất cả tên gọi các con tạo thành một ý hoặc
dùng tất cả tên một loại mà đặt cho con: thí dụ tên bốn mùa, tên các phẩm
hạnh (Hạnh, Nhân, Trí, Tín,..; Phước, Lộc Thọ,..); tên ngũ hành hay ngũ tinh
(Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ); ngũ phúc (Phú, Quý, Thọ, Khang, Ninh); tứ duy
(Lễ, Nghĩa, Liêm, Sỉ); tứ đức (Hiếu, Ðễ, Trung, Tín cho con trai; Cơng, Dung,
Ngơn, Hạnh cho con gái); tứ linh (Long, Lân, Quy, Phụng). Trở ngại là khi con
sanh ra nhiều hay ít hơn bộ chữ. Và cách đặt tên này chỉ dễ dàng trong xã hội
xưa "tam thê bảy thiếp" và sanh con còn là "bổn phận" của phụ nữ như ghi
trong luật Hồng Ðức và Gia Long cũng như đàn ông tuyệt tự cịn là lỗi lớn với
ơng bà tổ tiên. Ðời nay, người phụ nữ bình quyền, ly dị đã thành thói thường,
tình gia tộc ngày càng suy yếu thì cách đặt tên này ngày càng khó thực hiện.
Một khuynh hướng đặt tên khác cũng nên ghi nhận dù không thật sự phổ
biến, đo là cách đặt một tên gọi cho tất cả con trai hoặc gái, chữ lót sẽ làm phần

việc phân biệt mỗi đứa con. Con gái: Hồng Ly, Mai Ly, Trúc Ly; con trai: Anh
Khoa, Tuấn Khoa, v.v.
Ngoài tên bộ là tên gọi chính thức trên giấy tờ hộ tịch, người ta có thể có
thêm tên tục (vulgar name), tên cúng cơm, tên thân mật, tên lịch sự, do chính
mình hoặc do người ngồi đặt cho mình. Trước khi có tên bộ thường đã có tên
tục (domestic name) để gọi trong nhà; nhất là thời xưa chỉ khi đến tuổi đi học,
cha mẹ mới làm giấy tờ hộ tịch cho con, lúc đó mới chọn tên đẹp đẽ cho con đứa trẻ lúc đó sẽ có hai tên gọi, tên tục đã có và tên gọi ở trường (name at
school). Các tên tục thường nghe : Cu Tí, Cu Nhớn, Cu Tẹo, Ðĩ Lớn, Ðĩ Con,
Ðĩ Út,... Trong Nam người ta còn gọi con theo thứ tự: Hai, Ba, Tư, v.v. Tên bộ
có thể thay đổi. Cụ Nguyễn Khuyến vốn tên Nguyễn Thắng vì rớt thi Hội năm
1865 đã xin đổi thành Khuyến.


11

1.3.1.Đặc điểm
Tên chính của người Việt thường có những đặc điểm sau:
Có lựa chọn và có lý do: Người Việt Nam quan niệm tên chính là một
bộ phận gắn chặt với người mang tên đó. Tục ngữ có câu: "Xem mặt đặt tên",
bởi vậy khi đặt tên người ta thường chọn lựa kỹ và căn cứ đặc điểm, giới tính,
hồn cảnh gia đình, dịng họ, q hương xã hội, ước vọng cha mẹ... mà chọn,
chứ không đặt tùy tiện.
Số lượng phong phú: So với họ và tên đệm, tên chính phong phú hơn
về số lượng. Bất cứ tiếng nào trong kho tàng ngơn ngữ Việt cũng có thể là tên
người Việt Nam, tuy nhiên vì tính lựa chọn, có những từ hầu như hiếm được
dùng làm tên chính như: cùi, ung thư, tù, ngục, tai nạn...
Xu hướng đa tiết hóa tên chính: Trước đây họ và tên thường 3 tiếng,
ngày nay xu hướng phát triển thành 4 ngày càng nhiều và nhất là ở giới nữ.
Hán-Việt giữ vai trò chủ đạo: thường được cấu tạo bằng hai từ: một
để làm tên đệm, một để làm tên chính. Hai từ đó hợp lại có ý nghĩa rộng hơn,

hoa mỹ hơn. Ví dụ Vĩnh Phú (giàu có mn đời), Bạch Tuyết (trong trắng như
tuyết), Hồi An (mong được an bình)...
Tên chính từ gốc Nơm thường được các gia đình ở nơng thơn, ít học,
đặt cho con cái, tên từ gốc Nơm có vẻ mộc mạc như: Bông, Rồi, Vui, Cười,
Lây, Há, Đực, Tí, Cị v.v. đã làm nhiều người băn khoăn, khó chịu về cái tên
của mình, nhất là khi lên thành thị sinh sống.
Khi người Pháp, người Mỹ đến Việt Nam, một số gia đình có liên hệ đã
đặt tên con bằng những tên như: Trần Văn Pierre, Lê Văn Paul, Trần Thị
Paulette, Nguyễn Thị Suzanne, v.v. Có những tên khơng rõ nghĩa cũng như
nguồn gốc như Nguyễn Quang Riệu hay Trần Đình Hượu...
Khó phân biệt nam nữ với tên chính: Về ngun tắc, tên chính của
nam nữ khơng có gì để phân biệt. Tuy nhiên căn cứ vào ý nghĩa của tên chính
ấy, phối hợp tên chính với tên đệm và dựa vào thói quen có thể đốn tương đối
chính xác một tên là nam hay nữ.
)Tên nữ thường là tên loài hoa: Mai, Lan, Cúc, Hoa, Hương...;
tên loài chim đẹp có tiếng hót hay: Yến, Anh, Oanh...; tên đá quý: Bích,
Ngọc, Trân...; tên loại vải quý: Nhung, Gấm, Là, Lụa...; từ ngữ chỉ đức
tính: Hạnh, Thảo, Hiền, Dung...; hay từ ngữ có âm thanh nhẹ nhàng, có
ý nghĩa hoa mỹ: Vân, Thúy, Diễm, Lệ, Nguyệt, Trang, Huyền...
)Tên nam thường được chọn trong các tiếng biểu lộ được sự
mạnh mẽ về thể xác lẫn tinh thần. Tên nam thường là tiếng chỉ sức
mạnh: Cương, Cường, Hùng, Tráng, Dũng...; tiếng chỉ trí tuệ: Thơng,
Minh, Trí, Tuệ, Sáng, Hồi...; tiếng chỉ đức hạnh: Nhân, Trung, Tín, Lễ,
Nghĩa, Cơng... hay tiếng chỉ tiền tài danh vọng: Phú, Quý, Kim, Tài,
Danh...


