Tải bản đầy đủ (.pdf) (79 trang)

Tư tưởng hồ chí minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội và sự vận dụng của đảng ta trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (717.44 KB, 79 trang )

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
----------

ĐINH THỊ THANH TÂM

Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội và sự vận dụng của Đảng ta
trong giai đoạn hiện nay

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP

SƯ PHẠM GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ


2

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho chúng ta một di sản tinh thần vô giá,
những giá trị nhân văn cao cả. Cuộc đời và sự nghiệp của Người là tấm gương
sáng ngời về tư tưởng và đạo đức cách mạng, là ngọn đuốc soi đường cho cuộc
đấu tranh của Đảng, của nhân dân ta. Chính vì vậy Đại hội lần thứ VII của Đảng
Cộng sản Việt Nam (1991) đã khẳng định: Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của toàn Đảng,
của toàn dân ta.
Lựa chọn con đường đi cho dân tộc ta, HCM khẳng định: “Làm tư sản dân
quyền và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản” [18, 1]. Như vậy ngay từ
đầu cho đến tận mãi sau này trong tư tưởng Hồ Chí Minh, tư tưởng về độc lập
dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là tư tưởng chính trị đặc sắc, là luận điểm


trung tâm, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt và bao trùm trong di sản tư tưởng của Người.
Tư tưởng đặc sắc ấy thể hiện nhất quán mục tiêu của con đường cách mạng mà
người đã lựa chọn, nó vừa đáp ứng yêu cầu bức xúc của dân tộc và khát vọng
của quần chúng nhân dân giành lấy độc lập tự do, ấm no, hạnh phúc, giải phóng
cuộc đời lầm than, đói khổ dưới ách thống trị tàn bạo của chủ nghĩa thực dân, đế
quốc và bè lũ tay sai. Tư tưởng ấy đã đưa dân tộc ta đến độc lập, tự do, Bắc Nam sum họp một nhà và ngày nay đó là nguồn sức mạnh trong sự nghiệp xây
dựng một xã hội Việt Nam mới xã hội chủ nghĩa dân giàu nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh.
Kế thừa các quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về con đường đi cho
dân tộc Việt Nam, Báo cáo Chính trị tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI
(2011), Đảng ta tiếp tục khẳng định: “chỉ có chủ nghĩa xã hội mới bảo đảm cho


3

dân tộc ta có độc lập, tự do thực sự, đất nước phát triển phồn vinh nhân dân có
cuộc sống ấm no hạnh phúc”. Có thể nói đây là sự tổng kết sâu sắc về lịch sử và
lý luận của quá trình cách mạng nước ta, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong đường lối
cách mạng của Đảng, từ khi Đảng ra đời cho đến nay.
Mặt khác, sau sự sụp đổ của mơ hình chủ nghĩa xã hội kiểu cũ, các thế lực
đế quốc và bọn phản động trong nước đang cố tìm mọi cách nhằm xóa bỏ các
nước xã hội chủ nghĩa còn lại. Một trong những thủ đoạn về lý luận của chúng là
cố tìm cách xuyên tạc dẫn đến phủ nhận vai trò của chủ nghĩa Mác-Lênin và cho
rằng “Chủ nghĩa xã hội là một sai lầm của lịch sử”, do đó việc lựa chọn con
đường đi của dân tộc ta là gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội cũng là một
sai lầm. Cuộc đấu tranh bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, khẳng định con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội của các lực lượng tiến bộ ở Việt Nam và trên thế giới đòi
hỏi những người cách mạng phải kiên định lập trường quan điểm, đồng thời phải
chủ động hơn trong cuộc đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận nhằm chống
lại sự xuyên tạc lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh của các thế lực thù

địch.
Vì vậy, việc tìm hiểu sâu hơn tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội, và sự vận dụng của Đảng ta trong giai đoạn hiện
nay có ý nghĩa vơ cùng to lớn. Xuất phát từ những lý do trên chúng tôi quyết
định chọn đề tài: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội và sự vận dụng của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay” làm đề tài
nghiên cứu của mình.
2. Tình hình nghiên cứu.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội
là một tư tưởng lớn, bao trùm và xuyên suốt trong chặng đường lịch sử của cách
mạng Việt Nam, là đề tài rộng có tầm quan trọng đặc biệt thu hút sự chú ý của


4

rất nhiều nhà nghiên cứu. Trong những năm gần đây, ở nước ta đã có nhiều cơng
trình nghiên cứu về độc lập dân tộc gắn liền chủ nghĩa xã hội với nhiều góc độ
khác nhau như: Nguyễn Duy Quý, (1998), Những vấn đề lý luận về chủ nghĩa xã
hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia,
Hà Nội; Nguyễn Bá Linh, (2006), Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội; Nguyễn Bá Linh, (1998),
Cương lĩnh đầu tiên của Đảng – Ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội,
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội; Phạm Văn Đồng, (1990). Hồ Chí Minh, một
con người, một dân tộc, một thời đại, một sự nghiệp, Nxb Sự Thật, Hà
Nội….Nhìn chung, dù ở góc độ nào các tác giả đều nêu lên những vấn đề cơ bản
nhất trong tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội của Hồ Chí
Minh, làm rõ tư tưởng độc lập dân tộc là ngọn cờ bách chiến, bách thắng của
cách mạng Việt Nam, thêm vào đó là những vận dụng sáng tạo của Hồ Chí Minh
về lý luận con đường đi lên chủ nghĩa xã hội Việt Nam. Gần đây nhất là cơng
trình Hồ Chí Minh với sự nghiệp độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

thuộc chương trình khoa học cấp bộ trọng điểm: Di sản Hồ Chí Minh trong thời
đại ngày nay giai đoạn 2008 – 2009 của Vũ Đình Hịe và Bùi Đình Phong (đồng
chủ biên) đã tập trung làm rõ tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và cách
mạng giải phóng dân tộc là cơ sở lý luận cho sự nghiệp đấu tranh giành độc lập
tự do của dân tộc Việt Nam.
Trên cơ sở kế thừa những công trình nghiên cứu của các tác giả đã được
cơng bố, trong khóa luận này tơi muốn hệ thống lại, làm rõ thêm một số vấn đề,
đặc biệt là những vấn đề về cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập
dân tộc gắn liền chủ nghĩa xã hội và sự vận dụng tư tưởng của Người về độc lập
dân tộc gắn liền chủ nghĩa xã hội của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay.
3. Mục đích nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài.


