Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

Tác động của cơ sở kĩ thuật phục vụ du lịch đến hoạt động du lịch ở thành phố đà nẵng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1017.17 KB, 92 trang )

1
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA SỬ
----------

PHẠM THỊ NGÂN

Tác động của cơ sở kĩ thuật phục vụ du lịch đến
hoạt động du lịch ở thành phố Đà Nẵng

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP


2

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Du lịch hiện đang là một ngành kinh tế mũi nhọn, đem lại nhiều lợi ích cho mỗi
quốc gia. Chúng ta đã và đang phấn đấu xây dựng Việt Nam trở thành điểm đến hấp dẫn
của thế giới. Làm cho du lịch thật sự trở thành “chiếc đòn bẩy” để đất nước thẳng tiến vào
kỉ ngun của cơng nghiệp hóa, tồn cầu hóa.
Để làm được điều đó thì song song với q trình khai thác hợp lý tài nguyên du
lịch, đào tạo đội ngũ nhân lực chất lượng cao thì việc đầu tư cơ sở vật chất kĩ thuật du lịch
là một vấn đề vơ cùng quan trọng và khơng thể thiếu. Có thể nói, cơ sở vật chất kĩ thuật
du lịch là điều kiện vật chất để phát triển ngành du lịch, và trong một chừng mực nào đó,
nó quyết định chất lượng phục vụ của điểm đến. Như vậy, có thể thấy rõ, cơ sở vật chất kĩ
thuật du lịch có vai trò to lớn đến sự phát triển du lịch.
Đất nước Việt Nam trải dài theo hình chữ “S”, và Đà Nẵng nằm trong “khúc ruột”
của dải đất ấy. Tọa lạc tại vùng đất miền Trung thân thương, giàu đẹp, Đà Nẵng mang
trong mình nhiều lợi thế phát triển du lịch. Để khai thác hiệu quả thế mạnh đó, trong thời


gian qua và cả hiện nay, chính quyền Đà Nẵng đã “trang bị” cơ sở vật chất kĩ thuật cho
ngành du lịch và do vậy du lịch nơi đây đã có những bước phát triển mạnh mẽ. Kết quả
mang lại cho du lịch Đà Nẵng từ trước đến nay đã cho thấy cơ sở vật chất kĩ thuật du lịch
có tác động rất lớn đến sự phát triển du lịch nơi đây. Và đó là lý do mà chúng tơi chọn đề
tài “Tác động của cơ sở kĩ thuật phục vụ du lịch đến hoạt động du lịch ở thành phố Đà
Nẵng” làm khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Nói đến du lịch là nói đến sự hấp dẫn của tài nguyên, nguồn nhân lực… đặc biệt là
nói đến hệ thống cơ sở vật chất kĩ thuật phục vụ du lịch để sẵn sàng đón tiếp du khách. Đó
là nơi thỏa mãn những nhu cầu cơ bản, đặc trưng và bổ sung của du khách. Tuy vậy, các
cơng trình nghiên cứu về mảng đề tài này ở Việt Nam chưa thật sự rõ nét. Nhìn chung ở
mức độ khái quát, chung chung và ít về số lượng, chủ yếu là một phần trong các cơng
trình có đề cập đến.
Đầu tiên phải kể đến Giáo trình kinh tế du lịch của GS.TS Nguyễn Văn Đính,
PGS.TS Nguyễn Thị Minh Hòa đồng chủ biên tái bản năm 2009 của Nxb Đại học Kinh tế
Quốc dân. Giáo trình đã có một chương khái quát về cơ sở vật chất kĩ thuật du lịch Việt
Nam dưới dạng song hành cùng cơ sở vật chất kĩ thuật du lịch thế giới chứ chưa thật sự đi


3
sâu nghiên cứu về Việt Nam, cụ thể là tác giả đã đưa ra những khái niệm, nhận định, phân
loại, đánh giá… sau đó là đưa những ví dụ ở Việt Nam vào để làm sáng tỏ hoặc bổ sung
thêm. Tác giả đã cho chúng ta có một cái nhìn tổng quát về cơ sở vật chất kĩ thuật du lịch
ở mức độ lý luận.
Trong khi đó, Nguyễn Văn Lưu với quyển sách Thị trường du lịch do Nxb Đại học
Quốc gia Hà Nội phát hành năm 2009 đã đánh giá thực trạng của cơ sở vật chất kĩ thuật
du lịch được gói gọn trong một chương về thị trường du lịch Việt Nam. Vì là một trong
bốn nhân tố tạo nên cung du lịch, do vậy thực trạng của cơ sở vật chất kĩ thuật du lịch
cũng được đánh giá trong phạm vi của cung du lịch. Đó là sự thống kê, đánh giá về số
lượng, chất lượng, quy mô cơ sở vật chất kĩ thuật du lịch trong khả năng đáp ứng nhu cầu

của du khách. Như vậy, nhìn chung bức tranh về thực trạng cơ sở vật chất kĩ thuật du lịch
đã được vẽ ra khá chi tiết.
Thêm vào đó, cơ sở vật chất kĩ thuật du lịch đã được nghiên cứu ở phạm vi địa
phương qua tiểu luận của Khoa Quản trị du lịch, trường Đại học dân lập Phương Đông với
tên đề tài là: Thực trạng cơ sở vật chất kĩ thuật phục vụ du lịch Phong Nha, Quảng Bình.
Đề tài đã nêu rõ được thực trạng của cơ sở vật chất kĩ thuật phục vụ du lịch nơi đây và đã
đưa ra được những định hướng, giải pháp để nâng cao hiệu quả sử dụng, khai thác.
Đà Nẵng được biết đến là một thành phố trẻ, với sự vươn lên vượt bậc trong thời
gian gần đây. Thành phố đã có sự phát triển về nhiều mặt, đặc biệt là về du lịch. Nơi đây
đã biết khai thác thế mạnh của mình để trở thành “điểm sáng” về du lịch của miền Trung.
Đà Nẵng là cửa ngõ, là điểm kết nối các di sản miền Trung với bốn di sản văn hóa của
nhân loại là Quần thể di tích cố đơ Huế, Phong Nha – Kẻ Bàng, phố cổ Hội An, thánh địa
Mỹ Sơn. Thành phố “đầu biển cuối sông” này trở thành trạm dừng chân lý tưởng cho
những chặng hành trình trên “con đường” này. Khơng chỉ có vậy, Đà Nẵng cịn được
thiên nhiên ưu đãi cho những cảnh sắc tuyệt đẹp mang dấu ấn của riêng mình như “Nam
thiên danh thắng” Ngũ Hành Sơn, bán đảo Sơn Trà tựa hình cây nấm vươn ra biển, bãi
biển quyến rũ Mỹ Khê… Song hành với đó, con người nơi đây cũng tạo ra những “tuyệt
tác” về du lịch, trở thành điểm nhấn cho hình ảnh của mình, trong đó phải kể đến “Thiên
đường nghỉ dưỡng” Bà Nà với cáp treo lập hai kỉ lục thế giới.
Du lịch Đà Nẵng đã và đang phát triển với tư cách là điểm đến hấp dẫn của du
khách trong nước và quốc tế, và không thể không nhắc đến vai trò quan trọng của cơ sở
vật chất kĩ thuật du lịch. Để nói đến sự phát triển rầm rộ của việc đầu tư du lịch vào Đà


4
Nẵng, Th.s Bùi Thanh Luân, Đại học kinh tế Đà Nẵng đã có một bài viết trên tạp chí của
Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Đà Nẵng số 12 ra tháng 9 năm 2011 với tựa đề: “Vận
dụng Marketing địa phương trong thu hút đầu tư phát triển du lịch Đà Nẵng”. Bài viết đã
làm rõ được thực trạng phát triển của du lịch Đà Nẵng cũng như sự phát triển của cơ sở
vật chất kĩ thuật du lịch ở bộ phận cơ sở lưu trú với việc số vốn và số lượng đầu tư trong

