Tải bản đầy đủ (.pdf) (127 trang)

Biện pháp giáo dục kỹ năng ca hát cho trẻ mẫu giáo bé 3 4 tuổi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.08 MB, 127 trang )

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA GIÁO DỤC TIỂU HỌC – MẦM NON
----------

NGUYỄN THỊ NGỌC TRÂM

Biện pháp giáo dục kỹ năng ca hát cho trẻ
mẫu giáo bé 3 - 4 tuổi

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

1


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Âm nhạc là loại hình nghệ thuật phản ánh cuộc sống con người bằng
âm thanh một cách rõ nét và sinh động. Cũng như các bộ môn nghệ thuật
khác, với sức mạnh diễn cảm lớn lao, âm nhạc thể hiện với tất cả những gì
gắn liền với cuộc sống của con người: niềm vui và nỗi đau khổ, đấu tranh sinh
tồn, niềm suy tư thầm kín, chí hướng và ước mơ hạnh phúc. Âm nhạc phản
ảnh các khía cạnh khác nhau của thực tại trước hết thông qua việc khai thác
thế giới nội tâm, suy tư và tình cảm của con người. Nét đặc trưng điển hình,
một trong những ưu thế nổi bật hơn cả của nghệ thuật âm nhạc là khi phản
ảnh q trình phát triển và chuyển biến khơng ngừng từ trạng thái này sang
trạng thái khác của tình cảm, nó có khả năng truyền đạt những sắc thái tinh tế
nhất, gây ấn tượng vô cùng sâu sắc cho người nghe. Âm nhạc là nhu cầu cuộc
sống, là món ăn tinh thần không thể thiếu được đối với đời sống con người.
Âm nhạc là ngôn ngữ chung của nhân loại.
Nếu cuộc sống mà thiếu âm nhạc thì chẳng khác gì thiếu ánh sáng mặt


trời. Đặc biệt đối với trẻ mầm non thì những nốt nhạc trầm bổng, những giai
điệu mượt mà vui tươi, trong trẻo của các tác phẩm âm nhạc như là dịng sữa
ngọt ngào ni dưỡng cho tâm hồn trẻ thơ, qua đó giúp trẻ phát triển tồn
diện nhân cách của mình. Theo nghiên cứu của các nhà khoa học, trẻ được
nghe nhạc cổ điển từ trong bào thai sẽ kích thích sóng điện não giúp não phát
triển tăng trí thơng minh sau này.
Trong nền giáo dục của xã hội văn minh chúng ta giáo dục một cách
toàn diện với đầy đủ tri thức khoa học kỹ thuật của nhân loại, trong đó khơng
thể thiếu giáo dục thẩm mỹ, giáo dục nhân cách của con người bằng biện
pháp nào đó thì âm nhạc có đầy đủ ý nghĩa để hướng cho con người hướng
tới cái hay cái đẹp trong cuộc sống... đối với trẻ nhỏ sự trưởng thành và nhận
biết nhiều điều trong cuộc sống có phần theo từng cung bậc của giai điệu âm
2


nhạc. Âm nhạc đã giúp con người trở thành hoàn thiện trong muôn vàn tri
thức của nhân loại.
Đối với trẻ mầm non nói chung và trẻ 3-4 tuổi nói riêng, các cháu đều
ưa thích những gì phát ra âm thanh, có chuyển động và mang tính chất vui
tươi, trong sáng. Âm nhạc thỏa mãn tâm lý phổ biến này. Âm nhạc đã mang
lại cho trẻ một thế giới âm thanh kỳ diệu, không ngừng chuyển động tràn đầy
niềm vui, vẻ đẹp, gợi cho trẻ những cảm giác thú vị... Âm nhạc đã thỏa mãn
cả nhu cầu khao khát được hiểu biết và được hoạt động của trẻ, đồng thời tác
động mạnh mẽ đến sự phát triển tâm lý, năng lực hoạt động và sự nhận thức
của trẻ.
Trong âm nhạc việc ca hát là thành tố quan trọng nhất và là nhu cầu
không thể thiếu trong đời sống của con người và trong quá trình phát triển lớn
lên của trẻ. Đối với trẻ mầm non, thông qua việc ca hát sẽ hình thành ở trẻ
những yếu tố của một nhân cách phát triển tồn diện, hài hồ, đó là sự phát
triển về thẩm mỹ, đạo đức, trí tuệ và thể lực, trong mối quan hệ chặt chẽ với

nhau. Thông qua học hát để thuộc lời và diễn đạt bài hát tốt trẻ sẽ phát triển
tồn diện hơn về ngơn ngữ, tình cảm, nhận thức và tính thẩm mỹ của bản
thân. Những bài hát được sáng tác dành cho trẻ em đa phần chú ý liên quan
đến việc sử dụng từ ngữ, câu cú; vì vậy hỗ trợ trẻ trong việc hình thành và
phát triển ngôn ngữ, tăng lượng vốn từ, cách diễn đạt câu, cách nói, ngữ điệu,
thậm chí cả việc làm quen với viết. Nội dung phong phú, hấp dẫn miêu tả về
những điều thường nhật trong cuộc sống sẽ giúp trẻ thu thập thêm nhiều kinh
nghiệm sống. Khi nghe hát hay khi trẻ hát, trẻ cảm nhận được tính chất, tình
cảm của bài hát và ảnh hưởng những trạng thái cảm xúc có trong tác phẩm.
Đồng thời q trình ca hát cũng dẫn dắt trẻ đến với những hiện tượng sống
động của đời sống, giúp trẻ hình thành sự liên tưởng. Nhịp điệu rắn rỏi của
bản hành khúc gợi cho trẻ niềm vui, hào hứng phấn khởi… Bài hát êm dịu
đưa trẻ đến tình cảm nhẹ nhàng... Mặc khác trong hoạt động hát giúp các cơ

3


bắp trong hệ hơ hấp hoạt động tích cực và thực hiện tốt vai trị của mình. Việc
ca hát cịn giảm sự căng thẳng, trầm cảm và phát triển thể lực cho trẻ.
Giáo dục mầm non là bậc học đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc
dân, có vai trị đặc biệt quan trọng trong việc đặt nền móng cho sự hình thành
và phát triển nhân cách của con người. Chính vì thế hầu hết các quốc gia và
các tổ chức quốc tế đều xác định giáo dục mầm non là một mục tiêu quan
trọng của giáo dục cho mọi người. Thụy Điển coi giai đoạn mầm non là ‘‘thời
kì vàng của cuộc đời”. Trong chương trình giáo dục mầm non ngồi những
hoạt động như: cho trẻ tìm hiểu làm quen với tốn, văn học, mơi trường xung
quanh... thì hoạt động âm nhạc cũng là một trong những thành tố hết sức quan
trọng góp phần phát triển tồn diện nhân cách cho trẻ, là hoạt động được trẻ
yêu thích, là nguồn cảm hứng mạnh mẽ để trẻ cảm thụ nghệ thuật. Nó là
phương tiện hữu hiệu cho việc tổ chức các hoạt động giáo dục ở trường. Đối

với trường mầm non thì ca hát chính là hoạt động trọng tâm và chủ yếu trong
chương trình giáo dục âm nhạc cho trẻ.
Trong những năm vừa qua, mặc dù ngành học đã đưa nội dung đổi mới
hình thức giáo dục âm nhạc nói chung và dạy hát cho trẻ mầm non nói riêng,
nhưng khi thông qua thực tế tại các trường mầm non trong Quận Hải Châu –
Thành phố Đà Nẵng tuy việc dạy hát cho trẻ rất được chú trọng, diễn ra
thường xun trên các tiết học có chủ đích và trong tất cả các hoạt động khác
trong ngày thế nhưng kỹ năng ca hát của trẻ cịn có phần hạn chế. Đặc biệt khi
tham gia vào hoạt động âm nhạc, trẻ vẫn chưa phát huy được tính sáng tạo,
độc lập, chủ động của mình, trẻ hát thuộc nội dung bài hát nhưng chưa có cảm
xúc thật sự vì thế mà giờ học chưa được sôi nổi, hấp dẫn. Trên cơ sở tiếp cận
lí luận của âm nhạc và phương pháp tổ chức hoạt động âm nhạc cho trẻ mầm
non trong suốt thời gian học tập tại Khoa giáo dục Tiểu học - Mầm non,
chúng tôi nhận thấy không phải nắm vững kỹ năng ca hát là có thể đạt được
hiệu quả cao trong việc nâng cao kỹ năng hát cũng như thu hút trẻ trong hoạt
động dạy hát mà phải kèm theo nhiều biện pháp giáo dục khác. Vì thế việc
4


