Tải bản đầy đủ (.pdf) (70 trang)

Vận dụng tư tưởng hồ chí minh về chống tham ô, lãng phí, quan liêu trong xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (683.39 KB, 70 trang )

1

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
----------

NGUYỄN THỊ HƯƠNG

Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về chống tham ơ,
lãng phí, quan liêu trong xây dựng đội ngũ cán bộ,
cơng chức hiện nay

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP

SƯ PHẠM GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ


2

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh – Vị cha già của bao người con dân nước Việt
Nam. Người là một nhà hoạt động chính trị lỗi lạc, người thầy vĩ đại của cách
mạng Việt Nam. Người ra đi để lại cả một kho tàng tư tưởng lớn khơng chỉ có
giá trị đối với dân tộc ta mà còn cả trên thế giới. Tư tưởng của Người chính là
ngọn đuốc soi đường cho cách mạng nước ta đi đến thắng lợi. Ngày nay, dưới
sự lãnh đạo của Đảng, tư tưởng Hồ Chí Minh cùng với chủ nghĩa Mác –
Lênin làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động để tiến lên xây
dựng một nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh” theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong đó, vấn đề đấu tranh chống


tham ơ, lãng phí, quan liêu nhằm xây dựng một bộ máy nhà nước trong sạch,
vững mạnh luôn được Người quan tâm và nổi lên một cách rõ nét.
Thực hành chống tham ô, lãng phí, quan liêu là những phẩm chất cơ
bản trong hệ thống quan điểm đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Người là


3

tấm gương sáng, mẫu mực trong thực hành những chuẩn mực đó. Người ln
kêu gọi tất cả mọi người, đặc biệt là những người cán bộ lãnh đạo, đảng viên
phải là người đi đầu đấu tranh chống lại cái bệnh chủ nghĩa cá nhân đó một
cách triệt để.
Đảng ta khơng có mục đích nào khác là đem lại độc lập cho dân tộc và
hạnh phúc cho nhân dân. Khi trở thành Đảng cầm quyền, Đảng phải thật sự là
đầy tớ của dân, gắn bó mật thiết với nhân dân, nếu khơng Đảng sẽ rơi vào tình
trạng quan liêu, tạo điều kiện cho những cán bộ, đảng viên lợi dụng thời cơ
tha hồ đục kht, tham ơ, xa hoa, lãng phí, mất đi sức sống vốn có của nó. Để
làm được điều đó, mỗi người phải tự khắc phục những yếu kém của mình,
chiến thắng “giặc ở trong lịng” mình, “giặc nội xâm” ở ngay trong tổ chức
của mình. Đặc biệt, trong công cuộc đổi mới hiện nay, chúng ta phải tích cực
đấu tranh chống tham ơ, lãng phí, quan liêu để xây dựng Đảng thật sự trong
sạch vững mạnh, xứng đáng “là đạo đức là văn minh”. Người chỉ rõ: “Một
dân tộc, một Đảng và con người ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn,
khơng nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca
ngợi nếu lịng dạ khơng trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”.
[28, 557-558]
Nhưng trên thực tế chúng ta thấy rằng, hiện nay tình trạng tham ô, lãng
phí, quan liêu ở nước ta đang diễn ra một cách mạnh mẽ cả chiều rộng lẫn
chiều sâu. Nhiều cán bộ, đảng viên làm việc không đến nơi, đến chốn, quan
liêu, hách dịch, sống quá xa nhân dân. Một số cán bộ, cơng chức vì chạy theo

cơ chế thị trường, bị sự chi phối của đồng tiền, quyền lực mà đánh mất phẩm
chất đạo đức của mình. Họ tham ô, ăn hối lộ, tiêu xài xa hoa, lãng phí làm phí
phạm sức lực, tiêu hao của cải của Chính phủ và nhân dân.
Trước tình hình đó, Đảng và Nhà nước ta cần phải đánh giá đúng thực
trạng và đưa ra các biện pháp đúng đắn nhằm đấu tranh chống lại bệnh tham
ơ, lãng phí, quan liêu, phải qt sạch “chủ nghĩa cá nhân” để xây dựng đất