giai đoạn 2006 - 2010, chủ yếu là ở lĩnh vực khách sạn và nhà hàng. Qua đó nêu ra những
tác động tích cực đến du lịch, kinh tế, xã hội và đề xuất giải pháp để thu hút mạnh mẽ hơn
nữa đầu tư vào du lịch. Như vậy, nhìn chung cơ sở vật chất kĩ thuật du lịch ở Đà Nẵng đã
được chú ý ở mặt cơ sở lưu trú, chưa có cái nhìn tổng quát về hệ thống cơ sở vật chất kĩ
thuật du lịch nơi đây.
Nói tóm lại, cơ sở vật chất kĩ thuật đã được khai thác dưới nhiều góc độ khác nhau,
nhưng chưa thật sự cụ thể và đầy đủ.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài “Tác động của cơ sở kĩ thuật phục vụ du lịch đến hoạt động du
lịch ở thành phố Đà Nẵng” nhằm mục đích phân tích một cách cụ thể tác động của cơ sở
vật chất kĩ thuật du lịch đến hoạt động du lịch ở thành phố Đà Nẵng. Thơng qua q trình
nghiên cứu về thực trạng phát triển du lịch tại Đà Nẵng, đề tài đưa ra định hướng và giải
pháp nhằm tăng cường và nâng cao hiệu quả sử dụng, khai thác cơ sở vật chất phục vụ du
lịch nơi đây. Để khẳng định vai trò của cơ sở vật chất kĩ thuật phục vụ du lịch đối với hoạt
động du lịch của thành phố Đà Nẵng.
Để đạt được những mục đích đó, thì các nhiệm vụ cần thực hiện tốt là:
- Đánh giá thực trạng của cơ sở vật chất kĩ thuật phục vụ du lịch ở Đà Nẵng.
- Phân tích tình hình phát triển của du lịch nơi đây và chủ động đề xuất các biện
pháp để thúc đẩy du lịch ngày càng phát triển tương xứng với sự đầu tư ngày càng tăng về
du lịch của thành phố trong tương lai.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng chính đề tài hướng đến là cơ sở vật chất kĩ thuật phục vụ du lịch và tác
động của cơ sở vật chất kĩ thuật phục vụ du lịch đến hoạt động du lịch của Đà Nẵng.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
4.2.1. Phạm vi nội dung nghiên cứu


5
Do điều kiện thời gian và kiến thức còn nhiều hạn chế, chúng tơi chỉ xin đi sâu tìm

hiểu cụ thể các vấn đề sau:
- Đề tài đi sâu vào nghiên cứu tác động của cơ sở vật chất kĩ thuật du lịch đến hoạt động
du lịch của thành phố Đà Nẵng.
- Dựa vào các nội dung thực tế đã nghiên cứu, đề tài đưa ra định hướng và giải pháp cụ
thể để tăng cường và nâng cao hiệu quả sử dụng, khai thác cơ sở vật chất kĩ thuật du lịch
nhằm đẩy mạnh phát triển du lịch của thành phố Đà Nẵng.
4.2.2. Phạm vi không gian nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu tác động của cơ sở vật chất kĩ thuật du lịch đến hoạt
động du lịch của thành phố Đà Nẵng.
4.2.3. Phạm vi thời gian nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu tác động của cơ sở vật chất kĩ thuật du lịch đến hoạt động du lịch
của thành phố Đà Nẵng từ khi phát triển du lịch đến nay và tập trung chủ yếu trong vài
năm gần đây.
5. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu
5.1. Nguồn tư liệu
Trong q trình nghiên cứu đề tài này, chúng tơi khai thác nguồn tư liệu từ nhiều
nguồn khác nhau. Trên cơ sở tài liệu đã tham khảo, chúng tôi chia thành các nguồn tư liệu
sau: tư liệu thành văn, tư liệu thực địa, tư liệu mạng.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Tiến hành nghiên cứu đề tài này, chúng tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu
chủ yếu là: phương pháp thu thập, tổng hợp, phân tích tư liệu; phương pháp thực địa;
phương pháp so sánh đối chiếu.
6. Đóng góp của đề tài
Đề tài sau khi được nghiên cứu hoàn chỉnh trước hết sẽ góp phần khẳng định vai
trị quan trọng của cơ sở vật chất kĩ thuật du lịch đối với việc phát triển du lịch của thành
phố Đà Nẵng.
Ngoài ra đề tài còn làm rõ được thực trạng của cơ sở vật chất kĩ thuật du lịch ở Đà
Nẵng, đóng góp vào kho tư liệu về du lịch của thành phố.
Mặc khác, đề tài cũng đưa ra giải pháp và định hướng nhằm nâng cao hơn nữa vai
trò đặc biệt quan trọng của cơ sở vật chất kĩ thuật du lịch để thúc đẩy du lịch Đà Nẵng thật

sự mạnh cả “tiềm” và “lực”.


6
7. Cấu trúc đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, đề tài bao gồm phần
nội dung với 3 chương:
- Chương 1: Cơ sở lý luận chung
- Chương 2: Tác động của cơ sở vật chất kĩ thuật phục vụ du lịch đối với hoạt động
du lịch
- Chương 3: Giải pháp và định hướng nhằm tăng cường và nâng cao hiệu quả sử
dụng, khai thác cơ sở vật chất phục vụ du lịch tại Đà Nẵng


7

NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG
1.1. Các điều kiện phát triển du lịch
1.1.1. Một số khái niệm cơ bản về du lịch
Tài nguyên du lịch: là cảnh quan thiên nhiên, yếu tố tự nhiên, di tích lịch sử - văn
hố, cơng trình lao động sáng tạo của con người và các giá trị nhân văn khác có thể được
sử dụng nhằm đáp ứng nhu cầu du lịch, là yếu tố cơ bản để hình thành các khu du lịch,
điểm du lịch, tuyến du lịch, đô thị du lịch.
Chất lượng dịch vụ du lịch: là mức phù hợp của dịch vụ của các nhà cung ứng du
lịch thỏa mãn các yêu cầu của khách du lịch thuộc thị trường mục tiêu.
Sản phẩm du lich: là sự kết hợp những dịch vụ, phương tiện vật chất trên cơ sở
khai thác các tiềm năng du lịch nhằm cung cấp cho du khách một khoảng thời gian thú vị,
một kinh nghiệm du lịch trọn vẹn và sự hài lịng.
Loại hình du lịch: được hiểu là một tập hợp các sản phẩm du lịch có những đặc

điểm giống nhau, hoặc vì chúng thỏa mãn những nhu cầu, động cơ du lịch tương tự, hoặc
được bán cho cùng một nhóm khách hàng, hoặc vì chúng có cùng một cách phân phối,
một cách tổ chức như nhau, hoặc được xếp chung theo một mức giá bán nào đó.
Cầu du lịch: là một bộ phận nhu cầu của xã hội có khả năng thanh tốn về hàng
hóa, vật chất và dịch vụ du lịch đảm bảo sự đi lại, lưu trú tạm thời, giải trí của con người
ngoài nơi ở thường xuyên của họ, nhằm mục đích nghỉ ngơi, giải trí, tìm hiểu văn hóa,
chữa bệnh, tham gia vào các chương trình đặc biệt và các mục đích khác.
Cung du lịch: là một thành phần cơ bản của thị trừơng du lịch, bao gồm toàn bộ
hàng hóa du lịch (cả hàng hóa vật chất và dịch vụ du lịch) mà các chủ thể thị trường bên
bán có khả năng đưa ra thị trường và sẵn sàng bán trong một thời điểm xác định để đáp
ứng các nhu cầu du lịch nhằm mục đích sinh lợi.
Thị trường du lịch: là bộ phận của thị trường chung, một phạm trù của sản xuất và
lưu thơng hàng hóa, dịch vụ du lịch, phản ánh toàn bộ quan hệ trao đổi giữa người mua và
người bán, giữa cung và cầu và tồn bộ các mối quan hệ, thơng tin kinh tế, kĩ thuật gắn
với mối quan hệ đó trong lĩnh vực du lịch.


8
Doanh nghiệp du lịch là một đơn vị cung ứng trên thị trường du lịch, đồng thời là
một đơn vị tiêu thụ.
Nguồn nhân lực ngành du lịch bao gồm toàn bộ lực lượng lao động trực tiếp và
gián tiếp liên quan đến quá trình phục vụ khách du lịch. Do đó, khi đề cập đến khái niệm
nguồn nhân lực ngành du lịch thì khơng chỉ đề cập đến các lao động nghiệp vụ phục vụ
khách một cách trực tiếp mà còn cả các lao động ở cấp độ quản lý, lao động làm công tác
đào tạo và các lao động gián tiếp khác phục vụ khách du lịch.
Xúc tiến du lịch: là hoạt động tuyên truyền, quảng bá, vận động nhằm tìm kiếm,
thúc đẩy cơ hội phát triển du lịch.
1.1.2. Các điều kiện phát triển du lịch
1.1.2.1. Điều kiện chung
* Những điều kiện chung đối với sự phát triển của hoạt động đi du lịch