12

Tên chính khơng được trùng tên với các bậc trưởng thượng: theo phong

tục cổ truyền trước đây, tên chính của người Kinh không được trùng với tên
thần thánh, vua chúa, những người thuộc thế hệ trước của gia đình, gia tộc[6].
1.3.2.Tục lệ đặt tên
Ở Việt Nam, thời hạn đặt tên cho con - tính từ ngày sinh - thay đổi theo
từng vùng. Người Kinh, theo phong tục xưa thì khơng đặt tên ngay khi đứa trẻ
mới chào đời mà chỉ gọi nôm na như thằng cu, cái đĩ, thằng Tèo, cái Tộp...
hoặc một cái tên gì đó xấu xí trong vịng 100 ngày để ma quỷ khỏi bắt nó
đi[7][8]. Ở Huế nói riêng, đúng 100 ngày sau mới làm lễ tạ ơn "mười hai bà
mụ" bấy giờ mới đặt tên huý[9]. Tên huý là tên chính thức của mỗi người,
thường do cha mẹ đặt. Tên chính cịn được gọi là tên huý, tên thật, hay tên khai
sinh.
Một số địa phương khác, trong dịp tế tổ, các gia đình có con cháu mới
sinh sắm sửa cơi trầu, chai rượu, hương hoa, lễ vật đến nhà thờ họ yết cáo tổ
tiên và vào sổ họ cho các con trai trước lễ yết cáo, ngày đó mới có tên h
chính thức, được họ hàng công nhận. Trong khi vào sổ họ phải đối chiếu gia
phả để xem có trùng tên các vị tiên tổ hoặc ông bà chú bác trong nội thân hay
không. Nếu có tức là phạm h thì phải đổi tên. Ở nơng thơn, các vị có uy vọng
trong làng, trong họ thường được dân chúng biếu trầu rượu và nhờ đặt tên cho
con. Người đặt tên được gia đình đó nhớ ơn suốt đời[10].
Ngày nay, theo nghị định 158/2005/NĐ-CP ngày 27 tháng 12 năm 2005
của Chính phủ Việt Nam về đăng ký và quản lý hộ tịch, trong thời hạn 60 ngày
kể từ ngày sinh con; cha, mẹ có trách nhiệm đi khai sinh cho con; nếu cha mẹ
không thể đi khai sinh thì ơng bà hoặc những người thân thích khác đi khai
sinh cho trẻ[11].
1.3.3.Chọn tên chính
Khi chọn các từ ngữ làm tên chính, người ta thường: chọn tên có ý
nghĩa tốt đẹp, chọn tên để biểu lộ cha con cùng huyết thống, chọn tên để phân
biệt thế hệ, chọn tên để ghi dấu biến cố xảy ra trong gia đình...Chọn tên có liên
hệ với họ tên cha, mẹ hoặc anh, chị: Nghị hay Đồng (tên cha là Hội); Điểm hay
Đài (khi tên chị là Trang)...

Chọn tên liên hệ đến ngành nghề, sản phẩm: Sĩ, Nông, Công, Thương;
Cột, Kèo, Rui, Mè... Lấy số thứ tự: Một, Hai, Ba... hay Nhất, Nhị, Tam...
Lấy tên động vật thực vật: Loan, Phụng, Sơn Ca...; Hồng, Lan, Huệ...
[6]

Vì phải tránh nhiều như vậy, nên vợ chồng mới cưới thường có tục bế con đầu lịng đến trước mặt
ơng bà xin đặt tên cho con. Tục lệ này vừa để tỏ lịng tơn kính bố mẹ, vừa tránh được những tên của họ
hàng mà vợ chồng mới lấy nhau chưa biết
[7]
Có ý kiến cho rằng "tên xấu xí" vì sợ quỷ tha ma bắt
[8]
Nếu đứa trẻ đó chẳng may xấu số, gia phả sẽ ghi "hữu vị vơ danh" tức có người, biết trai gái nhưng
chưa có tên
[9]
Đời sống văn hóa gia tộc, Lê Nguyễn Lưu, Nhà xuất bản Thuận Hóa, 2006. Nếu đứa trẻ đặt tên húy
rồi mà chết non thì gia phả ghi "hữu danh vô vị"
[10]
Một trăm điều nên biết về phong tục Việt Nam - Tại sao khi mới đẻ chưa đặt tên chính?, Tân Việt,
Nhà xuất bản Văn hóa dân tộc, Hà Nội, 2001
[11]
Thủ tục đăng ký khai sinh trong nước


13

Tên có ý nghĩa tốt đẹp: Phúc, Lộc, Thọ, Đoan, Trang, Tuyết, Trinh,
Hiền, Thương, Hùng, Dũng, Bảo, Trân, Trọng, Châu...
Tên để biểu lộ cha con cùng huyết thống ví dụ tên các chúa Trịnh:
Kiểm, Tùng, Tráng, Tạc, Căn, Cương, Giang, Doanh, Sâm, Cán, Khải đều
thuộc bộ Mộc còn tên các chúa Nguyễn: Kim, Hoàng, Nguyên, Lan, Tần, Trăn,

