Tải bản đầy đủ (.pdf) (87 trang)

Tư tưởng hồ chí minh về vấn đề tôn giáo và sự vận dụng của đảng ta về vấn đề tôn giáo trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (778.67 KB, 87 trang )

ĐẠI HỌC ĐÀ NẮNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP

Đề tài:
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VẤN ĐỀ TÔN GIÁO VÀ SỰ VẬN
DỤNG CỦA ĐẢNG TA VỀ VẤN ĐỀ TÔN GIÁO TRONG GIAI ĐOẠN
HIỆN NAY

Giáo viên hướng dẫn: TS. Dương Anh Hoàng
Sinh viên thực hiện : Lê Nguyên Tịnh
Lớp

: 08SGC
Đà Nẵng, tháng 5/ 2012

0


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Chủ tịch Hồ Chí Minh - Người anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hoá
kiệt xuất. Người đã hiến dâng trọn đời mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc Việt
Nam, góp phần to lớn vào sự nghiệp cách mạng của nhân dân thế giới vì hồ bình,
độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Là một người cộng sản, Chủ tịch Hồ Chí Minh khơng bao giờ phản đối, bài
xích các tơn giáo. Người ln ln tỏ thái độ tơn trọng và đề cao vai trị của những
vị đã sáng lập ra các tơn giáo. Người nói: "Mục đích cao cả của Phật Thích Ca và
chúa Giê-su đều giống nhau. Thích Ca và Giê- su đều muốn mọi người có cơm ăn,


áo mặc, bình đẳng, tự do và thế giới đại đồng".
Chủ tịch Hồ Chí Minh chính là mẫu mực của sự tơn trọng quyền tự do tín
ngưỡng và tự do khơng tín ngưỡng. Người khơng hề có sự phân biệt đối xử giữa
tôn giáo này và tôn giáo khác, giữa người có đạo và người khơng có đạo. Tư tưởng
đồn kết tơn giáo, hịa hợp dân tộc, khơng phân biệt tín ngưỡng tơn giáo là tư tưởng
nhất quán và trở thành chính sách lớn của Người. Hồ Chí Minh là người Việt Nam
đầu tiên soạn thảo và ban bố các sắc lệnh tơn trọng tự do tín ngưỡng, tơn giáo của
nhân dân Việt Nam.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về tín ngưỡng, tơn giáo là sự vận dụng sáng tạo quan
điểm Mácxít về tín ngưỡng, tơn giáo trong hoàn cảnh xã hội Việt Nam nhằm thực
hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Tư tưởng này được xây dựng trên cơ sở nhận thức rõ đặc điểm văn hóa Việt Nam một quốc gia đa dân tộc, đa tôn giáo, với xu hướng hòa đồng, tồn tại đan xen, ảnh
hưởng lẫn nhau.
Tơn giáo là hình thái ý thức xã hội, ra đời và phát triển từ hàng ngàn năm
nay. Quá trình tồn tại và phát triển của tơn giáo ảnh hưởng khá sâu sắc đến đời
sống chính trị, văn hố, xã hội, đến tâm lý, đạo đức, lối sống, phong tục, tập quán
của nhiều dân tộc, quốc gia.

1


Việt Nam là quốc gia có nhiều loại hình tín ngưỡng, tơn giáo. Trong đó có 6
tơn giáo lớn là Thiên chúa giáo, Phật giáo, Cao Đài, Hoà Hảo, Tin Lành, Hồi giáo
với hàng chục triệu tín đồ. Phật giáo và Thiên chúa giáo là hai tôn giáo lớn nhất ở
nước ta đều du nhập từ ngồi vào, đã ít nhiều chịu ảnh hưởng phong tục, tập quán
và bản sắc văn hố Việt Nam. Đặc biệt, với vị trí địa lý nằm ở khu vực Đơng Nam
Á có ba mặt giáp biển, Việt Nam rất thuận lợi trong mối giao lưu với các nước trên
thế giới và cũng là nơi rất dễ cho việc thâm nhập các luồng văn hoá, các tơn giáo
trên thế giới. Vì vậy, để tiến hành thắng lợi công cuộc đổi mới ở nước ta, trước hết
địi hỏi Đảng phải đổi mới tư duy, nhìn nhận và đánh giá đúng những vấn đề lý

luận và thực tiễn, trong đó có vấn đề tín ngưỡng, tơn giáo đang và sẽ có nhiều biểu
hiện mới, đa dạng, phức tạp, cần được giải quyết đúng đắn.
Về mặt dân cư, Việt Nam là quốc gia đa dân tộc với 54 dân tộc anh em. Mỗi
dân tộc, kể cả người Kinh (Việt) đều lưu giữ những hình thức tín ngưỡng, tơn giáo
riêng của mình. Người Việt có các hình thức tín ngưỡng dân gian như thờ cũng ông
bà tổ tiên, thờ Thành hồng, thờ những người có cơng với cộng đồng, dân tộc, thờ
thần, thờ thánh, nhất là tục thờ Mẫu của cư dân nông nghiệp lúa nước. Đồng bào
các dân tộc thiểu số với hình thức tín ngưỡng ngun thuỷ (cịn gọi là tín ngưỡng
sơ khai) như Tơ tem giáo, Bái vật giáo, Sa man giáo.
Hiện nay xu thế toàn cầu hố đang có những tác động mạnh mẽ đến các quốc gia,
dân tộc. Việt Nam khơng nằm ngồi guồng quay đó. Những tác động xu thế tồn
cầu hố đến kinh tế, chính trị đất nước đang ngày càng phức tạp. Tôn giáo là lĩnh
vực đặc biệt nhạy cảm. Kẻ thù đang lợi dụng tôn giáo để từng bước phá hoại công
cuộc xây dựng đất nước, chia rẽ dân tộc, gây mất ổn định xã hội. Vì vậy việc tìm
hiểu tư tưởng Hồ Chí minh về tơn giáo và quan điểm của Đảng ta về vấn đề tôn
giáo là rất cần thiết. Để làm sáng tỏ hơn vấn đề này, tác giả đã lựa chọn nghiên cứu
đề tài: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề tơn giáo và sự vận dụng của Đảng ta
về vấn đề tôn giáo trong giai đoạn hiện nay”.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài.

2


Bàn về tín ngưỡng tơn giáo, đời sống tâm linh của nhân dân ta, hiện đã có
khá nhiều cơng trình của nhiều nhà khoa học nổi tiếng trong nước như: GS. Đặng
Nghiêm Vạn với “ Lý luận về tôn giáo và tình hình tơn giáo ở Việt Nam”. TS.
Nguyễn Đăng Duy với “Văn hóa tâm linh”; GS. Cao Xuân Huy với “Triết học
phương Đơng những góc nhìn tham chiếu”; TS Nguyễn Đức Lữ với “Góp phần
tìm hiểu tín ngưỡng dân gian Việt Nam”; GS.TS. Nguyễn Tài Thư với “Ảnh hưởng
của các hệ tư tưởng và tôn giáo đối với con người Việt Nam hiện nay”; GS. TS. Đỗ