Thời gian rỗi của nhân dân
Muốn thực hiện được một cuộc hành trình du lịch địi hỏi con người phải có thời
gian. Do vậy, thời gian rỗi của nhân dân là điều kiện tất yếu cần thiết phải có để con người
tham gia vào hoạt động du lịch. Số thời gian rỗi của nhân dân càng nhiều thì các tổ chức
du lịch có cơ hội để thu hút nhiều lượt khách từ đó tăng doanh thu và ngược lại. Do đó,
các cơ sở du lịch sẽ trở thành nguồn tiết kiệm thời gian rỗi và là tiền đề vật chất cho việc
kéo dài thời gian rỗi của nhân dân lao động. Các cơ sở ấy đóng vai trị trung tâm kích
thích việc sử dụng thời gian rỗi một cách hợp lý, để thỏa mãn nhu cầu thể chất và tinh
thần cho toàn dân.
Mức sống về vật chất và trình độ văn hóa chung của người dân cao
Mức sống vật chất cao: hoạt động du lịch chỉ được phát sinh khi con người có
điều kiện về kinh tế. Hay nói cách khác, thu nhập của nhân dân là chỉ tiêu quan trọng
và là điều kiện vật chất để họ có thể tham gia đi du lịch. Vì khi đi du lịch, khách thực
hiện các nhu cầu của mình như nhu cầu cơ bản (nhu cầu đi lại, ăn uống, lưu trú), nhu
cầu đặc trưng (nhu cầu nghỉ ngơi, giải trí, tham quan, thăm viếng, tìm hiểu…), nhu cầu
bổ sung (nhu cầu thẩm mỹ, làm đẹp, giặt là…). Và xu hướng của con người khi đi du
lịch là chi tiêu rộng rãi hơn.


9
Trình độ văn hóa chung của người dân cao: trình độ văn hóa chung của một
dân tộc được nâng cao thì động cơ đi du lịch của nhân dân ở đó tăng lên rõ rệt. Số
người đi du lịch tăng, lòng ham hiểu biết và mong muốn làm quen với các nước xa gần
cũng tăng và trong nhân dân, thói quen đi du lịch sẽ hình thành ngày càng rõ rệt. Mặt
khác, nếu trình độ văn hóa chung của một đất nước cao, thì đất nước đó khi phát triển
du lịch sẽ dễ đảm bảo phục vụ khách du lịch một cách văn minh và làm hài lòng khách
đi du lịch đến đó.
Giao thơng vận tải phát triển
Từ xưa, giao thông vận tải là tiền đề phát triển du lịch. Ngày nay, giao thông
vận tải đã trở thành một trong những nhân tố chính cho sự phát triển của du lịch, đặc

biệt là du lịch quốc tế. Trong những năm gần đây, lĩnh vực giao thông, đặc biệt là giao
thông trong du lịch phát triển cả về số lượng lẫn chất lượng.
* Những điều kiện có ảnh hưởng nhiều hơn đến hoạt động kinh doanh du lịch
Tình hình và xu hướng phát triển kinh tế của đất nước
Tình hình và xu hướng phát triển kinh tế của đất nước quyết định đến khả năng
và xu hướng phát triển du lịch. Sức mạnh, tốc độ phát triển kinh tế cùng với sự phát
triển của các ngành kinh tế như công nghiệp nhẹ, nông nghiệp, công nghiệp chế biến
lương thực, thực phẩm sẽ có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển của ngành du
lịch.
Tình hình chính trị hịa bình, ổn định của đất nước và các điều kiện an toàn đối
với du khách
Tình hình chính trị, hịa bình ổn định của đất nước là tiền đề cho sự phát triển
về mọi lĩnh vực của đất nước. Nếu một đất nước hịa bình, ổn định thì sẽ thu hút được
nhiều khách du lịch. Ngược lại, nếu bất ổn thì sự phát triển của du lịch sẽ bị hạn chế.
Các điều kiện an tồn đối với du khách, bao gồm: tình hình an ninh, trật tự xã
hội, sự thù hằn dân tộc, các bệnh dịch nguy hiểm…
1.1.2.2. Các điều kiện đặc trưng
* Điều kiện về tài nguyên du lịch
Tài nguyên du lịch là một điều kiện quan trọng để phát triển du lịch của mỗi
cùng, mỗi quốc gia, bao gồm:


10
Tài nguyên thiên nhiên: các điều kiện về môi trường tự nhiên như địa hình đa
dạng, khí hậu ơn hịa, thực vật phong phú, giàu tài nguyên nước và vị trí đia lý thuận
lợi đóng vai trị là những tài nguyên thiên nhiên về du lịch.
Tài nguyên nhân văn: các giá trị văn hóa, lịch sử, các thành tựu chính trị và
kinh tế có ý nghĩa đặc trưng cho sự phát triển của du lịch. Đó là các giá trị lịch sử
(tượng đài, bảo tàng, trường đại học, các trung tâm triễn lãm…), các giá trị văn hóa
(phong tục tập quán, lễ hội…)…

* Điều kiện về sự sẵn sàng phục vụ
Các điều kiện về tổ chức: bao gồm những nhóm điều kiện sau
Sự có mặt của bộ máy quản lý nhà nước về du lịch (đó là bộ máy quản lý vĩ mơ
về du lịch). Bộ máy đó bao gồm: các chủ thể quản lý (cấp trung ương và cấp địa
phương); hệ thống các chủ thể quản lý (bao gồm một số đạo luật và các văn bản pháp
quy dưới luật); các chính sách (ví dụ các chính sách lớn về kinh tế như tỉ giá hối đối,
giá cả, chính sách lớn về xã hội như thanh toán các tệ nạn xã hội, trong du lịch bồi
dưỡng trình độ nghiệp vụ, ngoại ngữ…) và cơ chế quản lý.
Sự có mặt của các tổ chức và doanh nghiệp và chuyên trách về du lịch (đó là bộ
máy quản lý vi mơ về du lịch). Các tổ chức này có nhiệm vụ chăm lo đến việc đảm
bảo sự đi lại và phục vụ trong thời gian lưu trú của khách du lịch. Phạm vi hoạt động
của các doanh nghiệp bao gồm: kinh doanh khách sạn; kinh doanh lữ hành; kinh doanh
vận chuyển khách du lich; kinh doanh các dịch vụ du lịch khác.
Các điều kiện về kĩ thuật
Các điều kiện về kĩ thuật ảnh hưởng đến sự sẵn sàng đón tiếp khách du lịch
trước tiên là cơ sở vật chất kĩ thuật du lịch (của một cơ sở, một vùng hay một đất
nước) và sau đó là cơ sở vật chất kỹ thuật hạ tầng xã hội.
Cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch: Cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch của tổ chức du
lịch bao gồm toàn bộ nhà cửa và phương tiện kỹ thuật giúp cho việc phục vụ để thỏa
mãn các nhu cầu của khách du lịch như: khách sạn, nhà hàng, phương tiện giao thông
vận tải, các khu nhà giải trí, cửa hàng, cơng viên, đường sá, hệ thống thoát nước, mạng
lưới điện trong khu vực của cơ sở du lịch (có thể là của một cơ sở du lịch, có thể là của
một khu du lich). Thuộc về cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch cịn bao gồm tất cả những
cơng trình mà tổ chức du lịch xây dựng bằng vốn đầu tư của mình (rạp chiếu phim, sân
thể thao…). Cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch đóng vai trị quan trọng trong q trình sản


11
xuất và tiêu thụ sản phẩm du lịch. Sự tận dụng có hiệu quả các tài nguyên du lịch và
việc thỏa mãn các nhu cầu của du khách phụ thuộc một phần lớn vào cơ sở vật chất kỹ