Chu, Trú đều thuộc bộ Thủy...
Theo địa danh nơi sinh: sinh con ở miền Nam đã đặt tên con là Nam,
sinh ở Nha Trang đặt tên con là Trang, sinh ở Vĩnh Long đặt tên là Vĩnh hay
Long...
Theo thời gian sinh như Xuân, Hạ, Thu, Đông; hoặc Tý, Sửu, Dần ...
hoặc; Giáp, Ất, Bính...
Lấy tiếng nước ngồi như: Phạm Bá Rose, Vũ Thị Noel, Đặng Thị
Milla...
Nhận tên theo một bài thơ để phân biệt thế hệ: như vua Minh Mạng đã
làm một bài thơ và quy định cho con cháu phải đặt tên theo bài thơ đó:
Ngự Chế Mạng Danh Thi
Miên, Nhân, Kỳ, Sơn, Ngọc
Phụ, Nhân, Ngơn, Tài, Hịa
Bối, Lực, Tài, Ngơn, Tâm
Ngọc, Thạch, Hoa, Hịa, Tiểu.
Theo bài thơ trên, tên các hồng tử thuộc dòng đế, mỗi thế hệ sẽ dùng một bộ
chữ.
Ngày nay, tên chính phải đặt trước khi làm giấy khai sinh cho đứa trẻ
và mỗi đứa trẻ sinh ra thường gọi bằng một cái "tên ở nhà" khác với tên trong
giấy khai sinh. Vẫn có thể là Tèo, Tộp, Thơi, Nữa, v.v… nhưng cũng có thể là
Tom, Henry, Ghita, Mary...
1.3.4.Các tên khác
Ngồi tên ra, người Việt có bút hiệu, bí danh khi cần và theo truyền
thống Nho giáo và Trung-Hoa, ta cịn có tên tự, tên hiệu, tên tước, tên thụy và
tên đạo..Tên tự là tên chữ, thường phải đi đôi với tên gọi (Danh) và theo kinh
sách, thường là một câu chữ Nho có ý hay nghĩa lạ, như Tố-Như Nguyễn Du,
Sĩ-Tải Trương Vĩnh Ký, Lệ-Thần Trần Trọng Kim, Ưu-Thiên Bùi Kỷ, Sở-Cuồng
Lê Dư, Ứng-Hòe Nguyễn Văn Tố, Quán-Chi Ðào Trinh Nhất, v.v.
Khác với tên tự, tên hiệu và bút hiệu không theo nguyên tắc đi với tên
gọi mà tự do lựa chọn, tùy sở thích. Tên hiệu (symbolic name) do chính đương

sự hoặc cha mẹ đặt cho, thường có ngụ ý hồi bảo, chí khí như Sào-Nam Phan
Bội Châu, Ức-Trai Nguyễn Trãi, Bạch-Vân Nguyễn Bỉnh Khiêm, Tiên-Ðiền
Nguyễn Du, Hạo-Nhiên Nghiêm Toản, hoặc nói lên gốc gác, liên hệ như TảnÐà Nguyễn Khắc Hiếu, Lương-Ðường Phạm Quỳnh, v.v.


14

Chương 2

TÊN VÀ HỌ CỦA NGƯỜI NGA
2.1. Họ người Nga
Họ (фамилия) có nguồn gốc từ tiếng La Tinh, nghĩa là gia đình, là đặc
trưng, là biểu tượng, là cái nền của mỗi gia đình. Mỗi người mang “Họ” của gia
đình mình từ khi mới sinh ra. Phần lớn “Họ”có nguồn gốc từ tên đệm, biệt
danh (chịu sự ảnh hưởng bởi nơi sinh hoặc bị ảnh hưởng bởi một đặc trưng nào
đó của tổ tiên).
“Họ” đầu tiên của những người dân ở thành phố Novgorod (Великого
Новгорода) được đặt theo họ của người đầu tiên mua đất ở Nga. Đến cuối thế
kỷ 18 đến giữa thế kỷ thứ 19 , phần lớn dân số ở trung ương Nga khơng có tên.
Theo quy định, “Họ” của người Nga phải là họ đơn, chỉ truyền lại cho dịng
nam (nghĩa là chỉ có nam giới mới được mang họ của dịng họ tổ tiên mình).
Đến giữa thế kỷ thứ 18, đặc biệt vào năm 1861, quy định này được vơ hiệu hố
và ngay cả những người nơng dân cũng có họ của riêng mình. Mãi đến những
năm 30 của thế kỷ 20 thì quá trình hình thành họ của người Nga về cơ bản là
hồn thành.
Không chỉ riêng ở Nga, ở Châu Âu hay bất kỳ một dân tộc nào, “Họ”
cho thấy nguồn gốc và xuất xứ của gia tộc đó. Vào thế kỷ thứ 19 khi ở Nga cịn
tồn tại chế độ nơ lệ. Những người nơ lệ mang họ của ơng chủ mình. Mãi cho
đến thế kỷ thứ 19, khái niệm “Họ” xuất hiện ý nghĩa thứ hai. Ý nghĩa này được
biến đến như một khái niệm chính thức và cơ bản của “Họ” trong tiếng Nga