5

- Khẳng định con đường cách mạng Việt Nam mà Chủ tịch Hồ Chí Minh
lựa chọn độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là đúng đắn, từ đó tìm
hiểu sự vận dụng của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay.
- Để thực hiện mục đích đó, đề tài tập trung giải quyết những nhiệm vụ
sau đây:
+ Làm rõ cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội.
+ Làm rõ nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
+ Sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền chủ
nghĩa xã hội của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay.
4. Phương pháp nghiên cứu.
- Khóa luận lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan
điểm của Đảng làm cơ sở phương pháp luận nghiên cứu.
- Khóa luận sử dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp, phương pháp

logic, phương pháp lịch sử và các phương pháp khác có liên quan.
5. Ý nghĩa của khóa luận.
Việc nghiên cứu đề tài này giúp người viết làm quen với phương pháp
nghiên cứu khoa học, rèn luyện tư duy khoa học, tiếp cận và nghiên cứu các vấn
đề lịch sử từ đó củng cố thêm kiến thức về tư tưởng Hồ Chí Minh.
6. Cấu trúc khóa luận.
Ngồi phần mở đầu và kết luận, nội dung của khóa luận gồm 2 chương:
Chương 1: Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội.
Chương 2: Sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội của Đảng ta hiện nay.


6

PHẦN NỘI DUNG
Chương 1
NỘI DUNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐỘC LẬP DÂN TỘC GẮN
LIỀN VỚI CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
1.1. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội.
1.1.1. Cơ sở lý luận.
1.1.1.1. Những giá trị truyền thống của dân tộc Việt Nam.
Trong di sản lý luận của Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc,
sợi chỉ đỏ xuyên suốt là quan điểm độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội,
là lý luận về cuộc cách mạng giải phóng dân tộc do giai cấp công nhân lãnh đạo
để rồi chuyển biến phát triển lên cách mạng xã hội chủ nghĩa. Những giá trị
truyền thống dân tộc Việt Nam có ảnh hưởng đến sự hình thành tư tưởng Hồ Chí
Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội cần phải kể đến gồm:
Thứ nhất, chủ nghĩa yêu nước, ý chí đấu tranh anh dũng bất khuất cho độc

lập tự do, ý thức tự lực tự cường.
Việt Nam là một quốc gia dân tộc có tinh thần dân tộc, ý thức cộng đồng
xuất hiện khá sớm. Tinh thần dân tộc trải qua quá trình đấu tranh liên tục, lâu dài
chống giặc ngoại xâm và phòng chống thiên tai đã phát triển thành tinh thần yêu
nước và chủ nghĩa yêu nước.
Chủ nghĩa yêu nước là sản phẩm tinh thần cao quý nhất của dân tộc Việt
Nam, là tư tưởng và tình cảm thiêng liêng giữ vị trí chuẩn mực cao nhất của đạo
lý và đứng đầu bậc thang giá trị dân tộc. Tinh thần đó đã phát huy sức mạnh vơ
biên của nó trong các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm và là một động lực nội


7

sinh của cộng đồng dân tộc trong sự nghiệp xây dựng đất nước, sợi chỉ đỏ xuyên
qua toàn bộ lịch sử Việt Nam.
Khi bàn về hệ tư tưởng yêu nước Việt Nam, Giáo sư Trần Văn Giàu
khẳng định: “Lịch sử Việt Nam, dài nhiều nghìn năm, chủ yếu là lịch sử đấu
tranh giành lại và bảo vệ độc lập dân tộc. Cho nên tư tưởng chủ yếu của dân tộc
Việt Nam là tư tưởng yêu nước xuyên suốt lịch sử cổ kim. Sự hình thành và phát
triển của tư tưởng u nước đi đơi với sự hình thành và phát triển của quốc gia
dân tộc. Lịch sử Việt Nam trải qua bao nhiêu thời đại thịnh suy tư tưởng yêu
nước có bấy nhiêu hồi tiến lên hay suy thối rồi quật khởi, lúc nào thực tế cũng
chứng minh rằng tư tưởng yêu nước không phải là một triết lý để nhàn đàm, nó
là kim chỉ nam cho hành động, là một tiêu chuẩn để nhận định đúng – sai, tốt –
xấu, nên – chăng. Vận nước suy hay thịnh, mất hay còn, nhục hay vinh, phần rất
quan trọng là tùy thuộc ở chỗ ta ứng dụng và phát huy hay là ta qn lãng và
chơn vùi món vũ khí tinh thần ấy mà tất cả các thế hệ tổ tiên, ông cha đều có góp
công quả, máu xương để rèn luyện”. [8, 8]
Hồ Chí Minh khơng phải là người Việt Nam đầu tiên u nước, nhưng
cơng lao của Người chính là đã nâng chủ nghĩa yêu nước lên một tầm cao mới

khi những vấn đề của thời đại tác động vào Việt Nam và những vấn đề mà dân
tộc Việt Nam địi hỏi. Cũng chính sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước đã thúc
giục Nguyễn Tất Thành quyết chí ra đi tìm đường cứu nước, tìm kiếm những gì
hữu ích cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc.
Chủ nghĩa yêu nước sẽ biến thành lực lượng vật chất thực sự khi nó ăn
sâu vào tiềm thức, vào ý chí và hành động của mỗi con người. Chính từ thực tiễn
đó Người đã đúc kết ra chân lý: “Dân ta có một lịng nồng nàn u nước. Đó là
một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng
thì tinh thần ấy lại sơi nổi, nó kết thành một làn sóng vơ cùng mạnh mẽ, to lớn nó


8

lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ
cướp nước” [21, 171].
Suốt cuộc đời Hồ Chí Minh đã dấn thân vào sự nghiệp vẻ vang và vơ
cùng vĩ đại đó là đấu tranh giành độc lập tự do cho dân tộc. Người xác định cái
bất biến lúc này là độc lập, tự do, còn cái vạn biến là những sự kiện, tình hình
trong các lĩnh vực trên các mặt như: chính trị, quân sự, ngoại giao… Trong mỗi
thời đại cụ thể thì phương châm của Người là “dĩ bất biến ứng vạn biến”. Thấm
thía nỗi nhục của người dân mất nước, Người đã phát huy tinh thần đấu tranh bất
khuất của dân tộc “thà chết tự do hơn sống nô lệ”, “chết trong cịn hơn sống đục”
Người kêu gọi tồn qn đứng dậy đập ách “phá xiềng”, “Toàn quốc đồng bào
hãy đứng dậy đem sức ta mà giải phóng cho ta”, “chúng ta thà hy sinh tất cả chứ
không chịu mất nước khơng chịu làm nơ lệ”, “Khơng có gì q hơn độc lập tự
do”…
Và chủ nghĩa yêu nước, với tư cách dòng tư tưởng chủ lưu trong lịch sử
phát triển dân tộc Việt Nam, là một trong những cơ sở quan trọng góp phần hình
thành tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Thứ hai, tinh thần nhân nghĩa, truyền thống đoàn kết, tương thân tương

ái.
Tinh thần nhân nghĩa, truyền thống đoàn kết dân tộc, tương thân, tương
ái, “lá lành đùm lá rách” trong hoạn nạn khó khăn, là những truyền thống được
hình thành cùng một lúc với sự hình thành dân tộc, từ hoàn cảnh và nhu cầu đấu
tranh quyết liệt với thiên nhiên và giặc ngoại xâm, người Việt Nam quen sống và
gắn bó với nhau trong tình làng nghĩa xóm, bước sang thế kỷ XX mặc dù xã hội
Việt Nam có sự phân hóa về giai cấp, nhưng truyền thống này vẫn vững bền. Vì
vậy Hồ Chí Minh đã chú ý kế thừa, phát huy sức mạnh của truyền thống nhân
nghĩa, nhấn mạnh bốn chữ “đồng” (đồng tình, đồng sức, đồng lòng, đồng minh).