thuật du lịch.
Cơ sở vật chất kỹ thuật hạ tầng xã hội: Cơ sở vật chất kỹ thuật hạ tầng xã hội là
những phương tiện vật chất không phải do các tổ chức du lịch xây dựng mà là của toàn
xã hội. Đó là hệ thống đường sá, nhà ga, sân bay, bến cảng, đường sắt, cơng viên của
tồn dân, mạng lưới thương nghiệp của khu dân cư, hệ thống thông tin viễn thơng, hệ
thống cấp thốt nước, mạng lưới điện, các rạp chiếu phim, nhà hát, viện bảo tàng…
Cơ sở vật chất kỹ thuật hạ tầng xã hội là đòn xeo thúc đẩy mọi hoạt động kinh
tế - xã hội của một đất nước. Đối với ngành du lịch thì cơ sở vật chất kỹ thuật hạ tầng
xã hội là yếu tố cơ sở nhằm khai thác tiềm năng du lịch và nâng cao chất lượng sản
phẩm du lịch. Mặt khác, phát triển du lịch cũng là một yếu tố tích cực thúc đẩy, nâng
cao và mở rộng cơ sở vật chất kỹ thuật hạ tầng của một vùng hay của một đất nước.
Trong cơ sở hạ tầng kỹ thuật của xã hội phục vụ đắc lực nhất và có tầm quan
trọng nhất đối với du lịch là hệ thống giao thông vận tải (đường không, đường bộ,
đường thủy). Hệ thống thơng tin viễn thơng; hệ thống cấp, thốt nước; hệ thống cung
cấp điện. Đây chính là cơ sở vật chất kỹ thuật bậc hai đối với du lịch. Nó được xây
dựng để phục vụ nhân dân địa phương và sau nữa là phục vụ cả khách du lich đến
thăm đất nước hoặc vùng du lịch. Đây là cơ sở có tầm quan trọng đặc biệt vì nó nằm
sát ngay nơi du lịch, nó quyết định nhịp độ phát triển du lịch và trong chừng mực nào
đó cịn quyết định chất lượng phục vụ du lịch.
Các điều kiện về kinh tế
Các điều kiện về kinh tế liên quan đến sự sẵn sàng đón tiếp khách du lịch phải
kể đến:
Việc đảm bảo các nguồn vốn để duy trì và phát triển hoạt động kinh doanh du
lịch (bởi vì ngành du lịch là ngành luôn đi đầu về phương diện tiện nghi hiện đại và là
ngành liên tục đổi mới).
Việc thiết lập các mối quan hệ kinh tế với các bạn hàng.
Trong việc cung ứng vật tư cho các tổ chức du lịch, việc cung ứng phải đảm
bảo thường xuyên và có chất lượng tốt. Việc cung ứng thường xuyên có ý nghĩa hai
mặt. Thứ nhất, thỏa mãn đầy đủ hàng hóa cho các nhu cầu du lịch. Thứ hai, tăng thu
nhập ngoại tệ (hàng hóa và dịch vụ phong phú hơn dẫn đến khách du lịch tiêu tiền



12
nhiều hơn). Song song với việc cung ứng đầy đủ và đều đặn vật tư hàng hóa cho tổ
chức du lịch, cần phải quan tâm đến chất lượng và giá cả của hàng hóa vật tư để đảm
bảo cho tổ chức du lịch có đủ sức cạnh tranh trên thương trường.
* Một số tình hình và sự kiện đặc biệt
Có một số tình hình và sự kiện đặc biệt có thể thu hút khách du lịch và là điều
kiện đặc trưng để phát triển du lịch. Đó là các hội nghị, đại hội, các cuộc hội đàm dân
tộc hoặc quốc tế, các cuộc thi Ơlympic, các cuộc kỉ niệm tín ngưỡng hoặc chính trị,
các dạ hội liên hoan... Tất cả những hình thức đó đều ngắn ngủi, nhưng đóng vai trị có
ích trong sự phát triển du lịch. Vai trị và ý nghĩa của những sự kiện đó thể hiện ở 2
hướng:
• Tuyên truyền, quảng cáo cho những giá trị văn hóa và lịch sử của đất nước
đón khách.
• Khắc phục tính khơng đồng đều trong việc sử dụng cơ sở vật chất kỹ thuật du
lịch. Mặt khác điều cũng có lợi cho tổ chức du lịch, vì đó là hình thức kéo dài thời vụ
du lịch, sử dụng cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch hợp lý hơn.
1.2. Cơ sở vật chất kĩ thuật ngành du lịch
1.2.1. Khái niệm
Nghĩa rộng: “Cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch được hiểu là toàn bộ các phương
tiện vật chất kĩ thuật được huy động tham gia vào việc k hai thác các tài nguyên du lịch
nhằm tạo ra và thực hiện các dịch vụ và hàng hóa thỏa mãn nhu cầu của khách trong
các chuyến hành trình của họ.” [3:168]
Nghĩa hẹp: “Cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch được hiểu là toàn bộ các phương
tiện vật chất kĩ thuật do các tổ chức du lịch tạo ra để khai thác các tiềm năng du l ịch,
tạo ra các dịch vụ, sản phẩm và hàng hóa cung cấp và làm thỏa mãn nhu cầu của du
khách. Chúng bao gồm hệ thống các khách sạn, nhà hàng, các khu vui chơi giải trí,
phương tiện vận chuyển… và đặc biệt nó bao gồm cả các cơng trình kiến trúc bổ trợ.”
[3:168]

1.2.2. Vai trị
Cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch có vai trò quan trọng trong việc phát triển của
ngành du lịch. Để có tiến hành khai thác được các tài nguyên du lịch phải tạo ra được
hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch tương ứng. Hệ thống này vừa phải đảm bảo


13
phù hợp với đặc trưng của dịch vụ du lịch, đồng thời phải phù hợp với đặc thù của tài
nguyên du lịch tại đó.
Hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch được tạo ra lại là yếu tố quan trọng tác
động đến mức độ thỏa mãn nhu cầu của khách du lịch bởi năng lực và tính tiện ích của
nó. Có 3 yếu tố cấu thành để tạo nên sản phẩm và dịch vụ du lịch thỏa mãn nhu cầu
của du khách là tài nguyên du lịch, cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch, lao động trong du
lịch.
Như vậy, cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch là yếu tố quan trọng, không thể thiếu.
Con người bằng sức lao động của mình sử dụng cơ sở vật chất kĩ thuật để khai thác
các giá trị của tài nguyên du lịch tạo ra dịch vụ, hàng hóa cung ứng cho du khách.
Ngồi yếu tố tài ngun thì tính đa dạng, phong phú, hiện đại, hấp dẫn của cơ sở vật
chất kỹ thuật du lịch cũng tạo nên tính đa dạng, phong phú và hấp dẫn của dịch vụ du
lịch. Một quốc gia, một doanh nghiệp muốn phát triển du lịch tốt phải có một hệ thống
cơ sở vật chất kĩ thuật tốt. Cho nên, có thể nói rằng trình độ phát triển của cơ sở vật
chất kỹ thuật du lịch là điều kiện, đồng thời cũng là sự thể hiện trình độ phát triển du
lịch của một đất nước.
1.2.3. Phân loại
1.2.3.1. Phân loại theo chức năng tham gia vào quá trình lao động
Theo tiêu thức này, cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch được chia thành hai loại là:
tư liệu lao động và đối tượng lao động.
Các điều kiện vật chất đảm bảo cho quá trình lao động như nhà cửa, đường sá,
hệ thống cấp thoát nước, phương tiện liên lạc, thơng tin… là thành phần chính tạo ra
mơi trường thực hiện mục đích chuyến đi du lịch lại chiếm một tỉ trọng lớn trong tư

liệu lao động và trong giá thành dịch vụ, hàng hóa.
Yếu tố thuộc về đối tượng lao động trong cấu thành cơ sở vật chất kỹ thuật du
lịch có thể là nguyên liệu, bán thành phẩm tham gia vào quá trình sản xuất các sản
phẩm ăn uống hay các hàng hóa khác. Chúng cũng có thể là các vật tư phục vụ cho
quá trình lao động nhằm tạo ra và thực hiện các dịch vụ chính và dịch vụ bổ sung.


14
1.2.3.2. Phân loại theo quá trình tạo ra dịch vụ và hàng hóa du lịch
Theo tiêu thức này, cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch được chia thành các nhóm
sau: Cơ sở vật chất kĩ thuật phục vụ các hoạt động trung gian; các cơ sở lưu trú; nhà
hàng; các khu vực dịch vụ bổ sung và vui chơi giải trí; phục vụ giao thơng vận tải.
Cơ sở vật chất kĩ thuật phục vụ các hoạt động trung gian: Đây chính là hệ thống
cơ sở vật chất kĩ thuật của các đại lý, văn phịng và cơng ty lữ hành du lịch. Đảm bảo
chức năng chủ yếu là tổ chức xây dựng, bán và thực hiện các chương trình du lịch; làm
cầu nối giữa khách du lịch với các nhà cung cấp sản phẩm du lịch khác hay với các
điểm du lịch. Theo đó, hệ thống cơ sở vật chất kĩ thuật của bộ phận này chủ yếu là các
văn phòng và các trang thiết bị văn phòng, các phương tiện thơng tin liên lạc. Ở góc độ
kế tốn tài chính, cơ sở vật chất kĩ thuật của bộ phận này còn bao gồm cả các yếu tố tài
sản như các phần mềm hệ thống liên quan đến việc hỗ trợ thực hiện các tác nghiệp
kinh doanh và quản lý.
Cơ sở vật chất kĩ thuật phục vụ vận chuyển du lịch: Đây chính là hệ thống của
các nhà cung cấp dịch vụ vận chuyển khách du lịch. Chức năng chính là đảm bảo nhận
cơng tác vận chuyển khách du lịch. Thành phần chính trong hệ thống cơ sở vật chất kĩ
thuật này là các phương tiện vận chuyển, các cơ sở vật chất kĩ thuật phục vụ quản lý,
điều hành, bán vé và các hoạt động tác nghiệp khác.
Cơ sở vật chất kĩ thuật phục vụ lưu trú: Đây chính là thành phần đặc trưng nhất
trong hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch. Hệ thống cơ sở vật chất kĩ thuật của bộ
phận này tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau: khách sạn, motel, nhà trọ, biệt thự,
Bungglow… Thành phần chính của bộ phận này là hệ thống các tòa nhà với các phòng

