Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Nguồn nhân lực cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 - thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (465.96 KB, 6 trang )

INTERNATIONAL CONFERENCE: DEVELOPMENT OF SMALL AND MEDIUM ENTERPRISES
IN VIETNAM IN THE CONTEXT OF INDUSTRIAL REVOLUTION 4.0

NGUỒN NHÂN LỰC CHO CÁC DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA Ở VIỆT
NAM TRONG BỐI CẢNH CUỘC CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0
- THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
Nguyễn Lê Nguyên Dung, Nguyễn Thị Thu Trinh,
Trường Đại học Tài chính – Kế tốn
Tóm tắt:
Cuộc cách mạng cơng nghiệp lần thứ 4 (CMCN 4.0) đang diễn ra trong phạm vi toàn
cầu, tạo ra nhiều chuyển biến trên mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội. Trong bối cảnh nền
kinh tế Việt Nam hội nhập sâu rộng với nền kinh tế thế giới, những biến động lớn từ cuộc cách
mạng công nghiệp 4.0 sẽ tác động đến nền kinh tế Việt Nam nói chung và từng doanh nghiệp nói
riêng. Doanh nghiệp nhỏ và vừa càng phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức nhất là vấn
đề nguồn nhân lực. ài viết đánh giá thực trạng nguồn nhân lực các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở
Việt Nam trong bối cảnh CMCN 4.0 và đưa ra các khuyến nghị nhằm nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Việt Nam trong thời gian đến.
Từ khóa: cơng nghiệp 4.0, nhỏ và vừa, nguồn nhân lực

HUMAN RESOURCES FOR SMALL AND MEDIUM ENTERPRISES IN VIETNAM IN
THE CONTEXT OF THE INDUSTRIAL REVOLUTION 4.0 - SITUATION AND
SOLUTIONS
Abstract:
The 4th Industrial Revolution is taking place on a global scale, creating many changes in
all aspects of socio – economic life. In the context of VietNam‟s economy integrating deeply with
the world economy, great changes from the industrial revolution 4.0 will affect the Vietnamese
economy in general and each enterprise in particular. Small and medium enterprises face more
difficulties an challenges, especially human resources. The paper assesses the situation of
human resources of small and medium sized enterprises in Viet Nam in the context of the
industrial revolution 4.0 and provides recommendations to improve the quality of human
resources for small and medium enterprise in Viet Nam.


Keywords: industry 4.0, small and medium, human resources.

288


HỘI THẢO QUỐC TẾ: PHÁT TRIỂN
DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA CỦA VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH CUỘC CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0

Giới thiệu
Diễn ra từ những năm 2000 đến nay, cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 với trọng tâm là trí
tuệ nhân tạo, internet kết nối vạn vận, dữ liệu lớn, robot…đang từng bước khởi động và dần hiện
hữu và có tác động sâu rộng tới mọi mặt đời sống. Trong đó, doanh nghiệp được xem là có cơ
hội lớn nhất bởi việc ứng dụng công nghệ hiện đại không chỉ giúp giảm chi phí giao dịch và
quản lý mà còn hỗ trợ phát triển sản phẩm, dịch vụ mới trong quản trị điều hành, hoạch định
chiến lược, tăng năng suất lao động…
Tuy nhiên, để đáp ứng yêu cầu và tận dụng cơ hội của CMCN 4.0 đòi hỏi các doanh
nghiệp phải có sự thay đổi và chuẩn bị chu đáo về nhân lực tại các lĩnh vực có liên quan công
nghệ thông tin.. Song với quy mô nhỏ, năng lực tài chính, quản trị doanh nghiệp và tiếp cận cơng
nghệ cịn hạn chế, các doanh nghiệp nhỏ và vừa đang đứng trước khơng ít thách thức địi hỏi
khơng chỉ về đầu tư nguồn vốn lớn mà còn phải nỗ lực thay đổi trình độ quản trị doanh nghiệp,
quản trị nguồn nhân lực sẵn sàng đón làn sóng cơng nghệ mới và bắt kịp xu thế của CMCN 4.0,
muốn làm được điều đó cần có sự vào cuộc hỗ trợ từ nhiều phía của các cơ quan ban ngành.
Bài viết tập trung phân tích thực trạng chất lượng nguồn nhân lực trong các doanh nghiệp
nhỏ và vừa ở Việt Nam trong bối cảnh CMCN 4.0 nhằm tìm ra những tồn tại và nguyên nhân.
Từ đó đưa ra một số khuyến nghị cho các đơn vị có liên quan nhằm tháo gỡ vấn đề trên.
1. Thực trạng nguồn nhân lực cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong bối cảnh CMCM 4.0
* Chất lƣợng nguồn nhân lực cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa
Doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) của Việt Nam là loại hình doanh nghiệp (DN)
chiếm đa số và đóng vai trị quan trọng trong việc tạo việc làm cũng như tăng thu nhập cho
người lao động, giúp huy động các nguồn lực xã hội cho đầu tư phát triển, xóa đói giảm