9

Tinh thần nhân nghĩa là tư tưởng của dân tộc được hình thành và phát
triển xuyên suốt chiều dài lịch sử nước ta. Mục đích của nhân nghĩa đã được xác
định là “cốt ở yên dân” bảo vệ lợi ích hạnh phúc của nhân dân và hạnh phúc lớn
nhất của nhân dân là được sống trong mơi trường hịa bình n ổn, khơng lâm
vào cảnh chết chóc, đau thương. Nguyễn Trãi trong Bình ngơ đại cáo đã viết:
“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”
Hay:
“Đem đại nghĩa để thắng hung tàn
Lấy chí nhân để thay cường bạo”
Truyền thống đoàn kết được coi là cội nguồn của sức mạnh dân tộc: đồn
kết gia đình, đồn kết cộng đồng và dịng họ, đồn kết trong cộng đồng và làng
xã, đoàn kết quốc gia dân tộc… Tinh thần cộng đồng, đoàn kết tương trợ lẫn
nhau là một giá trị được tạo nên từ trong sâu thẳm văn hóa của dân tộc, thực tế
lịch sử tồn tại và phát triển cũng thể hiện tinh thần đó. “Nhiễu điều phủ lấy giá
gương, người trong một nước phải thương nhau cùng”, “Thương người như thể
thương thân”. Chính sự đồn kết mà chúng ta đã tạo nên sức mạnh chiến thắng

trong các cuộc đấu tranh giành độc lập và bảo vệ Tổ quốc. Phát huy truyền thống
đoàn kết dân tộc là sức mạnh, Hồ Chí Minh cho rằng đồn kết là thắng lợi, đồn
kết là thành cơng.
“ Đồn kết, đồn kết, đại đồn kết
Thành cơng, thành cơng, đại thành cơng”.
Hồ Chí Minh đã kế thừa và phát huy truyền thống đoàn kết dân tộc lên
tầm cao mới trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lênin, thể hiện rất rõ ở chỗ: Người kêu
gọi đoàn kết, giữa những người bị áp bức trên toàn thế giới trong một mặt trận
chung nhằm chống lại chủ nghĩa đế quốc.


10

Thứ ba, truyền thống hòa hiếu của dân tộc Việt Nam
Ngược dịng lịch sử hào hùng suốt mấy nghìn năm dựng nước và giữ
nước đã giúp cho dân tộc ta, có một truyền thống tốt đẹp, truyền thống coi trọng
chữ “hồ” trong ứng xử bang giao. Khi đất nước có giặc thì “xã tắc đồng lịng,
vua tơi hịa thuận”, cùng đứng lên quyết tâm đánh thắng quân thù. Thế nhưng khi
qn giặc lâm vào bước đường cùng thì ơng cha ta sẵn sàng mở cho chúng một
con đường sống, lại cấp lương thảo, ngựa, thuyền cho kẻ bại trận về quê.
Truyền thống hòa hiếu dân tộc là cơ sở của chính sách ngoại giao đa
phương là cơ hội để dân tộc ta hội nhập với thế giới trong thời đại Hồ Chí Minh.
Có thể khẳng định, chính Người đã kế thừa xuất sắc truyền thống này của dân
tộc trong quá trình đi tìm đường cứu nước cũng như trong quá trình lãnh đạo
nhân dân thực hiện cơng cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc. Tư tưởng coi
trọng chữ “hồ”, chữ “đồng” trong truyền thống dân tộc được Hồ Chí Minh thể
hiện thành tư tưởng: “Làm bạn với tất cả các nước dân chủ, khơng gây thù ốn
với một ai”, sẵn sàng “khép lại quá khứ, hướng tới tương lai” cùng nhau hợp tác
trong sự phát triển chung của hai dân tộc và của nhân loại.
Thêm vào đó dân tộc Việt Nam là một dân tộc có truyền thống lạc quan

yêu đời, tinh thần lạc quan đó là cơ sở, niềm tin vào sức mạnh của bản thân
mình, dân tộc mình, tin vào sự tất thắng của chân lý, của chính nghĩa. Hồ Chí
Minh chính là hiện thân của truyền thống lạc quan đó.
Thứ tư, truyền thống yêu quê hương gia đình, tình làng nghĩa xóm.
Hồ Chí Minh sinh ra và lớn lên trong một gia đình Nho giáo, trên quê
hương giàu truyền thống đấu tranh cách mạng. Mọi người trong gia đình u
thương, đùm bọc nhau và có mối quan hệ đồn kết, gắn bó chặt chẽ với làng xóm
q hương, Người lớn lên trong tình thương yêu ấy và được giáo dục chu đáo về
đạo lý, truyền thống yêu nhà, thương nước của quê hương dân tộc, đặc biệt tư


11

tưởng thân dân của người cha thân sinh ra Hồ Chí Minh đã có ảnh hưởng lớn lao
tới Người. Ở Hồ Chí Minh đã sớm nảy nở lịng u nước thương dân sâu sắc,
tình u thương đó đã hình thành ở Người niềm tin mãnh liệt vào nhân dân.
Từ thuở thiếu thời, Nguyễn Tất Thành đã tận mắt chứng kiến cuộc sống
nghèo khổ, bị áp bức bóc lột đến cùng cực của đồng bào mình. Khi vào Huế,
Anh lại tận mắt nhìn thấy tội ác của thực dân Pháp và thái độ ươn hèn của bọn
phong kiến Nam triều. Thêm vào đó là bài học thất bại của các nhà yêu nước tiền
bối và đương thời…Tất cả đã thôi thúc Anh ra đi tìm một con đường mới để cứu
dân, cứu nước. Quê hương, gia đình, truyền thống dân tộc… đã chuẩn bị cho
Anh nhiều điều, quê hương đất nước cũng đặt niềm tin lớn ở Anh trên bước
đường tìm đến trào lưu mới của thời đại.
Tuy rất khâm phục tinh thần yêu nước của các vị tiền bối như Phan Bội
Châu, Phan Châu Trinh, Hoàng Hoa Thám… nhưng Người khơng tán thành con
đường cứu nước của họ, vì vậy Người đã quyết định ra đi tìm đường cứu nước.
Điều mà Chủ tịch Hồ Chí Minh sớm nhận thức được và nó dẫn Người đi đúng
hướng là nguồn gốc từ những đau khổ và áp bức dân tộc là ở ngay tại “chính
quốc”, ở nước đế quốc đang thống trị dân tộc mình. Do đó Người đã tự định ra

cho mình một hướng đi mới: phải tìm hiểu cho rõ bản chất của những từ Tự do,
Bình đẳng, Bác ái của nước Cộng hịa Pháp, phải đi ra nước ngồi. Xem nước
Pháp và các nước khác. Sau khi xem xét họ làm thế nào, sẽ trở về giúp đồng bào
mình.
Như vậy, trên cơ sở chủ nghĩa yêu nước và những giá trị truyền thống
của dân tộc Việt Nam, khi tiếp thu chủ nghĩa Mác – Lênin. Hồ Chí Minh đã phát
triển chủ nghĩa yêu nước lên một tầm cao mới phù hợp với thời đại mới. Cuộc
đời hoạt động cách mạng của Người không chỉ thể hiện rõ tư tưởng “yêu nước