nghỉ và các trang thiết bị tiện nghi đảm bảo cho điều kiện sinh hoạt hàng ngày của du
khách. Ngồi ra nó cũng bao gồm các cơng trình đặc biệt bổ trợ tham gia vào việc tạo
khung cảnh môi trường như hệ thống giao thông nội bộ, các khuôn viên. Trong số các
loại hình trên, khách sạn là loại phổ biến hơn cả và cũng có nhiều mức độ quy mơ
khác nhau và hình thức cũng hết sức đa dạng.
Cơ sở vật chất kĩ thuật phục vụ ăn uống: Cùng với hệ thống cơ sở vật chất kĩ
thuật phục vụ lưu trú, cơ sở vật chất kĩ thuật phục vụ ăn uống là một bộ phận quan
trọng trong toàn bộ hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch. Cơ sở vật chất kĩ thuật
phục vụ ăn uống (nhà hàng) có thể tồn tại độc lập hoặc đi kèm với bộ phận lưu trú


15
trong tổng thể của hệ thống cơ sở vật chất kĩ thuật khách sạn. Cơ sở vật chất kĩ thuật
của bộ phận này bao gồm các yếu tố đảm bảo điều kiện tiện nghi cho hoạt động ăn
uống của du khách. Do đó, cơ sở vật chất kĩ thuật của bộ phận này có hai thành phần
nổi bật đó là cơ sở vật chất kĩ thuật của khu chế biến và bảo quản thức ăn (bếp) và cơ
sở vật chất kĩ thuật của khu vực phục vụ ăn (phòng tiệc, quầy Bar).
Cơ sở vật chất kĩ thuật của dịch vụ bổ sung: Cơ sở vật chất kĩ thuật của dịch vụ
bổ sung chủ yếu là các cơng trình, thiết bị nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho khách
trong việc tiêu dùng các dịch vụ và sử dụng triệt để các yếu tố tài nguyên. Hệ thống
này bao gồm các khu vực giặt là, cắt tóc, vật lý trị liệu, bể bơi, sân tenis. Cơ sở vật
chất kĩ thuật của bộ phận này thường gắn liền với các cơ sở lưu trú. Quy mô của hệ
thống này phụ thuộc vào quy mô của bộ phận lưu trú.
Cơ sở vật chất kĩ thuật phục vụ vui chơi, giải trí: Bộ phận này chủ yếu là các
cơng trình nhằm tạo điều kiện cho khách du lịch trong vui chơi, rèn luyện sức khỏe
nhằm mang lại sự thích thú hơn về kì nghỉ hoặc thư giãn sau những giờ làm việc căng
thẳng. Cơ sở vật chất kĩ thuật của bộ phận này bao gồm các trung tâm thể thao, phòng
tập, bể bơi, sân tenis, các cơng viên, khu vui chơi giải trí. Cũng tương tự như bộ phận
dịch vụ bổ sung, một số của bộ phận này thường gắn liền với các cơ sở lưu trú, số khác
tồn tại độc lập với các cơ sở này nhưng thường vẫn nằm trong các trung tâm du lịch.

1.2.3.3. Phân loại theo chức năng quản lý và kinh doanh
Theo tiêu thức này, cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch được chia thành hai loại là:
cơ sở vật chất kĩ thuật thuộc các cơ quan quản lý ngành du lịch quản lý và cơ sở vật
chất kĩ thuật thuộc các doanh nghiệp du lịch quản lý.
Cơ sở vật chất kĩ thuật thuộc các cơ quan quản lý ngành du lịch quản lý: mặc dù
không trực tiếp tạo ra sản phẩm du lịch song bộ phận này lại rất quan trọng vì nó có
nhiệm vụ giúp cho các cơ quan quản lý du lịch có thể làm việc, đề ra các chính sách,
các giải pháp phát triển du lịch quốc gia. Bộ phận này bao gồm nhà cửa, các phịng
làm việc và trang thiết bị trong đó và các phương tiện khác.
Cơ sở vật chất kĩ thuật thuộc các doanh nghiệp du lịch quản lý: bộ phận này là
yếu tố quan trọng trực tiếp tạo nên dịch vụ, hàng hóa du lịch ở các doanh nghiệp lữ
hành, khách sạn, nhà hàng, vui chơi, giải trí...


16
1.2.4. Đặc điểm
Cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch có mối quan hệ mật thiết với tài nguyên du lịch
Khách đi du lịch dù với mục đích như thế nào thì đều sử dụng các tài nguyên du
lịch tại các điểm du lịch và các yếu tố đảm bảo điều kiện tiện nghi: cơ sở vật chất kỹ
thuật du lịch. Như vậy, tài nguyên du lịch và cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch có mối
quan hệ chặt chẽ với nhau, tác động lẫn nhau. Nó vừa thống nhất lại vừa mâu thuẫn
với nhau.
Mối quan hệ thống nhất: Điều này thể hiện rằng ở đâu có tài nguyên du lịch
muốn được khai thác thì ở đó phải có cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch đi kèm. Ngược
lại, không thể xây dựng hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch ở những nơi khơng có
tài nguyên du lịch.
Mối quan hệ mâu thuẫn: Điều này thể hiện ở những tác động tiêu cực từ phía hệ
thống cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch đối với tài nguyên du lịch. Đó là những vấn đề về
ý tưởng dự án; quy hoạch giải phóng mặt bằng; quá trình xây dựng, vận hành và sử
dụng cơng trình. Những tác động tiêu cực đó thường kéo theo những hậu quả làm giảm

sức hấp dẫn của tài nguyên và những hậu quả khác về môi trường. Và song song với
điều đó là cơng việc khắc phục với những chi phí khơng nhỏ.
Cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch có tính đồng bộ trong xây dựng và sử dụng cao
Đặc điểm này xuất phát từ tính tổng hợp của nhu cầu du lịch bao gồm cả nhu
cầu thiết yếu, nhu cầu đặc trưng và nhu cầu bổ sung. Khách du lịch ln địi hỏi phải
được thỏa mãn đồng thời tất các nhu cầu đó. Do vậy, cần có sự đồng bộ các yếu tố về
cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch để phục vụ tốt nhất cho khách du lịch. Đó là sự đồng bộ
về: sự đầy đủ các thành phần theo quy định của một hệ thống; sự hài hòa cân đối giữa
các khu vực trong một tổng thể theo một yếu tố trung tâm; sự hợp lý về mặt thiết kế và
xây dựng.
Cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch có giá trị một đợn vị cơng suất sử dụng cao
Xuất phát từ các nguyên nhân sau đây:
Nhu cầu du lịch là nhu cầu tổng hợp, đa dạng. Khách du lịch ln có địi hỏi
cao về mức độ tiện nghi trong thời gian đi du lịch. Do đó, cần có vốn để đầu tư trang
thiết bị sang trọng, hiện đại và tiện nghi.


17
Trong du lịch, xu hướng mới lạ và khác biệt luôn được chú ý và trở thành yếu
tố cạnh tranh của các doanh nghiệp, địa phương cũng như mỗi đất nước. Điều này thể
hiện ở sự đầu tư về cảnh quan môi trường, sản phẩm du lịch, kiến trúc công trình…
Tính đồng bộ chất lượng cao trong xây dựng và sử dụng, đảm bảo sự cân đối,
hài hòa và thống nhất.
Tác động của tính thời vụ trong du lịch. Khoảng thời gian không phục vụ khách
và công tác duy tu, bảo dưỡng là những tổn hao chi phí khá lớn.
Thời gian hao mịn thành phần chính của hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật du
lịch tương đối lâu
Các thành phần chính của hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch là các cơng
trình kiến trúc như khách sạn, nhà hàng… Đơi khi những cơng trình này với tính mới
lạ và độc đáo thì có thể trở thành điểm cuốn hút nhiều du khách. Đi du lịch là để trải

nghiệm những khoảng thời gian thú vị và những dịch vụ đó khơng mang tính sở hữu.
Do vậy, việc đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch cần đảm bảo tính lâu dài và tránh
tình trạng phải thường xuyên cải tạo nâng cấp để không làm mất uy tín trong kinh
doanh, tổn hao kinh phí và tạo ra sự thiếu đồng bộ.
Một số thành phần của hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch được sử dụng
khơng cân đối
Do ảnh hưởng của tính thời vụ trong du lịch và tùy thuộc vào đối tượng khách
đi du lịch. Cho nên cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch chỉ được sử dụng vào một số thời
điểm nhất định mà khơng phải là tồn bộ thời gian.