nghèo…Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, hàng năm, các DN này tạo thêm hơn 500.000 lao
động, sử dụng tới 50% lao động xã hội và đóng góp hơn 40% GDP của cả nước. Phát triển và
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là yếu tố then chốt
để nâng cao năng lực cạnh tranh và bắt kịp xu thế CMCN 4.0 cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Tuy nhiên, thực trạng nguồn nhân lực cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa đang gặp phải những
khó khăn sau:
- Nguồn lao động của các DNNVV chủ yếu là lao động có trình độ, tay nghề thấp, những
cơng việc mà họ đang đảm nhận mang tính chất rập khn, lặp lại, đơn giản mà đa phần lao
động chưa qua đào tạo, chưa được trang bị kỹ năng, vì vậy dễ bị thay thế bởi máy móc, robot
trong tương lai. Trong khi đó, lại thiếu hụt một lượng lớn nguồn nhân lực trong các ngành nghề
mới gắn với đặc trưng của cuộc cách mạng này như: ngành điện tử, viễn thông, số hóa, kỹ thuật
viên máy tính, an ninh mạng, in 3D… Chưa kể lực lượng lao động hiện hữu lại thiếu các kỹ năng
cần thiết như làm việc nhóm, giải quyết vấn đề, kỹ năng tin học, ngoại ngữ, đạo đức nghề nghiệp
chưa cao, thiếu ý thức trách nhiệm và chậm thích nghi với cơng việc, năng lực đổi mới và sáng
tạo khoa học và cơng nghệ cịn nhiều yếu kém.
- Chủ các doanh nghiệp nhỏ và vừa thường là kỹ sư hoặc kỹ thuật viên tự đứng ra thành
lập và vận hành doanh nghiệp, họ vừa là người quản lý, vừa tham gia trực tiếp vào sản xuất nên
mức độ chun mơn trong quản lý DN khơng cao. Ngồi ra, hầu hết những người chủ doanh
289


INTERNATIONAL CONFERENCE: DEVELOPMENT OF SMALL AND MEDIUM ENTERPRISES
IN VIETNAM IN THE CONTEXT OF INDUSTRIAL REVOLUTION 4.0

nghiệp nhỏ và vừa đều khơng tham gia vào các khóa đào tạo quản lý chính quy, chưa có đủ kiến
thức về quản trị DN, chỉ quản lý theo kinh nghiệm và ý kiến chủ quan.
- Hiện nay, có rất ít doanh nghiệp nhỏ và vừa lập kế hoạch nhân sự trong dài hạn. Theo
số liệu điều tra của Hiệp hội doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam, có đến 85% trong tổng số
doanh nghiệp thực hiện dự báo nhu cầu dựa trên số lượng lao động cần thay thế, chỉ có khoảng
15% là dựa vào sự thay đổi về khoa học công nghệ, nhu cầu sản phẩm và dịch vụ, quy mơ

