Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Thảo luậnnhóm TMU môn triết mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (81.35 KB, 17 trang )

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU..............................................................................................................2
I. KHÁI NIỆM............................................................................................................4
1. Khái niệm về vật chất..............................................................................................4
2. Khái niệm về ý thức.................................................................................................5
II.MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC.....................5
2. Ý thức có tính năng động, có thể tác động tích cực trở lại vật chất:....................9
III. Ý nghĩa phương pháp luận và sự vận dụng vào thực tiễn ở Việt Nam............11
2.2. Vận dụng nguyên tắc “đồng thời phát huy tính năng động chủ quan” (tức
tính năng động của ý thức) vào thực tiễn đởi mới ở nước ta..................................13

1


LỜI MỞ ĐẦU

Triết học Marx-Lenin (phiên âm tiếng Việt: Triết học Mác - Lenin) hay học
thuyết Marx-Lenin là một trong ba bộ phận cấu thành của chủ nghĩa Marx-Lenin, được
Marx, Engels sáng lập vào giữa thế kỷ thứ XIX, sau đó được Lenin và các nhà macxit
khác phát triển thêm. Triết học Marx-Lenin ra đời vào những năm 40 thế kỉ XIX và
được phát triển gắn chặt với những thành tựu khoa học và thực tiễn trong phong trào
cách mạng công nhân. Sự ra đời của triết học Marx-Lenin là một cuộc cách mạng thực
sự trong lịch sử tư tưởng loài người, trong lịch sử triết học.
Theo các nguyên lý này: "Trong thế giới khơng có gì khác ngồi vật chất đang
vận động, và vật chất đang vận động không thể vận động như thế nào khác ngoài vận
động trong khơng gian và thời gian". Cịn ý thức chỉ là sản phẩm của bộ óc con người
và là sự phản ánh tự giác, tích cực các sự vật, hiện tượng và quá trình hiện thực của thế
giới vật chất, là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.
Như vậy trong quan hệ giữa vật chất và ý thức, vật chất là cái thứ nhất, cái quyết
định và tồn tại độc lập với ý thức, còn ý thức là cái thứ hai, cái có sau. Tuy nhiên khác
với chủ nghĩa duy vật trước Mác, Triết học Mác - Lenin, một mặt khẳng định sự phụ


thuộc vào vật chất, coi ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất, mặt khác lại thừa nhận
tác dụng tích cực trở lại của ý thức đối với vật chất. Thông qua hoạt động của con
người, ý thức có thể đẩy nhanh hoặc kìm hãm sự phát triển của thế giới vật chất ấy.

2


I. KHÁI NIỆM
1. Khái niệm về vật chất
“Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại
cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản
ánh, và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác” (V.I.Lênin: Tồn tập, Nxb Tiến bộ,
Matxcơva,1976, t.18).
Định nghĩa này có thể phân tích thành 2 nội dung, như sau:
- Nội dung thứ nhất: “Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại
khách quan, được đem lại cho con người trong cảm giác và tồn tại không lệ thuộc vào
cảm giác”
(1). “Vật chất là một phạm trù triết học”, tức phạm trù rộng nhất, rộng đến cùng
cực, phản ánh tất cả mọi dạng vật chất tòn tại trong thế giới, kể cả những gì con người
đã biết và cả những gì con người cịn chưa biết…
(2). “Dùng để chỉ thực tại khách quan và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”,
tức vật chất là tất cả những gì tồn tại ở bên ngồi và độc lập với ý thức của con
người… Dù cho con người thừa nhận hay không thừa nhận, dù cho con người đã nhận
thức được hay chưa nhận thức được… Tồn tại khách quan là thuộc tính chung nhất và
cơ bản nhất của vật chất, nhờ đó mà phân biệt được vật chất với ý thức.
(3). “Được đem lại cho con người trong cảm giác”, có nghĩa là xét đến cùng, vật
chất là cái có trước, sinh ra cảm giác và ý thức của con người
- Nội dung thứ hai: “ược cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh”.
Trong nội dung này Lênin khẳng định: Mọi dạng vật chất đều có một thuộc tính chung