4

nước phát triển bền vững theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Việc thực hiện
mạnh hơn nữa Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh” về chống tham ơ, lãng phí, quan liêu khơng chỉ là một cơng việc
cấp bách có ý nghĩa về mặt lý luận mà cả trong đời sống hiện thực ở nước ta.
Để góp phần vào việc làm rõ hơn tư tưởng Hồ Chí Minh về chống tham
ơ, lãng phí, quan liêu là một sinh viên khoa Giáo dục chính trị tôi mạnh dạn
lựa chọn đề tài nghiên cứu “Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về chống
tham ơ, lãng phí, quan liêu trong xây dựng đội ngũ cán bộ, cơng chức hiện
nay” làm đề tài nghiên cứu của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu, kế thừa và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về chống tham
ơ, lãng phí, quan liêu về đạo đức cách mạng nói chung là một nhiệm vụ rất
quan trọng. Vì vậy, những năm vừa qua ở Việt Nam đã có rất nhiều cơng trình
nghiên cứu về đề tài này. Trong đó, có nhiều cơng trình nghiên cứu quan
trọng như: “Tư tưởng chính trị của C. Mác, Ph. Ăngghen, V. I. Lênin và Hồ
Chí Minh”, Lê Minh Quân, Nxb Chính trị quốc gia, 2009; “ Nhận diện tham
nhũng và các giải pháp phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay”,
Phan Xuân Sơn, Phạm Thế Lực ( đồng chủ biên), Nxb Chính trị quốc gia,
2010.
Ngồi ra, cịn phải kể đến các bài viết của nhiều tác giả được đăng trên

các tạp chí như: “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá
nhân”, của Bùi Cơng Chính, Xây dựng Đảng, số 6, 2007; “Giải pháp văn
hóa đấu tranh phịng, chống tham nhũng”, của Nguyễn Văn Huyên, Tạp chí
Cộng sản, số 21, 2006; “Phịng chống tham nhũng và vấn đề hồn thiện cơ
chế quản lí kinh tế, quản lí xã hội”, của Phạm Quang Nghị, Tạp chí Cộng sản,
số 2+3, 2006; “Làm theo tấm gương đạo đức Bác Hồ: Thanh Liêm củng cố,
nâng cao chất lượng chính quyền cơ sở”, của Hà Trang – Nguyễn Bùi, Tạp
chí Cộng sản, số 48, 2010.


5

Những cơng trình đó có giá trị khoa học cao, nhìn một cách tổng qt
các cơng trình đó đã giải quyết được những vấn đề lý luận và thực tiễn, định
hướng cho việc giải quyết những vấn đề liên quan đến đề tài, đó chỉ là những
chỉ dẫn, gợi ý hết sức quý báu cho việc triển khai nội dung nghiên cứu của
luận văn. Tuy nhiên, do mục đích và khuôn khổ của từng đề tài khác nhau,
mỗi đề tài mới chỉ đề cập đến những khía cạnh nhất định. Cho đến thời điểm
này, chưa có đề tài nào đi sâu nghiên cứu một cách có hệ thống vấn đề “Vận
dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về chống tham ơ, lãng phí, quan liêu trong xây
dựng đội ngũ cán bộ, cơng chức hiện nay”. Trong q trình hồn thành khóa
luận, mặc dù đã có rất nhiều cố gắng nhưng do hạn chế về trình độ, thời gian,
tài liệu. Vì vậy, khóa luận chắc chắn sẽ khơng tránh khỏi những thiếu sót. Rất
mong sự góp ý của q thầy cơ và các bạn sinh viên để cho đề tài của tôi
được hồn thiện hơn.
3. Mục đích, nhiệm vụ, giới hạn nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu:
Qua nghiên cứu đề tài này nhằm nâng cao nhận thức của mọi người về
tác hại của bệnh tham ơ, lãng phí, quan liêu cũng như ý nghĩa của việc chống
bệnh tham ô, lãng phí, quan liêu. Từ đó vận dụng tư tưởng của Người vào

việc phịng chống tham ơ, lãng phí, quan liêu trong xây dựng đội ngũ cán bộ,
công chức hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
Để thực hiện những mục đích trên, đề tài có nhiệm vụ là:
- Làm rõ được một số nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về
chống tham ơ, lãng phí, quan liêu.
- Nêu lên thực trạng của bệnh tham ơ, lãng phí, quan liêu trong đội ngũ
cán bộ, công chức ở nước ta hiện nay.