vốn,…Thêm vào đó, việc xác định thừa hay thiếu lao động cũng chỉ do từng phịng ban xác định
dựa vào khối lượng cơng việc hiện tại chứ khơng có sự tham gia của phịng nhân sự hoặc phịng
nhân sự chỉ có chức năng nhận chỉ tiêu lao động và thực hiện việc tuyển dụng.
- Trong khi đó, CMCN 4.0 yêu cầu nguồn nhân lực có chất lượng ngày càng cao, khi mà
hiện nay hầu hết mọi hoạt động đang dựa trên dữ liệu, khai phá dữ liệu. Điều này đòi hỏi một lực
lượng lao động có trình độ cao và được trang bị kỹ năng mới – kỹ năng sáng tạo. Tuy nhiên,
thực tế các DNNVV lại khơng có nhiều điều kiện để thu hút nhân sự chất lượng, đặc biệt là nhân
sự cao cấp vừa có chun mơn, vừa có kỹ thuật để có thể vận hành các máy móc thiết bị, hiện
đại, ứng dụng công nghệ mới trong sản xuất, kinh doanh. Điều này không hề đơn giản bởi thực
tế nguồn cung trong nước vẫn chưa đáp ứng kỳ vọng. Trong báo cáo về mức độ sẵn sàng cho nền
sản xuất trong tương lai do Diễn đàn Kinh tế thế giới mới cơng bố, Việt Nam thuộc nhóm các
quốc gia chưa sẵn sàng cho cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4, chỉ xếp thứ 70/100 về nguồn
nhân lực và 81/100 về lao động có chun mơn cao.
Hình 1: Thứ hạng về chỉ số lao động có chun mơn cao của Việt Nam và các nƣớc ASEAN
Quốc gia

Thứ hạng

Singapore

1

Malaysia

45

Philippines

50


Thailand

78

Việt Nam

81

Indonesia

83
(Nguồn: WEF Readiness for Future of Production Report 2018).

- Ngoài ra, đối với các DNNVV, việc tiếp cận với cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 hiện
nay vẫn tương đối hạn chế. Nhiều doanh nghiệp không hiểu được bản chất của cách mạng 4.0;
không thấy được sự liên quan của các xu thế đến ngành, lĩnh vực của mình; khơng sẵn sàng về
năng lực để tiếp cận cơng nghệ; từ đó khơng có sự thay đổi trong quản trị nguồn nhân lực để bắt
kịp xu thế.
*Đào tạo nguồn nhân lực cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa
Với thực trạng nguồn nhân lực cho các DNVVN của Việt Nam bộc lộ nhiều hạn chế, đặc
biệt là tình trạng thiếu hụt về nhóm nhân lực chất lượng cao như phân tích ở trên.
290


HỘI THẢO QUỐC TẾ: PHÁT TRIỂN
DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA CỦA VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH CUỘC CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0

Do đó, để tạo một nguồn cung lao động dồi dào đối với các DNNVV, hơn hết xuất phát
từ lực lượng đông đảo là sinh viên từ các trường đại học, cao đẳng, các trường dạy nghề, bởi đây
là đối tượng lao động chính trong tương lai, khi mà người lao động đòi hỏi phải được trang bị