18

CHƯƠNG 2: TÁC ĐỘNG CỦA CƠ SỞ VẬT CHẤT KĨ THUẬT
PHỤC VỤ DU LỊCH ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG DU LỊCH
2.1. Khái quát về Đà Nẵng và tình hình phát triển du lịch ở Đà Nẵng
2.1.1. Khái quát về Đà Nẵng
2.1.1.1. Khái quát về tự nhiên
Thành phố Đà Nẵng nằm ở trung độ đất nước, phía bắc giáp tỉnh Thừa Thiên
Huế, phía tây và nam giáp tỉnh Quảng Nam, phía đơng giáp biển Đơng. Địa hình Đà
Nẵng khá đa dạng: phía bắc là đèo Hải Vân hùng vĩ; vùng núi cao thuộc huyện Hịa
Vang (phía tây bắc của tỉnh) với núi Mang 1 708m, núi Bà Nà 1 487m; phía đơng là
bán đảo Sơn Trà hoang sơ và một loạt các bãi tắm biển đẹp trải dài từ bán đảo Sơn Trà
đến bãi biển Non Nước; phía nam có núi Ngũ Hành Sơn; ngồi khơi có quần đảo
Hồng Sa với ngư trường rộng lớn.
Đà Nẵng nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới, chia 2 mùa rõ rệt, mùa mưa và mùa
khô. Nhiệt độ trung bình năm từ 28ºC - 29ºC, bão thường đổ bộ trực tiếp vào thành
phố các tháng 9, 10 hàng năm.
2.1.1.2. Khái quát về kinh tế - xã hội
Đà Nẵng là một trong những địa phương có tốc độ tăng trưởng kinh tế khá cao

trong cả nước, với tốc độ tăng trưởng GDP bình quân giai đoạn 1997 - 2010 (theo giá
cố định 1994) đạt 11,30 %/năm so với mức bình quân 7,27 %/năm của cả nước. Qua
các năm, giá trị sản xuất công nghiệp, nông - lâm - thủy sản, tổng mức bán hàng hóa
và dịch vụ xã hội đều có xu hướng tăng lên. Điều quan trọng là mức tăng trưởng này
khá phù hợp với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của thành phố theo hướng giảm tỷ
trọng ngành nông nghiệp, tăng dần tỷ trọng ngành công nghiệp - xây dựng và dịch vụ.
Thu nhập bình quân đầu người của Đà Nẵng những năm qua được nâng lên rõ rệt, năm
sau cao hơn năm trước. Nếu GDP bình qn đầu người tính theo giá hiện hành năm
1997 là 4,8 triệu/người, đến năm 2000 là 6,9 triệu/người, năm 2005 là 14,8 triệu/người
thì năm 2010 đã đạt mức 35,8 triệu/người/năm (tăng gấp 7,4 lần so với năm 1997).
2.1.2. Tình hình phát triển du lịch ở Đà Nẵng
Đà Nẵng đang phấn đấu phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, có
vị trí quan trọng trong cơ cấu kinh tế của thành phố; xây dựng Đà Nẵng trở thành trung


19
tâm du lịch, gắn với tổng thể du lịch Huế - Đà Nẵng - Quảng Nam - Tây Nguyên,
trong mối quan hệ quốc gia và khu vực Đông Nam Á.
Để đạt được mục tiêu đó, Đà Nẵng tiếp tục đầu tư xây dựng, phát triển hạ tầng
du lịch một cách đồng bộ, kêu gọi đầu tư trong và ngoài nước, hình thành các trung
tâm du lịch biển quốc tế; phát triển các dịch vụ giải trí, ưu tiên giải trí cao cấp như:
golf, thể thao giải trí trên biển (thuyền buồm, lướt sóng, lặn biển, xây dựng các khu du
lịch sinh thái, nghỉ dưỡng, tắm khống nóng, du lịch văn hóa, lịch sử, tham quan hội
chợ, triển lãm… và một số khu vực vui chơi có thưởng dành riêng cho người nước
ngoài).
Trong những năm qua, du lịch Đà Nẵng đã trở thành điểm sáng của du lịch cả
nước. Những thương hiệu du lịch đã được khẳng định, đó là Lễ hội bắn pháo hoa quốc
tế thường niên thu hút rất đông du khách thưởng thức, du lịch biển cùng với những
hoạt động sơi động… góp phần định hình điểm đến Đà Nẵng đối với du khách trong
và ngoài nước.

Song song với đó là tín hiệu lạc quan về các chỉ số phát triển du lịch càng tạo
nên sức hấp dẫn đặc biệt của thành phố: lượng khách du lịch đến Đà Nẵng tăng nhanh
và ổn định; tình hình đầu tư của các dự án du lịch bắt đầu khởi sắc góp phần vào việc
phát triển và nâng cao chất lượng của sản phẩm du lịch; công tác quảng bá xúc tiến du
lịch từng bước đi vào trọng tâm, trọng điểm và có tính chun nghiệp hơn; việc xúc
tiến mở các đường bay quốc tế trực tiếp đến thành phố được quan tâm, một số đường
bay quốc tế trực tiếp bước đầu được định hình góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho
các đơn vị khai thác khách quốc tế trực tiếp đến với Đà Nẵng; hoạt động đảm bảo an
ninh trật tự, vệ sinh môi trường được tập trung tăng cường, xây dựng điểm đến an
ninh, an toàn, văn minh, thân thiện và mến khách, từng bước xây dựng Đà Nẵng trở
thành điểm đến hấp dẫn du khách.
Năm 2011, đã có 57 dự án đầu tư vào du lịch với tổng số vốn là 65 163 tỉ đồng;
thành phố đã đón tiếp và phục vụ 2 350 000 lượt khách, với tổng thu nhập du lịch là 2
000 tỉ đồng. Đây có thể xem là năm thành cơng của du lịch Đà Nẵng. Dự đoán trong
thời gian tới, du lịch Đà Nẵng sẽ phát triển vượt bậc hơn nữa. Những tín hiệu vui của
du lịch trong hiện tại và cả những triển vọng trong tương lai đã phần nào hoàn thành


20
được những mục tiêu mà thành phố đã đề ra. Nỗ lực đưa Đà Nẵng thành trung tâm du
lịch của miền Trung – Tây Nguyên đã có nền tảng vững chắc.
2.2. Thực trạng cơ sở vật chất kĩ thuật phục vụ du lịch tại thành phố Đà Nẵng
2.2.1. Kết cấu hạ tầng đô thị phục vụ du lịch
2.2.1.1. Kết cấu hạ tầng kinh tế
Mạng lưới giao thông
Hiện nay, Đà Nẵng là đô thị loại 1 trực thuộc Trung ương, với sự đầu tư và phát
triển đồng bộ hệ thống mạng lưới giao thông, Đà Nẵng đã trở thành đầu mối giao
thông quan trọng của khu vực miền Trung - Tây Nguyên và của cả nước. Mạng lưới
này bao gồm hệ thống đường không với sân bay quốc tế, đường thủy với cảng biển
nước sâu, các tuyến đường bộ, đường sắt Bắc Nam đã phát triển hoàn chỉnh và ngày