6

- Xây dựng cơ sở và đề xuất hệ thống các giải pháp và kiến nghị để vận
dụng vào việc phịng chống “tham ơ, lãng phí, quan liêu” trong xây dựng đội
ngũ cán bộ, công chức hiện nay.
3.3. Giới hạn nghiên cứu:
Vấn đề chống tham ơ, lãng phí, quan liêu là một vấn đề khá rộng lớn
trên nhiều mặt của các hoạt động kinh tế, chính trị, xã hội. Khóa luận chỉ
nghiên cứu những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về chống tham
ơ, lãng phí, quan liêu và qua đó vận dụng tư tưởng của Người vào việc phịng
chống tham ơ, lãng phí, quan liêu trong xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức
hiện nay.
4. Cơ sở lí luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lí luận
Đề tài được thực hiện dựa trên cơ sở những quan điểm cơ bản của chủ
nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và từ thực tiễn của tình hình cơng
tác phịng chống tham ơ, lãng phí, quan liêu ở nước ta.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng các phương pháp để nghiên cứu như phương pháp phân
tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp lịch sử và lôgic, phương pháp so

sánh đối chiếu.
5. Nét mới của đề tài
Đề tài đi vào tìm hiểu một cách có hệ thống những quan điểm cơ bản
trong tư tưởng Hồ Chí Minh về chống tham ơ, lãng phí, quan liêu. Qua đó vận
dụng tư tưởng của Người trong xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức hiện nay.
6. Ý nghĩa của đề tài
Góp phần hệ thống các quan điểm của Hồ Chí Minh về chống tham ơ,
lãng phí, quan liêu.


7

Thấy rõ được tác hại của bệnh tham ô, lãng phí, quan liêu. Từ đó đưa ra
thực trạng và đề xuất một số giải pháp cụ thể nhằm góp phần xây dựng đội
ngũ cán bộ, công chức ở nước ta hiện nay.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo khóa luận
gồm 2 chương, 7 tiết.

PHẦN NỘI DUNG
Chương 1
NỘI DUNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHỐNG THAM Ơ,
LÃNG PHÍ, QUAN LIÊU
1.1. Khái quát về nguồn gốc, vị trí tư tưởng chống tham ơ, lãng phí, quan
liêu trong tư tưởng Hồ Chí Minh
1.1.1. Nguồn gốc tư tưởng Hồ Chí Minh về chống tham ơ, lãng phí, quan
liêu
Chống tham ơ, lãng phí, quan liêu là những phẩm chất quan trọng trong
hệ thống quan điểm đạo đức Hồ Chí Minh. Trong lịch sử, quan điểm về chống
tham ơ, lãng phí, quan liêu chưa được nhiều người đi sâu vào nghiên cứu một

cách có hệ thống. Tuy nhiên, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận thức được nguy
cơ tiềm ẩn của nó và đã đưa ra quan điểm về chống tham ơ, lãng phí, quan
liêu một cách rõ nét. Tư tưởng đó bắt nguồn từ truyền thống đạo đức của dân
tộc Việt Nam, từ trong chính gia đình, q hương, phẩm chất cá nhân của
Người cũng như ảnh hưởng của tư tưởng đạo đức nhân loại mà đỉnh cao là
chủ nghĩa Mác – Lênin.
1.1.1.1. Truyền thống đạo đức của dân tộc Việt Nam