3


là phản ánh, nhờ đó mà cảm giác và ý thức của con người có khả năng phản ánh đúng
được vật chất, tức là hiểu được bản chất của vật chất. Điều đó cũng có nghĩa là: Con
người có khả năng nhận thức đúng thế giới.
2. Khái niệm về ý thức
Ý thức theo định nghĩa của triết học Mác-Lenin là một phạm trù song song với
phạm trù vật chất. Theo đó, ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất khách quan vào bộ
óc con người và có sự cái biến và sáng tạo. Ý thức có mối quan hệ hữu cơ với vật chất.
II.MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC
- Quan điểm trước Mác về mối quan hệ giữa vật chất- ý thức; chủ nghĩa duy
vật- chủ nghĩa duy tâm
Các quan điểm trước Mác và phi mác xít, chỉ nhận thức được một chiều và thổi
phồng một chiều mối quan hệ giữa vật chất và ý thức. Trong đó, chủ nghĩa duy vật
trước Mác chỉ thấy một chiều: Vật chất có trước, sinh ra và quyết định ý thức, mà
không thấy, hoặc nhận thức khơng đầy đủ về vai trị của ý thức. Cịn chủ nghĩa duy
tâm dù đã nhận thức được phần nào vai trò của ý thức, nhưng đã thổi phồng đến mức:
ý thức có trước, vật chất có sau, ý thức là cái sinh ra và quyết định vật chất, và khơng
thấy hoặc khơng nhận thức đầy đủ vai trị của vật chất.
- Quan điểm của Mác về mối quan hệ giữa vật chất - ý thức
Khác với các quan điểm trên, triết học Mác – Lênin đã nhận thức một cách đầy đủ mối
quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức, trong đó có hai chiều chủ yếu là:
a. Vật chất (xét đến cùng) là cái có trước, sinh ra và quyết định ý thức
- Từ nguồn gốc tự nhiên (Với ba nhân tố: Bộ não, thuộc tính phản ánh, thế giới
vật chất là đối tượng phản ánh duy nhất của ý thức), cùng nguồn gốc xã hội (lao động
và ngôn ngữ) cho thấy : vật chất (xét đến cùng) là cái có trước và sinh ra ý thức. Trước

4



khi có ý thức, vật chất tự nhiên đã tồn tại và phát triển rồi sinh ra con người và ý thức.
Và từ khi có ý thức thì xét đến cùng vật chất vẫn là cái có trước và sinh ra ý thức.
- Vật chất quyết định nội dung phản ánh của ý thức. Nội dung vật chất như thế
nào thì (xét đến cùng) nội dung của ý thức cũng phản ánh như vậy. Trong nội dung của
ý thức, dù kỳ lạ đến bao nhiêu, chẳng hạn giấc mơ hay tưởng tượng… thì (xét đến
cùng), khơng có gì là siêu nhiên, mà đều có nguồn gốc từ sự phản ánh các nội dung
của vật chất.
- Vật chất cũng quyết định sự biến đổi và phát triển của ý thức. Vật chất ln vận
động, biến đổi và phát triển, thì ý thức là cái phản ánh nó sớm muộn cũng phải biến
đổi và phát triển theo.
- Vật chất còn quyết định việc phát huy tính năng động, sáng tạo của ý thức. Vì
tính năng động và sáng tạo của ý thức chỉ thực hiện được khi thông qua hoạt động thực
tiễn, theo những khả năng và điều kiện của vật chất cho phép; chứ ý thức tự nó khơng
thay đổi và cải tạo được vật chất như trong thực tiễn xã hội.
b. Ý thức có tính năng động, có thể tác động tích cực trở lại vật chất
- Ý thức có thể tác động năng động trở lại đối với vật chất, nhưng phải thông qua
việc chỉ đạo, hướng dẫn các hoạt động vật chất (tức thực tiễn) của con người, khi đó ý
thức sẽ “trở thành” lực lượng vật chất, và do đó mà có thể tác động trở lại vật chất, làm
thay đổi và cải tạo vật chất.
- Ý thức có thể tác động năng động trở lại vật chất theo hai chiều:
+ Tác động tích cực: Nếu ý thức phản ánh đúng các đối tượng vật chất, thì nó sẽ
giúp cho hoạt động thực tiễn của con người phù hợp với các quy luật khách quan, giúp
con người lợi dụng được các quy luật vật chất, biến các lực lượng vật chất thành sức
mạnh của mình…, khi đó ý thức sẽ có vai trị thúc đẩy và tạo điều kiện thuận lợi cho