Quang Hưng với “ Vấn đề tôn giáo trong cách mạng Việt Nam – lý luận và thực
tiễn” ... Nói chung, đời sống tâm linh hiện đang được Đảng và Nhà nước ta quan
tâm, nên đã có rất nhiều sách viết về lĩnh vực này. Ban tơn giáo Chính phủ, Viện
Nghiên cứu Tơn giáo thuộc TTKHXH & NV Quốc gia, Trung tâm khoa học về tín
ngưỡng và tơn giáo thuộc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ chí Minh đã phát hành
rộng rãi các ấn phẩm bàn về tôn giáo, định hướng cho các tôn giáo hoạt động.
Nhưng sách viết về tư tưởng Hồ Chí Minh với tơn giáo cịn hạn chế, kết quả
cịn ở mức khiêm tốn. Trong cuốn “Về tơn giáo” tập 1 Nxb KHXH - H.1994 của
Viện nghiên cứu tôn giáo mới chỉ giới thiệu được rất ít các bài viết của Hồ Chí Minh
về tơn giáo. Trong cuốn “Hồ Chí Minh về vấn đề tơn giáo tín ngưỡng - Viện nghiên
cứu Tôn giáo” - Trung tâm KHXH & NV Quốc gia - Nxb Khoa học xã hội - Hà Nội
1998, cũng chỉ có 2 ý kiến của GS. Đặng Nghiêm Vạn và tác giả Ngơ Phương Bá mà
thơi. Trình bày một cách có hệ thống, khá súc tích về quan điểm của Hồ Chí Minh với
Phật giáo có cuốn “Hồ Chí Minh với Phật giáo Việt Nam” (1945-1969) do PGS.TS
Phùng Hữu Phú (chủ biên) - Nxb CTQG, H.1997. Đặc biệt đáng chú ý đó là cuốn “Tư
tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo và công tác tôn giáo” do GS.TS Lê Hửu Nghĩa và
PGS.TS Nguyễn Đức Lữ ( đồng chủ biên) – Nxb tơn giáo - 2003. Ngồi ra, một số
cuốn sách khác như cuốn “ Hồ Chí Minh với một số tơn giáo ở Việt Nam” của Th.S
Hồng Ngọc Vĩnh (chủ biên) - Nhà xuất bản Đại học Huế - 2009.
Tóm lại, ở lĩnh vực tư tưởng Hồ Chí Minh về tơn giáo hiện được đề cập chưa
nhiều và thiếu quan điểm toàn diện-lịch sử, mỗi nhà khoa học đề cập đến ở mỗi
khía cạnh khác nhau theo góc độ của ngành mình mà chưa có một cơng trình nào có

3


tính tổng hợp khái quát về vấn đề này. Trên cơ sở kế thừa những thành quả nghiên
cứu của các cơng trình nói trên, từ những bài nói, bài viết và hoạt động của Người
có liên quan đến tơn giáo, tác giả cố gắng chỉ ra được tình cảm và tư tưởng chỉ
đạo của Người đối với tôn giáo và với một số tôn giáo cụ thể ở Việt Nam.

Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh, tác giả phân tích, tổng hợp, khái quát các tài liệu của Người có liên quan đến
các tôn giáo ở Việt Nam. Đồng thời vận dụng kết quả của một số cơng trình của các
nhà khoa học Việt Nam về lĩnh vực Tôn giáo, tác giả cố gắng khái quát rút ra được
những kết luận khoa học về tư tưởng của Hồ Chí Minh đối với tôn giáo và sự vận
dụng của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay. Cơng trình nghiên cứu của tác giả chỉ
đừng lại là một tài liệu nhỏ giúp cho việc hệ thống lại tồn bộ quan điểm của Hồ
Chí Minh về tơn giáo, coi đó là tiền đề của chính sách tự do tín ngưỡng tơn giáo
của Đảng và Nhà nước ta hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của khóa luận.
3.1. Mục đích nghiên cứu.
Việc nghiên cứu của khóa luận nhằm khái quát rút ra được những kết luận
khoa học về tư tưởng của Hồ Chí Minh đối với Tơn giáo. Từ việc nghiên cứu đó, tác
giả muốn làm rõ quan điểm của Đảng trong việc kế thừa và vận dụng “ tư tưởng Hồ
Chí Minh về vấn đề tơn giáo” để có quan điểm vấn đề tôn giáo trong giai đoạn hiện
nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được những mục đích trên địi hỏi tác giả nghiên cứu phải làm tốt
những nhiệm vụ sau:
Thứ nhất, trình bày một cách có hệ thống các quan điểm của Mác, Ăngghen
và Lê Nin về tôn giáo. Cơ sở lý luận để hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về tơn
giáo.
Thứ hai, Trình bày một cách có hệ thống các quan điểm của Hồ Chí Minh về
tơn giáo

4


Thứ ba, từ việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo để làm cơ sở
lý luận cho việc xây dựng chính sách tơn giáo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu.
Khóa luận này được thực hiện dựa trên nghiên cứu phương pháp luận của
chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề tơn giáo, tín ngưỡng. Từ
cơ sở đó dựa trên phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, bên cạnh đó
cịn vận dụng các phương pháp khác như phân tích tổng hợp, logic và lịch sử, so
sánh khái quát các tài liệu của Người có liên quan đến các tơn giáo ở Việt Nam. Đề
tài cũng vận dụng kết quả của một số đề tài của các nhà khoa học lớn của Việt Nam
về lĩnh vực Tơn giáo mà làm rõ mục đích đề tài nêu ra.
Ngồi ra khóa luận cịn tham khảo thêm các bài viết ở nhiều sách báo, tài
liệu liên quan tới vấn đề này.
5. Phạm vi nghiên cứu của đề tài.
Tư tưởng Hồ Chí Minh hết sức rộng lớn, là một học thuyết với những luận
điểm trên nhiều lĩnh vực đời sống của giai cấp, dân tộc, quốc gia. Đề tài này chỉ
tập trung nghiên cứu cụ thể hệ thống các quan điểm của Hồ Chí Minh về tơn giáo,
chứng minh các hệ thống quan điểm đó là tiền đề của chính sách tự do tín ngưỡng
tơn giáo của Đảng và Nhà nước ta hiện nay.
6. Đóng góp mới của khóa luận.
Trình bày một cách có hệ thống các quan điểm của Hồ Chí Minh về tơn giáo,
chứng minh các hệ thống quan điểm đó là tiền đề của chính sách tự do tín ngưỡng
tơn giáo của Đảng và Nhà nước ta hiện nay.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của khóa luận.
Đề tài có ý nghĩa thiết thực giúp cho người viết bước đầu làm quen với cơng
tác nghiên cứu khoa học. Từ q trình nghiên cứu bản thân người viết sẽ được nâng
cao về kiến thức và phương pháp nghiên cứu
Đề tài có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, tìm hiểu
chính sách tôn giáo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong thời kỳ hiện nay.

5



8. Cấu trúc của đề tài.
Ngoài phần mở đầu và kết luận của đề tài, nội dung của đề tài gồm 2 chương
và 7 tiết

6


PHẦN NỘI DUNG
Chương 1:
NGUỒN GĨC HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ TƠN GIÁO .
1.1.Quan niệm của Mác – Lênin về sự hình thành, phát triển của tơn giáo.
1.1.1. Nguồn gốc kinh tế- xã hội của tôn giáo.
Các nhà lý luận theo trường phái duy tâm thường cho rằng tơn giáo là cái tự
có tồn tại ngồi thế giới vật chất, là thuộc tính vốn có trong ý thức con người mà
không lệ thuộc vào hiện thực khách quan, hay nói cách khác, tơn giáo là sản phẩm
mang tính nội sinh của ý thức con người. Đó là quan niệm trái với C.Mác về nguồn
góc của tơn giáo.
Theo học thuyết Mác thì tơn giáo là một hiện tượng lịch sử, một hiện tượng
thuộc kiến trúc thượng tầng của một xã hội nhất định.
Chủ nghĩa Mác đã luận chứng một cách đúng đắn, khoa học nguyên nhân, nguồn
gốc ra đời của tôn giáo về các mặt kinh tế - xã hội, về chính trị, về nhận thức, về
tâm lý.
Trong xã hội nguyên thủy, do trình độ sản xuất thấp kém, con người gần
như bất lực trước sức mạnh của thiên nhiên và nảy sinh sự sợ hãi. Từ sợ hãi, con
người đã “thăng hoa” các hiện tượng tự nhiên thành lực lượng siêu nhiên và phụ
thuộc vào sự chi phối của nó. Đó là hình thức tồn tại đầu tiên của tôn giáo.
Ph.Ăngghen đã nhận xét: “Trong thời kỳ đầu của lịch sử, chính những lực lượng
thiên nhiên là những cái trước tiên được phản ánh như thế, và trong quá trình phát
triển hơn nữa thì ở những dân tộc khác nhau, những lực lượng thiên nhiên ấy đã
được nhân cách hóa một sức nhiều vẻ và hết sức hỗn tạp” [4, t.20, 437].