càng trở nên thơng suốt. Có thể nói, mạng lưới giao thơng ở Đà Nẵng thuộc vào loại
tốt và hợp lý ở nước ta. Điều này tạo điều kiện thuận lợi cho Đà Nẵng trong công tác
vận chuyển du khách nhằm phục vụ mạnh mẽ cho ngành du lịch nơi đây.
Đường bộ: thành phố Đà Nẵng có hệ thống giao thơng đường bộ rất phát triển
với tổng (không kể đến các hẻm, kiệt và đường đất) là 382 583 km. Trong đó có hai
quốc lộ chạy qua là quốc lộ 1A và quốc lộ 14B với chiều dài là 70 865m. Hệ thống
đường sá trong nội thành được xây dựng, nâng cấp với các con đường nội thị chính với
làn đường rộng, lòng đường chất lượng cũng như cảnh quan đẹp đã đưa vào sử dụng
như Bạch Đằng, Điện Biên Phủ, Nguyễn Tất Thành, Hoàng Sa - Trường Sa (Sơn Trà Điện Ngọc cũ), Phạm Văn Đồng...; xây dựng thêm hệ thống cầu hiện đại bắc qua sơng
Hàn gồm có cầu Thuận Phước, cầu sông Hàn, cầu Tuyên Sơn, cầu Cẩm Lệ, cầu Hịa
Xn...
Đường thủy: cảng Đà Nẵng nằm ở vị trí 16°17’33’’ vĩ độ Bắc, 108°20’30’’ độ
kinh Đông trong vịnh Đà Nẵng - cảng thương mại lớn thứ ba ở Việt Nam sau cảng Sài
Gòn và cảng Hải Phòng. Với độ sâu cầu cảng là 11m, hệ thống kho bãi và trang thiết
bị đồng bộ vừa được nâng cấp bằng nguồn vốn của chính phủ Nhật Bản, cảng Đà
Nẵng có thể tiếp nhận các loại tàu hàng có trọng tải 45 DWT và các tàu chuyên dùng
khác như tàu container, tàu khách, tàu hàng siêu trường siêu trọng. Năng lực bốc dỡ
hàng hóa 3 - 4 triệu tấn/năm. Tại cảng Đà Nẵng hiện có các tuyến tàu biển quốc tế đi
Hồng Kông, Singapor, Nhật Bản, Đài Loan và Hàn Quốc. Cảng Đà Nẵng bao gồm hai
khu vực cảng biển Tiên Sa và khu vực cảng sông Hàn.


21
Đường sắt: thành phố Đà Nẵng có hệ thống đường sắt huyết mạch Bắc - Nam
đi ngang qua với tổng chiều dài khoảng 30 km. Trên địa bàn thành phố có năm ga: Đà
Nẵng, Thanh Khê, Kim Liên, Hải Vân Nam và Lệ Trạch. Hiện nay, ga Đà Nẵng thuộc
vào loại lớn và tốt nhất khu vực miền Trung và Tây Nguyên.
Đường hàng không: sân bay quốc tế Đà Nẵng nằm ngay giữa lòng thành phố,
đây là một trong ba sân bay lớn nhất cả nước, được hiện đại hơn vào năm 2011, có khả
năng cho hạ cánh và cất cánh các loại máy bay hiện đại như: B747, B767, A320,

A321... trong mọi điều kiện thời tiết. Ngoài các chuyến bay nội địa, hàng tuần cịn có
các chuyến bay quốc tế trực tiếp từ Đà Nẵng đi Singapor, Băng Cốc, Đài Bắc, Hồng
Kông, Nhật Bản và Hàn Quốc… Tuy nhiên, bên cạnh các đường bay nội địa đến các
thành phố lớn của Việt Nam, sân bay quốc tế Đà Nẵng chỉ có một số ít các đường bay
quốc tế.
Điều hết sức đặc biệt trong tháng 12/2011 lại có thêm sự kiện là Nhà ga mới
của sân bay quốc tế Đà Nẵng bắt đầu đưa vào khai thác. Nhà ga gồm có 3 tầng phục vụ
và 1 tầng hầm, với tổng diện tích sử dụng 36 600m² trên diện tích 14 400m², nằm liền
kề nhà ga cũ, với 36 quầy thủ tục, khu vực check-in, siêu thị mini, dịch vụ ăn uống
cùng nhiều dịch vụ phụ trợ khác. Nhà ga mới có cơng suất phục vụ khoảng 4,5 - 5
triệu lượt khách/năm và tiếp nhận từ 400 000 đến 1 triệu tấn hàng hóa/năm. Theo kế
hoạch, từ năm 2015 trở đi Nhà ga sân bay quốc tế Đà Nẵng là Nhà ga lớn thứ ba của
cả nước sau Nội Bài và Tân Sơn Nhất, sẽ đạt công suất 6 - 8 triệu hành khách/năm.
Trong khi đó mạng lưới giao thơng ln được cải tạo và nâng cấp ngày càng
hiện đại hơn. Trong những năm tiếp theo, thành phố Đà Nẵng đang hoạch định tầm
nhìn chiến lược quy hoạch, đầu tư xây dựng hồn thiện cơ sở hạ tầng giao thơng vận
tải cơng cộng. Hàng loạt chương trình, dự án nhằm nâng cấp hệ thống vận tải công
cộng hiện đại đang được xúc tiến triển khai nhằm đáp ứng nhu cầu đi lại, vận tải cho
người dân, phục vụ yêu cầu phát triển bền vững kinh tế - xã hội của thành phố. Theo
đó, thành phố sẽ xây dựng 4 tuyến tàu điện ngầm với tổng chiều dài 90km, sử dụng hệ
thống xe buýt nhanh, đường sắt nhẹ với kết cấu trên mặt đất, trên cao và đi ngầm dưới
lòng đất; bãi xe ngầm ở nhiều điểm trong thành phố. Điều này không chỉ tạo điều kiện
thuận lợi về giao thông và phát triển du lịch mà còn tạo cảnh quan, làm thay đổi diện
mạo của một thành phố văn minh, lịch sự và sầm uất nhất ở miền Trung Việt Nam.


22
Hệ thống thông tin truyền thông
Cùng với mạng lưới giao thơng phát triển, Đà Nẵng có hệ thống thơng tin
truyền thơng được đầu tư rất đồng bộ. Có thể nói hệ thống thơng tin truyền thơng đã

được hiện đại hóa và phát triển mạnh, đảm bảo nhu cầu trong nước và quốc tế. Thành
phố Đà Nẵng là một trong ba trung tâm lớn về bưu chính - viễn thơng của cả nước
(cùng với Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh). Đà Nẵng nằm trên đường cáp quang
quốc tế với trạm cáp quang SE - ME - WE3 và có đài cáp biển quốc tế nằm trên địa
bàn phường Hòa Hải (quận Ngũ Hành Sơn) có đường truyền quốc tế tốc độ 355Mbp/s
với chất lượng hàng đầu các nước Đông Nam Á. Bưu điện Đà Nẵng hiện đang cung
cấp các dịch vụ viễn thông mới đa dạng và hiện đại, làm thỏa mãn mọi nhu cầu của
khách hàng với chất lượng và phương thức phục vụ hoàn thiện hơn. Với hệ thống
thông tin mạnh như vậy, Đà Nẵng đủ khả năng đáp ứng một cách đầy đủ nhất các yêu
cầu của mọi tổ chức, cá nhân trên địa bàn thành phố và khu vực miền Trung - Tây
Nguyên. Hiện nay, hệ thống cáp quang ngầm cũng đã được đầu tư tại các tuyến đường
trọng yếu trên thành phố.
Hệ thống điện, nước
Hệ thống cấp nước và cấp điện cho sinh hoạt cũng như sản xuất đang dần được
nâng cấp, xây dựng mới để phục vụ ngày càng tốt hơn cho đời sống của người dân
cũng như cho hoạt động sản xuất kinh doanh.
Nguồn điện dùng cho sinh hoạt và sản xuất của thành phố Đà Nẵng đảm bảo
cung cấp từ lưới điện quốc gia thông qua đường dây 500 KV Bắc - Nam từ nhà máy
thủy điện Hịa Bình. Lượng điện này đáp ứng được nhu cầu sản xuất và tiêu dùng của
nhân dân. Tất cả các xã vùng sâu vùng xa đều đã có điện sản xuất và sinh hoạt. Hiện
tại, thành phố đang đầu tư thêm cho việc mở rộng và đổi mới hệ thống lưới dẫn điện
này. Đặc biệt, các bãi biển được đầu tư hệ thống ánh sáng hiện đại.
Nhà máy cấp nước Đà Nẵng hiện có cơng suất hơn 210 000m³/ngày đêm. Đà
Nẵng có 4 nhà máy cung cấp nước là nhà máy nước Cầu Đỏ, Sân Bay, Sơn Trà và Hải
Vân với tổng công suất thiết kế 90 000m³/ngày đêm, đang khai thác 105 000m³/ngày
đêm. Trong đó: nhà máy nước Cầu Đỏ là nhà máy nước lớn với dây chuyền xử lý nước
công suất đạt 120 000 m³/ngày đêm; nhà máy nước Sân Bay là nhà máy nước vừa với