“Họ - có nghĩa là cái được di truyền lại cho con cháu trong một gia đình từ thế
hệ này qua thế hệ khác là họ và tên”.
“Họ” Nga có những tính chất đặc biệt sau : có ý nghĩa từ vựng, tiếp đầu
tố và hậu tố. Những tiếp đầu tố và hậu tố này thể hiện giống (nam hay nữ) của
người mang “họ” đó, hoặc là chỉ sở hữu, tồn tại dưới hình thức tính từ.
Trong tiếng Nga và một vài ngôn ngữ Slavơ cổ, họ của nam giới bao giờ
cũng khác biệt với họ của nữ giới.
Theo nghiên cứu, phần lớn họ người Nga được thành lập từ tên chính,
qua hình thức sở hữu của tính từ. Hầu hết họ Nga có hậu tố -ov/-ev. Sự kết hợp
của hậu tố -ov hay –ev trong họ Nga phụ thuộc vào cái tên Nga được kết thúc
bằng phụ âm cứng hay mềm.
Theo truyền thống của dân tộc Nga, phụ nữ sau khi kết hôn sẽ mang họ
của chồng. Tuy nhiên, điều này cũng không bị bắt buộc ở Nga. Phụ nữ nếu
thích cũng có thể giữ lại họ thời còn con gái hoặc kết hợp hai họ (họ của chồng
và họ của mình) bằng cách viết dùng dấu gạch nối. Con cái mang họ của cha,
trong trường hợp người phụ nữ có con mà vẫn chưa kết hơn hoặc đứa trẻ khơng
có cha, nó sẽ mang họ của mẹ.
Tồn tại nhiều họ Nga dành cho những nhà tu hành. Những họ này ra đời,
có xuất sứ trong các tu viện như: Athens (Афинский); Duhososhestvenski
(Духовсошественский); Palmin (Пальмин); Cypress (Кипарисов);
Rephormat (Реформатский) (nghĩa là cải cách); Pavski (Павский);
Golubinski (Голубинский); Klyuchevski (Ключевский); Tikhomirov


15

(Тихомиров); Myagkov (Мягков); (Липеровский) Liperovski (có nguồn
gốc từ Hy Lạp – nghĩa là buồn); (Гиляровский) Gylyarovski (có nguồn gốc
từ tiếng La Tinh, nghĩa là vui vẻ, hạnh phúc).
Theo điều tra cho thấy rằng, trong tiếng Nga và tiếng La Tinh, họ của

những đứa bé học giỏi, thành tích xuất sắc thường có âm điệu êm ái và có ý
nghĩa tích cực, dễ nghe như Brilliant (Бриллиантов - nghĩa là thông minh,
giỏi giang); Dobromyslov (Добромыслов); Benemanski (Бенеманский);
Speranski (Сперанский – trong tiếng Nga có từ tương tự Надеждин – tương
lai sáng lạng, đầy triễn vọng); v.v. Bên cạnh đó, họ của những đứa bé học dở
hơn thường âm điệu khó nghe, có ý nghĩa tiêu cực như Saul (Саулов);
Pharaoh (Фараонов);
Vào năm 1888, Thượng Nghị Viện Nga đã ban hành luật sau: thực tế
cho thấy rằng bên cạnh nhiều người được sinh ra trong những cuộc hơn nhân
hợp pháp, cũng cịn tồn tại nhiều người khơng có họ (nghĩa là họ được gọi theo
tên đệm) đã gây ra những trường hợp ngộ nhận hệ trọng, thậm chí cịn gây ra
nhiều trường hợp lạm dụng việc sử dụng họ. Việc được có một họ của riêng
mình khơng chỉ là quyền và nghĩa vụ của mỗi người và họ đó phải được thực
hiện theo đúng những gì bộ luật nhà nước quy định.
Thời kỳ Nga cổ “họ”được hình thành từ tên của dịng họ tồ tiên kết hợp
với tên đệm (Ivanov - Иванов, Pietrov - Петров); hoặc nơi cư trú của tổ tiên
(Zadorozhnyi -Задорожный, Zarechnyi - Заречный); hoặc tên gọi của thành
phố, quê hương nơi tổ tiên sinh ra (Moscvitin - Москвитин, Laptev - Лаптев,
Prikaztrikov - Приказчиков, Bondar - Бондарь); hoặc theo tục lệ của nơi tổ
tiên sinh ra (Tretyak - Третьяк, Shestack - Шестак); hoặc tên gọi của dân tộc
nơi tổ tiên sinh ra (Khokhlov - Хохлов, Litvinov - Литвинов, PolyakoПоляков, Tatarinov - Татаринов, Moskalev - Москалёв). Trong họ có thân
từ của tên cha, sự kết hợp đó thể hiện mối quan hệ chặt chẽ của những thành
viên trong một gia đình lớn.
2.2. Tên đệm
Tên đệm là một phần trong danh tánh của mỗi người, được đặt ngay lúc
sinh ra. Người Nga đặt tên đệm cho con theo tên của cha. Tên và họ của người
Nga tồn tại trong một thể thống nhất, thực hiện chức năng xác định một người
và khẳng định sự tồn tại của một con người trong cuộc đời.
Tên đệm của người Nga được bắt đầu sử dụng từ rất sớm, khoảng vào
năm 947. Tuy nhiên, đến thế kỷ thứ 8, số người có tên đệm cũng khơng nhiều.

Tên đệm có 3 chức năng : bổ sung vào tên, để phân biệt những người
có tên giống nhau, thể hiện mối quan hệ huyết thống (cha-con). Ngoài ra, trong
giao tiếp, người Nga thường gọi nhau bằng tên đệm để tỏ rõ sự tơn trọng của
mình với người đối thoại.
Tên đệm của nam giới.
Hình thái tên đệm của nam giới có vĩ tố (–vich)-(в)ич. Vĩ tố này có bắt
nguồn từ tên đệm của những vị hầu tước thời kì Nga cổ và những quan chức
nhà nước có tiếng tăm. Những người có vị trí thấp kém trong xã hội khơng
được phép lấy những tên đệm này.