Khi xuất hiện sự đối kháng giai cấp trong xã hội, bên cạnh cảm giác yếu
đuối trước sức mạnh của tự nhiên, con người lại thấy bất lực trước sức mạnh tự
phát của xã hội. Càng ngày nạn bóc lột về kinh tế, áp bức lao động, lệ thuộc chính
trị, miệt thị về tinh thần, vv… làm cho con người đau khổ gấp nhiều lần. Họ không
giải thích được nguồn góc phân hóa của xã hội , của những yếu tố ngẫu nhiên,
may rủi, con người lại ảo tưởng vào thế giới bên kia.
7


Trong tác phẩm chống Đuyring, Ph.Ăngghen viết: “Chẳng bao lâu bên cạnh
những lực lượng tự nhiên lại cịn có những lực lượng xã hội tác động, những lực
lượng này đối lập với con người, một cách cũng xa lạ lúc đầu cũng không thể hiểu
được đối với họ, và cũng thống trị họ với cái vẻ tất yếu bề ngoài giống như bản
thân những lực lượng thiên nhiên vậy” [3,336].
Con người khơng giải thích được nguồn gốc của sự phân hóa giai cấp và
ngun nhân của sự bất bình đẳng trong xã hội và những yếu tố ngẫu nhiên, may
rủi trong cuộc sống, người ta lại hi vọng, ảo tưởng vào cuộc sống tốt đẹp hơn ở thế
giới “bên kia”. Trong bài “Brunôbauơ và đạo Cơ đốc khởi thủy” Ănghen viết:
“Trong tất cả các giai cấp phải có một số người nhất định, số người này sau khi thất
vọng trong cuộc giải phóng về vật chất đã đi tìm sự giải phóng về tinh thần, sự an
ủi trong ý thức thay cho sự giải phóng về vật chất kia, để có thể cứu họ khỏi sự thất
vọng hồn tồn” [3, 338]
Như vậy nếu sự yếu kém của trình độ phát triển lực lượng sản xuất, sự bần
cùng về kinh tế, áp lực chính trị , thất vọng, bất lực trước những sự bất cơng của xã
hội là guồn góc sâu xa của tôn giáo.
V.I.Lênin trong bài “Chủ nghĩa xã hội và tôn giáo” đã viết: “Sự bất lực của
giai cấp bị bóc lột trong cuộc đấu tranh chống bọn bóc lột tất nhiên đẻ lòng tin vào
một cuộc đời tốt đẹp hơn ở thế giới bên kia cũng giống y như sự bất lực của người
dã man trong cuộc đấu tranh chống thiên nhiên, đẻ ra lòng tin vào thần thánh ma
quỷ, vào những phép màu” [20, t.12, 169-170].

Những phân tích của Mác –Lênin về nguồn gốc nhận thức của tôn giáo là
những luận điểm cơ bản hết sức quan trọng làm thay đổi căn bản cách nhìn nhận
vấn đề bản chất của tôn giáo, nguyên nhân và con đường khắc phục tôn giáo. Các
ông đã gắn cuộc đấu tranh chống tơn giáo với những biến đổi thế giới có tính cách
mạng. Chỉ có xây dựng lại triệt để một xã hội thì mới tạo ra những điều kiện cho
việc khắc phục tơn giáo. Tơn giáo có thể mất đi, khi mà những quan hệ của đời
sống hiện thực hàng ngày của con người sẽ được thể hiện trong những mối quan hệ
trong sáng và đúng đắn giữa con người với nhau và con người với tự nhiên. Hai

8


ông là những người đấu tranh triệt để cho sự giải phóng ý thức quần chúng khỏi
nọc độc tơn giáo, kiên quyết đấu tranh chống lại mọi hình thức thỏa hiệp cơ hội với
tơn giáo.
Ngồi sự bất lực của con người trước giới tự nhiên cịn có sự bất lực của con
người trước những điều kiện sinh sống xã hội, đấu tranh giai cấp cũng là nguồn gốc
dẫn đến ra đời của tôn giáo.
1.1.2. Nguồn gốc nhận thức của tôn giáo.
Tơn giáo là hình thái ý thức xã hội nên có nguồn gốc về mặt nhận thức. Khi
con người vừa thoát khỏi thế giới động vật để đi vào thế giới con người thì đã biết
nhận thức nhưng sự nhận biết lúc bấy giờ hết sức hạn hẹp, họ không thể giải thích
được các hiện tượng tự nhiên, xã hội xung quanh mình nên đã tìm đến sự giải thích
trong tơn giáo. Điều gì khoa học chưa giải thích đựợc thì điều đó được tơn giáo
thay thế. Ănghen đã viết: “Những tạo vật cao siêu do trí tưởng tượng tơn giáo của
chúng ta nặn ra, chỉ là những phản ánh hư ảo của chính thực thể của chúng ta thơi”
[4, t.21, 401].
Khi tư duy của con người phát triển thì nhận thức về thế giới khách quan
cũng có nhiều biến đổi. Con người ngày càng nhận thức đầy đủ hơn, sâu sắc hơn,
khái quát hơn các sự vật, hiện tượng trên thế giới nhưng đồng thời có nguy cơ tạo

ra ảo tưởng tách rời hình thức chủ quan ra khỏi nội dung khách quan, rơi vào ảo
tưởng thần thánh. Ăngghen đã nhận xét rằng: Chúa của đạo Cơ Đốc chỉ là sự phản
chiếu hư ảo con người song bản thân ơng Chúa đó lại là sản phẩm của một q
trình trừu tượng hóa lâu dài.
Khả năng nhận thức có giới hạn của con người về nguyên nhân phát sinh
các hiện tượng tự nhiên và bất bình đẳng xã hội làm cho con người sợ hãi, không
làm chủ được “ số phận” của mình là những tiền đề hình thành niềm tin tôn giáo.
Ở những giai đoạn lịch sử nhất định, nhận thức của con người về tự nhiên,
xã hội và bản thân mình là có giới hạn. Khoa học có nhiệm vụ khám phá những
điều chưa biết. Song khoảng cách giữa biết và chưa biết ln tồn tại. Điều gì mà
khoa học chưa giải thích được thì điều đó dễ bị tôn giáo thay thế.

9


Sự xuất hiện và tồn tại của tơn giáo cịn gắn liền với đặc điểm nhận thức của
con người. Con người ngày càng nhận thức đủ hơn, sâu sắc hơn thế giới khách
quan, khái quát hóa thành các khái niệm, phạm trù quy luật. Nhưng càng khái quát
hóa, trừu tượng hóa thì sự vật hiện tượng được con người nhận thức càng có khả
năng rời xa hiện thực và phản ánh sai lầm hiện thực. Sự thực bị tuyệt đối hóa,
cường điệu hóa của chủ thể nhận thức sẽ dẫn đến thiếu khách quan, mất dần cơ sở
hiện thực, dễ trở thành siêu thành thánh.
Theo quan điểm duy vật biện chứng của C.Mác, quá trình nhận thức là phức
tạp và phản ánh mâu thuẫn. Khi hình thức hiện thực phản ánh đa dạng bao nhiêu,
thì con người có khả năng nhận thức được thế giới bấy nhiêu. Nhưng khả năng đó
cũng tạo ra những tiền đề làm cho tư duy của con người xa rời hiện thực và phản
ánh sai lệch về hiện thực. Do vậy ý thức đã có cơ sở khách quan để tách rời và
nhận thức sai lầm hiện thực. Khi ý thức vượt trước hiện thực khách quan, phát hiện
quy luật của vận động của hiện thực thì nó là ý thức khoa học,là cơ sở chỉ dẫn việc
cải tạo tự nhiên và xã hội. Ngược lại, ý thức xã hội xa rời hiện thực bằng cách tuyệt

đối hóa hay sung bái, ảo tưởng các mặt riêng biệt của hiện thực thì đó là con
đường nhận thức của chủ nghĩa duy tâm tơn giáo.
Nguồn góc nhận thức của tơn giáo nói lên rằng, nó là hiện thực mà con
người đẩy cái thuộc về hiện tượng trong tư duy của mình thành khách quan tồn tại
bên ngồi mình – “ con người sáng tạo ra tơn giáo” – điều mà C.Mác kế thừa L.
Phơbách từ quan điểm duy vật biện chứng của ông.
Như vậy tôn giáo gắn liền với đặc điểm quá trình nhận thức của con người
về thế giới khách quan – đó là q trình đầy phức tạp và mâu thuẫn. Một mặt hình
thức phản ánh càng đa dạng, phong phú bao nhiêu thì con người càng có khả năng
nhận thức đầy đủ, sâu sắc thế giới khách quan bấy nhiêu. Mặt khác, càng khái qt
hóa, trừu tượng hóa thì sự vật, hiện tượng mà con người nhận thức càng có khả
năng xa rời hiện thực và có thể phản ánh sai lệch hiện thực. Sự nhận thức bị tuyệt
đối hóa, vai trị của chủ thể nhận thức bị cường điệu hóa sẽ dẫn đến thiếu khách
quan, mất dần cơ sở trần thế để trở thành siêu nhiên, thần thánh.