5


sự phát triển của vật chất theo hướng có lợi cho con người. Nó sẽ cải tạo các đối tượng

vật chất trong tự nhiên và xã hội thành các sản phẩm vật chất phục vụ cho cuộc sống
con người và xã hội.
Ví dụ: Các thành tựu của cách mạng cơng nghiệp 4.0, như công nghệ điện tử - tin
học - viễn thông; công nghệ vật liệu mới; công nghệ sinh học; v.v… đang là những
nhân tố cơ bản, hàng đầu giúp cho loài người khắc phục được những vấn đề tồn cầu
như: cạn kiệt tài ngun, ơ nhiễm mơi trường, mất cân bằng sinh thái và bùng nổ dân
số…; và sẽ đưa loài người tới một xã hội mới, cao hơn trong tương lai, gọi là “Xã hội
hậu công nghiệp”, “Làn sóng thứ ba”, hay cũng chính là “Xã hội cộng sản chủ nghĩa”
mà Mác đã tiên đoán.
+ Tác động tiêu cực: Nếu ý thức phản ánh sai, hay thiếu sót đối với các khách thể
vật chất thì nó sẽ làm cho các hoạt động của con người không phù hợp, thậm chí đi
ngược lại các quy luật khách quan của vật chất, khi đó nó sẽ có tác dụng kìm hãm và
gây khó khăn cho sự phát triển của vật chất theo hướng có lợi cho con người, gây
nhiều tác hại cho sản xuất và đời sống xã hội.
Ví dụ: Những thiếu sót của khoa học và ý thức con người đã gây ra những hậu
quả rất to lớn, có tính tồn cầu, như: Cạn kiệt các nguồn tài ngun…; Ơ nhiễm mơi
trường; Mất cân bằng sinh thái; Bùng nổ dân số …, đe dọa sự tồn tại của cả loài người
và sinh vật trên trái đất.
- Ý thức có thể tác động trở lại vật chất, nhưng chỉ trong phạm vi, điều kiện nhất
định mà vật chất cho phép, chứ không phải vô điều kiện… Cụ thể là: Ý thức chỉ có thể
thúc đẩy hay kìm hãm; tạo điều kiện thuận lợi hay gây khó khăn cho sự phát triển của
vật chất, chứ không thể sinh ra hay tiêu diệt được các quy luật khách quan của vật
chất. Cho nên xét đến cùng vật chất vẫn là nguồn gốc sinh ra và là cái quyết định đối

6


với ý thức. Tuy nhiên sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất ngày càng to lớn
hơn, trực tiếp hơn và mạnh mẽ hơn,… bởi vì cùng với sự phát triển của xã hội, nhận
thức của con người ngày càng phát triển, ngày càng đầy đủ hơn và sâu sắc hơn bao giờ

hết, giúp cho con người phát hiện ra rất nhiều khả năng kỳ lạ của vật chất để cải tạo
vật chất, phục vụ cuộc sống của mình, như việc phát hiện và sử dụng những nguồn tài
nguyên mới (Tài nguyên tái tạo) rất dồi dào và “sạch”, không gây tác hại cho đời sống
và môi trường như những nguồn truyền thống.
c. Vật chất biến đổi và phát triển dẫn đến ý thức sớm muộm cũng biến đổi
và phát triển theo
- Từ nguồn gốc tự nhiên (Với ba nhân tố: Bộ não, thuộc tính phản ánh, thế giới
vật chất là đối tượng phản ánh duy nhất của ý thức), cùng nguồn gốc xã hội (lao động
và ngôn ngữ) cho thấy: vật chất (xét đến cùng) là cái có trước và sinh ra ý thức. Trước
khi có ý thức, vật chất tự nhiên đã tồn tại và phát triển rồi sinh ra con người và ý thức.
Và từ khi có ý thức thì xét đến cùng vật chất vẫn là cái có trước và sinh ra ý thức.
- Vật chất quyết định nội dung phản ánh của ý thức. Nội dung vật chất như thế
nào thì (xét đến cùng) nội dung của ý thức cũng phản ánh như vậy. Trong nội dung của
ý thức, dù kỳ lạ đến bao nhiêu, chẳng hạn giấc mơ hay tưởng tượng… thì (xét đến
cùng), khơng có gì là siêu nhiên, mà đều có nguồn gốc từ sự phản ánh các nội dung
của vật chất.
- Vật chất cũng quyết định sự biến đổi và phát triển của ý thức. Vật chất ln vận
động, biến đổi và phát triển, thì ý thức là cái phản ánh nó sớm muộn cũng phải biến
đổi và phát triển theo.
- Vật chất còn quyết định việc phát huy tính năng động, sáng tạo của ý thức. Vì
tính năng động và sáng tạo của ý thức chỉ thực hiện được khi thông qua hoạt động thực