12

thương dân”, “cứu nước cứu dân” mà cao hơn là tìm ra con đường giải phóng
giai cấp, giải phóng con người.
1.1.1.2. Tinh hoa văn hóa nhân loại
Hồ Chí Minh xuất thân trong gia đình khoa bảng, từ nhỏ Người đã được
hấp thụ một nền văn hóa Quốc học và Hán học khá vững vàng. Khi ra nước
ngồi, Người khơng ngừng làm giàu trí tuệ của mình bằng việc tiếp thu tinh hoa
văn hóa của nhân loại. Chính điều đó đã làm nên nét đặc sắc của Hồ Chí Minh,
một con người tượng trưng cho sự kết hợp hài hòa văn hóa Đơng - Tây.
Về văn hóa phương Đơng, Hồ Chí Minh đã tiếp thu các nhân tố tiến bộ
trong các tư tưởng của Nho giáo, Phật giáo, Lão giáo…
Trước hết nói về Nho giáo: tư tưởng Nho giáo nói chung và tư tưởng của
Khổng Tử nói riêng là khoa học về đạo đức và phép ứng xử, đó là các triết lý
hành động, tư tưởng nhập thế, hành đạo giúp đời, đó là ước vọng về một xã hội
bình trị, hịa mục, hịa đồng, có vua sáng tơi hiền, cha từ con thảo là triết lý nhân
sinh, tu thân dưỡng tính. Đặc biệt Nho giáo đề cao văn hóa lễ giáo, và tạo ra
truyền thống hiếu học trong dân, tư tưởng về xây dựng một xã hội đại đồng...
Đây là tư tưởng tiến bộ so với các học thuyết cổ đại. Tuy nhiên Hồ Chí Minh
cũng phê phán Nho giáo có tư tưởng tiêu cực, lạc hậu như bảo vệ chế độ phong

kiến, phân chia đẳng cấp – quân tử và tiểu nhân, trọng nam khinh nữ chỉ đề cao
nghề đọc sách, coi thường người lao động chân tay, coi thường người phụ nữ
trong xã hội.
Tiếp thu tư tưởng của Nho giáo, Người đã rút ra cái bản chất nhất, cái tiến
bộ nhất, cái con người nhất mà giá trị của chúng là để cải tạo xã hội, cải tạo con
người.
Với Phật giáo, Hồ Chí Minh chỉ rõ, bên cạnh những mặt tiêu cực của một
tôn giáo, Phật giáo cũng có rất nhiều ưu điểm như: tư tưởng vị tha, từ bi bác ái,


13

cứu khổ, cứu nạn, thương người như thể thương thân, nếp sống có đạo đức, trong
sạch, giản dị, chăm lo làm điều thiện, tinh thần bình đẳng, dân chủ chất phác
chống lại mọi phân biệt đẳng cấp, đề cao lao động chống lười biếng. Khi được
du nhập vào Việt Nam nó đã kết hợp với chủ nghĩa yêu nước để hình thành nên
tinh thần gắn bó với nhân dân, đất nước, tham gia vào cộng đồng vào cuộc đấu
tranh của nhân dân, chống kẻ thù dân tộc.
Ngồi ra, Hồ Chí Minh còn kế thừa nhiều tư tưởng của các nhà phương
Đông như Lão Tử, Mặc Tử, Quản Tử… đặc biệt là tư tưởng tam dân của Tôn
Trung Sơn (độc lập dân tộc, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc), vì thấy trong
đó có những điều thích hợp với điều kiện nước ta.
Là người mácxít tỉnh táo và sáng suốt, Hồ Chí Minh đã khai thác những
yếu tố tích cực của văn hóa phương Đơng để phục vụ cho sự nghiệp cách mạng
nước ta.
Đối với văn hóa phương Tây, Hồ Chí Minh dành hiều thời gian nghiên
cứu tiếp thu ảnh hưởng của nền văn hóa dân chủ và cách mạng phương Tây.
Người sớm làm quen với văn hóa Pháp, tìm hiểu các cuộc cách mạng ở Pháp và
Mỹ. Người trực tiếp đọc và tiếp thu các tư tưởng về tự do, bình đẳng qua các tác
phẩm của các nhà khai sáng như: Vonte, Rutsxo, Môngtétsxkiơ. Người tiếp thu

các giá trị của bản Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Đại cách mạng
Pháp, các giá trị về quyền sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc của
Tuyên ngôn độc lập ở Mỹ năm 1776.
Hồ Chí Minh nhìn thấy và phát hiện rằng: Các cuộc cách mạng đó đều là
cách mạng tư sản và là những cuộc cách mạng thành công không đến nơi. Chẳng
hạn, “Mỹ tuy rằng cách mệnh thành công đã hơn 100 năm nay, nhưng công nông
vẫn cứ cực khổ, vẫn cứ lo tính cách mệnh lần thứ hai”[17, 270]. Hoặc như cách
mạng Pháp 1789 mặc dầu được xem là một cuộc cách mạng tư sản điển hình,