10


1.1.3. Nguồn gốc tâm lý của tôn giáo.
Tôn giáo không chỉ có hệ tư tưởng mà cịn có cả niềm tin tơn giáo, vì vậy tơn
giáo cịn có nguồn gốc về tâm lí. Khi con người bất lực trước các hiện tượng tự
nhiên, xã hội xung quanh làm nảy sinh tâm lý lo sợ dảna đến sự khuất phục trước
giới tự nhiên. Ngay từ thời cổ đại, Tuân Tử đã cho rằng có quỷ thần là do tâm lí sợ
hãi của con người tạo ra. Còn Phoiơbăc cũng cho rằng cảm giác về sự phụ thuộc là
cơ sở của tôn giáo, sự sợ hãi đẻ ra thần linh.
Xuất phát từ trạng thái tình cảm, cảm xúc cả tiêu cực lẫn tích cực cũng đều dẫn
con người đến với niềm tin tôn giáo. Những cảm xúc, tâm trạng của con người trước
sức mạnh của tự nhiên và những biến cố của xã hội đã và đang trở thành những thử
thách to lớn trong cuộc sống của cả cộng đồng , đống vai trò quan trộng đối với sự ra
đời và phát triển của tôn giáo.

Các nhà duy vật cổ đại thường đưa ra luận điểm "sự sợ hãi sinh ra thần linh"
V.I. Lênin tán thành và phân tích thêm: sợ hãi trước thế lực mù quáng của tư bản...,
sự phá sản "đột ngột", "bất ngờ", "ngẫu nhiên", làm họ bị diệt vong..., dồn họ vào
cảnh chết đói, đó chính là nguồn gốc sâu xa của tơn giáo hiện đại.
Ngồi sự sợ hãi trước sức mạnh của tự nhiên và xã hội, tín ngưỡng, tơn giáo
làm nảy sinh những tình cảm như lịng biết ơn, sự kính trọng, tình u trong quan
hệ giữa con người với tự nhiên và con người với con người. Đó là những giá trị tích
cực của tín ngưỡng, tơn giáo.
Tín ngưỡng, tơn giáo đã đáp ứng nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân
dân, góp phần bù đắp những hụt hẫng trong cuộc sống, nỗi trống vắng trong tâm
hồn, an ủi, vỗ về, xoa dịu cho các số phận lúc sa cơ lỡ vận. Vì thế, dù chỉ là hạnh
phúc hư ảo, nhưng nhiều người vẫn tin, vẫn bám víu vào. C.Mác đã nói, tơn giáo là
trái tim của thế giới khơng có trái tim, cũng giống như nó là tinh thần của trạng thái
xã hội khơng có tinh thần.
Khơng chỉ có sự sợ hãi trước sức mạnh tự phát của tự nhiên và xã hội mà
ngay cả những tình cảm tích trong mối quan hệ giữa con người với tự nhiên và con
người với con người cũng được thể hiện qua tín ngưỡng tơn giáo. Trong lịch sử có

11


những người có cơng khai phá tự nhiên hay trong việc chống lại cường quyền, áp
bức làm cho con nguời nảy sinh lòng biết ơn, sự ngưỡng mộ đối với những người
này. Nhưng tình cảm đó đã tạo ra các hình tượng thần thánh từ thời đại này sang
thời đại khác, từ địa phương này đến địa phương khác, với những tính chất siêu
phàm, xuất chúng, đó là nguồn gốc về mặt tâm lí của nhận thức.
1.2. Quan niệm của Mác- Lênin về bản chất và chức năng xã hội của tôn giáo.
1.2.1. Bản chất của tôn giáo.
- Quan niệm về tơn giáo
Hiện nay, đang cịn nhiều ý kiến khác nhau khi đề cập đến định nghĩa về tôn

giáo: Spencer một triết gia của chủ nghĩa thực chứng cho rằng, tơn giáo là tín
ngưỡng về một lực lượng nào đó vượt lên trên sự nhận thức của con người.
Makhơta nhấn mạnh, tôn giáo là sự mưu cầu của nhân sinh đối với điều thiện, là
một loại hình tình cảm của con người mong muốn có sự hài hịa với vũ trụ. Một số
nhà thần học Cơ đốc giáo còn khái quát thành “mối quan hệ qua lại giữa người và
thần”. Nhưng trong những tổ chức mang danh nghĩa là chủ nghĩa Mác lại có những
cái nhìn khác biệt về tơn giáo. Plêkhanốp cho rằng, tôn giáo là “hệ thống nghiêm
ngặt hoặc ít hoặc nhiều của mọi quan niệm, tình cảm, hành động”. Cịn Cauxky thì
qui các định nghĩa về tơn giáo thành hai loại chính. Một là, tơn giáo biểu thị trạng
thái tinh thần cá nhân con người, cá tính siêu việt lợi ích nhất thời của con người
cùng tàn dư đạo đức duy tâm chủ nghĩa. Hai là, nhiều người hiểu tôn giáo là một
hiện tượng lịch sử phổ biến, một thế giới quan không xuất phát từ kinh nghiệm bản
thân, mà xuất phát từ sự tôn sùng một thứ quyền uy ngự trị trên đầu họ khiến nó trở
thành nguyên tắc chỉ đạo trong tư tưởng và hành động.
Những tác giả nói trên quan niệm về tơn giáo từ lập trường và góc độ khác
nhau, song vì q nhấn mạnh đến các nhân tố hay các phương diện cấu thành tôn
giáo, cường điệu một cách quá đáng nên tất cả trở nên thiếu toàn diện, hoặc sai lầm.
Chủ nghĩa Mác- Lênin cho rằng, tơn giáo là một hình thái ý thức xã hội
phản ánh một cách hoang đường, hư ảo hiện thực khách quan. Qua sự phản ánh
đó, những sức mạnh tự phát trong tự nhiên và xã hội đều trở nên thần bí. Ph.Ăng-

12


ghen nêu trong tác phẩm chống Đuy-rinh: “Nhưng tất cả mọi tôn giáo chẳng qua
chỉ là sự phản ánh hư ảo – những lực lượng ở bên ngoài chi phối cuộc sống hàng
ngày của họ; chỉ là sự phản ánh trong đó những lực lượng trần thế đã mang hình
thức những lực lượng siêu trần thế”[4, t.20, 437].
Như vậy tôn giáo sản phẩm của ý thức con người và phản ánh một cách hư
ảo về thế giới bên ngoài nhằm đền bù những bất lực của con người trong cuộc sống

hàng ngày.
- Bản chất của tôn giáo
Tôn giáo xuất hiện rất sớm trong xã hội loài người. Khi đề cập đến bản chất
của tơn giáo có những ý kiến khác nhau.
Các nhà thần học cho rằng tôn giáo là cái gì đó rất thiêng liêng và cao cả, là
tặng phẩm của Thượng đế giành cho cho con người. Tôn giáo xuất hiện nhằm tạo
điều kiện giúp cho con người đạt đến sự hoàn thiện, cứu rỗi linh hồn. Thần học
nghiên cứu tôn giáo nhằm khẳng định sự tồn tại của Thần linh, Thượng đế và vai
trò quyết định của lực lượng siêu nhiên đối với số phận con người.
Các nhà triết học duy tâm đã giải thích sai lệch về bản chất của tôn giáo. Các
nhà triết học duy tâm khách quan dựa vào các lực lượng siêu nhiên để giải thích
bản chất của tơn giáo Platơn cho rằng: Vũ trụ có linh hồn của nó và linh hồn đó do
thần thánh sáng tạo ra. Cịn Hêghen thì quan niệm: Tơn giáo là một trong những
hình thái ý thức của ý niệm tuyệt đối ở giai đoạn phát triển cao nhất của nó – giai
đoạn tinh thần tuyệt đối. Các nhà triết học duy tâm chủ quan dựa vào ý thức của
con người giải thích rằng tơn giáo có nguồn gốc từ con người riêng lẻ, từ linh hồn,
từ cái tôi, từ những cảm xúc chủ quan.
Các nhà triết học duy vật trước Mác đã có nhiều đóng góp tích cực vào nhận
thức bản chất của tôn giáo. Tuy nhiên do những hạn chế về thời đại lịch sử và
phương pháp tư duy siêu hình, họ đã giải thích các hiện tượng tôn giáo một cách
phiến diện, chưa khoa học, đơi khi cịn mang yếu tố cực đoan như tun chiến với
tôn giáo.