16

Thế kỷ 15, các vị vua đã cho phép thần dân của mình được lấy tên đệm
–vichem (-вичем). Vào năm 1610, vua Vasili Shuiski (Василий Шуйский)
được sự giúp đỡ của các thương gia giàu có nhất nước Nga thời bấy giờ, đã hợp
nhất được Urals và Siberia vào lãnh thổ Nga. Để cảm ơn sự giúp đỡ cho những
thương gia giàu có và tài năng này, vua đã ban cho họ cùng họ hàng và con
cháu đời sau của họ được quyền lấy tên đệm với vĩ tố “–vichem /-вичем”. Cịn
những người bần cùng, khốn khổ thì khơng có tên đệm.
Thưở sơ khai cũng có những tên đệm được thành lập như một hình
thức của tính từ sở hữu từ danh từ thích hợp. Chẳng hạn như:
«Иван сын Петров» — «Иван Петров»
«Фёдор сын Лукин» — «Фёдор Лукин»
Tên đệm của nữ giới được hình thành dựa trên hai phương thức sau:
Thứ nhất, được cấu tạo từ tên của nam giới, những tên mà có tận
cùng là phụ âm, tên đệm được hình thành bằng cách chuyển thân từ của
tên ở dạng ngắn của tính từ sở hữu, sau đó thêm vào sau nó vĩ tố -na(на).
Ví dụ: Борис — Борисов — Борисовна
Андрей — Андреев — Андреевна

Thứ hai, những tên đệm được cấu tạo từ tên nam giới nhưng có
kết thúc bằng nguyên âm được thành lập bằng cách chuyển thân từ của
tên chính ở hình thức ngắn của tính từ sỡ hữu, sau đó thêm vào sau nó vĩ
tố “-ichna”/ “-ична”.
Ví dụ: Лука — Лукин — Лукинична
Фома — Фомин — Фоминична
Tuy nhiên, trong ngơn ngữ này cũng có những tên đệm được hình
thành theo một kiểu thứ ba, khơng theo 2 quy tắc đã nêu trên, đó là:
Зосима — Зосимин (dành chon nam giới), но Зосимовна (dành cho nữ giới)
Никита — Никитин (dành chon nam giới), но Никитична (dành cho nữ
giới) Савва — Саввин (dành chon nam giới), но Саввична (dành cho nữ
giới)
Phương thức thành lập tên đệm của người Uckraina và người
Byelorussian gần như khơng có gì khác biệt so với tên đệm của người Nga.
Cũng như ngôn ngữ Nga, các ngôn ngữ thuộc hệ thống Slavơ cổ với những nét
đặc biệt về cấu trúc hình thái mà họ của đàn ơng khác với họ của phụ nữ.
Có những tên đệm không phải của dân tộc Nga như БурчевичBurtrievich, Берендеич-Berendeich (đây là 2 tên đệm có nguồn gốc từ tên
Бурчи và tên gọi của con cháu dân Tuyếc) được gặp nhiều trong tài liệu ghi
chép ngày xưa.
Tên đệm có đi từ -vich (dành chon nam giới) -(в)ич và evna (dành
cho nữ giới) –(в)на. Ngày xưa còn xuất hiện vĩ tố -ov (-ов) và –in (-ин) trong
tên đệm tương tự như cấu trúc của họ của người Nga ngày nay.
Tuy nhiên, tên đệm có vĩ tố -ov(-ов) / -ev(-ев) chủ yếu dùng trong
công sở, trong các cơ quan nhà nước, trong giấy tờ. Còn trong giao tiếp hằng
ngày, người Nga thường xưng danh tánh ( nghĩa là gọi theo tên và tên đệm) của
nhau, hạn chế dùng –ович(-ovich), -евич(-evich), -овна(-ovna), -евна(evna), -ич(-ich), -инична(-inichna).


17


Đôi khi, người ta xưng hô với nhau chỉ bằng tên đệm, khơng xưng
tên, để thể hiện sự kính trọng với đối phương, đồng thời cũng biểu thị sắc thái
và tình cảm.
2.3. Tên chính
2.3.1.Q trình hình thành và phát triển Nga tên
Tiếng Nga nằm trong nhóm các ngơn ngữ thuộc Slavơ cổ của ngữ hệ
Ấn-Âu. Tuy nhiên, phần lớn các tên Nga ban đầu khơng có nguồn gốc ở Nga.
Chúng có bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp cùng với đạo Ky-tơ giáo. Tính đến thời
điểm này, đã có nhiều tên Nga được đặt, phản ánh sự khác nhau về phẩm
chất và cá tính của con người, phản ánh thể chất cũng như thứ tự của các
cá nhân trong một gia đình và mối quan hệ của từng cá nhân với cha mẹ.
Với sự ảnh hưởng mạnh mẽ của đạo Ky-tô giáo thời kỳ Nga cổ, tất cả
tên Nga được đặt đều có mối quan hệ chặt chẽ với nhà thờ, đến từ Vizantya
(Византия)[12]. Trong số đó, ngồi tiếng Hy Lạp cịn có tiếng Ý, tiếng AI Cập,
tiếng Do Thái, tiếng Syrian, mỗi cái tên đều có một ý nghĩa riêng của nó.
Song, vì sự tác động của ngơn ngữ khác mà tên riêng của dân tộc này khi được
sử dụng ở dân tộc hoặc quốc gia khác thì ý nghĩa của nó hoặc phần nào hoặc bị
thay đổi hồn tồn. Thời đó, quốc gia Vizantya đã tập hợp tất cả những tên hay
nhất của dân tộc mình và các nước láng giềng, sau đó hợp thức hố chúng;
nghĩa là chính thức biến chúng thành những tên thánh, phục vụ cho nhà thờ.
Khi những tên thánh này xâm nhập vào Nga, chúng không gạt được
những tên Nga cổ ra ngay lập tức. Theo các nhà lịch sử, mãi đến thế kỷ thứ 17
thì những tên thánh này mới trở nên phổ biến ở Nga, và dần dần người ta dùng
nó như biệt danh (tên lóng). Bằng chứng là trong giấy tờ ghi chép cổ cũng như
những quyển sách cổ có sự xuất hiện của những tên ghép được dùng như biệt
danh, đó là:
- боярин Феодор, зовомый Дорога
(Nhà quý tộc Theodore, tên gọi là Doroga (nghĩa là con đường))
- Федот Офонасьев сын  прозвище Огурец
(Fedot, con trai của Ofonasev, biệt danh là Agurets (nghĩa là dưa chuột))