14

nhưng “cũng như cách mạng Mỹ, nghĩa là cách mệnh tư bản, cách mệnh khơng
đến nơi, tiếng là cộng hịa dân chủ, kỳ thực trong thì nó tước lục cơng nơng,
ngồi thì nó áp bức thuộc địa. Cách mệnh đã 4 lần rồi, mà nay cơng nơng Pháp
hẵng cịn mưu cách mệnh lần nữa mới hịng thốt khỏi vịng áp bức”[17, 280]
Trong quan niệm của Hồ chí Minh, tiêu chí hàng đầu để đánh giá tính triệt để
của một cuộc cách mạng không phải là những lý tưởng, khẩu hiệu được nêu ra, mà
là quy mơ giải phóng quần chúng lao động bị áp bức. Cách mạng dân chủ tư sản, do
bản chất của nó, chỉ là sự thay thế một hình thức áp bức, bóc lột khác, đại bộ phận
người lao động vẫn sống kiếp ngựa trâu. Do những nhu cầu nội tại khách quan,
cách mạng Việt Nam không và sẽ không thể lặp lại những vết lăn của cách mạng
Mỹ 1776 và cách mạng Pháp 1789.
Qua quá trình tìm tịi và khảo nghiệm, Hồ Chí Minh đã chọn cách mạng
tháng Mười Nga, Người nhận xét: “Trong thế giới bấy giờ chỉ có cách mạng Nga
là thành cơng và thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh
phúc, tự do, bình đẳng thật, khơng phải bình đẳng và giả dối như đế quốc Pháp
khoe khoang bên An Nam. Cách mệnh Nga đã đuổi được Vua, tư bản, địa chủ,
rồi lại ra sức cho công, nông các nước và dân bị áp bức các thuộc địa làm nên
cách mệnh để đập đổ tất cả đế quốc và tư bản trong thế giới” [16, 280]. Nhờ

cuộc cách mạng đó mà nhân dân lao động đã làm chủ nước nhà, những dân tộc
nhỏ yếu giành được độc lập, ruộng đất trở về tay người cày.
Từ đó Người hồn tồn tin tưởng vào cách mạng tháng Mười Nga, và
xác định đường đi cho cách mạng nước ta. Người chủ trương “làm cách mạng tư
sản dân quyền và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản” [18, 1], là cả một
quá trình nhận thức về lý luận và thực tiễn, suy ngẫm và so sánh để rồi cuối cùng
có một quyết định lựa chọn dứt khốt có ảnh hưởng đến vận mệnh và tương lai
của dân tộc.


15

Đánh giá cao tư tưởng của các bậc tiền bối như Khổng Tử, Giêxu, Mác,
Tôn Dật Tiên, Người viết: “Học thuyết Khổng Tử có ưu điểm là sự tu dưỡng đạo
đức cá nhân, tơn giáo Giêxu có ưu điểm là lịng nhân ái cao cả. Chủ nghĩa Mác –
Lênin có ưu điểm là phương pháp làm việc biện chứng. Chủ nghĩa Tơn Dật Tiên
có ưu điểm là chính sách của nó phù hợp với điều kiện nước ta. Khổng Tử,
Giêxu, Mác, Tơn Dật Tiên chẳng phải có những ưu điểm chung đó sao? Họ đều
muốn: mưu cầu hạnh phúc cho lồi người, mưu lợi xã hội, nếu hơm nay họ còn
sống trên đời này, nếu họ họp lại một chỗ, tôi tin rằng họ nhất định chung sống
với nhau rất hồn mỹ như những người bạn thân thiết. Tơi cố gắng làm người
học trò nhỏ của các vị ấy” [37, 11].
Như vậy trên hành trình cứu nước, Hồ Chí Minh đã tự làm giàu trí tuệ
của mình bằng vốn trí tuệ của thời đại, Đông và Tây, vừa tiếp thu, vừa gạn lọc để
từ tầm cao tri thức nhân loại mà suy nghĩ, lựa chọn, kế thừa và đổi mới, vận
dụng và phát triển.
1.1.1.3. Chủ nghĩa Mác – Lênin
Việc tiếp thu chủ nghĩa Mác – Lênin ở Hồ Chí Minh diễn ra trên nền tảng
của những tri thức văn hóa tinh túy được chất lọc, hấp thụ và một vốn chính trị,
vốn hiểu biết phong phú, được tích lũy qua thực tiễn hoạt động đấu tranh vì mục

tiêu cứu nước và giải phóng dân tộc.
Trong lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin về cách mạng xã hội chủ
nghĩa, lý luận về sự phát triển của cuộc cách mạng dân chủ tư sản theo một
cương lĩnh mang tính triệt để rồi chuyển lên cách mạng xã hội chủ nghĩa, do
Lênin nêu lên có một vị trí nổi bật, bởi nước Nga cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ
XX chưa đạt tới trình độ phát triển cao của chủ nghĩa tư bản, do đó chưa đạt tới
trình độ xã hội cao của lực lượng sản xuất và cũng chưa có một giai cấp công
nhân đông đảo về số lượng, với sự giác ngộ ý thức xã hội chủ nghĩa đầy đủ. Vì


16

vậy, cùng một lúc ở nước Nga xuất hiện hàng loạt trào lưu đấu tranh: trào lưu
đấu tranh của giai câp cơng nhân vì tự do, dân chủ và hướng tới chủ nghĩa xã
hội; cuộc đấu tranh của nông dân đòi ruộng đất và các quyền dân sinh dân chủ
tối thiểu; cuộc đấu tranh của các dân tộc bị áp bức địi quyền bình đẳng và quyền
tự quyết dân tộc, cuộc đấu tranh của đơng đảo nhân dân địi chấm dứt chiến tranh
và tạo lập một nền hịa bình vững chắc.
Tự do, dân sinh, dân chủ là nội dung của tất cả các trào lưu đó. Chính vì
thế cương lĩnh cách mạng do Lênin nêu ra – cương lĩnh nhằm hoàn thành triệt để
cách mạng dân chủ tiến đến cách mạng xã hội chủ nghĩa – đã hội nhập các trào
lưu đó thành một sức mạnh to lớn, hướng vào đánh đổ chế độ chuyên chế phong
kiến, mở đường đánh vào nền thống trị của giai cấp tư sản.
Do đó cuộc cách mạng dân chủ thực chất là cuộc cách mạng của nơng
dân, dĩ nhiên nó cũng cần thiết cho giai cấp vô sản, sự chuyển biến từ cách mạng
dân chủ sang cách mạng xã hội chủ nghĩa, dưới sự lãnh đạo của giai cấp vô sản,
trên cơ sở liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân là nét nổi bật
trong lý luận cách mạng của Lênin.
Lênin cũng chỉ ra rằng, để thực hiện sự chuyển biến từ cách mạng dân
chủ lên cách mạng xã hội chủ nghĩa phải có đủ ba điều kiện chủ yếu: sự lãnh đạo

của giai cấp cơng nhân thơng qua chính đảng của nó được đảm bảo và khơng
ngừng củng cố, khối liên minh công nông được giữ vững và phát triển trên cơ sở
một đường lối thích hợp với từng giai đoạn cách mạng, chính quyền dân chủ
cách mạng được củng cố để hồn thành nhiệm vụ của nó ở giai đoạn thứ nhất
đồng thời chuẩn bị những điều kiện để chuyển sang giai đoạn thứ hai.
Theo chủ nghĩa Mác - Lênin, cách mạng xã hội chủ nghĩa là một tiến
trình liên tục gồm hai giai đoạn: giai đoạn thứ nhất là giai đoạn giai cấp vô sản tự
xây dựng thành giai cấp thống trị, là giai đoạn đấu tranh giành chính quyền về