13


Nhà triết học duy vật người Đức L.Phoiơbăc trong tác phẩm “Bản chất của
đạo Kitô giáo” đã tiếp cận một cách sâu sắc về nguồn gốc, bản chất của tôn giáo và
rút ra kết luận: “Khơng có Thượng đế tạo ra con người mà con người sáng tạo ra
Thượng đế”. L.Phoiơbăc trong tác phẩm “Biện chứng của tự nhiên” đã đưa ra định

nghĩa về bản chất của tôn giáo như sau: Bản chất khách quan xem như là bản chất
chủ quan, bản chất của giới tự nhiên coi như là khác giới tự nhiên, bản chất con
người coi như là khác với con người, coi như là bản chất khác với người đó, là thực
thể của Thượng đế, là bản chất của tơn giáo, là bí mật của chủ nghĩa thần bí và tư
biện. Tuy triết học của L.Phoiơbăc cịn nhiều hạn chế do điều kiện lịch sử, xã hội
và nhận thức của cá nhân, nhưng ơng đã có nhiều đóng góp trong lịch sử triết học,
một số quan điểm của ông sau này đã được chủ nghĩa Mác kế thừa và phát triển.
Trên cơ sở kế thừa các tư tưởng tiến bộ trước đó về tơn giáo C.Mác,
Ăngghen và Lênin đã có một cách tiếp cận biện chứng khoa học về bản chất của
tôn giáo thể hiện qua các tác phẩm của mình.
C.Mác và Ăngghen quan niệm tơn giáo là một hiện tượng xã hội, văn hóa,
lịch sử, một lực lượng xã hội trần thế trong đời sống con người. Tôn giáo đáp ứng
nhu cầu tinh thần của con người, nhưng nó cũng có những hạn chế, tiêu cực như
nhận thức chưa đúng về thế giới, về con người, tôn giáo dễ bị giai cấp thống trị lợi
dụng vào các mục đích chính trị.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tôn giáo là một hiện tượng xã
hội do chính con người sáng tạo ra. Tơn giáo phản ánh một cách hoang đường, hư
ảo hiện thực khách quan. Qua sự phản ánh của tôn giáo, mọi sức mạnh của tự nhiên
và xã hội đều trở nên thần bí trước con người. Tôn giáo xuất hiện do sự bất lực của
con người.
Quan điểm của của chủ nghĩa Mác – Lênin về tôn giáo cho đến nay vẫn giữ
nguyên giá trị khoa học của nó.
Khi đề cập tới vấn đề quan niệm của Mác – Lê nin về bản chất của tôn
giáo, PGS. Nguyễn Đức Sự trong cuốn sách chuyên đề : C.Mác – Ph. Ăngghen về
vấn đề tôn giáo có đưa ra nhận xét: Giữa thập kỷ XIX với lời nói đầu cuốn Góp

14


phần phê phán triết học pháp quyền của Hêghen của Mác và đặc biệt cuối thập kỷ

1970, trong cuốn Chống Đuyrrinh, Ăngghen đã nêu lên một cách dứt khoát quan
điểm về nguồn góc bản chất tơn giáo.
Giữa tín ngưỡng và tơn giáo có sự khác nhau, song lại có quan hệ chặt chẽ
mà ranh giới để phân biệt chúng chỉ là tương đối.
Tín ngưỡng là một khái niệm rộng hơn tôn giáo. ở đây chúng ta chỉ đề cập
một dạng tín ngưỡng - đó là tín ngưỡng tơn giáo (gọi tắt là tơn giáo). Tín ngưỡng là
niềm tin và sự ngưỡng mộ của con người vào một hiệntượng, một lực lượng siêu
nhiên, tơn sùng vào một điều gì đó pha chút thần bí, hư ảo, vơ hình tác động mạnh
đến tâm linh con người, trong đó bao hàm cả niềm tin tơn giáo.
Cịn tơn giáo thường được hiểu là một hiện tượng xã hội bao gồm có ý thức
tơn giáo lấy niềm tin tôn giáo làm cơ sở, hành vi và các tổ chức hoạt động tín
ngưỡng tơn giáo - nghĩa là, tơn giáo thường có giáo lý, giáo luật, lễ nghi và các tổ
chức giáo hội. Mê tín dị đoan là một hiện tượng xã hội tiêu cực đã xuất hiện từ lâu
và vẫn tồn tại ở thời đại chúng ta. Trên thực tế, mê tín dị đoan thường xen vào các
hình thức sinh hoạt tín ngưỡng tơn giáo. Việc xác định hiện tượng mê tín dị đoan
chủ yếu dựa vào biểu hiện và hậu quả tiêu cực của nó. Mê tín dị đoan là niềm tin
cuồng vọng của con người vào các lực lượng siêu nhiên đến mức độ mê muội với
những hành vi cực đoan, thái quá, phi nhân tính, phản văn hóa của một số người
gọi chung là cuồng tín. Hiện tượng mê tín dị đoan thường gắn chặt và lợi dụng các
hình thức sinh hoạt tín ngưỡng,tơn giáo để hành nghề. Vì vậy, cùng với việc tơn
trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo của nhân dân thì chúng ta phải
loại bỏ dần mê tín dị đoan nhằm làm lành mạnh hố đời sống tinh thần xã hội.
Tôn giáo là sản phẩm của con người, gắn với những điều kiện lịch sử tự
nhiên và lịch sử xã hội xác định. Do đó, xét về mặt bản chất, tôn giáo là một hiện
tượng xã hội phản ánh sự bất lực, bế tắc của con người trước tự nhiên và xã hội.
Theo C.Mác: "Sự nghèo nàn của tôn giáo vừa là biểu hiện của sự nghèo nàn
hiện thực, vừa là sự phản kháng chống sự nghèo nàn hiện thực ấy. Tôn giáo là tiếng
thở dài của chúng sinh bị áp bức, là trái tim của thế giới khơng có trái tim, cũng