xây dựng các biện pháp giáo dục kỹ năng ca hát cho trẻ mẫu giáo mà đặc biệt
là trẻ mẫu giáo bé 3 – 4 tuổi là rất cần thiết. Đó cũng chính là lí do mà chúng
tơi chọn đề tài: ‘‘Biện pháp giáo dục kỹ năng ca hát cho trẻ mẫu giáo bé 3 - 4
tuổi”.
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu thực trạng kĩ năng ca hát của trẻ 3-4 tuổi thông qua hoạt
động giáo dục âm nhạc. Trên cơ sở đó đề xuất một số tác động sư phạm nhằm
giáo dục kĩ năng ca hát cho trẻ góp phần nâng cao hiệu quả giáo dục âm nhạc.
3. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu kĩ năng ca hát của trẻ mầm non 3-4 tuổi thông qua hoạt
động giáo dục âm nhạc ở một số trường mầm non thành phố Đà Nẵng.

4. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Một số biện pháp giáo dục kĩ năng ca hát cho trẻ 3-4 tuổi.
4.2. Khách thể nghiên cứu
Hoạt động giáo dục âm nhạc của giáo viên cho trẻ 3-4 tuổi.
5. Giả thuyết khoa học
Kĩ năng của trẻ 3-4 tuổi trong hoạt động giáo dục âm nhạc thể hiện ở
những mức độ khác nhau. Nếu giáo viên có những tác động sư phạm phù hợp
sẽ kích thích được hứng thú của trẻ, đồng thời giúp trẻ có kĩ năng thể hiện tác
phẩm âm nhạc tốt hơn, góp phần nâng cao hiệu quả tổ chức hoạt động giáo
dục âm nhạc cho trẻ ở trường mầm non.
6. Nhiệm vụ nghiên cứu
6.1. Nghiên cứu một số cơ sở lí luận liên quan đến đề tài (tâm lý, sinh lý, giáo
dục, nhạc lý, phân tích tác phẩm, thanh nhạc).
6.2. Tìm hiểu kĩ năng ca hát của trẻ 3-4 tuổi và thực trạng việc tổ chức hoạt
động giáo dục âm nhạc cho trẻ 3-4 tuổi ở một số trường mầm non tại Đà
Nẵng.

5


6.3. Đề xuất và thử nghiệm biện pháp giáo dục kĩ năng ca hát cho trẻ 3-4 tuổi
trong hoạt động giáo dục âm nhạc.
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
Thu thập, nghiên cứu, phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa, khái quát hóa
những tài liệu có liên quan đến đề tài nghiên cứu, cụ thể hóa lý thuyết nhằm
xây dựng cơ sở lý luận của đề tài.
7.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
7.2.1. Phương pháp quan sát

Dự giờ quan sát cách thức tổ chức hoạt động giáo dục âm nhạc của giáo
viên cho trẻ 3-4 tuổi nhằm đánh giá thực trạng kĩ năng ca hát của trẻ.
7.2.2. Phương pháp đàm thoại
Trao đổi với giáo viên tìm hiểu những thuận lợi và khó khăn trong việc
tổ chức hoạt động giáo dục âm nhạc.
7.2.3 Phương pháp điều tra bằng Anket
Sử dụng phiếu thăm dò ý kiến của giáo viên dạy lớp 3- 4 tuổi ở một số
trường mầm non thành phố Đà Nẵng về kĩ năng ca hát của trẻ 3-4 tuổi.
7.2.4 Phương pháp tổng kết kinh nghiệm
Dự giờ, trao đổi trực tiếp với giáo viên tại một số trường mầm non ở
Đà Nẵng.
7.2.5 Phương pháp chuyên gia
Tham khảo ý kiến các chuyên gia nhằm xác định những nội dung cơ
bản của kĩ năng ca hát của trẻ, về các biện pháp, cách thức tổ chức hoạt động
dạy hát.
7.2.6 Phương pháp thực nghiệm sư phạm
Thực nghiệm được tiến hành nhằm kiểm nghiệm tính hiệu quả của các
tác động sư phạm giáo dục kĩ năng ca hát cho trẻ 3-4 tuổi.
7.2.7. Phương pháp thống kê toán học
Sử dụng các cơng thức thống kê tốn học để xử lý số liệu.
6


8. Những đóng góp mới của đề tài
8.1. Về lý luận
Hệ thống hóa một số vấn đề lý luận về kĩ năng ca hát của trẻ 3-4 tuổi trong
hoạt động giáo dục âm nhạc ở trường mầm non.
8.2. Về thực tiễn
+ Làm rõ thực trạng kĩ năng ca hát của trẻ 3-4 tuổi trong hoạt động giáo dục
âm nhạc và chỉ ra nguyên nhân của thực trạng.

+ Xây dựng các biện pháp giáo dục kĩ năng ca hát nhằm nâng cao chất lượng
giáo dục trẻ nói chung và giáo dục âm nhạc cho trẻ nói riêng.
9. Cấu trúc của luận văn
- Phần mở đầu: Lý do chọn đề tài.
- Phần nội dung
+ Chương 1: Cơ sở lý luận của đề tài
+ Chương 2: Thực trạng kĩ năng ca hát của trẻ 3-4 tuổi ở trường mầm non
Tuổi Thơ, Quận Hải Châu, TP Đà Nẵng.
+ Chương 3: Một số biện pháp giáo dục kĩ năng ca hát cho trẻ 3-4 tuổi và
thực nghiệm sư phạm.
- Phần kết luận và kiến nghị sư phạm

7


PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
1.1 Lịch sử nguyên cứu vấn đề
Đối với trẻ mầm non ca hát là một trong những hoạt động rất được trẻ
yêu thích. Trong tất cả các trường mầm non, ca hát là nội dung xuyên suốt
được lồng ghép trong hầu hết tất cả các hoạt động. Chính vì vậy mà có rất
nhiều tác giả đã cho ra các tài liệu và giáo trình đề cập đến vấn đề này một
cách khái qt như tác giả: Phạm Thị Hịa, Hồng Văn Yến, PTS Ngơ Thị
Nam- Trần Minh Trí- Trần Ngun Hồng. Tuy nhiên hiện nay vẫn cịn khá ít
những tài liệu, các bài nghiên cứu đi sâu, chi tiết vào trọng tâm rèn luyện và
giáo dục kĩ năng ca hát cho trẻ mẫu giáo nói chung và trẻ 3-4 tuổi nói riêng.
Một số tài liệu như:
- “Giáo dục âm nhạc tập 2” (Phương pháp giáo dục âm nhạc trong trường
mầm non) được biên soạn nhằm đáp ứng nhu cầu giảng dạy và học tập của
môn học, trang bị cho giáo viên mầm non có kiến thức, cơ sở lý luận và

phương pháp giáo dục âm nhạc.
Nội dung chủ yếu đề cập đến phương pháp dạy các hoạt động trong
trường mầm non như ca hát, vận động theo nhạc, nghe hát, trị chơi âm nhạc.
Ngồi việc nghiên cứu cơ sở lí luận của những phương pháp giáo dục âm
nhạc ở trường mầm non, giáo trình cịn đề cập đến những đặc điểm tâm sinh lí
lứa tuổi mầm non liên quan đến hoạt động âm nhạc.
- Tài liệu “Nghệ thuật âm nhạc với trẻ mầm non” của tác giả Hoàng Văn Yến,
cuốn sách này đề cập đế những vấn đề đang được các nhà quản lí, các cán bộ
sư phạm và đơng đảo đội ngủ giáo viên quan tâm. Đó là “Ca khúc mầm non”,
“Trẻ mầm non với dân ca”, “Hát ru với sự phát triển của trẻ”.
Cuốn sách này biên soạn dựa trên kiến thức chuyên nghành nghệ thuật
âm nhạc với đặc thù của bậc học mầm non, đặc biệt là việc giáo dục nghệ
thuật phù hợp độ tuổi.