17

tay giai cấp công nhân và nhân dân lao động. V.I. Lênin đã chỉ rõ giành chính
quyền là vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng. Ở giai đoạn thứ hai giai cấp
cơng nhân đã nắm chính quyền, sử dụng chính quyền đó, dưới sự lãnh đạo của
Đảng cộng sản, tập hợp các tầng lớp nhân dân lao động, thực hiện cải tạo xã hội
cũ, tổ chức xây dựng xã hội mới trên tất cả các lĩnh vực như: kinh tế, chính trị,
văn hóa, xã hội….nhằm xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa, tiến tới xã hội cộng
sản chủ nghĩa văn minh, tiến bộ.
Trước khi ra đi tìm đường cứu nước, Nguyễn Tất Thành đã được dân
tộc, quê hương, và gia đình trang bị cho một số học vấn vững chắc, một năng lực
trí tuệ sắc sảo. Bản lĩnh trí tuệ đó đã nâng cao khả năng độc lập tự chủ và sáng
tạo của ở Người khi vận dụng những nguyên lý cách mạng của thời đại vào hồn
cảnh, điều kiện cụ thể của Việt Nam.
Q trình đó cũng diễn ra một cách chân thành và giản dị, điều này đã
được Hồ Chí Minh cắt nghĩa trong bài Con đường dẫn tôi đến chủ nghĩa Lênin:
“Lúc bấy giờ, tôi ủng hộ Cách mạng tháng Mười chỉ là theo cảm tính tự nhiên…
Tơi kính u Lênin vì Lênin là một người yêu nước vĩ đại đã giải phóng đồng
bào mình…Tơi tham gia Đảng Xã hội Pháp chẳng qua là vì các “ơng bà” ấy –
(hồi đó tơi gọi các đồng chí của tơi như thế) – đã tỏ đồng tình với tơi, với cuộc

đấu tranh của các dân tộc bị áp bức. Cịn như Đảng là gì, cơng đồn là gì, chủ
nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản là gì, thì tơi chưa hiểu” [25, 126].
Q trình đó tưởng chừng như đơn giản và tự nhiên đó, thực ra là
“chặng đường chiến thắng biết bao khó khăn với sụ lựa chọn vững chắc, tránh
được những sai lầm dẫn tới ngõ cụt”. Thực tiễn gần 10 năm đi tìm đường cứu
nước nhất là sau khi đọc Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân
tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin (1920). Nó có tác động rất lớn đến nhận thức


18

của Hồ Chí Minh về con đường cứu nước của dân tộc Việt Nam. Bởi nội dung
Luận cương của V.I.Lênin chỉ rõ:
1. Con đường duy nhất để giải phóng các dân tộc thuộc địa là làm cách
mạng vô sản.
2. Lênin chủ trương giải phóng tồn thể các dân tộc thuộc địa thoát khỏi
ách áp bức của chủ nghĩa đế quốc.
3. Lênin yêu cầu đảng cộng sản các nước chính quốc phải giúp đỡ nhân
dân các nước thuộc địa trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc.
4. Lênin chỉ ra bộ mặt giả dối của nền dân chủ tư sản.
Sự kiện này là bước phát triển căn bản và sâu sắc trong nhận thức và lập
trường chính trị của Nguyễn Ái Quốc, có ý nghĩa quyết định đến việc lựa chọn
con đường cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam. Bốn mươi năm sau trong tác
phẩm “Con đường dẫn tôi đến chủ nghĩa Lênin” (4-1960), Hồ Chí Minh nhớ lại:
“Luận cương của Lênin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin
tưởng… vui mừng đến phát khóc...” [25, 128] vì đã tìm thấy con đường giải
phóng cho dân tộc. Ngồi một mình trong buồng mà tơi như nói to lên như đang
nói trước quần chúng đơng đảo: “Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây là cái
cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta: Từ đó tơi hồn
tồn tin theo Lênin, tin theo quốc tế thứ ba”.

Từ những nhận thức ban đầu về chủ nghĩa Lênin, Hồ Chí Minh đã tiến
dần tới những nhận thức “lý tính”, trở lại nghiên cứu Mác sâu sắc hơn, để rồi tiếp
thu học thuyết của các ông một cách có chọn lọc, không rập khuôn máy móc,
khơng sao chép giáo điều. Người tiếp thu lý luận Mác – Lênin theo phương pháp
mácxít, nắm lấy cái tinh thần, cái bản chất. Người vận dụng lập trường, quan
điểm, phương pháp biện chứng của chủ nghĩa Mác – Lênin, để giải quyết những


19

vấn đề thực tiễn của cách mạng Việt Nam, chứ khơng đi tìm những kết luận có
sẵn trong sách vở.
Thế giới quan và phương pháp luận Mác - Lênin đã giúp Hồ Chí Minh
tổng kết kiến thức và kinh nghiệm thực tiễn để tìm ra con đường cứu nước:
“trong cuộc đấu tranh, vừa nghiên cứu lý luận Mác – Lênin, vừa làm công tác
thực tế, dần dần tôi hiểu được rằng chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản
mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế
giới” [25, 128]. “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa
chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin” [17, 268].
“Chính là do cố gắng vận dụng những lời dạy của Lênin, nhưng vận dụng, một
cách sáng tạo, phù hợp với thực tế Việt Nam ngày nay, mà chúng tôi đã chiến
đấu và giành được thắng lợi to lớn” [25, 476].
1.1.2. Cơ sở thực tiễn.
Hồ Chí Minh sinh ra và lớn lên trong hoàn cành đất nước và thế giới có
nhiều biến động, trong nước Triều Nguyễn đã từng bước khuất phục trước cuộc
xâm lược của thực dân Pháp, lần lượt ký kết các hiệp ước đầu hàng, thừa nhận
nền bảo hộ của thực dân Pháp trên toàn cõi Việt Nam. Nghiên cứu thực tiễn các
phong trào đấu tranh của nhân ta và các phong trào đấu tranh cách mạng trên thế
giới, Hồ Chí Minh khẳng định:
Thứ nhất, tất cả các phong trào đấu tranh cứu nước giải phóng dân tộc ở

Việt Nam đi theo ngọn cờ tư tưởng phong kiến, tiểu tư sản và tư sản đều không
thể thành công.
Cho đến cuối thế kỷ XIX các cuộc khởi nghĩa vũ trang dưới khẩu hiệu
“Cần Vương” do các sĩ phu văn thân lãnh đạo cuối cùng cũng thất bại, hệ tư
tưởng phong kiến lỗi thời trước các nhiệm vụ lịch sử. Cuộc khai thác của thực
dân Pháp khiến cho xã hội nước ta có sự chuyển biến và phân hóa, giai cấp cơng