15



giống như nó là tinh thần của những trật tự khơng có tinh thần. Tơn giáo là thuốc
phiện của nhân dân".Tuy nhiên, tôn giáo cũng chứa đựng một số giá trị văn hoá,
phù hợp với đạo đức, đạo lý của xã hội.
Về phương diện thế giới quan, thế giới quan duy vật mácxít và thế giới quan
tơn giáo là đối lập nhau. Tuy vậy, trong thực tiễn, những người cộng sản có lập
trường mácxít khơng bao giờ có thái độ xem thường hoặc trấn áp những nhu cầu tín
ngưỡng, tơn giáo hợp pháp của nhân dân. Ngược lại, chủ nghĩa Mác-Lênin và
những người cộng sản, chế độ xã hội chủ nghĩa ln tơn trọng quyền tự do tín
ngưỡng và khơng tín ngưỡng của nhân dân.
Sự khác nhau giữa chủ nghĩa xã hội hiện thực và "thiên đường" mà các tôn
giáo thường hướng tới là ở chỗ trong quan niệm tôn giáo, "thiên đường" không phải
là hiện thực xã hội mà là ở "thế giới bên kia", trên "thượng giới" (tức là cái hư ảo).
Còn những người cộng sản chủ trương và hướng con người vào xã hội văn minh,
hạnh phúc ngay ở thế giới hiện thực, do mọi người xây dựng và vì mọi người. V.I.
Lênin đã chỉ rõ: "Đối với chúng ta, sự thống nhất của cuộc đấu tranh thực sự cách
mạng đó của giai cấp bị áp bức để sáng tạo nên một cảnh cực lạc trên trái đất, là
quan trọng hơn sự thống nhất ý kiến của những người vô sản về cảnh cực lạc trên
thiên đường".
Như vậy, tơn giáo là một hình thái ý thức xã hội. Tôn giáo phản ánh tồn tại
xã hội, chịu sự quy định của tồn tại xã hội, nhưng tôn giáo cũng có tính độc lập
tương đối nên nó có thể tác động ngược trở lại đối với tồn tại xã hội và tác động
đến những hình thái khác của ý thức xã hội như: Chính trị, văn hóa, pháp luật. Đặc
điểm chung nhất của mọi ý thức tôn giáo là niềm tin vào cái siêu nhiên. Tơn giáo
có vai trị quan trọng trong xã hội. Tơn giáo vừa có những giá trị tích cực, vừa có
những nội dung tiêu cực lạc hậu.
1.2.2 Về chức năng của tôn giáo.
- Chức năng đèn bù hư ảo


16


Đây là chức năng đặc thù của tôn giáo. Tôn giáo ra đời nhằm đáp ứng nhu
cầu về đời sống tinh thần bù đắp cho sự thiếu hụt của con người trong đời sống hiện
thực.
Trước thực tại đau khổ, bị bóc lột con người tìm đến sự an ủi về mặt tinh
thần ở tơn giáo. Đó là sự mơ tưởng, ảo tưởng “lộn ngược” nhằm thoát khỏi thực tế
phủ phàng, như Mác nói: “Tơn giáo là hạnh phúc hư ảo của nhân dân”, “tôn giáo
chỉ là cái mặt trời xoay quanh con người chừng nào con người chưa bắt đầu xoay
quanh bản thân mình” [4, t.1, 570]. Hư ảo bao giờ cũng khơng hiện thực, chính vì
vậy nên nó có sức hấp dẫn đối với con người.
Tất cả các tôn giáo đều có kỳ vọng giải thích tự nhiên, xã hội, theo những
quan niệm riêng của mình nhằm đáp ứng nhu cầu giải thích thế giới của con người.
Tơn giáo đã đem lại cho chúng ta một bức tranh về thế giới nhưng đó là một bức
tranh hoang tưởng, khơng hiện thực. Mặc dù vậy, thế giới quan tôn giáo đã có ảnh
hưởng khá lớn đến đời sống của tín đồ, những ảnh hưởng này có cả mặt tích cực
lẫn mặt tiêu cực. Vì vậy, để có một thế giới quan khoa học, chúng ta phải không
ngừng đấu tranh để loại bỏ những tác động tiêu cực của tôn giáo đến đời sống của
nhân dân. Đây là cuộc đấu tranh phức tạp, lâu dài đòi hỏi cần phải được sự quan
tâm của tồn xã hội.
Chủ nghĩa Mác cho rằng tơn giáo là một hiện tượng xã hội, nguồn gốc của
nó là ở trong những điều kiện tồn tại vật chất của xã hội. Trong những giai đoạn
phát triển xã hội nhất định, sự bất lực của con người trước sức mạnh tự nhiên và xã
hội đã nảy sinh ra nhu cầu khắc phục những mâu thuẫn thực tế trong ý thức, trong
tưởng tượng nhu cầu đền bù sự hạn chế của các mối quan hệ hiện thực, quan hệ
trần gian, ở thế giới bên kia.
Luận điểm nổi tiếng của Mác: “Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân” đã
làm nổi bật chức năng đền bù hư ảo của tôn giáo giống như thuốc phiện, tôn giáo
đã tạo ra cái vẻ bề ngoài của sự làm nhẹ, tạm thời nỗi đau khổ của con người, an ủi

cho những mất mát, những thiếu hụt hiện thực của đời sống con người, đồng thời
gây ra những tác động có hại đối với con người khi tạo ra cho họ nhu cầu thường

17


xuyên tách khỏi hiện thực, tiêm nhiễm cho họ những quan niệm phản khoa
học.Trong những điều kiện lịch sử cụ thể, tơn giáo cũng có thể là chỗ dựa tinh thần
cho những ước muốn chân chính của quần chúng bị áp bức, phục vụ cho lợi ích của
họ. Nhưng ở đây nó vẫn khơng mất chức năng đền bù hư ảo, chức năng thuốc
phiện. Vì hạt nhân cơ bản của tôn giáo là niềm tin vào cái siêu nhiên luôn gây tác
động kìm hãm đối với tính tích cực của quần chúng, chuyển hướng niềm tin và sự
nỗ lực của họ vào con đường hư ảo. Chính vì vậy V.I.Lênin đã nhấn mạnh “Tôn
giáo là thuốc phiện đối với nhân dân - câu nói của Mác là hịn đá tảng của tồn bộ
của chủ nghĩa Mác trong vấn đề tơn giáo” [18. t.1, 511].
Cũng cần nhấn mạnh rằng chức năng đền bù hư ảo không chỉ là chức năng
chủ yếu và đặc thù mà còn là chức năng phổ biến của tơn giáo, ở đâu có tơn giáo thì
ở đó có chức năng đền bù hư ảo.
- Chức năng điều chỉnh hành vi
Tơn giáo cũng như và những hình thái ý thức xã hội khác, có chức năng điều
chỉnh hành vi của con người. Mỗi tơn giáo có một hệ thống các chuẩn mực, giá trị
riêng. Hệ thống các chuẩn mực này được trình bày trong các kinh sách, giáo lý, lễ
nghi thờ tự của các tơn giáo… Chúng có phạm vi điều chỉnh rộng không chỉ giới
hạn trong lĩnh vực tiến hành nghi lễ mà còn trong thái độ đối với bản thân, trong
quan hệ gia đình, với người khác, với cộng đồng và xã hội. Đó là tổng thể những
quy định để khuyến khích hay ngăn cấm hành vi của tín đồ như: Trong giới luật của
Phật giáo có ngũ giới, thập thiện. Cịn trong Kitơ giáo cũng có những luật lệ, lễ
nghi như: “Mười lời dặn của Thiên chúa”, “Sáu điều răn và hai mươi điều quy của
Giáo hội”…
Tuy có sự khác biệt về đức tin song các tơn giáo đều khẳng định vai trị của

đấng siêu nhiên, các hệ thống chuẩn mực còn phản ánh nguyện vọng đạo đức chân
chính của con người. Các tơn giáo đều khuyến khích con người làm việc thiện,
tránh xa điều ác, tuy nhiên chức năng điều chỉnh hành vi cũng có mặt tiêu cực là
hướng con người vào các mục đích tơn giáo ảo tưởng khơng hiện thực, làm hạn chế
hoạt động tích cực trong thực tiễn và vai trị cải tạo tự nhiên, xã hội của con người.