- Осташко, прозвище Первушка
(Ostashko, tên gọi là Pervushka)
- Алексей, прозвище Будила, Семенов cын
(Alex, tên gọi là Budila, con trai của Semionov)
Đến thế kỷ 18 và 19, tên Nga cổ hoàn toàn bị lãng quên, trong khi đó
những tên được đặt theo Ky-tơ giáo có những thay đổi đáng kể về hình thức,
giống với kiểu phát âm của Nga cũng như giống về sự thay đổi từ và cách cấu
tạo từ. Chẳng hạn như: Аквилина (Akvilina) xâm nhập vào Nga với hình thức
Акулина (Akulin); Диомид (Diomid) – Демид (Demidov); Иеремия
(Jeremiah) – Еремей (Yeremey); Иоанникий (Ioanniky) – Аникей (Aniko);

[12]

(Восточная Римская империя , Византийская империя), государство 4-15 вв., образованное
при распаде Римской империи в ее восточной части (Балканский п-ов, М. Азия, юго-восточное
Средиземноморье). Столица - Константинополь.


18

Sau khi cách mạng tháng 10 ở Nga thành công, con người thực sự có tự
do trong việc chọn tên, và do đó có rất nhiều tên mới. Hầu như ở các thành phố
lớn, người ta đặt tên theo xu hướng chống lại đạo giáo; còn ở vùng quê và
ngoại ô, những tên có ý nghĩa và thể hiện được năng lực của đứa bé thì ít được
đặt, thay vào đó là những tên quá đỗi đơn giản. Bên cạnh đó, cũng xuất hiện
nhiều tên với tư tưởng mới như: Revmira (Ревмира – cách mạng thế giới);
Diamara (Диамара – duy vật biện chứng); tên phản ánh những bước đi đầu
tiên của cơng nghiệp hố: Elektrina (Электрина); Elevator (Элеватор);
Diesels (Дизель); Rem (Рэм): với các ý nghĩa liên quan đến điện lực, máy
nâng, động cơ Điêzen, vơ tuyến điện từ, v.v.

Ngồi ra, cịn có nhiều tên được lấy ra từ các tác phẩm văn học nước
ngoài như: Alfred (Альфред), Rudolph (Рудольф); tên được đặt theo tên các
loài hoa như: Lilya (Лилия - hoa bách hợp), Aster (Астра – hoa cúc tây). Tuy
nhiên, xu hướng (hay mốt) luôn đến và ra đi một cách nhanh chóng. Phần lớn
những tên mới này đều được coi là xa lạ đối với dân tộc cũng như ngơn ngữ
của người Nga, đó là lý do vì sao nhiều tên cổ của Nga được đặt theo tên các vị
thánh gần như không được sử dụng nữa.
Dân tộc Nga vốn là một dân tộc ln muốn giữ gìn cái đẹp của dân tộc
mình; và do đó những tên vay mượn từ tiếng nước ngồi hoặc những tên nghe
có vẻ khơng bình thường, người Nga đã hạn chế sử dụng. Thay vào đó, họ
thường đặt cho con cái mình những cái tên đã trở nên quen thuộc trong cuộc
sống hằng ngày, những cái tên có âm điệu dễ nghe và có ý nghĩa. Do đó, những
cái tên vay mượn mà có ý nghĩa hoặc gợi nhớ họ về văn hóa dân tộc thì vẫn
được gìn giữ và sử dụng.
Cũng như dân tộc Việt Nam hay bất kỳ dân tộc nào trên thế giới, những
ghi chép trong lịch sử chưa hẳn đã là đầy đủ. Nhiều người cho rằng, có nhiều
tên Nga vẫn chưa được ghi chép lại trong hệ thống tên đồ sộ của dân tộc
này[13].
2.3.2.Cấu tạo Nga tên
Hệ thống tên của Nga có nhiều khác biệt so với Châu Âu. Tên đầy đủ
của dân tộc Nga gồm có 3 thành phần: tên chính, tên đệm và họ. Ngồi ra,
cịn có những biến thể của tên chính như tên lóng (biệt danh), tên thân mật (tên
gọi âu yếm), v.v.
Cũng như phần lớn văn hoá Châu Âu, trật tự từ trong cách gọi tên của
người Nga bắt đầu là tên chính (tên riêng), nói như vậy khơng hẳn là trật tự đó
như nhau trong mọi trường hợp. Đơi khi, cũng có những ngoại lệ, vì ngơn ngữ
chỉ có tính tương đối.
Tên Nga và tên của những dân tộc nằm trên lãnh thổ nước Nga có sự
biến cách, đó là tên biến đổi theo giống, số, cách, v.v. Nét đặc biệt khác với
những ngơn ngữ khác của Nga tên là hình thức rút gọn (gọi thân mật) của Nga

tên. Tùy vào cách xưng hô tên mà chúng ta dễ dàng phân biệt được sắc thái,
tình cảm và sự trân trọng của người nói.
[13]

Theo tờ báo nazovite.ru


19

Trong gia đình, trong trường học, giữa bạn bè với nhau người Nga
thường không gọi tên đầy đủ mà gọi tên thân mật (tên ở hình thức vắn tắt với
tiếp tố lược giảm thể hiện sự thân mật):
không gọi “Иван”, mà gọi “Ваня, Ванечка, Ванюша”;
“Александр” - “Саша, Сашенька, Сашка”;
“Елена” - “Лена, Леночка, Алёна, Алёнушка”;
“Ирина” - “Ира, Ирочка”;
“Дмитрий” - “Дима, Митя”;
“Сергей” - ‘Серёжа, Серёженька”;
“Наталья” - “Наташа, Наташенька”;
“Мария” - “Маша, Машенька, Маруся”;
“Светлана” – “Света, Светочка, Светка”;
“Екатерина” – “Катя, Катенька, Катья”;
“Вера” – “Верочка, Верка”
“Владимир” – “Володя, Володенька, Володька”
“Пётр” – “Петя, Петенька, Петька”
Tuy nhiên, với sự trợ giúp của tiếp tố “к”, các tên ở dạng rút gọn như
“Сашка, Серёжка, Ленка, Машка” đôi khi trong vài trường hợp nhất định
phản ánh thái độ miệt thị, khinh thường đối với người khác. (Theo bài đọc
“Русские имена” trong bộ sách Đọc tiếng Nga – T.S Trương Văn Vỹ, Khoa
Ngữ Văn Nga, Trường ĐH KHXH & NV, TP.HCM).