20

nhân, tầng lớp tiểu tư sản và tư sản bắt đầu xuất hiện tạo ra những tiền đề bên
trong cho phong trào yêu nước giải phóng dân tộc Việt Nam đầu thế kỷ XX.
Cùng vào thời kỳ lịch sử đó, các “Tân thư”, “Tân văn”, “Tân báo” và
những ảnh hưởng của trào lưu cải cách ở Trung Quốc, Nhật Bản tràn vào Việt
Nam làm cho phong trào yêu nước của nhân dân ta dần chuyển sang xu hướng
dân chủ tư sản.
Phát huy truyền thống yêu nước của dân tộc các sĩ phu Nho học có tư
tưởng tiến bộ, thức thời đã tổ chức và vận động các cuộc đấu tranh yêu nước
chống Pháp theo mục tiêu và phương pháp mới đó là xu hướng bạo động của
Phan Bội Châu với phong trào Đông Du và cải cách Đông Kinh Nghĩa Thục của
Phan Chu Trinh, song song tồn tại và phản ánh cụ thể đặc điểm của phong trào
cách mạng Việt Nam hồi đó. Nhưng do hạn chế gắn liền với mỗi loại hình phong
trào mà chỉ trong một thời kỳ phát triển rầm rộ, sôi động, các phong trào lần lượt
bị kẻ thù dập tắt trong bể máu. Qua đây bộc lộ rõ tình trạng khủng hoảng sâu sắc
về đường lối cách mạng trong phong trào giải phóng dân tộc Việt Nam.
Trong hồn cảnh lịch sử đó, chính Nguyễn Tất Thành bằng sự mẫn cảm
chính trị của mình là người đầu tiên nhận thức được yêu cầu lịch sử mới của thời
đại và phát hiện ra nguyên nhân thất bại của phong trào yêu nước giải phóng dân
tộc cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Qua đó Nguyễn Tất Thành đã đưa ra những
đánh giá chính xác về sự thất bại là do đâu? Đánh giá chủ trương dựa vào Nhật

để đánh đuổi Pháp của Phan Bội Châu là “Đưa hổ cửa trước, rước beo cửa sau”,
hay của Phan Chu Trinh là “Ỷ Pháp cầu tiến bộ” chẳng qua chỉ là việc “cầu xin
Pháp rủ lòng thương” hay hoạt động của Hồng Hoa Thám vẫn cịn mang nặng
“cốt cách phong kiến”. Người kết luận, nguyên nhân cơ bản nhất dẫn đến sự thất
bại của các phong trào giải phóng dân tộc ở Việt Nam là chưa hiểu rõ bản chất
của kẻ thù nên chưa thể xác định đúng đường lối cứu nước.


21

Nguyễn Tất Thành khẳng định rằng muốn giành độc lập cho dân tộc, đem
lại sự tự do, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân thì phải hành động, phải tranh đấu
để cứu dân, cứu nước, phải thức tỉnh mọi người vào cơng cuộc giải phóng.
Người tuy rất khâm phục tinh thần yêu nước của các vị tiền bối nhưng không tán
thành con đường cứu nước của họ, vì vậy Người quyết định đi sang Pháp và các
nước phương Tây nơi có tư tưởng tự do, bình đẳng, bác ái có khoa học kỹ thuật
phát triển để xem họ làm như thế nào, học tập họ rồi trở về cứu giúp đồng bào
mình thốt khỏi xiềng xích nơ lệ.
Thứ hai, các cuộc cách mạng tư sản ở các nước trên thế giới đều là các
cuộc cách mạng thành công không đến nơi.
Trong gần mười năm đầu, kể từ khi ra nước ngồi tìm đường cứu nước,
Hồ Chí Minh đã đi rất nhiều, đến cả những trung tâm kinh tế, chính trị, văn hoá,
khoa học kỹ thuật của nhân loại, đến cả những nơi nghèo khổ nhất của thế giới,
làm rất nhiều việc khác nhau vừa để kiếm sống, vừa để quan sát xã hội. Hồ
mình trong “tầng lớp đáy” của chủ nghĩa tư bản, Hồ Chí Minh đã rút ra hàng loạt
các kết luận:
- Nguồn gốc của mọi đau khổ của nhân loại là ở các nước chính quốc.
- Các dân tộc muốn được giải phóng chỉ có thể dựa vào chính mình.
- Ở đâu cũng có hai giống người, giống người đi áp bức và giống người
bị áp bức và cũng chỉ có một tình hữu ái là thật mà thơi, tình hữu ái vơ sản.

Nghiên cứu cách mạng tư sản Mỹ (1776), cách mạng Pháp (1789),
Người đã rút ra nhiều bài học quý, đặc biệt là bài học về con đường cách mạng.
Người chỉ rõ: “Cách mệnh Pháp cũng như cách mệnh Mỹ, nghĩa là cách mạng tư
bản, cách mệnh khơng đến nơi tiếng là cộng hịa và dân chủ, kỳ thực trong thì nó
tước lục cơng nơng, ngồi thì nó áp bức thuộc địa” [17, 274]. Vì thế “Chúng ta
đã hy sinh làm cách mệnh thì nên làm cho đến nơi, nghĩa là làm sao cách mệnh


22

rồi thì quyền giao cho dân chúng số nhiều, chớ để trong tay một bọn ít người, thế
mới khỏi hy sinh nhiều lần, thế dân chúng mới được hạnh phúc” [17, 270].
Thứ ba, nghiên cứu về cách mạng tháng Mười Nga năm 1917, Hồ Chí
Minh khẳng định: Bây giờ chỉ có cách mạng Nga là thành cơng và thành cơng
đến nơi.
Năm 1917 khi Nguyễn Tất Thành đang sống và làm việc tại Pháp thì cách
mạng tháng Mười Nga nổ ra và giành thắng lợi. Chính cuộc cách mạng này đã
giải phóng một vùng đất rộng lớn chiếm 1/6 diện tích thế giới “đã thức tỉnh các
dân tộc thuộc địa và phụ thuộc, mở ra cho họ con đường giải phóng, bỏ qua giai
đoạn thống trị của chế độ tư bản để từng bước tiến lên chủ nghĩa xã hội”
[31,188].
Cách mạng tháng Mười Nga đã lật đổ nhà nước tư sản, thiết lập chính
quyền Xơ Viết, mở ra một thời kỳ mới trong lịch sử loài người, thời đại quá độ
từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi tồn thế giới. Cuộc cách
mạng vơ sản ở nước ta thành công đã nêu một tấm gương sáng về sự giải phóng
các dân tộc bị áp bức, mở ra trước mắt họ thời đại cách mạng chống đế quốc,
thời đại giải phóng dân tộc.
Với thắng lợi của cách mạng tháng Mười Nga và việc thành lập Quốc tế
Cộng sản (1919), thì trong các Đảng xã hội ở các nước phương Tây đã nổ ra
cuộc tranh luận là nên ở lại quốc tế II hay gia nhập Quốc tế III, là một Đảng viên

hoạt động tích cực trong Đảng xã hội Pháp, Nguyễn Ái Quốc đã tham gia tranh
luận sôi nổi trong Đảng xã hội Pháp. Tháng 7 – 1920 sau khi đọc “Sơ thảo lần
thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lênin ”, Nguyễn
Ái Quốc đã cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng vui mừng đến phát khóc vì
đã tìm thấy con đường giải phóng dân tộc. Như vậy chính Luận cương của Lênin
đã nâng cao nhận thức của Hồ Chí Minh về con đường giải phóng dân tộc, bởi