18


Các tơn giáo ngày nay đều có những điều chỉnh, cải cách các chuẩn mực, các giá trị
cho phù hợp với những biến đổi sâu sắc trên toàn cầu về tín ngưỡng tơn giáo.
- Chức năng liên kết
Chức năng liên kết của tôn giáo giúp liên minh, cố kết con người lại với
nhau vì mục đích, lý tưởng chung. Tơn giáo có thể đồn kết những người có cùng ý
thức tín ngưỡng giống nhau, tạo thành khối nước có cùng ý thức tín ngưỡng tơn
giáo. Chức năng này góp phần duy trì bảo vệ những trật tự xã hội hiện hành dựa
vào những hệ thống giá trị và chuẩn mực riêng của xã hội. Tuy nhiên, tôn giáo
không phải lúc nào cũng là một nhân tố liên kết đem lại sự ổn định xã hội, mà
nhiều khi trong những điều kiện lịch sử nhất định, tôn giáo lại là nhân tố gây mất
ổn định chính trị – xã hội.
Đây là một chức năng quan trọng của tôn giáo, nhờ tôn giáo có thể tồn tại
như một thực thể xã hội hiện thực có vai trị quan trọng trong đời sống của con
người.
Ngồi các chức năng trên, tơn giáo cịn có nhiều chức năng khác như chức
năng giao tiếp, chức năng nhận thức, chức năng văn hóa....các chức năng trên của
tơn giáo tồn tại với tư cách là một hệ thống. Chúng không biệt lập mà bao chứa lẫn
nhau, tùy vào hồn cảnh, mà có những biểu hiện khác nhau.
Từ bản chất, nguồn gốc, tính chất, chức năng nói trên cho thấy tơn giáo có
vai trị nhất định trong đời sống xã hội, được phân chia theo hai hướng là vai trị
tích cực và vai trị tiêu cực.

Mặt tiêu cực trong tôn giáo thể hiện tôn giáo chỉ là hạnh phúc hư ảo của
nhân dân, là vầng hào quang thần thánh trong biển khổ của nhân dân, là những
bông hoa tưởng tượng trên xiềng xích của con người. Tơn giáo hạn chế sự phát
triển tư duy, khoa học, làm cho con người có thái độ nhẫn nhục, khuất phục, khơng
tích cực, thiếu chủ động, sáng tạo trong việc tạo dựng hạnh phúc thật sự nơi trần
thế, mà hy vọng vào hạnh phúc ở cuộc sống sau khi chết. Bên cạnh đó trong xã hội
có giai cấp tơn giáo thường bị giai cấp thống trị lợi dụng để thực hiện ý đồ chính
trị. Nhiều khi tơn giáo làm cho người ta có thái độ mù quáng và hành vi cuồng tín.

19


Tơn giáo cũng cịn bị một số người lợi dụng cầu lợi, để “buôn bán thần thánh”.
Đồng thời do cơ sở nhận thức của tôn giáo là chủ nghĩa duy tâm thần bí nên bản
thân tơn giáo chứa đựng những yếu tố mê tín thường dẫn tới mù quáng, mê muội
vào cái thần bí, ma, thánh, quỷ, bùa phép, số mệnh… Mê tín thường đối lập với lẽ
phải, gây ra những hậu quả xấu đối với con người và xã hội.
Bên cạnh những biểu hiện tiêu cực, tôn giáo cũng có những mặt tích cực của
nó. Điều đó thể hiện ở chỗ: Tôn giáo vừa là sự phản ánh khốn cùng của hiện thực,
đồng thời lại là sự phản kháng chống lại sự khốn cùng của hiện thực ấy. Đó chính
là sự đấu tranh chống lại sự bất cơng tàn bạo trong xã hội có giai cấp và áp bức bóc
lột. Tơn giáo ln đề cao tính nhân văn, hướng thiện. Đạo đức tơn giáo có những
điều phù hợp với đạo đức xã hội và nhiều khi trở thành những giá trị văn hóa của
nhân loại, tơn giáo là thành tố của văn hóa. Thí dụ: Văn hóa Cơ đốc giáo, Văn hóa
Hồi giáo, Văn hóa Phật giáo.... tơn giáo ln là đề tài hình thành và phát triển
những tác phẩm nghệ thuật nổi tiếng. Đảng và Nhà nước ta đặc biệt đánh giá cao
vai trị tích cực của tơn giáo. Cần hạn chế mặt tiêu cực, khơi dậy, sử dụng phát huy
mặt tích cực của tơn giáo trong đời sống xã hội.
1.2.3.Vai trị của tơn giáo.
C.Mác cho rằng vai trị của tơn giáo có tác động đến đời sống xã hội ở cả hai

mặt tích cực và tiêu cực. Một là, nó là sự phản ánh hiện thực hư ảo, khơng tưởng;
mặt khác, nó là sự phản kháng chống lại sụ khốn cùng của thực tại. Một mặt, nó
giam cầm, ngăn cảm sự phát triển của văn hóa; Mặt khác nó gợi lên tư duy tự
do,khát vọng của con người mà trong đó đầy ắp suy tư, triết lý về cuộc sống của
nhân loại. Ở phương diện đạo đức, tôn giáo hướng vào những giá trị nhân đạo cao
cả. Nó cố kết cố con người lại trong tình thương đồng loại hoặc có thể gây xung đột
thảm khốc.
C.Mác khẳng định trong từng giai đoạn của lịch sử khác nhau thì vai trị
của xã hội tơn giáo cũng thể hiện một cách khác nhau. Ở cả hai mặt tích cực và tiêu
cực, tôn giáo vẫn là thuốc phiện của nhân dân. Vấn đề đặt ra là hiểu thế nào về câu
nói của C.Mác: “ Tơn giáo là thuốc phiện của nhân dân” . Đây là một sự so sánh

20


khi nói đến vai trị của tơn giáo. Con người tạo ra tôn giáo từ nhu cầu làm dịu bớt
nỗi lo lắng, nổi đau xã hội đang đè nặng đời sống tinh thần của mình. Bởi vậy, vai
trị thuốc phiện của tơn giáo từ khi C.Mác nói cho đến nay vẫn ngun nghĩa, đó
vẫn là thuộc tính phản ánh hư ảo, hoang tưởng cuộc sống hiện thực của nó.
Tất nhiên dừng lại cách hiểu đó của C.Mác vẫn chưa đủ. Theo C.Mác tơn
giáo cịn biểu hiện sự khổ ải, nghèo nàn của hiện thực và cũng là sự phản kháng
chống lại sự nghèo nàn, khổ ải ấy. Vậy nên tôn giáo là “sự phản kháng” cảnh bất
công, áp lực của xã hội, sự bù đắp những bất lực hiện thực, là khát vọng mà con
người muốn đạt được bằng những ước mơ khi xã hội trần thế chưa thỏa mãn họ.
Do vậy “ thuốc phiện ở đây được hiểu là thuốc an thần cần thiết để giảm nổi đau
trần thế như một liệu pháp cần có trong hồn cảnh xã hội nhất định. Tơn giáo
củng đống vai trị chất men cổ vũ, thúc đẩy con người hành động một cách khơng
vụ lợi vì mục đích cao cả. Trong ý nghĩa đó vai trị của đạo đức tơn giáo bao hàm
cả nghĩa tích cực.
Vấn đề là tơn giáo ảnh hưởng như thế nào đến sự phát triển của xã hội,

trong khi “ mọi tôn giáo cũng giống như khoa học, nghệ thuật và các lĩnh vực thuộc
kiến thức thượng tầng khác, tự bản thân nó khơng mang tính giai cấp”. Vai trị
“thuốc phiện” của tơn giáo bị giai cấp bốc lột thống trị sử dụng, các thế lực chính
trị phản động lợi dụng thì sẽ làm thui chột hiên thực.
Như vậy, khi xã hội có sự mâu thuẫn giai cấp thì tơn giáo thường bị mâu
thuẫn đó chi phối và cuốn hút vào một lập trường chính trị nhất định. Nếu giai
cấp tiến bộ được sự đồng thuận, đồn kết tơn giáo thì tơn giáo góp phần tạo nên
sự phát triển của xã hội. Nếu giai cấp phản động lợi dụng tơn giáo thì nó sẽ có vai
trị ngược lại. Điều này về sau được Lênin nhấn mạnh: “ Tôn giáo là thuốc phiện
của nhân dân. – câu nói đó của Mác là hịn đá tảng của tồn bộ quan điểm của chủ
nghĩa Mác trong vấn đề tơn giáo”.
1.2.4. Tính chất của tơn giáo.
- Tính lịch sử của tơn giáo :