8


- Nguyễn Hồng Thơng trong cuốn “Âm nhạc và phương pháp giáo dục âm
nhạc ở nhà trẻ - mẫu giáo”: tài liệu chính thức đào tạo giáo viên nhà trẻ - mẫu
giáo hệ sư phạm 12+2. NXB Giáo dục 1996, được biên soạn theo chương
trình đào tạo giáo viên Nhà trẻ - Mẫu giáo, ban hành theo quyết định số
2278/GD-ĐT. Cuốn sách này đề cập đến cơ sở lý luận chung của âm nhạc về:
ký, xướng âm và một số vấn đề về phương pháp giáo dục âm nhạc ở nhà trẻ
và mẫu giáo.
- Giáo trình “Bồi dưỡng âm nhạc cho giáo viên mầm non” của tác giả Hoàng
Văn Yến đã đề cập đến những vấn đề trong ca hát như: Vị trí của ca hát trong
chương trình giáo dục âm nhạc, phương pháp dạy trẻ ca hát… để giúp giáo
viên mầm non tham khảo, tìm hiểu sâu hơn về phương pháp dạy trẻ trong hoạt
động âm nhạc.
- Tác giả Ngơ Thị Nam viết giáo trình “Hát”, trong giáo trình tác giả đã xây

dựng một số vấn đề về hát và kĩ năng ca hát.
- “Âm nhạc và phương pháp giáo dục âm nhạc” (tập 2) của PGS. Ngô Thị
Nam - Trần Minh Trí - Trần Ngun Hồng (Bộ GD - ĐT, trung tâm nghiên
cứu giáo viên) đã đề cấp đến các nội dung như sau: phương pháp và kĩ thuật
ca hát, múa cơ bản, phương pháp giáo dục âm nhạc ở nhà trẻ và mẫu giáo.
Hầu như tất cả các giáo trình, tài liệu trên đã đề cập đến phương pháp và một
số cơ sở lý luận chung liên quan đến ca hát ở các mặt khác nhau, mang tính
chất khái quát và chung chung. Mặc khác, một số trường đại học trong khu
vực như Trường Đại học sư phạm Huế; Trường Đại học sư phạm Đà Nẵng,
Khoa GD Tiểu học - Mầm non chưa có cơng trình nghiên cứu đến vấn đề biện
pháp giáo dục kĩ năng ca hát cho trẻ mẫu giáo. Đó là lý do chúng tôi chọn
nghiên cứu trên đối tượng là trẻ mẫu giáo bé 3-4 tuổi, đi sâu vào nghiên cứu
thực trạng kĩ năng ca hát và đưa ra các biện pháp giáo dục kĩ năng ca hát cho
trẻ 3-4 tuổi thông qua hoạt động âm nhạc có chủ đích. Chúng tơi hy vọng với
nghiên cứu này, nó sẽ thực sự có ích cho nền giáo dục mầm non hiện nay.

9


1.2 Vai trò của âm nhạc đối với sự phát triển tồn diện cho trẻ
Nói đến khơng gian âm nhạc của các bé ở các trường mầm non là cả
một thế giới đầy ắp nhịp điệu rộn ràng tươi vui của hát và múa. Âm nhạc luôn
là phương tiện hỗ trợ đắc lực trong việc hoàn thiện các mặt phát triển cho trẻ
như phát triển thể chất, nhận thức, ngôn ngữ, thẩm mỹ và tình cảm xã hội.
Âm nhạc là loại hình nghệ thuật có tính đặc thù. Giáo dục âm nhạc là
một nội dung quan trọng trong chương trình “Chăm sóc giáo dục mầm non”.
Nó có tác dụng tích cực góp phần phát triển năng lực thẩm mỹ, đạo đức, trí
tuệ và thể chất cho trẻ, tạo cơ sở trong việc hình thành con người mới Việt
Nam.
Nhiều cơng trình nghiên cứu khoa học về con người đã khẳng định

rằng, thời kì từ lúc sơ sinh đến 10 tuổi là thời kì tốt nhất cho sự phát triển
năng khiếu. Những ấn tượng để lại trong thời kì này sẽ theo trẻ suốt cuộc đời
mà âm nhạc là một nghệ thuật lôi cuốn mạnh mẽ nhất. Nhà sư phạm Xukhôm-lin-ski đã tổng kết: “Tuổi thơ ấu không thể thiếu âm nhạc, cũng như
khơng thể thiếu trị chơi và truyện cổ tích. Thiếu những cái đó, trẻ chỉ cịn là
những bơng hoa khô héo…”
Âm nhạc dẫn dắt trẻ đi vào thế giới của điều thiện, tạo ra được sự đồng
cảm và bồi dưỡng năng lực sáng tạo của trí tuệ mà khơng một phương tiện
nào so sánh được.
Nhiều nhà hoạt động xã hội cũng đã đánh giá cao vai trò ca hát đối với
đời sống trẻ thơ, nó tác động trực tiếp đến tâm lí và sinh lí góp phần quan
trọng vào sự phát triển của trẻ.
Chúng ta đều biết tầm quan trọng của âm nhạc đối với sự phát triển của
trẻ. Âm nhạc đã khơi dậy trong tâm hồn trẻ những tình cảm đẹp về thế giới
xung quanh. Âm nhạc khơng chỉ là vấn đề giáo dục thẩm mỹ, theo tài liệu của
Đại học Ottawa Canada, các nhà nghiên cứu cho rằng âm nhạc có tác dụng
thúc đẩy sự phát triển về nhận thức thính giác và bộ nhớ ngơn ngữ ở trẻ em.
Có những trẻ chậm nói, hơn hai tuổi mà vốn từ của bé lõm bõm và mỗi lần
10


nói bé chỉ phát âm được một từ. Nhưng chỉ sau thời gian học ở trường mầm
non, bé bắt đầu nói được nhiều từ hơn, thích nghe hát và hát theo nhạc, đặc
biệt là thích thể hiện tình cảm của mình qua những hành động, điệu múa,
những ngơn từ ngộ nghĩnh với mọi người xung quanh. Môi trường mầm non
đã tạo điều kiện tốt giúp bé cái thiện những khả năng của bản thân. Trẻ biết
lồng ghép những tiết tấu vào thế giới âm nhạc để gây sự chú ý những người
xung quanh, thúc đầy trẻ ham thích lắng nghe và tiếp nhận những bài học
mới, khái niệm mới.
Khác với loại hình nghệ thuật khác như hội họa, văn học, điện ảnh…,
âm nhạc khơng hồn tồn xác định rõ những hình ảnh cụ thể. Âm nhạc bằng