7


tiễn, theo những khả năng và điều kiện của vật chất cho phép; chứ ý thức tự nó khơng
thay đổi và cải tạo được vật chất như trong thực tiễn xã hội.
2. Ý thức có tính năng động, có thể tác động tích cực trở lại vật chất:
Thơng qua việc chỉ đạo và hướng dẫn các hoạt động vật chất, ý thức sẽ trở thành
lực lượng vật chất và tác động tích cực trở lại đối với vật chất. Trong mối quan hệ với

vật chất, ý thức có thể tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con
người.
Vì ý thức là ý thức của con người nên nói đến vai trị của ý thức là nói đến vai trị
của con người. Bản thân ý thức tự nó khơng trực tiếp thay đổi được gì trong hiện thực.
Muốn thay đổi hiện thực, con người phải tiến hành những hoạt động vật chất. Song,
mọi hoạt động của con người đều do ý thức chỉ đạo, nên vai trị của ý thức khơng phải
trực tiếp tạo ra hay thay đổi thế giới vật chất mà nó trang bị cho con người tri thức về
thực tại khách quan, trên cơ sở ấy con người xác định mục tiêu, đề ra phương huớng,
xây dựng kế hoạch, lựa chọn phương pháp, biện pháp, công cụ, phương tiện, v.v. để
thực hiện mục tiêu của mình. Ở đây, ý thức đã thể hiện sự tác động của mình đối với
vật chất thơng qua hoạt động thực tiền của con người.
Sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất diễn ra theo hai hướng: tích cực
hoặc tiêu cực.
- Ý thức đúng đắn là ý thức dựa trên quy luật khách quan của con người. Do đó
nó có tác động tích cực, làm biến đổi hiện thực, vật chất khách quan theo nhu cầu của
mình. Nếu con người nhận thức đúng, có tri thức khoa học, có tình cảm cách mạng, có
nghị lực, có ý chí thì hành động của con người phù hợp với các quy luật khách quan,
con người có năng lực vượt qua những thách thức trong quá trình thực hiện mục đích
của mình, thế giới được cải tạo - đó là sự tác động tích cực cúa ý thức.

8


- Còn nếu ý thức của con người phản ánh không đúng hiện thực khách quan, bản
chất, quy luật khách quan thì ngay từ đầu, hướng hành động của con người đã đi
ngược lại thậm chí là phá hoại các quy luật khách quan, hoàn cảnh khách quan, kéo lùi
lịch sử. Bởi mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là mối quan hệ tác động qua lại. Vì
thế việc khơng nhận thức được điều này sẽ có tác dụng tiêu cực đối với hoạt động thực
tiễn, đối với hiện thực khách quan, rơi vào quan niệm duy vật tầm thường và bệnh bảo
thủ trì trệ trong nhận thức và hành động.