kiến thức tốt về chuyên môn, kỹ thuật. Điều này càng trở nên cần thiết trong bối cảnh cuộc cách
mạng 4.0 khi mà, lao động chân tay dần được thay thế bởi người máy, robot…
Bên cạnh đó, hiện nay, các DNNVV đã quan tâm và coi trọng việc đào tạo nâng cao kiến
thức chuyên môn bằng cách tạo điều kiện cho nhân viên tham gia các khóa đào tạo, đào tạo lại,
hay các khốc học chính tại các trường đại học, cao đẳng, các trung tâm dạy nghề… về các
chuyên ngành liên quan.
Như vậy, nhu cầu về nhân lực cho phát triển trong bối cảnh cách mạng cơng nghiệp 4.0
đang địi hỏi sự đổi mới mạnh mẽ từ hệ thống giáo dục đại học, đào tạo nghề bởi thực trạng đào
tạo tại các trường đại học, các cơ sở dạy nghề cũng đang gặp phải những bấp cập sau:
Thứ nhất, số lượng sinh viên được đào tạo ở một số ngành mới theo xu hướng CMCN 4.0
vẫn còn thiếu. CMCN 4.0 là cuộc cách mạng số nhưng nhân lực chất lượng cao trong các ngành
cơng nghệ thơng tin, kỹ thuật máy tính, tự động hóa… của Việt Nam đang q ít. Theo tính tốn
của các chun gia, nhu cầu nhân lực cơng nghệ thông tin tăng thêm 47% mỗi năm, trong khi đó
số sinh viên ngành cơng nghệ thơng tin ra trường lại chỉ tăng 8%/năm. Cụ thể theo báo cáo của
VietNamworks, nhu cầu tính đến cuối năm 2018, Việt Nam thiếu khoảng 70.000 nhân lực về
công nghệ thông tin.
Thứ hai, thực tế hiện nay, giáo dục đại học về tổng thể vẫn chưa đáp ứng nhu cầu của các
nhà tuyển dụng. Theo số liệu trong Báo cáo về mức độ sẵn sàng cho nền sản xuất trong tương
lai 2018 của WEF, thứ hạng về chất lượng đào tạo nghề của Việt Nam chỉ ở thứ 80/100, so với
trong nhóm các nước ASEAN thì chỉ đứng trước Campuchia. Một nghiên cứu mới đây cho thấy,
có tới 72% số sinh viên ngành cơng nghệ thơng tin khơng có kinh nghiệm thực hành, 42% số
sinh viên thiếu kỹ năng làm việc nhóm. Do vậy, khơng ít DN phàn nàn đang gặp khó khăn trong
khâu tuyển dụng hoặc lao động được tuyển vào không đáp ứng được yêu cầu công việc mà phải
qua đào tạo, tập huấn tại DN.
Hình 1: Thứ hạng về chỉ số chất lƣợng đào tạo nghề của Việt Nam và các nƣớc ASEAN
100
80
60
40
20

0

92
80
59
33
9

40

11

(Nguồn: WEF Readiness for Future of Production Report 2018)
Thống kê mới nhất cho thấy, trong 350 trường đại học ở Việt Nam, chỉ có 12 trường có
nhóm giảng viên được trang bị kiến thức giảng dạy bằng phương pháp STEM (tức là trang bị cho
291


INTERNATIONAL CONFERENCE: DEVELOPMENT OF SMALL AND MEDIUM ENTERPRISES
IN VIETNAM IN THE CONTEXT OF INDUSTRIAL REVOLUTION 4.0

người học những kiến thức, kỹ năng cần thiết liên quan đến các lĩnh vực khoa học, cơng nghệ,
kỹ thuật và tốn học). Điều đáng nói, trong số 12 trường đại học có nhóm giảng viên được trang
bị kiến thức giảng dạy bằng phương pháp STEM không phải trường nào cũng đào tạo được đầy
đủ và đúng quy trình để có được NNL đã được chuẩn hóa.
Thứ ba, chương trình đào tạo hiện nay vẫn chưa được linh hoạt, nội dung chưa phù hợp
với nhu cầu và xu thế thị trường lao động. CMCN 4.0 địi hỏi người lao động vừa đáp ứng tính
chun mơn cao trong lĩnh vực nhất định, vừa đáp ứng tính liên ngành (công nghệ thông tin, kỹ
thuật số, mạng, kiến thức chuyên ngành) và các kỹ năng khác không thể thiếu, như: khả năng suy
nghĩ có hệ thống, khả năng tổng hợp, khả năng liên kết giữa thế giới thực và ảo, khả năng sáng