ngơn ngữ riêng là giai điệu, âm sắc, cường độ, nhịp độ, hòa âm, tiết tấu…
cùng với thời gian đã thu hút, hấp dẫn, làm thỏa mãn nhu cầu tình cảm của
trẻ. Đối với trẻ mầm non âm nhạc là thế giới kì diệu đầy xúc cảm. Trẻ có thể
tiếp nhận âm nhạc khi còn trong bụng mẹ. Trẻ mầm non vốn ngây thơ, trong
sáng rất dễ xúc cảm, nên tiếp xúc với âm nhạc là khơng thể thiếu. Âm nhạc
có sức mạnh to lớn đến việc tác động vào tư tưởng, tình cảm của con người,
đặc biệt âm nhạc là phương tiện phát triển tồn diện nhân cách cho trẻ đó là
thẩm mỹ, đạo đức, trí tuệ và thể chất.
1.2.1 Âm nhạc là phương tiện giáo dục thẩm mỹ
Giáo dục thẩm mỹ là vấn đề rất quan trọng và cần thiết trong việc hình
thành nhân cách của trẻ em. Thơng qua giáo dục thẩm mỹ, trẻ hiểu được cái
hay, cái đẹp của cuộc sống, đồng thời có cách ứng xử tốt với người thân trong
gia đình, với thầy cơ, bạn bè và cộng đồng. Âm nhạc chính là một trong
những bộ mơn nghệ thuật giáo dục thẩm mỹ quan trọng cho trẻ.
Âm nhạc là một trong những hình thái của con người và xã hội. Cũng
như những loại hình nghệ thuật khác: hội họa sử dụng đường nét, hình khối,
màu sắc; văn thơ bằng sức mạnh của ngôn từ; âm nhạc thông qua những âm
thanh đặc trưng nói lên tất cả những gì mà trong cuộc sống con người đã trải
qua. Đó là niềm vui sướng và nỗi khổ đau, những khát vọng, những ước mơ
11


về hạnh phúc, những nỗi trăn trở, những tâm tư thầm kín… Âm nhạc có khả
năng biểu hiện những khía cạnh khác nhau của cuộc sống, có thể tạo cho trẻ
những cảm xúc mãnh liệt, những sắc thái tình cảm tinh tế nhiều màu sắc, xốn
xang u hoài, … đưa trẻ từ một tâm trạng này sang một tâm trạng khác. Từ đó
giúp trẻ tưởng tượng, học nói lên cả xúc của mình, trẻ thấy được mình có thể
diễn tả những ý nghĩ, mơ ước, cảm xúc mạnh mẽ.
Giáo dục âm nhạc không chỉ dạy trẻ hát chuẩn xác, rõ ràng một cách
đơn thuần mà trẻ phải được tham gia vào tất cả các hoạt động âm nhạc khác

như vận động theo nhạc, múa, nghe hát, trò chơi âm nhạc, tham gia các
chương trình âm nhạc, buổi biểu diễn âm nhạc. Được tiếp xúc với âm nhạc ở
mức độ nào đó sẽ rèn luyện trẻ khả năng chú ý, lắng nghe, biết nhận xét, đánh
giá, trao đổi, so sánh lời ca, tiết tấu, âm điệu… Đó chính là ý nghĩa của giáo
dục thẩm mỹ. Tiếp xúc với âm nhạc có q trình sẽ tạo cho trẻ những ham
thích, xuất hiện dần quan hệ lựa chọn, nghĩa là có sự ham thích khác nhau. Đó
chính là cơ sở hình thành thị hiếu âm nhạc.
Các bài hát là phương tiện giáo dục trẻ nhiều mặt. Các bài hát mang
tính nghệ thuật, phù hợp với lứa tuổi sẽ hình thành ở trẻ thị hiếu âm nhạc giản
di, trong sáng, lành mạnh là cơ sở hình thành tình cảm thẩm mỹ, đạo đức tốt
đẹp. Ví dụ: bài hát Cháu vẽ ơng mặt trời của nhạc sĩ Tân Huyền đã phản ánh
hoạt động học tập của trẻ thật là thú vị. Thông qua giờ tập vẽ, cháu cầm bút
vẽ cảnh thiên nhiên là ông mặt trời. Nhưng trong tưởng tượng của mình thì lại
có hình ảnh liên hệ đến cô giáo yêu thương. Lời ca trên giai điệu bay bổng
như muốn nhắc nhở các cháu biết được các cháu phải yêu thương cô giáo và
phải ln ln ở trong suy nghĩ của mình. Bài hát cịn thể hiện được tình cảm
u thương âu yếm của cơ giáo đối với các cháu.
Âm nhạc có sức lay động tâm hồn mạnh mẽ, khơng có gì có thể đánh
thức tâm hồn con người bằng âm nhạc. Âm nhạc chân chính có giá trị nghệ
thuật cảm hóa con người hướng tới cái đẹp. Có rất nhiều những bài hát biểu
hiện rất rõ nét về cái đẹp như Búp bê, Đàn gà trong sân, Sắp đến tết rồi,
12


Cháu yêu bà, Đàn vịt con,… Tất cả những hình ảnh đó đã ươm mầm cho nhận
thức về cái đẹp trong tâm hồn trẻ thơ.
Âm nhạc giáo dục tình cảm thẩm mỹ cho trẻ nhận thức được cái hay,
cái đẹp, cái tốt, cái xấu trong cuộc sống về cách ứng xử, giao tiếp với ông bà,
cha mẹ, anh chị, cô giáo và mọi người xung quanh. Được thể hiện rất rõ qua
bài hát Đi học về, Chim vành khuyên và một số bài hát khác.

Ngồi ra, âm nhạc cịn đưa trẻ hịa mình vào thế giới thiên nhiên thật
sống động, nhiều màu sắc để giúp trẻ hình dung rõ nét về thế giới thiên nhiên
quanh mình. Trong bài hát Khúc ca bốn mùa trẻ sẽ biết được hạt nắng cho mẹ
ra đồng, hạt mưa cho cây lúa trổ bông và khi trời đổ nắng có mưa về dịu lại,
khi trời đầy mưa có nắng về sưởi ấm. Kết thúc trẻ nhận thức được sự kì diệu
của thiên nhiên rằng bốn mùa sẽ có nắng và có mưa…
Vì vậy, thơng qua hoạt động âm nhạc ở trường mầm non giáo dục tình
cảm thẩm mỹ cho trẻ từ đó đời sống tinh thần, nhận thức về thế giới xung
quanh sẽ phong phú hơn, giúp trẻ cảm nhận được cái đẹp, tạo niềm tin trong
các cháu.
1.2.2. Âm nhạc là phương tiện giáo dục đạo đức
“Để sử dụng âm nhạc như một phương tiện giáo dục đạo đức: khi tác
động đến con người, nó thức tỉnh một cách đặc biệt mạnh mẽ trong người ấy
tất cả những gì là tốt đẹp, tìm được sự hưởng ứng trong những khía cạnh ưu
tú nhất trong tâm hồn người ấy. Chính khả năng ấy của âm nhạc làm cho tính
tình dịu hơn và tốt hơn, làm cho con người cao đẹp hơn, trong sạch hơn và
nhân hậu hơn” (A.Xơkhor). Chính vì vậy âm nhạc đóng vai trị hết sức quan
trọng trong việc giáo dục đạo đức cho trẻ.
Chức năng giáo dục của nghệ thuật tác động đến con người rất mạnh
mẽ và sâu sắc. Nghệ thuật vừa tác động vào lí trí, vừa tác động trực tiếp vào
tình cảm. Nghệ thuật âm nhạc đem đến cho trẻ những cái đẹp, cái tiến bộ và
nhẹ nhàng phê phán những cái xấu, tạo cho trẻ một trạng thái tâm hồn hết sức
thanh thản và trong sáng.
13