Như vậy, bằng việc định hướng cho hoạt động của con người, ý thức có thế quyết
định hành động của con người, hoạt động thực tiễn của con người đúng hay sai, thành
công hay thất bại, hiệu quả hay khơng hiệu quả.
Vai trị tích cực của ý thức, tư tưởng khơng phải ở chỗ nó trực tiếp tạo ra hay thay
đổi thế giới vật chất mà là nhận thức thế khách quan từ đó hình thành được mục đích,
phương hướng, biện pháp đúng đắn đồng thời có ý chí, quyết tâm cần thiết cho hoạt
động của mình. Ý thức giúp cho hoạt động của con người trở nên tự giác, tích cực, chủ
động hơn do ý thức có tính vượt trước, giúp ích trong việc dự báo, lập kế hoạch, đề ra
đường lối, phương pháp hành động. Ngoài ra, vai trò của ý thức còn thể hiện ở vai trị
của tri thức, trí tuệ, tình cảm và ý chí; là kim chỉ nam cho hoạt động của thực tiễn và là
động lực của thực tiễn.
Tìm hiểu về vật chất, về nguồn gốc, bản chất của ý thức, về vai trị của vật chất,
của ý thức có thể thấy: vật chất là nguồn gốc của ý thức, quyết định nội dung và khả
năng sáng tạo ý thức; là điều kiện tiên quyết để thực hiện ý thức; ý thức chỉ có khả
năng tác động trở lại vật chất, sự tác động ấy không phải tự thân mà phải thông qua
hoạt động thực tiễn (hoạt động vật chất) của con người. Sức mạnh của ý thức trong sự
tác động này phụ thuộc vào trình độ phản ánh của ý thức, mức độ thâm nhập của ý

9


thức vào những người hành động, trình độ tổ chức của con người và những điều kiện
vật chất, hoàn cảnh vật chất, trong đó con người hành động theo định hướng của ý
thức.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng xuất phát từ con người hiện thực, con người thực
tiễn để xem xét mối quan hệ này. Từ đó khẳng định, vật chất có trước, ý thức có sau,
vật chất quyết định ý thức và ý thức tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động của
con người .
III. Ý nghĩa phương pháp luận và sự vận dụng vào thực tiễn ở Việt Nam
1.Ý nghĩa phương pháp luận

Từ việc nhận thức đúng đắn, khoa học về mối quan hệ biện chứng giữa vật chất
và ý thức của triết học Mác – Lênin, chúng ta rút ra nguyên tắc phương pháp luận là:
“Tơn trọng khách quan, đồng thời phát huy tính năng động chủ quan”. Tôn trọng
khách quan tức là tôn trọng vai trò quyết định của vật chất, còn phát huy tính năng
động chủ quan tức là phát huy tính tích cực, năng động và sáng tạo của ý thức, cũng
tức là phát huy vai trị tích cực của nhân tố con người trong mọi hoạt động xã hội. Đây
chính là một trong những nguyên tắc phương pháp luận chung nhất, quan trọng nhất
chỉ đạo mọi hoạt động trong nhận thức và thực tiễn của con người, thể hiện như sau:
- Trong nhận thức:
+ Do vật chất (xét đến cùng) là cái có trước, sinh ra và quyết định đối với ý thức,
cho nên để nhận thức đúng và đầy đủ hơn bản chất của sự vật, hiện tượng, chúng ta
phải đi sâu nghiên cứu và tìm ra được những nguyên nhân vật chất sâu xa của chúng,
tránh việc chỉ dùng những nguyên nhân tinh thần để giải thích, sẽ rơi vào chủ nghĩa
duy tâm, không thể nhận thức được bản chất thực sự của chúng…

10


+ Ngược lại, do ý thức có tính năng động, cho nên trong nhận thức các sự vật,
hiện tượng, chúng ta cũng phải tính tới các nguyên nhân tinh thần, có ảnh hưởng tới
vật chất, hoặc q trình nghiên cứu chúng, nhất là đối với các hiện tượng xã hội, tránh
việc chỉ sử dụng duy nhất các nguyên nhân vật chất để giải thích, sẽ rơi và chủ nghĩa
duy vật tầm thường, khơng giải thích được đầy đủ bản chất của chúng…
- Trong thực tiễn:
+ Do vật chất (xét đến cùng) là cái có trước, sinh ra và quyết định đối với ý thức,
cho nên để giải quyết hiệu quả các vấn đề của thực tiễn, chúng ta phải tìm ra được các
điều kiện và phương tiện vật chất thích hợp. Chống chủ quan, duy ý chí, nóng vội, đốt
cháy giai đoạn…
+ Do ý thức có tính năng động, sáng tạo, cho nên trong thực tiễn chúng ta cũng
phải phát huy tính năng động chủ quan của ý thức để chủ động tìm kiếm cách thức,