tạo, kỹ năng làm việc nhóm, khả năng hợp tác liên ngành…Điều này yêu cầu, danh mục nghề
đào tạo và chương trình đào tạo sẽ phải điều chỉnh, cập nhật liên tục vì ranh giới giữa các lĩnh
vực rất mỏng manh. Như vậy, CMCN 4.0 đã tạo áp lực lớn trong hoạt động đào tạo đối với các
trường đại học, từ xây dựng chương trình đào tạo, cập nhật nội dung chương trình cho đến đào
tạo kỹ năng cho người học để đáp ứng yêu cầu công nghiệp.
Thứ tư, sự kết nối giữa các trường đại học và doanh nghiệp trong hoạt động đào tạo,
nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ ở nước ta hiện rất yếu. Thiếu thể chế tạo điều
kiện và môi trường thuận lợi cho liên kết, mở rộng quyền tự chủ cho một số lĩnh vực nghiên cứu
ứng dụng, phối hợp đào tạo, thương mại hóa kết quả nghiên cứu. Tuy Nhà nước đã có chính sách
khuyến khích giáo viên và sinh viên đăng tải các cơng trình nghiên cứu trên các tạp chí quốc tế
đối với các trường đào tạo khoa học cơ bản nhưng đối với các trường kỹ thuật và cơng nghệ,
chưa có sự gắn kết chặt chẽ với doanh nghiệp để thực hiện nghiên cứu ứng dụng với các hình
thức thích hợp. Nghiên cứu chuyển giao, phối hợp nghiên cứu gắn với những yêu cầu thực tiễn
của doanh nghiệp còn ở mức khiêm tốn. Cơ cấu các ngành đào tạo về cơ bản tự phát, chưa có
định hướng rõ nét, xu hướng học để bảo đảm cuộc sống hiện tại, chưa chú ý đúng mức đến tiềm
năng, kỳ vọng cá nhân, xu hướng phát triển của thời đại và yêu cầu của đất nước. Nhiều sinh
viên giỏi về khoa học tự nhiên nhưng lựa chọn các ngành kinh tế, quản trị kinh doanh, tài chính,
ngân hàng, ngoại thương,…
2. Một số khuyến nghị
Xuất phát từ những khó khăn đặc thù của DNNVV, cùng với thực trạng đào tạo nguồn
nhân lực ở nước ta còn nhiều bất cập như trên. Để chuẩn bị nguồn nhân lực đặc biệt là nhân lực
chất lượng cao cho các DNNVV cần phải có sự phối hợp từ nhiều phía liên quan. Nhằm giúp
DNNVV vượt qua khó khăn, tận dụng cơ hội của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, trong thời
gian tới cần chú trọng một số giải pháp sau:
- Để tận dụng cơ hội của CMCN 4.0, đòi hỏi các doanh nghiệp phải có những nhận thức
đúng và hiểu rõ bản chất của CMCN 4.0 vai trị trách nhiệm của mình trong tiến trình đóng góp
cho sự phát triển kinh tế của Việt Nam trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu
rộng, bắt kịp thời cơ và vận hội của CMCN 4.0.
- Trong điều kiện hạn hẹp về vốn, kỹ thuật, các doanh nghiệp cần phải có sự kết nối liên
minh với nhau để có thể cùng phát triểnvà nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Bên cạnh sự hỗ

trợ của các cơ quan quản lý, bản thân các DN cũng cần có những chiến lược dài hạn, xây dựng
chiến lược kinh doanh đi đôi với xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực. Đồng thời có
những chính sách thu hút nhân tài để phát triển DN bền vững.