23

nó phù hợp và đáp ứng những tình cảm, suy nghĩ và hoài bão được Người ấp ủ
từ lâu, nay đang trở thành hiện thực. Đó là tìm ra con đường giải phóng dân tộc,
con đường kết hợp giữa độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Tháng 12 – 1920, tại Đại hội lần thứ XVIII của Đảng Xã hội Pháp,
Nguyễn Ái Quốc đã bỏ phiếu tán thành gia nhập Quốc tế III và góp phần sáng
lập ra Đảng Cộng sản Pháp. Sự kiện này đánh dấu bước ngoặt trong cuộc đời
hoạt động của Người chuyển từ chủ nghĩa yêu nước sang chủ nghĩa cộng sản, từ
một chiến sĩ giải phóng dân tộc chưa có khuynh hướng rõ ràng trở thành người
Cộng sản với tư tưởng độc lập gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Có thể khẳng định rằng với tư suy độc lập, tự chủ, sáng tạo, óc phê phán
tinh tường sáng suốt, ngay từ khi ra đi tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã xác
định cho mình một “hướng đi” và “cách đi” hồn tồn chính xác.
Chính từ điểm xuất phát này mà Hồ Chí Minh trong thời gian bơn ba tìm
đường cứu nước đã nhanh chóng nhận thức được sức mạnh của những người bị
áp bức trên toàn thế giới và yêu cầu khách quan cần phải đoàn kết tất cả những
con người này trong một mặt trận chung nhằm giải phóng con người, giải phóng
xã hội.
Tư tưởng này của Hồ Chí Minh, ln được Người qn triệt trong suốt
q trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, cả trong kháng chiến chống Pháp và
chống Mỹ lẫn trong q trình lãnh đạo cơng cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở

miền Bắc. Chính vì vậy, mà cách mạng Việt Nam luôn nhận được sự ủng hộ,
giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa, của nhân dân u chuộng hồ bình trên
thế, góp phần tăng thế và lực của cách mạng Việt Nam tạo nên sức mạnh tổng
hợp đưa cách mạng Việt Nam vượt qua mọi khó khăn.
1.2. Q trình hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập
dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.


24

Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội
mang tính chất là một học thuyết cách mạng thuộc địa ở thời đại quá độ từ chủ
nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên tồn thế giới. Nó là sợi chỉ đỏ xuyên suốt
toàn bộ lịch sử cách mạng Việt Nam, định hướng cho sự phát triển các tư tưởng
khác và thắng lợi của cách mạng.
1.2.1. Thời kỳ từ 1890 đến 1920: Hồ Chí Minh khảo sát các phong trào đấu
tranh yêu nước ở Việt Nam và các cuộc cách mạng trên thế giới, bước đầu
hình thành tư tưởng cứu nước theo lập trường giai cấp vô sản
Xuất thân trong một gia đình nhà Nho, u nước, thương dân, Hồ Chí
Minh sớm có điều kiện tiếp thu một nền văn hóa Quốc học, Hán học và bước đầu
tiếp xúc với văn hóa phương Tây. Người đã kế thừa tư tưởng yêu nước truyền
thống của dân tộc Việt Nam và đặc biệt khâm phục tinh thần đấu tranh của các
bậc tiền bối, nhưng với sự nhạy cảm đặc biệt về chính trị, Hồ Chí Minh cũng
sớm nhận ra hạn chế của những người đi trước từ đó Người đã tự định ra cho
mình một hướng đi mới, phải đi sang Pháp và các nước phương Tây nơi có tư
tưởng tự do, bình đẳng, bác ái, có khoa học kỹ thuật phát triển, để xem họ làm
như thế nào, học tập họ rồi trở về cứu giúp đồng bào mình thốt khỏi xiềng xích
nơ lệ.
Trong gần mười năm đi tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã đọc
được “Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc

địa” của Lênin (Tháng 7/1920), kể từ đây con đường giành độc lập cho dân tộc
và tự do cho đồng bào, đáp ứng những tình cảm, suy nghĩ, hồi bão được ấp ủ
bấy lâu nay ở Người đã được xác định.
1.2.2. Thời kỳ 1921 – 1930: Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội được hình thành về cơ bản.


25

Trong mười năm này, Hồ Chí Minh đã tiến hành một loạt các hành động
hết sức phong phú trong Đảng Cộng sản Pháp và trong Quốc tế Cộng sản nhằm
nghiên cứu sâu hơn về chủ nghĩa Mác - Lênin, đấu tranh không khoan nhượng
chống lại các tư tưởng đề cao vấn đề giai cấp, coi thường vấn đề dân tộc ở một
số đại biểu Quốc tế Cộng sản và truyền bá tư tưởng cứu nước của Người về Việt
Nam. Hệ thống lý luận và quan điểm cách mạng của Hồ Chí Minh về giải phóng
dân tộc bằng con đường cách mạng vô sản – độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội được thể hiện ở nhiều văn kiện và qua chỉ đạo thực tiễn cách mạng
của Người.
Với q trình hoạt động và chuẩn bị tích cực của Nguyễn Ái Quốc, ngày
3 – 2 – 1930 Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, từ đây cách mạng Việt Nam có
Đảng lãnh đạo – đội tiên phong của giai cấp công nhân. Đảng ta đứng đầu là
Nguyễn Ái Quốc đã vạch ra đường lối chiến lược, sách lược cho cách mạng Việt
Nam với mục tiêu xuyên suốt là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Tại Hội nghị thành lập Đảng, Nguyễn Ái Quốc đã cho thơng qua các
văn kiện “Chính cương vắn tắt”, “Sách lược vắn tắt”, “Điều lệ vắn tắt”,
“Chương trình văn tắt” và “Lời kêu gọi” nhân ngày thành lập Đảng do Người
soạn thảo. Các văn kiện này thể hiện tinh thần triệt để và sáng tạo, kết hợp đúng
đắn lý luận với thực tiễn của cách mạng Việt Nam. Quan điểm cơ bản của các
văn kiện này có giá trị xuyên suốt con đường cách mạng nước ta là độc lập dân
tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.

Trong Chính cương vắn tắt, Người chỉ rõ: “Làm tư sản dân quyền và thổ
địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản” [18, 1] Hồ Chí Minh khẳng định sự
nghiệp giải phóng dân tộc ở Việt Nam được thực hiện bằng con đường cách
mạng vơ sản: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc khơng có con đường nào


×