phương pháp, phương tiện… phù hợp, nhằm đạt tới mục đích một cách nhanh nhất,
hiệu quả nhất. Đồng thời cũng phải chống thái độ thụ động, bó tay trước hồn cảnh,
hoặc trơng chờ, ỷ lại vào người khác làm thay, làm hộ…
2. Vận dụng vào thực tiễn đổi mới đất nước
2.1. Vận dụng nguyên tắc “Tơn trọng khách quan” (Vai trị quyết định của vật
chất đối với ý thức) vào thực tiễn đổi mới ở nước ta.
- Trước đổi mới, trong khoảng 10 năm sau khi giải phóng miền Nam, thống nhất
đất nước (1976 – 1986), Đảng ta đã mắc sai lầm trầm trọng là: “chủ quan, duy ý chí”
dẫn đến “nóng vội, đốt cháy giai đoạn”...
Do áp dụng máy móc, dập khn mơ hình chủ nghĩa xã hội kiểu “Liên – Xô”,
Đảng ta mắc đã sai lầm trong việc “đưa quan hệ sản xuất đi trước, mở đường cho lực
lượng sản xuất phát triển”, nhưng thực chất là xây dựng một quan hệ sản xuất xã hội

11


chủ nghĩa “giả tạo”, khơng phù hợp với trình độ còn rất thấp của lực lượng sản xuất,
nên đã gây ra sự kìm hãm, thậm chí phá hoại đối sự phát triển của lực lượng sản xuất...
Khi đó chúng ta đã nơn nóng xóa bỏ các thành phần kinh tế gọi là “phi xã hội chủ
nghĩa” để thực hiện một nền kinh tế tập trung, kế hoạch hóa thống nhất, chỉ có 2 thành
phần xã hội chủ nghĩa là “Kinh tế tồn dân và kinh tế tập thể”. Điều đó đã làm triệt
tiêu mọi động lực của sản xuất, mà trình độ chủ yếu là thủ cơng, quy mơ nhỏ lẻ, manh
mún..., chỉ phù hợp với sản xuất cá thể hoặc tổ hợp tác hay hợp tác nhỏ... mà thôi.
- Trong quá trình đổi mới, nắm vững và vận dụng đúng đắn nguyên tắc: “Tôn
trọng khách quan”, từ Đại hội toàn quốc lần thứ VI (1986), Đảng ta đã rút ra bài học:
“Phải xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng sự thật khách quan và hành động theo
quy luật khách quan”. Bài học này đã được quán triệt trong suốt quá trình đổi mới, thể
hiện trên các mặt:
+ Chuyển sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phân phối thực sự theo lao động..., gọi tắt là

“Kinh tế thị trường định hướng XHCN”
+ Đảng lãnh đạo phải thông qua quản lý của nhà nước bằng pháp luật và đảm bảo
phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động... => Đẩy mạnh xây dựng Nhà nước
pháp quyền XHCN...
+ Mở cửa giao lưu, hội nhập kinh tế và văn hóa với thế giới…
2.2. Vận dụng nguyên tắc “đồng thời phát huy tính năng động chủ quan”
(tức tính năng động của ý thức) vào thực tiễn đởi mới ở nước ta.
- Trước đổi mới, cùng với sai lầm “Chủ quan, duy ý chí”, Đảng ta cịn mắc sai
lầm, thiếu sót rất lớn là “thụ động, giáo điều, dập khn, máy móc...”. Áp dụng một
cách rập khn mơ hình chủ nghĩa xã hội kiểu “Liên - Xơ”, đồng thời lại thiếu tinh