Lời ca trong âm nhạc biểu hiện trên nhiều gôm màu khác nhau và đầy
chất trữ tình, sâu lắng. Trẻ phát hiện được vẻ đẹp muôn màu, muôn vẻ của
thiên nhiên, sự ngộ nghĩnh đáng yêu của các con vật, tình cảm u q thân
thương của gia đình, thầy cơ, bạn bè và cả lòng yêu quê hương đất nước thông

qua nội dung được thể hiện rõ nét, phong phú trong các bài hát. Từ đó giáo
dục trẻ đạo đức làm người. Chính vì vậy, ngay thời cổ đại, ở Trung Quốc,
Khổng Tử đã cho rằng âm nhạc có tác dụng làm thay đổi đạo đức và tập quán
xã hội. Tuân Tử [3], trong cuốn Luận về âm nhạc, có viết: “Âm nhạc nhập
vào lịng người rất sâu, cảm hố người rất nhanh. Nhạc mà bình thì dân hồ
khơng bị dục vọng lơi cuốn. Nhạc nghiêm trang thì dân tề nhất mà không
loạn. Trái lại, nhạc mà bất nghiêm và hiểm hóc thì dân sa đà, bi tiện”.
Những bài hát dân ca thể hiện những điệu hát trữ tình mượt mà ở quê
hương Nam Bộ đến những bài hát giao duyên, các làn điệu dân ca quan họ
Bắc Ninh cùng hòa với giai điệu bay bổng ở vùng đồng bằng Bắc Bộ, những
bài hát chan chứa tình cảm của Tây Nguyên với những điệu hát của các dân
tộc miền núi phía Bắc mơ tả cuộc sống hạnh phúc thanh bình, rồi những điệu
hị ví dặm Nghệ An, hị Huế thiết tha, những điệu lí ở miền nam Trung Bộ ca
ngợi cảnh đẹp quê hương đất nước hay những bài đồng dao của các dân tộc
Việt Nam phong phú về âm điệu, tiết tấu, phương thức diễn xướng, phong tục
tập quán sẽ cho trẻ hiểu biết về bản sắc âm nhạc dân tộc Việt Nam, cho trẻ
cảm xúc trữ tình và tự hào dân tộc.
Ngoài ra, việc cho trẻ làm quen, thưởng thức những ca khúc nước ngoài
sẽ giúp trẻ hiểu biết thêm về nền âm nhạc thế giới và dấy lên trong trẻ tình
đồn kết hữu nghị giữa các nước trên trường quốc tế.
Trong trường mầm non, đặc điểm các hoạt động âm nhạc của trẻ hầu
như diễn ra trong tập thể theo từng độ tuổi khác nhau. Cùng nhau múa hát,
chơi trò chơi âm nhạc, cùng nhau nghe hát giúp cho trẻ vui tươi, hồn nhiên,
trẻ biết quan tâm, giúp đỡ những trẻ nhút nhát từ đó trẻ thấy thoải mái, tự tin
hơn và hịa mình vào tập thể, bộc lộ được hết khả năng âm nhạc của mình.
14


Các hoạt động âm nhạc ảnh hưởng tốt đến hành vi văn hóa của trẻ,
chấp hành tính tổ chức, sự chú ý, phản ứng nhanh, biết kiềm chế, biết điều

khiển vận động phù hợp với âm nhạc… Những cái đó giáo dục trẻ hành vi
giao tiếp có văn hóa, tạo điều kiện hình thành những phẩm chất đạo đức của
trẻ như đại văn hào M.Go-rơ-ki từng nhận xét: “Âm nhạc tác động một cách
kì diệu đến tận đáy lịng. Nó khám phá ra cái phẩm chất cao quí nhất ở con
người”.
Vai trị của âm nhạc đối với q trình phát triển đạo đức của trẻ không
chỉ thể hiện với tư cách một phương diện tác động từ những giá trị chân,
thiện, mỹ từ bên ngoài vào, mà chủ yếu là với tư cách khơi dậy những tiềm
năng giá trị chân, thiện, mỹ từ chính bên trong mỗi thực thể nhân cách. Nhiều
nhà khoa học đã chứng minh rằng, khả năng cảm thụ âm nhạc của từng trẻ
còn xuất hiện trước cả khi trẻ hình thành nên ý thức, thậm chí nó đã xuất hiện
ngay từ khi cịn nằm trong bụng mẹ. Như vậy thì có thể thấy, ngay trong từng
nhân cách cũng đã có thành tố tri thức và khả năng cảm thụ âm nhạc. Vấn đề
phát triển đạo đức bằng phương tiện âm nhạc không thể tách khỏi vấn đề phát
triển "nhân cách âm nhạc" của trẻ. Vì vậy, âm nhạc có vai trị hết sức to lớn
trong việc hình thành đạo đức cho trẻ, đặc nền móng ban đầu cho cơ sở hình
thành nên nhân cách người cơng dân trong tương lai.
1.2.3. Âm nhạc góp phần phát triển trí tuệ
Âm nhạc khơng chỉ đơn thuần là để vui chơi, giải trí mà cịn thúc đẩy
sự phát triển trí tuệ của trẻ.
Theo nhà nghiên cứu tâm lý học Fran Rauscher và Gordon Shaw thuộc
Đại học California- Irvine, Hoa Kỳ thì có mối liên hệ chặt chẽ giữa trình độ
âm nhạc với việc kiểm sốt trình độ tốn cao cấp. Âm nhạc có khả năng tăng
sự thơng minh đặc biệt của trẻ đến 46% so với những đứa trẻ không được lớn
lên cùng âm nhạc.
Tiến sĩ Hovard Gardner, giáo sư trường đại học Harvard nghiên cứu lí
thuyết về các trí thông minh đa diện lại cho rằng, thông minh âm nhạc là một
15



trong bảy trí thơng minh ban đầu của con người (trong số thơng minh ngơn
ngữ, lơgic tốn, thơng minh hình tượng v.v…).
Trẻ mẫu giáo, các hình thức tư duy trực quan hành động, trực quan
hình tượng và tư duy trừu tượng được biểu hiện trong bất kì hoạt động nào,
trong đó có âm nhạc. Khi trẻ được tiếp xúc với âm nhạc trẻ dần hình thành
khả năng tổng hợp cùng với tư duy lôgic.
Giáo dục âm nhạc là hoạt động nghệ thuật có tác dụng giúp trẻ có khả
năng trải nghiệm những cảm xúc trong quá trình cảm thụ và thể hiện âm
nhạc. Khi nghe nhạc, trẻ cảm nhận được tính chất, tình cảm của âm nhạc, ảnh
hưởng những trạng thái cảm xúc có trong tác phẩm. Đồng thời âm nhạc cũng
dẫn dắt trẻ đến với những hiện tượng sống động của đời sống, giúp trẻ hình
thành sự liên tưởng. Nhịp điệu rắn rỏi của bản hành khúc gợi cho trẻ niềm
vui, hào hứng phấn khởi... Bài hát êm dịu đưa trẻ đến tình cảm nhẹ nhàng.
Khả năng nắm kinh nghiệm hoạt động âm nhạc như chăm chú lắng
nghe, biết so sánh và đánh giá những khái niệm âm nhạc đơn giản và dễ hiểu
nhất hay phân biệt những phương tiện diễn tả cơ bản của âm nhạc như: âm
thanh cao – thấp, to- nhỏ, âm sắc của các giọng hát, nhạc cụ, phân biệt tính
biểu cảm của các hình tượng âm nhạc khác nhau, tính êm dịu ngân nga của
đường nét, giai điệu, tính sơi nổi linh hoạt của các nhịp điệu... nhận biết được
cấu trúc âm nhạc đơn giản nhất.
Âm nhạc giúp trẻ phát triển trí nhớ. Trí nhớ âm nhạc là khả năng thu
nhận và nhớ lại. Đặc điểm của trẻ mẫu giáo là ghi nhớ âm nhạc bằng tai nghe
dựa vào nhạc cảm. Tính tích cực và sự tập trung chú ý trong giờ học hát giữ
vai trò quan trọng trong việc củng cố và phát triển trí nhớ. Vì trí nhớ của trẻ
khơng có khả năng nhắc lại toàn bộ ngay mà phải qua quá trình rèn luyện dần
nên khi tập hát cơ giáo ln gợi mở, giúp trẻ nhận thức trên cơ sở đó trí nhớ
của trẻ ngày càng phát triển. Việc tích lũy những khái niệm đơn giản và riêng
lẻ về âm nhạc, cũng như số lượng tác phẩm mà trẻ nghe được, học thuộc lòng
bài hát sẽ đặt cơ sở đầu tiên của quá trình tiếp nhận tri thức mới.
16