Tên riêng được cha mẹ đặt cho ngay từ khi sinh ra. Cái tên của một
người cho biết sự tồn tại của người đó trên thế gian này, biểu hiện sự có mặt
của người đó trong xã hội lồi người. Trong thời kỳ Nga cổ, chỉ có 2 loại tên:
tên được đặt theo các quy luật của tôn giáo và tên khơng theo quy luật đó.
Khoảng vào cuối thế kỷ thứ 10, tại các nước thuộc Đông Slavơ chỉ sử dụng tên
riêng (tên mà cha mẹ đặt cho họ lúc được sinh ra) trong giao tiếp hằng ngày.
Sau cách mạng tháng 10 thành công, nhà thờ tách ra khỏi nhà nước.
Việc chọn tên cho con cái trở thành quyền của cha mẹ. Cuộc sống mới này dẫn
đến sự bùng nổ độc đáo trong hệ thống tên Nga, người dân Nga đã rất độc đáo
trong việc đặt tên, do đó xuất hiện những cái tên chưa từng có trong hệ thống
ngơn ngữ này trước đây. Ngồi ra, có những tên nam giới như là: Марлен
(Маркс и Ленин) – Marlene (sự kết hợp của hai tên: Marx và Lênin); Ким
(Коммунистический интернационал молодежи) – Kim (chữ viết tắt của
Thanh Niên Cộng Sản Quốc Tế); Вилорик (В.И.Ленин – организатор
рабочих и крестьян) – Vilorik (VI.Lênin-tổ chức của công nhân và nông
dân); Вилен (от Владимир Ильич Ленин) – Vilen (từ tên họ Vladimir Ilyich
Lenin);Ренат (революция, наука, труд) – Renato (cách mạng, khoa học và
lao động); Май (tên gọi của tháng 5); Радий – Radium; v.v.
Thỉnh thoảng chúng ta cũng gặp những cái tên mà người Nga gọi là
“полуновые имена” với ý nghĩa là tên được ghép bởi 2 phần, 2 phần này có
xuất xứ khơng giống nhau. Chẳng hạn tên Карина (Karina) nghe gần giống với
tên Каринэ (Karine) ở các khu vực phía Đơng và giống với tên Коринна
(Corinne) ở các khu vực phía Tây của Nga.
Trong nghiên cứu của các nhà ngôn ngữ, họ thấy sự xuất hiện của tên
Кара (Kara) với lịch sử thú vị. Câu chuyện kể rằng trên một chuyến du hành


20

của con tàu Trelyuskin dọc theo biển Bắc vào năm 1934 có 1 bé gái được sinh

ra. Vào thời khắc cô bé chào đời, con tàu đang long đong trên biển Kara. Chính
vì thế mà cơ bé này được đặt tên là Kara.
Một ví dụ phổ biến khác là tên Гертруда (Gertrude), khá phổ biến trong
tiếng Đức và một số ngôn ngữ phương Tây. Sau cách mạng tháng 10, tên
Gertrude này một lần nữa lại xuất hiện. Thời kỳ Xô Viết, tên này được tồn tại
dưới dạng hình thức cắt giảm của “герой труда”-nghĩa là anh hùng lao động.
Trong ngôn ngữ Nga hiện đại vẫn cịn nhiều có tên được đặt theo ảnh
hưởng của đạo Ky-tô giáo như Maksim (Максим); Ivan (Иван); Vladimir
(Владимир); hay những tên có từ thời Slavơ cổ như Lada (Лада); Radomir
(Радомир); tên Nga cổ như Dzdan (Ждан); những tên mới hình thành như
Vilen (Вилен); Kim (Ким); Mels (Мэлс); tên vay mượn : Lilya (Лилия);
Izabella (Изабелла); Artur (Артур).
2.3.3.Hệ thống tên Nga cổ và ý nghĩa và những từ phái sinh của chúng
Mỗi một tên Nga cổ đều có ý nghĩa riêng của nó. Thời gian trơi qua,
con người chết đi, nhưng sự tồn tại của những cái tên là bất tử. Những tên Nga
cổ: Мал, Бел, Добр, Храбр, Несмеяна, Чернава. Ngày xưa, nhìn vào tên
người ta có thể phân biệt được đó là dạng thường hay quan chức. Đó là lý do
những vị tướng, bá tước ngày xưa thường có tên với đi từ (vĩ tố) “слав” và
“мир”: Борислав, Святослав, Доброслав, Владимир, Любомир.
Trong số đó, có nhiều tên Nga cổ vẫn còn tồn tại trong tiếng Nga hiện
đại ở hình thức đầy đủ hoặc rút gọn. Tên Nga thường có hình thức phái sinh,
nghĩa là cùng một tên, cùng một ý nghĩa nhưng tên gọi khác nhau.
Борислав (có nguồn gốc từ Slavơ cổ) – борец за славу
(chiến đấu vì danh dự); những từ phái sinh: Бориска, Боря,
Борюля, Болюся, Борюха, Борюша, Боряха, Боряша, Боба.
Ngày nay, người Nga thường dùng Борис.
Владимир (có nguồn gốc từ Slavơ cổ) – владеть миром
(có tài thao túng thế giới); những từ phái sinh: Владя, Ладя,
Вадя, Вава, вавуся, Дима, Володя, Володюка, Володюня,
Волдюха, Володюша, Володяка, Володяша, Вова, Вовуля,