12


thần tự lực cánh sinh. Mọi việc từ xây dựng kế hoạch phát triển cho đến tìm kiếm
nguồn lực thực hiện… đều trông chở ỷ lại vào sự giúp đỡ của Liên - Xơ và các nước
anh em. Đó chính là một trong những nguyên nhân chủ yếu gây ra sự trì trệ, thậm chí
phá hoại… trong phát triển về mọi mặt của đất nước.
- Trong quá trình đổi mới, từ 1986, để phát huy tính năng động chủ quan của ý
thức, Đảng ta đã đề ra đường lối “Đổi mới tư duy”, và coi đó là tiền đề của mọi sự đổi
mới đất nước. Đường lối “Đổi mới tư duy” được thể hiện trên các mặt chủ yếu sau
đây:
- Về tư tưởng, vẫn khẳng định “Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam…”, nhưng phải tiếp tục nghiên cứu, nhận thức đầy
đủ và vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh nước ta, nhất là trong điều kiện hội nhập quốc
tế hiện nay... Nâng cao trình độ lý luận, trình độ khoa học - công nghệ của cán bộ,
đảng viên, và người lao động…, được coi là nội dung cơ bản trong việc xây dựng con
người mới Việt Nam đáp ứng u cầu của cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, đưa đất nước
từng bước tiến vào nền kinh tế tri thức.
- Về chính trị: Giữ vững vai trị lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, chống “đa

nguyên, đa đảng”; trên cơ sở đó đảm bảo “Ổn định chính trị để phát triển kinh tế”;
Chuyển từ đối đầu sang đối thoại…, giải quyết hịa bình các quan hệ quốc tế…, trên cơ
sở nền an ninh, quốc phòng vững mạnh.
- Về văn hóa – khoa học: Để phát triển “Sức mạnh mềm”, tức là sức mạnh của tri
thức khoa học và văn hóa, Đảng ta đã đề ra đường lối: Đưa khoa học – công nghệ và
giáo dục – đào tạo thành quốc sách hàng đầu, xây dựng xã hội học tập, xây dựng nền
văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc…, nhằm phát huy vai trò của ý

13


thức, thông qua nhân tố con người, đưa đất nước từng bước đi vào kinh tế tri thức,
thúc đẩy đất nước phát triển nhanh và bền vững.
- Nhờ vận dụng đúng đắn nguyên tắc “Tôn trọng khách quan, đồng thời phát huy
tính năng động chủ quan” vào thực tiễn mà quá trình đổi mới ở Việt Nam đã giành
được những thắng lợi ngày càng to lớn. Từ một nước nghèo, đói, đến năm 1990 nước
ta đã giải quyết đủ lương thực, thực phẩm cho nhu cầu trong nước và bắt đầu có xuất
khẩu. Từ 2008, nước ta đã thốt khỏi nhóm nước nghèo, bước vào nhóm có thu nhập
trung bình. Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ngày càng phát triển. Cơng cuộc
CNH, HĐH và hội nhập tồn cầu ngày càng đạt nhiều thành tựu vững chắc. Mặc dù
còn nhiều hạn chế, nhưng nước ta đang phấn đấu để sớm trở thành nước CN theo
hướng HĐ…, hướng tới hoàn thành mục tiêu: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh”.
Việt Nam quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ xuất phát điểm thấp với nền kinh tế kém
phát triển, trải qua thời gian lâu dài chúng ta thực hiện một nền kinh tế kế hoạch tập
trung quan liêu bao cấp, hậu quả làm cho kinh tế lâm vào khủng hoảng, trì trệ. Trước
thực tế đó, Đảng ta đưa ra chủ trương đổi mới toàn diện, xác định để đưa nước ta thoát
khỏi khủng hoảng cần phải coi nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, ra sức đẩy
mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, thực hiện phát triển kinh tế nhiều thành phần
định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện đa hình thức sở hữu. Để quản lý một nền kinh

tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cần giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng. Vì
Đảng là nhân tố chính trị quyết định trong việc giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đảng ta coi trọng phát triển văn hóa dân tộc, coi đó là nền tảng tinh thần của xã hội.
Trong điều kiện nền kinh tế tồn cầu, có cả thách thức và cơ hội, nước ta chủ trương