Khả năng thể hiện nhạc một cách độc lập và sáng tạo như: trẻ tự biểu
diễn, tự tổ chức chơi ở góc âm nhạc, giáo dục ý chí, trẻ tự sáng tác một bài
hát, tự sáng tạo vận động theo các bài hát. Cho nên để trẻ tự do sáng tạo vận
động cho trẻ, tạo điều kiện cho trẻ thể hiện ý thích của mình, thể hiện cảm
nhận của bản thân.
Âm thanh là ngôn ngữ đặc thù của âm nhạc để tạo dựng hình tượng âm
nhạc. Hình tượng âm nhạc là loại hình tượng biểu hiện mang tính khái qt và
ước lệ cao. Chính vì điều này mà hình tượng âm nhạc khơng mang tính xác
định cụ thể nhưng làm thức dậy ở trẻ ước mơ và tưởng tượng.
Giáo dục âm nhạc thực hiện nhiều nhiệm vụ thúc đẩy sự phát triển trí
tuệ ở trẻ mẫu giáo.
1.2.4 Âm nhạc là phương tiện thúc đẩy sự phát triển thể chất cho trẻ
Cuối thế kỉ XIX, hai nhà sinh lí học Nga I.M.Do ghen và I.R
Tackhanốp đã nghiên cứu thí nghiệm xác nhận điều mà trong thực hành ngày
nay mọi người đều biết: “Âm nhạc rõ ràng ảnh hưởng đến hô hấp, đến tuần
hồn của máu và các q trình sinh lí khác”.
Sự phát triển trí tuệ khơng đi theo con đường bằng phẳng mà có những
bước nhảy vọt theo tiến trình phát triển ngày càng cao trong tư duy. Cái bên
trong chính là sự nhận thức, tư duy minh mẫn, khỏe mạnh về tinh thần cùng
thể chất. Để đạt tới sự hài hòa, phát triển đồng đều, âm nhạc là cầu nối, cơng
cụ hữu hiệu giúp trẻ phát triển nhanh trí lực, tâm lực, thể lực.
Khi nghe, vận động theo nhạc giúp trẻ tập phối hợp các động tác đi,
chạy, nhảy chính xác, linh hoạt với tác phong nhanh nhẹn. Trẻ vận động tồn
thân nhịp nhàng khi có nhạc kèm theo sẽ giúp trẻ mềm dẻo, uyển chuyển, có
ảnh hưởng rất tốt đến tim mạch và sự phát triển cơ. Trẻ được thư giản và kích
thích tính sáng tạo nếu được nghe nhạc đúng mức và phù hợp.
Hát cũng liên quan trực tiếp đến sự phát triển thể lực của trẻ, giúp củng
cố cơ quan phát âm, thở sâu, tránh nói lắp, đẩy mạnh chức năng hoạt động

của cơ quan phát thanh, hơ hấp, hình thành giọng hát ở trẻ tốt hơn… Ngoài ra
17


hát còn ảnh hưởng đến tư thế của trẻ như: khi học hát trẻ được nhắc nhở phải
ngồi thẳng, đứng thẳng, khơng gù, người tự nhiên, điều đó quan trọng trong
việc hình thành tư thế đúng cho trẻ.
“Tai âm nhạc” phát triển cùng với sự nhạy cảm sẽ giúp trẻ hưởng ứng
những tình cảm và hành vi tốt đẹp, hồn thiện mọi vận động thể chất ở trẻ.
Tác giả của cuốn sách “Học trước khi sinh: Hãy để trẻ em hưởng
những quà tặng xứng đáng” của Tiến sĩ Brent Logan cho biết: “Trẻ khi nghe
nhạc thì có nhịp tim và sự phát triển thể chất tốt hơn. Nhịp điệu của âm nhạc
đã chứng minh có khả năng kích thích trẻ để vận động một cách vui vẻ. Phản
xạ này chắc chắn giúp trẻ phát triển về thể chất, về sức mạnh và sự phối hợp
và điều khiển động cơ hành động của trẻ”. Như vậy, phản ứng cơ thể đối với
âm nhạc chịu sự chi phối của tác động cảm xúc tâm lí của âm nhạc ở mức độ
cao hơn nhiều so với tác động sinh lí trực tiếp (phản xạ).
Với những vai trò của âm nhạc như trên chúng ta có thể thấy: giáo dục
âm nhạc là một trong những con đường hồn thiện đạo đức, trí tuệ, thẩm mỹ
và thể lực cho trẻ. Nhà sư phạm V.Xu-khôm-lin-xki đã đánh giá: “Chất lượng
công việc giáo dục trong một nhà trường được xác định phần lớn bởi mức độ
hoạt động âm nhạc trong hoạt động của nhà trường đó”.
Nhận thức đứng đắn và sâu sắc tác dụng giáo dục toàn diện của âm
nhạc đối với trẻ mẫu giáo là điều cần thiết đầu tiên để tiến hành tốt việc giáo
dục âm nhạc cho trẻ. Bước đầu cho trẻ làm quen, tiếp xúc với âm nhạc để trẻ
bộc lộ rõ năng khiếu âm nhạc.
1.3 Khái quát về kĩ năng ca hát
1.3.1 Khái niệm về kĩ năng
Có nhiều cách định nghĩa khác nhau về kĩ năng. Những định nghĩa này
thường bắt nguồn từ góc nhìn chun mơn và quan niệm cá nhân của người

viết.
Cịn Bùi Văn Huệ thì cho rằng kĩ năng là khả năng vận dụng tri thức,
khái niệm, định nghĩa, định luật vào thực tiễn.
18


Theo từ điển tiếng việt thì kĩ năng là khả năng vận dụng những kiến
thức thu được vào thực tế.
Nhưng hiện nay, lại có hai quan niệm về vấn đề kĩ năng trong tâm lí
học đó là:
Quan niệm thứ nhất coi kĩ năng là một thao tác, hành động hay hoạt
động nào đó. Nhiều tác giả theo quan niệm này: V.S.Kudin cho rằng kĩ năng
là phương thức

hoạt động không cần sự củng cố bắt buộc từ trước,

V.A.Cruchetxki cho rằng kĩ năng là các phương thức thực hiện một loại hành
động - những cái mà con người lĩnh hội từ trước. Theo A.G.Covaliop định
nghĩa kĩ năng là phương thức thực hiện hành động phù hợp với mục đích và
điều kiện của hành động. Theo ba ông, chỉ cần nắm vững phương thức hành
động là con người đã có kĩ năng khơng cần đạt đến kết quả cụ thể.
A.V.Petrovxki thì lại cho rằng kĩ năng là sự vận dụng những tri thức, kĩ xão
đã có để lựa chọn thực hiện những phương thức hành động tương ứng với
mục đích đề ra. Đối với Trần Trọng Thủy kĩ năng là mặt kĩ thuật của hành
động, con người nắm được hành động tức là có kĩ thuật hành động, có kĩ
năng. Như vậy, con người nắm được các tri thức về hành động, thực hiện
được hành động theo đúng những yêu cầu về thao tác kĩ thuật của nó thì con
người có kĩ năng.Cịn việc thực hiện hành động nào đó có đạt được mục đích
hay khơng thì điều này khơng được xem xét dưới góc độ của một kĩ năng.
Nhìn chung các tác giả này nhấn mạnh mặt kĩ thuật của hành động, chú trọng

đến khía cạnh cách thức của hoạt động, coi việc nắm được cách thức hành
động là có kĩ năng.
Quan niệm thứ hai nhấn mạnh hiệu quả của hành động trong kĩ năng,
coi kĩ năng không đơn thuần chỉ là kĩ thuật hành động mà còn biểu hiện năng
lực của con người và kĩ năng vừa có tính ổn định, lại vừa có tính mềm dẻo,
linh hoạt. Lưu Xn Mới nghĩ kĩ năng là sự biểu hiện kết quả hành động trên
cơ sở kiến thức đã có. Kĩ năng là tri thức trong hành động. N.Đ.Leevilop cho
rằng kĩ năng là sự thực hiện có kết quả một động tác nào đó hay một hoạt
19