Вовуся, Вовуша, Воля.
Tên được đặt cho phụ nữ như Людмила, Светлана cũng có nguồn
gốc từ Nga cổ.
Людмила (có nguồn gốc từ Nga cổ) – людям милая (tốt
bụng với mọi người); tên phái sinh: Людмилка, Люда, Людуся,
Люся, Люсиша, Людаха, Людаша, Людуха, Людуша, Люля,
Мила, Милаша, Милуся, Милуша, Мика.
Như chúng ta đã biết, phần lớn tên Nga có nguồn gốc từ tiếng nước
ngoài. Những tên xuất hiện đầu tiên trong thời kỳ Nga cổ có nguồn gốc từ tiếng
Xcăng-đi-na-vơ “Игорь, Олег, Ольга”. Cũng nhờ nhiều hầu tước, công tước
Nga ngày xưa đã mang những tên này mà chúng được ghi nhận và tồn tại cùng
quá trình hình thành lịch sử của dân tộc Nga. Игорь (có nguồn gốc từ tên
Xcăng-đi-na-vơ cổ - Ингвар). Trong thân từ của tên Олег và Ольга có tính từ
“hell” của tiếng Đức – ý nghĩa “светлый”, “светлая”. Từ gốc từ này mà hình


21

thành nên tên Алена (có nguồn gốc từ Hy Lạp) đã du nhập vào Nga. Những
người Hy Lạp ngày xưa phát âm tên này “Хэленэ”.
Ольга - (nguồn gốc Scăng-đi-na-vơ cổ) святая, великая (đẹp tuyệt
trần, nổi tiếng); tên phái sinh - Ольгуня, Ольгуся, Ольгуха, Ольгуша, Оля,
Олюля, Люля, Олюня, Олюся, Люся, Олюха, Олюша, Оляша, Оляня, Олёна,
Лёна, Лёнля, Ляля.
Елена (nguổn gốc từ Hy Lạp) избранная, светлая, сияющая – tốt
đẹp, nổi tiếng, rạng rỡ; tên dân gian - Алёна; tên thường gọi - Олёна; tên phái
sinh - Еленка, Лена, Ленуша, Ленуся, Леся, Еленя, Ёля, Елюша, Елюся,
Люся, Алёнка, Лёна, Лёся, Лёля.
Những tên có nguồn gốc từ Hy Lạp không những tồn tại rất lâu trong hệ
thống Nga tên mà chúng còn trở nên rất phổ biến trong thời đại ngày nay:

“Александр, Александра, Андрей, Дмитрий, Евгений, Евгения, Елена,
Ирина, Екатерина, Софья”.
Александр - мужественный защитник (gan dạ, dũng cảm); tên
thường gọi - Лександр; tên phái sinh - Александрушка, Алексаня, Саня,
Санюра, Санюта, Санюха, Санюша, Алексаха, Алексаша, Саша, Сашуха,
Сашуля, Сашуня, Сашута, Сашура, Шура, Шуруня, Алекса, Алексюха,
Алексюша, Аля, Лекса, Лексаня, Лексаша.
Александра - мужественная защитница (người phụ nữ can đảm);
tên thường gọi - Лександра; tên phái sinh - Александрушка, Алексаня, Саня,
Санюра, Санюша, Алексаша, Саша, Сашуля, Сашуня, Сашура, Шура,
Шурёна, Алекся, Алексюха, Алексюша, Аля, Ася, Адя, Ара, Ксана.
Евгений – благородный (cao thượng – tên nam giới); tên dân gian Евген; tên thường gọi - Евдений и Веденей; tên phái sinh - Евгеньюшка,
Евгеня, Геня, Гена, Женя, Женюра, Женюша, Жеха, Жека, Евгеха, Евгеша,
Геша, Еня, Енюта, Енюха, Енюша, Еняха, Еняша.
Евгения – благородная (cao thượng – tên phụ nữ); tên thường gọi Евдения; производные - Евгеньюшка, Евгеня, Геня, Женя, Женюра,
Женюша, Евгеша, Ева, Еня, Енюта, Енюха, Енюша, Еняха, Еняша.
Ирина – мир (thanh bình); tên bình dân - Арина; tên thường gọi Орина; tên phái sinh - Иринка, Рина, Ириша, Ира, Ируня, Ируся, Ируша,
Ирена, Рена, Ина, Инуля, Аринка, Ариша, Арюха, Арюша.
Екатерина - чистота, незапятнанность (trong sáng, trinh bạch);
tên thường gọi - Катерина; từ phái sinh - Екатеринка, Катя, Катюха,
Катюша, Катюра, Катюся, Катюля, Катяха, Катяша, Катёна, Рина.
Bên cạnh đó, có những cái tên mà trước giờ chúng ta vẫn nghĩ chúng là
tên Nga, nhưng các nhà ngôn ngữ học cho rằng, chúng có nguồn gốc từ tiếng
La Tinh: “Сергей, Павел, Валентин, Валентина, Виктор, Виктория,
Наталья, Марина, Маргарита”.
Trong tất cả tên Nga, ví dụ điển hình nhất về tên vay mượn đó là
“Иван”. Hai ngàn năm trước, tên Châu Âu cổ “Иегоханнаан” du nhập vào Hy
Lạp bị biến âm thành “Иоганнес”, và sau đó tên này du nhập vào Nga cũng có
vài thay đổi thành “Иоанн”. Theo thời gian thì người Nga phát âm tên này
ngày càng đơn giản hơn thành “Иван”, và tên “Иван” này ngày nay được trên

thế giới biết đến như là tên Nga. Ở một số nước trên thế giới cũng tồn tại tên có


×