14


hội nhập kinh tế quốc tế, việc xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc nền tảng tinh thần của xã hội là hết sức cần thiết.
Tổng kết 30 năm qua đổi mới, Đảng ta đã nhận thức và giải quyết 8 mối quan hệ
lớn, đó là: quan hệ đổi mới, ổn định và phát triển; quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi
mới chính trị; quan hệ giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa; quan hệ
giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất
xã hội chủ nghĩa; quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến
bộ và công bằng xã hội; quan hệ giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã
hội chủ nghĩa; quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; quan hệ giữa Đảng
lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ. Điều đó cho thấy, trên cơ sở vận dụng
phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt
Nam, Đảng ta đã “bước đầu xác định được mối quan hệ hữu cơ, mối liên hệ nội tại
giữa tám mối quan hệ lớn, đáp ứng yêu cầu của phát triển đất nước với sự chi phối và
thúc đẩy lẫn nhau giữa các quan hệ. Trong từng mối quan hệ đều có hai mặt thống nhất
và mâu thuẫn. Các mối quan hệ không chỉ tác động, chi phối lẫn nhau theo tương tác
nhân - quả, mà còn thâm nhập, giao thoa, quy định lẫn nhau. Điều quan trọng trong
nhận thức các mối quan hệ là ở chỗ, tất cả các quan hệ đều thống nhất ở mục tiêu phát
triển, đều tất yếu thông qua đổi mới, đều phục vụ cho lợi ích cao nhất: phát triển đất
nước, vì lợi ích của nhân dân và của dân tộc”
Từ nhận thức về 8 mối quan hệ lớn và mối liên hệ hữu cơ giữa chúng, Đảng ta
xác định rõ mục tiêu của giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
hiện nay là: “Phát triển kinh tế là trọng tâm, xây dựng Đảng là then chốt, phát triển văn
hóa - nền tảng tinh thần của xã hội, củng cố quốc phòng - an ninh là nhiệm vụ trọng

yếu, thường xuyên”. Điều đó giúp cho chúng ta thấy rõ: “Đổi mới mang tầm vóc và ý

15


nghĩa cách mạng, là quá trình cải biến sâu sắc, toàn diện, triệt để, là sự nghiệp cách
mạng to lớn của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân”. Thực tiễn của hơn 30 năm đổi mới
cho thấy, việc vận dụng sáng tạo phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác - Lênin
vào giải quyết những vấn đề mâu thuẫn nội tại nảy sinh trong q trình đổi mới là
hồn toàn phù hợp. Trên quan điểm duy vật biện chứng để tổng kết, đánh giá Đảng ta
đã rút ra 5 bài học kinh nghiệm quan trọng làm tiền đề, từ đó xác định phương hướng
cho chặng đường tiếp theo của sự nghiệp đổi mới, đó là: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư
duy vận dụng sáng tạo, phát triển, chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên
định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; tăng cường tổng kết thực tiễn,
nghiên cứu lý luận, dự báo chính xác và kịp thời có chủ trương, chính sách xử lý hiệu
quả những vấn đề mới nảy sinh trong thực tiễn, giải quyết tốt các mối quan hệ lớn
phản ánh quy luật đổi mới và phát triển ở nước ta”.
Những kết quả này đã tạo tiền đề, nền tảng quan trọng để nước ta tiếp tục đổi
mới và phát triển trong những năm tới; khẳng định đường lối đổi mới mà Đảng ta khởi
xướng là đúng đắn, sáng tạo, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp
với thực tiễn của Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử.
Tuy nhiên, khi đánh giá những thành tựu đạt được, Đảng ta cũng vận dụng quan
điểm toàn diện, phát triển, lịch sử - cụ thể để thẳng thắn chỉ ra những hạn chế, khuyết
điểm: “Công tác tổng kết thực tiễn nhiên cứu lý luận còn bất cập... Kinh tế phát triển
chưa bền vững, chưa tương xứng với tiềm năng, yêu cầu và thực tiễn nguồn lực được
huy động...” Một trong những bài học kinh nghiệm qua thực tiễn 30 năm đổi mới là
Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Đổi mới phải toàn diện, đồng bộ, có bước đi thích hợp,
tơn trọng quy luật khách quan, xuất phát từ thực tiễn, bám sát thực tiễn, coi trọng tổng

16



kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, tập trung giải quyết kịp thời, hiệu quả những vấn đề
do thực tiễn đặt ra”.

17



×