động phức tạp hơn bằng cách áp dụng hay lựa chọn những cách thức đúng
đắn, có tính đến những điều kiện nhất định. Ông đặc biệt chú ý đến kết quả
của vận động, còn Lưu Xuân Mới chú ý đến kết quả hành động trên cơ sở
kiến thức. Theo một số tác giả như: Nguyễn Quang Uẩn, Nguyễn Ánh Tuyết,
Ngô Cơng Hồn, Trần Quốc Thành cho rằng kĩ năng là năng lực của con
người thực hiện một công việc nào đó có kết quả. Quan điểm của các tác giả
trên chú trọng đến kết quả của nó trong các mối quan hệ mục đích, phương
tiện, điều kiện và cách thức tiến hành hoạt động chứ không đơn thuần bao
gồm mặt kĩ thuật của hành động.
Trên đây trình bày rất nhiều quan niệm khác nhau về kĩ năng, nhưng
chúng không mâu thuẩn và phủ định lẫn nhau. Các quan niệm đó khác nhau ở
chỗ mở rộng hay thu hẹp phạm vi triển khai của một kĩ năng hành động trong
các tình huống khác nhau.
Từ những quan niệm trên chúng ta có thể đưa ra một khái niệm tổng
quát như sau: Kĩ năng là khả năng con người biết sử dụng tri thức, khái niệm,
định nghĩa, định luật có mục đích và sáng tạo những kiến thức của mình trong
hoạt động lí thuyết cũng như trong hoạt động thực tiễn, kĩ năng bao giờ cũng
xuất phát từ kiến thức và dựa trên kiến thức, kĩ năng chính là kiến thức trong
hành động.

1.3.2 Khái niệm ca hát
Ca hát là bộ môn nghệ thuật phối hợp giữa ngơn ngữ và âm nhạc, cịn
gọi là thanh nhạc, nó khác với khí nhạc là loại âm nhạc viết riêng cho nhạc cụ
diễn tấu. Ai trong chúng ta cũng đã từng hát, hoặc ít nhất cũng đã từng nghe
người khác hát. Một người hát goi là đơn ca, hai ba người hát gọi là song ca,
tam ca … nhiều người cùng hát một lời ca, một giai điệu là đồng ca. Còn nếu
hát theo nhiều bè, nhiều giai điệu khác nhau gọi là hợp ca (Hợp xướng).
Ca hát đã có rất sớm cùng với tiếng nói của con người phát xuất từ tôn
giáo, lao động và giải trí. Nhưng nguồn gốc sâu xa nhất của ca hát là do nhu
cầu muốn diễn đạt tình ý của mình một cách có hiệu quả hơn trên tâm hồn
20


người nghe. Con người lúc đầu chủ yếu dùng ngôn ngữ để thơng đạt cho nhau
những ý nghĩ, tình cảm của mình. Dần dà con người tìm cách diễn đạt tình ý
một cách khéo léo hơn, tài tình hơn, tức là có nghệ thuật hơn qua các bài văn,
bài thơ. Và yếu tố âm nhạc, tiềm ẩn trong câu nói, trong câu thơ, đã càng ngày
càng rõ rệt hơn trong các kiểu nói diễn cảm, các bài đọc trang trọng (như đọc
diễn văn), các câu rao hàng, câu ngâm thơ. Nó xuất hiện rõ nét trong các câu
hị nhất là trong các bài hát nhằm tăng sức diễn cảm tối đa cho lời nói. Thanh
nhạc đã ra đời dựa trên ngơn ngữ của từng dân tộc, và nó càng ngày càng
được nâng cao cùng với các bộ môn nghệ thuật khác như văn thơ, hội hoạ, sân
khấu, vũ nhạc … Do đó mỗi dân tộc ít nhiều đều có những kinh nghiệm thanh
nhạc riêng mình. Vấn đề hiện này của người học thanh nhạc là làm sao học
được kinh nghiệm hay của các dân tộc khác mà không bỏ mất kinh nghiệm
q báu của cha ơng để lại.
Chính vì vậy, ca hát là loại hình nghệ thuật có giá trị biểu hiện tình cảm
cao vì nó tác động đến người nghe bằng âm nhạc và lời ca. Ca hát phản ánh
cuộc sống sinh động của con người và là hình thức nghệ thuật dễ tiếp thu, dễ
thể hiện.

Nhạc trưởng Xtolkovxki từng nói: “Đối với trẻ, giọng hát là nhạc cụ âm
nhạc đầu tiên và vừa sức nhất”. Trong quá trình lớn lên ca hát giúp trẻ phát
triển một cách toàn diện về đức - trí - thể - mỹ, có vai trò hết sức to lớn trong
đời sống tinh thần của trẻ.
1.3.3 Kĩ năng ca hát
Kĩ năng ca hát chính là những ngyên tắc và yêu cầu cơ bản của con
người trong quá trình ca hát. Khi ca hát chúng ta cần tuân thủ một vài nguyên
tắc như: tư thế hát; tạo âm - nhã chữ; hơi thở; cách lấy hơi; hát đúng cao độ,
trường độ; hát đồng đều và rõ lời…
Đối với trẻ mẫu giáo khi tham gia vào hoạt động ca hát cần giúp trẻ hát
tự nhiên, chính xác cao độ và trường độ, đồng đều khi hát tập thể, hát rõ lời,

21


diễn cảm nội dung bài hát phù hợp, hịa mình vào trong bài hát, biết cách lấy
hơi, tạo âm, nhả chữ…
Khi trẻ đã nắm được kĩ năng ca hát, tự khắc trẻ sẽ tích lũy cho bản thân
những kiểm nghiệm thể hiện các bài hát đúng và hay. Nhưng để phát triển
được nhạc cảm và kĩ năng, phải chú ý rèn luyện cho trẻ tư thế hát, lấy hơi, tạo
âm, nhả chữ, sự chính xác và đồng đều khi hát tập thể.
1.3.3.1 Tư thế
Tư thế hát thích hợp là rất quan trọng cho việc hát tốt. Tư thế đóng vai
trị hết sức quan trọng trong hô hấp và luồng không khí của chúng ta trong khi
hát. Chính vì vậy chúng ta cần phải xác định được một tư thế hát khoa học và
tốt nhất.
Trong ca hát có rất nhiều hình thức tổ chức khac nhau, tuy nhiên với
mỗi hình thức thường đi kèm với một tư thế biểu diễn khác nhau. Đối với trẻ
mầm non ca hát được diễn ra xuyên suốt trong hầu như tất cả các hoạt động
với nhiều hình thức tổ chức khác nhau. Vì vậy rèn luyện cho trẻ một tư thế ca

hát là không thể thiếu.
Khi trẻ hát cần đứng hoặc ngồi thẳng để tạo hơi thở tốt, nhưng hình
thức tốt nhất là cho trẻ đứng lên. Hai tay trẻ phải đặt tự nhiên lên đùi, không
nâng vai, khom lưng hay dựa đầu vào thành ghê khơng căng cứng mà hồn
hảo tự nhiên, thoải mái.
1.3.3.2. Hơi thở
Sóng Âm phát xuất từ khe thanh quản do thanh đới mở đóng tác động
trên làn hơi từ phổi đẩy lên. Chẳng hạn như khi ta muốn nói hoặc muốn hát,
muốn hát cao hoặc thấp, to hoặc nhỏ, kéo dài hoặc ngắn gọn ... thanh đới phải
căng ra ở một mức độ cần thiết tương ứng với áp lực của làn hơi từ phổi đẩy
lên, để tạo ra một âm thanh có cao độ, âm sắc, cường độ và trường độ theo ý
muốn. Áp lực của làn hơi và mức căng của thanh đới phải luôn luôn tương
xứng với nhau thì mới có được âm thanh chính xác và chất lượng (ví như
người nhạc cơng vĩ cầm, tay trái vừa bấm đúng vị trí trên giây đàn, vừa rung
22