21


Chủ nghĩa Mác – Lênin cho rằng tôn giáo là sản phẩm của quá trình phát
triển lịch sử, gắn với những điều kiện về kinh tế, chính trị xã hội. Trong q trình ra
đời, tồn tại, phát triển, tơn giáo có sự kế thừa các thành tựu, tinh hoa của các tôn
giáo khác nhau trong cùng một thời đại. Từ khi ra đời đến nay tơn giáo đã có những
biến đổi sâu sắc về các phương diện cho phù hợp với từng điều kiện lịch sử xã hội
cụ thể. Sự biến đổi của tôn giáo gắn liền với sự biến đổi của xã hội, chịu sự quy
định của đời sống xã hội, như Ăngghen đã nói: “Tất cả các tơn giáo thời cổ đại đều
là những tôn giáo tự phát của bộ lạc nhưng về sau là tôn giáo của dân tộc, tôn giáo
này đã lớn lên trong những điều kiện chính trị và xã hội của mỗi dân tộc và cùng
phát triển với các dân tộc ấy” [3, 364].
Tôn giáo luôn biến đổi qua các thời kỳ khác nhau của lịch sử. Ngày nay, tuy
các điều kiện kinh tế xã hội có nhiều biến đổi sâu sắc nhưng tơn giáo vẫn cịn đang
tồn tại thậm chí khởi sắc hơn trước. Tôn giáo sẽ tồn tại lâu dài trong lịch sử, nó sẽ

mất đi khi điều kiện tồn tại của nó khơng cịn nữa, như Mác đã nói: “Tơn giáo sẽ
mất đi khi mà con người không chỉ mưu sự, mà lại cịn làm cho thành sự nữa, thì
chỉ khi đó, cái sức mạnh xa lạ cuối cùng hiện nay vẫn đang phản ánh vào tôn giáo
cũng sẽ mất đi vì khi đó sẽ khơng có gì để phản ánh nữa” [4, t.20, 439]
Tuy nhiên không nên hiểu một cách giáo điều, xơ cứng tư tưởng của chủ
nghĩa Mác về sự mất đi của tôn giáo mà hi vọng tôn giáo sẽ mất đi nhanh chóng, dễ
dàng trong q trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.
- Tính quần chúng của tơn giáo:
Tơn giáo có ảnh hưởng sâu rộng trong quần chúng nhân dân thuộc nhiều giai
cấp, tầng lớp khác nhau trong xã hội. Số lượng tín đồ của các tơn giáo chiếm tỉ lệ
cao trong dân số thế giới. Chỉ riêng ba tôn giáo lớn là Kitô giáo, Phật giáo, Hồi giáo
đã có khoảng hơn ba tỉ người. Khi thể hiện tính quần chúng, tơn giáo thường có
tính nhân văn, nhân đạo, hướng thiện. Tôn giáo đáp ứng nhu cầu tinh thần của một
bộ phận quần chúng nhân dân lao động, phản ánh những ước mơ khát vọng về bình
đẳng, tự do của con người.

22


Dù hư ảo, hoang đường nhưng tôn giáo đã, đang bám sâu vào đời sống của
nhân dân, trở thành nhu cầu không thể thiếu trong đời sống tinh thần của một bộ
phận quần chúng nhân dân. Tơn giáo có tính quần chúng do chức năng liên kết có
thể liên minh những người có cùng ý thức tín ngưỡng tâp hợp họ lại thành sức
mạnh. Do đó cần có nhận thức, hiểu biết đúng đắn về tính quần chúng của tơn giáo
để có thái độ, cách ứng xử phù hợp đối với tơn giáo trong đời sống xã hội.
Tính quần chúng của tôn giáo không chỉ biểu hiện ở số lượng tín đồ các tơn
giáo. Hiện nay tín đồ của các tôn giáo chiếm tỷ lệ khá cao trong dân số thế giới
(nếu chỉ tính các tơn giáo lớn, đã có tới từ 1/3 đến 1/2 dân số thế giới chịu ảnh
hưởng của tơn giáo). Mặt khác, tính quần chúng của tơn giáo cịn thể hiện ở chỗ các
tơn giáo là nơi sinh hoạt văn hóa, tinh thần của một số bộ phận quần chúng nhân

dân lao động. Dù tôn giáo hướng con người niềm tin vào hạnh phúc hư ảo của thế
giới bên kia, song nó ln ln phản ánh khát vọng của những người bị áp bức về
một xã hội tự do, bình đẳng, bác ái... Bởi vì, tơn giáo thường có tính nhân văn, nhân
đạo và hướng thiện. Vì vậy, cịn nhiều người ở trong các tầng lớp khác nhau của xã
hội tin theo.
- Tính chính trị của tơn giáo
Tính chính trị của tơn giáo chỉ có khi xã hội có sự phân chia giai cấp. Những
cuộc chiến tranh tôn giáo đã và đang xảy trên thế giới về thực chất vẫn là xuất phát
từ lợi ích vật chất của những lực lượng xã hội khác nhau. Trong lịch sử những cuộc
đấu tranh tôn giáo luôn là một bộ phận của đấu tranh giai cấp. Trong các cuộc đấu
tranh đó, tơn giáo đã bị các giai cấp thống trị bóc lột sử dụng như một cơng cụ để
bảo vệ lợi ích của mình.
Đơng đảo quần chúng tín đồ đến với tôn giáo là nhằm thỏa mãn nhu cầu tinh
thần, đáp ứng nhu cầu tâm linh. Song trên thực tế, tơn giáo đã và đang bị các lực
lượng chính trị - xã hội phản động sử dụng cho mục đích ngồi tơn giáo, vì vậy tơn
giáo mang tính chính trị.
Vì vậy, tơn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng phải gắn liền với cuộc
đấu tranh chống những kẻ lợi dụng tín ngưỡng tơn giáo vì mục đích ngồi tơn giáo

23


và những hành vi hoạt động mê tín dị đoan. Không chỉ tôn trọng đảm bảo thực hiện
quyền tự do tín ngưỡng mà cịn đảm bảo quyền tự do khơng tín ngưỡng của cơng
dân.
1.3. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về giải quyết vấn đề tôn giáo trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
- Nguyên nhân tồn tại tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
* Nguyên nhân nhận thức: -Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội trình
độ dân trí của nhân dân chưa thật cao. Cho đến nay, còn nhiều hiện tượng tự nhiên xã hội mà khoa học vẫn chưa giải thích được.

Thế giới khách quan là vơ cùng, vơ tận trong khi nhận thức của con người là
một quá trình có giới hạn chính vì vậy có nhiều vấn đề mà khoa học chưa thể làm
rõ. Mặc dù nhân loại đã đạt được nhiều thành tựu to lớn về khoa học và công nghệ,
với những tiến bộ vượt bậc của công nghệ thông tin, sinh học, vật liệu mới giúp con
người có khả năng nhận thức xã hội và làm chủ tự nhiên. Con người vẫn chưa nhận
thức hết được các qui luật của tự nhiên, xã hội đang tồn tại và chi phối đời sống của
mình. Do vậy chưa thể gạt bỏ tâm lý sợ hãi, trông chờ, nhờ cậy, tin tưởng vào
Thần, Thánh, Phật… khỏi ý thức của con người.
* Nguyên nhân tâm lý: - Tôn giáo đã tồn tại lâu đời trong lịch sử lồi người,
nó in sâu vào đời sống tinh thần và ảnh hưởng khá sâu đậm đến nhận thức, tư duy,
lối sống của một bộ phận nhân dân qua nhiều thế hệ. Ở một số nước trên thế giới
tôn giáo trở thành một kiểu sinh hoạt văn hóa, là nhu cầu tinh thần không thể thiếu
của cuộc sống. Mặt khác, tôn giáo lại là một trong những hình thái ý thức xã hội rất
bảo thủ. Vì vậy xã hội đã có những biến đổi to lớn về kinh tế, chính trị, xã hội….
nhưng tín ngưỡng tơn giáo cũng khơng thay đổi ngay theo những biến đổi kinh tế,
xã hội mà nó phản ánh.
*Nguyên nhân chính trị- xã hội: - Tơn giáo có những điểm phù hợp với chủ
nghĩa xã hội. Đó là những giá trị đạo đức, văn hóa của tơn giáo, đáp ứng được nhu
cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân. Trong giai đoạn hiện nay tôn giáo đang tự
biến đổi để thích nghi theo xu hướng “đồng hành với dân tộc” sống “Tốt đời, đẹp

24


×