23

công suất xử lý nước đạt 30 000 m³/ngày đêm; trạm cấp nước Sơn Trà có cơng suất xử
lý nước đạt 5 000 m³/ngày đêm. Hải Vân có cơng suất là 5 000 m³/ngày đêm.
2.2.1.2. Kết cấu hạ tầng xã hội
Các cơ sở văn hóa
Hiện nay, thành phố có sáu Bảo tàng: Bảo tàng Đà Nẵng, Bảo tàng Điêu khắc
Chăm, Bảo tàng Hồ Chí Minh, Bảo tàng Khu V và Bảo tàng tư nhân Đồng Đình, Bảo
tàng Hồng Sa. Tạo điều kiện thuận lợi để tổ chức tiến hành, sưu tầm hiện vật, nâng
cao đời sống văn hoá và phát triển du lịch, kinh tế của thành phố. Bên cạnh đó, trên địa
bàn có hệ thống Nhà Truyền thống như: Nhà Truyền thống xã Hịa Hải, Nhà Truyền
thống Cơng An Đà Nẵng, nhà Truyền thống K.20, Nhà Truyền thống quận Thanh
Khê… Tuy nhiên, phần lớn đều đang trong tình trạng bị xuống cấp, cần đầu tư sửa
chữa, nâng cấp.
Các khu vui chơi giải trí
Với hệ thống các thiết chế văn hóa - thể thao như nhà hát Tuồng Nguyễn Hiển
Dĩnh, nhà hát Trưng Vương, nhà biểu diễn đa năng, cung thể thao Tiên Sơn... những
nơi thường xuyên diễn ra các hoạt động ca múa nhạc, xiếc tạp kỹ và các mơn thi đấu
thể thao trong nhà như cầu lơng, bóng đá mini… phục vụ một phần nhu cầu vui chơi
giải trí của người dân thành phố. Bên cạnh đó, hoạt động vui chơi giải trí của người
dân, đặc biệt của giới trẻ sẽ cịn được đáp ứng thơng qua hệ thống các cở sở chiếu
phim như rạp Lê Độ, MegaStar... Ngồi cơng viên 29/3 thì hệ thống các cơng viên, các
khu vui chơi giải trí tập trung dành cho người dân và du khách trên địa bàn thành phố
khá khiêm tốn. Cần phát triển hơn nữa các công viên, khu vui chơi để đảm bảo đời
sống tinh thần lành mạnh và bổ ích cho nhân dân đia phương cũng như du khách.
Các cơ sở đào tạo du lịch
Hệ thống cơ sở đào tạo du lịch của thành phố có bước phát triển tích cực, với
nhiều trường đào tạo hệ đại học ngành quản trị kinh doanh du lịch và hệ cao đẳng
ngành quản trị kinh doanh khách sạn, lữ hành, nhà hàng. Ngồi ra, cịn có hệ thống
trường trung cấp và trường nghề đào tạo các ngành về du lịch, đặc biệt là trường dạy
nghề Việt - Úc chuyên đào tạo lao động ngành du lịch được đánh giá khá cao. Thành
phố cũng đang tích cực phối hợp với Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch tập trung xây

dựng trường Cao đẳng nghề Du lịch Đà Nẵng trở thành trường Đại học Du lịch Đà
Nẵng.


24
2.2.1.3. Các cơ sở dịch vụ khác
Các dịch vụ hỗ trợ đầu tư khác (tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, y tế...) cũng
được đầu tư khá hoàn thiện. Hầu hết các ngân hàng và các cơng ty tài chính lớn của
Việt Nam đều có chi nhánh tại Đà Nẵng. Một số chi nhánh ngân hàng nước ngồi và
cơng ty bảo hiểm quốc tế cũng đang hoạt động có hiệu quả tại thành phố. Các dịch vụ
này ngày càng hoàn thiện hơn, đáp ứng nhu cầu của các nhà đầu tư lẫn khách tiêu
dùng.
Hiện nay, Đà Nẵng là trung tâm tài chính lớn nhất của khu vực Miền Trung Tây Nguyên với khoảng 60 chi nhánh ngân hàng cấp I, 1 ngân hàng chính sách xã hội,
1 ngân hàng phát triển, 1 cơng ty tài chính, 3 cơng ty cho th tài chính, 01 Quỹ Đầu
tư Phát triển địa phương và hơn 200 phòng, điểm giao dịch, Quỹ tiết kiệm, 09 cơng ty
bảo hiểm và 04 cơng ty kiểm tốn đang hoạt động. Trên địa bàn thành phố có hơn 12
000 doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế đang hoạt động. Công nghệ thông tin,
đặc biệt là công nghệ phần mềm, hiện đang được tập trung phát triển trở thành một
trong những ngành kinh tế chủ lực với hiệu quả kinh tế cao và đóng góp đáng kể vào
sự tăng trưởng GDP của Đà Nẵng.
Mặc dù, số lượng ngân hàng và mạng lưới chi nhánh phát triển mạnh, nhưng
dịch vụ ngân hàng vẫn chưa phong phú, sản phẩm chưa đa dạng, các chi nhánh ngân
hàng chủ yếu tập trung khai thác các sản phẩm của hai dịch vụ căn bản và truyền
thống: dịch vụ cho vay và dịch vụ nhận tiền gửi.
Trong những năm qua, hệ thống y tế ngoài công lập tại thành phố Đà Nẵng tiếp
tục phát triển mạnh, nhiều cơ sở y tế tư nhân được thành lập dưới nhiều hình thức khác
nhau như trung tâm bác sĩ gia đình, bệnh viện tư nhân, các cơ sở hành nghề y dược…
nhằm giảm tình trạng quá tải ở hệ thống y tế công lập.
2.2.2. Cơ sở vật chất kĩ thuật phục vụ du lịch
2.2.2.1. Các cơ sở phục vụ lưu trú

Số lượng
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nhu cầu du lịch cùng với những chính sách
trải thảm đỏ mời gọi các nhà đầu tư nước ngoài, tạo mọi điều kiện thuận lợi về thủ tục
hành chính… Do vậy, trong thời gian qua, số lượng cơ sở lưu trú du lịch của thành phố
tăng nhanh rõ rệt.


25
Bảng 1. Số lượng doanh nghiệp kinh doanh lưu trú ở thành phố
Năm
Số lượng

2006

2007

2008

2009

2010

2011

115

137

135


145

181

278

4 134

4 634

6 089

8 663

304

317

Số lượng phòng
Tổng doanh nghiệp du lịch

253

334

406

(Nguồn: Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Đà Nẵng)
Qua bảng 1 ta thấy số lượng cơ sở lưu trú chiếm số lượng lớn trong các doanh
nghiệp du lịch ở Đà Nẵng và cũng có thay đổi rõ rệt trong thời kì 2006 - 2011. Tốc độ

tăng trưởng bình qn là 20,6 %. Trong đó tăng cao nhất là thời kì 2010 - 2011 là gần
54 %. Tiếp đó là 2009 - 2010 với 24,8 %. Thấp nhất là 2007 - 2008 với tỉ lệ giảm 3,5
%. Như vậy, số lượng doanh nghiệp lưu trú đã tăng lên nhanh chóng và có vai trị rất
lớn trong việc duy trì nguồn khách ổn định của Đà Nẵng theo từng năm.
Theo số liệu thống kê hiện nay, Đà nẵng có tổng cộng 278 khách sạn và resort
với 8 663 phịng, trong đó: 07 khách sạn 5 sao và tương đương với 1 735 phòng; 03
khách sạn 4 sao và tương đương với 496 phòng; 27 khách sạn 3 sao và tương đương
với 1 453 phòng; 241 khách sạn 2 sao trở xuống (gồm 1-2 sao và tương đương 1,2 sao)
với 4 979 phịng.
Theo ước tính, từ năm 2010 - 2012, nguồn cung khách sạn tại Đà Nẵng sẽ có
thêm khoảng 45 dự án mới, cung cấp khoảng 7 000 phòng từ khách sạn 3 sao đến 5
sao, trong đó 2/3 số dự án mới nằm ở quận Ngũ Hành Sơn với khoảng 4 300 phòng.
Riêng trong năm 2011, nhiều khu du lịch từ 4-5 sao đã đi vào hoạt động như Fusion
Maia Resort, Vinpearl Luxury, Hyatt Regency… cũng là dấu hiệu đáng mừng để phục
vụ một cách tốt nhất nhu cầu của khách du lịch khi số lượng buồng phòng ngày càng
hiếm vào thời điểm Đà Nẵng tổ chức các sự kiện mang tầm cỡ quốc tế. Theo đó đến
năm 2012 dự tính sẽ có thêm 12 khách sạn với hơn 2 000 phòng nghỉ được đưa vào
hoạt động.
Mặc dù đang trong thời kỳ kinh tế suy thoái, nhưng hoạt động mua bán biệt thự,
căn hộ du lịch tại thành phố Đà Nẵng diễn ra khá sôi động, hiện tại đã chào bán được
một biệt thự du lịch với giá khá cao, đối tượng mua chủ yếu là ở Hà Nội và thành phố
Hồ Chí Minh. Các dự án xây dựng biệt thự, căn hộ du lịch tập trung tai các quận
Thanh Khê, Sơn Trà, Ngũ Hành Sơn.


×