tay tạo vẻ đẹp cho tiếng đàn, trong lúc đó phối hợp với tay phải kéo vĩ làm
rung giây đàn tạo ra sóng âm...).
Mặc khác, hơi thở cịn góp phần làm rõ ý nghĩa của câu hát. Những chỗ
ngắt hơi đúng lúc, những chỗ ngân dài vươn tiếng đúng chỗ, giúp làm cho lời
ca thêm rõ nghĩa giúp cho bài hát thêm ý nghĩa, tâm tình và sức sống. Ngồi
ra hơi thở còn giúp thể hiện những cảm xúc tinh tế trong diễn tấu, chẳng hạn
như để biểu hiện một sự xúc động đột ngột, sự ngạc nhiên, thán phục, sự dồn
dập của cao trào âm nhạc ... F.Lamperti (1813-1892) đã từng nói : “Nghệ
thuật ca hát là nghệ thuật hơi thở”
Trong ca hát, phải tập cho trẻ cách hít hơi vào (còn gọi là lấy hơi) làm
sao cho đủ lượng hơi cần thiết cho từng câu hát dài ngắn, mạnh nhẹ, cao thấp
khác nhau, hít nhanh, sâu, khơng hổn hển. Đồng thời cũng phải tập thở ra từ
từ (còn gọi là đẩy hơi) sao cho làn hơi được phù hợp với mọi tình huống của

câu hát.
Hơi thở là cơ sở của ca hát, vì vậy cần dạy dần dần và có hệ thống để
trẻ biết được cách thở đúng.
1.3.3.3. Tạo âm, nhả chữ
Tạo âm và nhả chữ là hai yêu cầu thống nhất của nghệ thuật ca hát. Hai
yêu cầu này gắn bó với nhau, hỗ trợ cho nhau để tạo nên một tiếng hát hoàn
chỉnh. Âm thanh đúng tạo điều kiện cho việc nhả chữ rõ ràng. Nhả chữ rõ
ràng, đẹp, làm cho âm nhạc thêm phong phú về màu sắc và tình cảm.
Hát cho rõ lời là u cầu rất quan trọng, nhưng cũng khơng vì cần hát
rõ lời mà phát âm một cách máy móc, khơ khan, làm cho bài hát trở nên rời
rạc. Hoặc ngược lại, cầu kỳ quá, khi nhả chữ, thêm bớt nhiều âm luyến láy lại
làm cho bài hát mất sự xúc động chân thực, mất trong sáng.
Khi dạy hát cho trẻ tập cho trẻ giọng hát tự nhiên, âm thanh vang sáng,
phát âm khơng ức chế, phải nhẹ nhàng nhưng có độ vang nhất định; không la
hét căng thẳng trong khi hát.

23


1.3.3.4. Hát rõ lời
Một bài hát gồm có nhạc và lời, trong đó lời ca là yếu tố nền tảng để
xây dựng âm nhạc. Lời định hướng cho nhạc để nhạc chấp cánh cho lời. Vì
thế khi ca hát khơng rõ lời, là vơ tình đánh mất yếu tố nền tảng, có khả năng
miêu tả, trình bày chi tiết, cụ thể tình ý, nội dung của bài hát, yếu tố âm nhạc
cịn lại rất lẻ loi, sẽ khơng diển tả được đầy đủ nội dung bài hát, có khi cịn
làm cho nó tệ hơn. Cho nên, hát rõ lời thuộc về bản chất của tiếng hát, nghĩa
là đã hát là phải rõ lời, nếu khơng thì nó giống như nhạc không lời mà thôi.
Hát rõ lời liên quan đến vị trí đúng của lưỡi và mơi, hàm dưới cử động
tự nhiên. Dấu giọng có liên quan đến ngữ điệu, do đó giáo viên cần đọc lời rõ
rang, chậm, diễn cảm cho trẻ hiểu để trẻ hát rõ, đúng, rành mạch.

1.3.3.5. Sự chính xác
Trẻ hát đúng âm điệu và nhịp điệu của bài hát hay không phụ thuộc vào
khả năng nghe và phát âm. Vì vậy cần phải rèn luyện cho trẻ khả năng nghe
giai điệu bài hát và cảm nhận đó thật sâu sắc. Mặc khác, phải thường xuyên
cho trẻ tập phát âm thật chính xác các từ trong câu hát. Khi trẻ phân biệt được
độ cao thấp, to nhỏ của âm thanh, ghi nhớ được giai điệu thì trẻ sẽ dễ dàng hát
được chính xác.
Để cho trẻ hát được chính xác, giáo viên nên lựa chọn bài hát phù hợp
với cấu trúc, âm vực, làm mẫu chính xác, chia nhóm và cá nhân để trẻ thực
hiện đúng và chi tiết.
1.3.3.6. Sự hòa hợp
Hoạt động âm nhạc ở mẫu giáo thường xuyên diễn ra trên hình thức hát
tập thể vì vậy sự hào hợp là rất quan trọng. Sự hòa hợp trong hát tập thể là tất
cả các cháu có khả năng hát cùng một lúc nhưng sự nhả chữ, phát âm phải
thống nhất, lấy hơi đúng chỗ, tốc độ hát nhanh chậm, to nhỏ phải được
chuyển thể một cách nhịp nhàng.
Khi trẻ hát tập thể, trẻ hịa giọng mình trong giọng hát chung của các
bạn qua việc điều chỉnh độ cao, độ mạnh nhẹ, nhịp độ hát.
24


Trẻ học được những kĩ năng trên đây trong quá trình học hát. Các bài
hát với sự phức tạp dần và phong cách khác nhau là phương tiện cơ bản để
rèn luyện kĩ năng ca hát với mức độ cao dần theo từng nhóm tuổi.
1.3.4. Giáo dục kĩ năng ca hát
1.3.4.1. Khái niệm về giáo dục
Khái niệm giáo dục rất phức tạp, do đó đi tìm định nghĩa rõ ràng về
khái niệm của từ này quả thật không đơn giản. Trong cuốn “The Educator
encyclopedia” của ba học giả Mỹ E.W. Smith, S.W. Krouse và
M.M.Atkinson, 1969, USA, cho rằng khái niệm giáo dục chuyển tiếp từ

phương đông đến thái độ phương Tây. Vậy thì trong các nhà giáo dục phương
Đơng đã định nghĩa như thế nào từ này? Hứa thận, trong “Thuyết văn giải tự”,
đã giải thích khái niệm giáo dục: “Giáo thượng sở thi, hạ sở hiệu dã”. Và
“Dục, dưỡng tử sử tác thiện dã” Mạnh tử nói: “Đắc thiên hạ anh tài nhi giáo
dục chi”. Trong Larouse Universelle của Pháp định nghĩa: “Giáo dục là toàn
thể những cố gắng có ý thức để giúp tạo hố trong việc phát triển các năng
lực thể chất, tinh thần và đạo đức của con người, hướng về sự toàn thiện,
hạnh phúc và sứ mạng xã hội của con người.” (Trích dẫn từ Sư Phạm Lý
Thuyết, nhiều tác giả, nhà xuất bản Trẻ 1971). Trần Văn Quế trong một tác
phẩm cùng tựa đề Sư Phạm Lý Thuyết, 1968, định nghĩa về phép giáo dục:
“Phép giáo dục là toàn thể những động tác, những ảnh hưởng đã được sử
dụng theo ý muốn của một người đối với một người, hay nói đúng hơn, của
một người cao niên với một người thiếu niên và được hướng theo mục đích
đào tạo ở người thiếu niên những tính chất đủ các loại mà một khi trở nên
trưởng thành người ấy cần phải đạt được”. Trong từ điển tiếng Việt (của viện
ngôn ngữ học, Trung tâm từ điển học, Nxb Giáo dục, 1994, trang 379) có ghi:
“Giáo dục 1. (động từ) Hoạt động nhằm tác động một cách có hệ thống đến sự
phát triển tinh thần, thể chất của đối tượng nào đó, làm cho đối tượng ấy dần
dần có được những phẩm chất và năng lực như yêu cầu đề ra. 2. (danh từ). Hệ

25


×