292


HỘI THẢO QUỐC TẾ: PHÁT TRIỂN
DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA CỦA VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH CUỘC CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0

- Các cơ sở đào tạo nghề, các trường Đại học cũng cần trang bị cho học viên, sinh viên
các kỹ năng cần thiết như: giao tiếp, nghiên cứu tài liệu nước ngồi, sử dụng cơng nghệ thơng
tin, sự sáng tạo, thích nghi, nắm bắt được xu thế phát triển của xã hội… nhằm đảm bảo sự gắn
kết chặt chẽ giữa đào tạo với sử dụng, đáp ứng yêu cầu đang đặt ra. Cần tập trung xây dựng đội
ngũ giáo viên, cán bộ nghiên cứu, thu hút cán bộ giỏi các chuyên gia trong và ngoài nước hợp
tác với nhà trường. Đổi mới cơ chế quản lý đào tạo, nghiên cứu khoa học, tăng cường đầu tư cơ
sở vật chất, trong đó xây dựng đội ngũ giáo viên là khâu then chốt.
- Nhà nước cần phải thường xuyên điều chỉnh, bổ sung và hồn thiện hệ thống cơ chế,
chính sách nhằm tạo hành lang pháp lý, tạo thuận lợi cho việc phát triển NNL chất lượng cao ở
nước ta trước tác động của cuộc CMCN 4.0. Cần có chính sách thỏa đáng để tạo nguồn lực và
khai thác có hiệu quả nguồn lực mới, nhất là trong những ngành mũi nhọn về công nghệ của
quốc gia; nâng cao chất lượng hoạt động của các vườn ươm công nghệ và DN cơng nghệ cao; có
chính sách hỗ trợ hình thành và phát triển các vườn ươm khởi nghiệp đổi mới sáng tạo trong các
cơ sở đào tạo về công nghệ, đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong nghiên cứu phát triển và chuyển
giao cơng nghệ.
- Nhà nước cần có cơ chế chính sách tạo điều kiện và mơi trường thuận lợi, tạo khung
pháp lý cho mối quan hệ giữa nhà trường và doanh nghiệp, giữa đào tạo nghiên cứu và chuyển
giao công nghệ với sản xuất - kinh doanh, trong đó cần quan tâm đến chính sách đầu tư, cơ chế
tài chính, tạo động lực cho việc liên kết bền vững. Khuyến khích phát triển thị trường sản phẩm
khoa học - cơng nghệ, ngồi khoa học cơ bản, cần trao quyền tự chủ đối với các lĩnh vực khoa

học ứng dụng cho nhà trường, các viện nghiên cứu, bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, tạo mơi trường
cạnh tranh bình đẳng trong hoạt động nghiên cứu. Đối với doanh nghiệp, cần chủ động đề xuất
nhu cầu đào tạo, nghiên cứu khoa học, lựa chọn các đề tài, dự toán kinh phí, chọn cử cán bộ có
năng lực tham gia.
Tài liệu tham khảo
1.

2.

3.

4.
5.

Chuyên đề số 10 (2018), ― Tác động Cách mạng công nghiệp 4.0 đến phát triển nguồn nhân
lực của Việt Nam‖, Trung tâm Thông tin - Tư liệu, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung
ương.
Hà Thị Thanh Ngà, Nguyễn Thị Lan (2018), ―Những yêu cầu về nền giáo dục và kỹ năng
khi tham gia cuộc cách mạng công nghệp lần thứ 4‖, Kỷ yếu Hội thảo ―Phát triển nguồn
nhân lực ngành CNTT trong thời kỳ CMCN 4.0‖, tháng 1 năm 2018.
Nguyễn Cúc (2017), Học viện Chính trị khu vực I; Tác động của cuộc Cách mạng công
nghiệp 4.0 đối với cơ sở giáo dục đại học ở Việt Nam và gợi ý chính sách cho Việt Nam;
Tạp chí Cộng sản; 2017.[4]. Trần Thị Bích Huệ (2017), ―Cách mạng công nghiệp lần thứ tư
với việc phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam‖, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 8 –
2017.
Võ Văn Lợi (2019), ―Phát triển nguồn nhân lực Việt Nam đáp ứng yêu cầu của Cách mạng
Cơng nghiệp 4.0‖, Tạp chí tài chính, số 1 - 2019.
Website: www.weforum.org, ―Readiness for the future of production report 2018‖.

293




×