8

Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là sự phản ánh của đời sống xã hội
Việt Nam, của thực tiễn cách mạng Việt Nam. Không thể hiểu được tư tưởng
đạo đức Hồ Chí Minh nếu như khơng tìm hiểu nó trong mối quan hệ với
truyền thống đạo đức của dân tộc Việt. Một dân tộc trọng đạo đức, ln địi
hỏi mọi người phải tu dưỡng đạo đức để giữ làng, giữ nước. Và trong q
trình đó, đã hình thành nên đạo lý làm người của dân tộc Việt Nam, thành
lương tri của con người Việt Nam.
Tư tưởng chống tham ô, lãng phí, quan liêu của Hồ Chí Minh bắt
nguồn từ truyền thống đạo đức ấy. Truyền thống yêu nước, cần cù, yêu
thương đùm bọc lẫn nhau, tinh thần đoàn kết khơng chỉ trong chiến tranh mà
cịn cả trong thời bình, cùng chung sức xây dựng đất nước theo định hướng xã
hội chủ nghĩa. Để phát huy được những truyền thống tốt đẹp đó, thì vấn đề đặt
ra đối với người lãnh đạo là phải coi trọng việc tu dưỡng đạo đức. Phải luôn
“trung với nước, hiếu với dân” yêu thương nhân dân, vì lợi ích của nước, của
dân.
Trong suốt chiều dài lịch sử, dân tộc ta đã trải qua những năm tháng
chiến tranh gian khổ, bị áp bức, bóc lột bởi chủ nghĩa thực dân và phong kiến.
Nhân dân ta khơng có cơm ăn, áo mặc, khơng có quyền tự do, dân chủ. Trong
khi đó, có những ơng quan lại làm tay sai cho đế quốc, thực dân, làm kẻ bán

nước. Chúng bóc lột nhân dân ta đến thậm tệ, để được sống cuộc sống xa hoa,
đầy đủ, chịu làm nô lệ mất nước. Chúng quan liêu, hách dịch, làm nhân dân ta
vơ cùng căm ghét. Vì vậy, những con người chính trực, khơng xu nịnh, khơng
tham ơ, những ơng quan thanh liêm luôn được người Việt ca ngợi và coi đó là
những tấm gương sáng để mọi người học tập và noi theo.
Mặt khác, cần cù, tiết kiệm, chống lãng phí đã trở thành phẩm chất tâm
lý của con người Việt Nam. Hàng ngày, hàng giờ có biết bao người công nhân
đang chăm chỉ lao động trong các nhà máy, xí nghiệp để tạo ra các sản phẩm
cần thiết cho cuộc sống chúng ta. Những bác nông dân “chân lấm tay bùn”


9

quanh năm “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời” để tạo ra những mùa vàng
bội thu. Tuy nhiên, trong các truyền thống của dân tộc khơng chỉ có sự phát
triển ưu trội về mặt đạo đức mà ở đó có cả phong tục, tập quán lạc hậu của
Nho giáo, lễ giáo phong kiến. Xã hội vẫn còn tồn tại khơng ít những người
lười biếng, khốc lác, khơng thích làm, chỉ muốn được nghỉ ngơi, hưởng thụ,
tiêu xài xa hoa, lãng phí, sống trên người khác.
Kế thừa truyền thống đạo đức dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chọn
lọc để phát huy mặt tốt, từ bỏ mặt tiêu cực đồng thời cách tân, bổ sung những
nhân tố mới cho phù hợp với yêu cầu thực tiễn của thời đại, tích cực đấu tranh
chống lại những cái xấu trái với đạo đức con người. Tư tưởng của Người kết
thành diện mạo đạo đức của thời đại mang tên Người là những tư tưởng đã cơ
cấu lại các giá trị đạo đức truyền thống hòa quyện với tinh hoa đạo đức nhân
loại và được nâng lên tầm cao mới.
1.1.1.2. Truyền thống q hương, gia đình của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Q hương, gia đình là “cái nơi”, “ngọn nguồn” góp phần hình thành
nên tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh. Q hương Nghệ Tĩnh, một mảnh đất
giàu truyền thống cách mạng, mảnh đất đã sinh ra và nuôi dưỡng biết bao

người anh hùng dân tộc ln vì nước vì dân, thanh liêm, chính trực: Mai Thúc
Loan, Phan Đình Phùng, Phan Bội Châu…Và cũng chính mảnh đất này hàng
vạn, hàng triệu người con Nghệ Tĩnh kiên trung, bất khuất đã hy sinh xương
máu của mình trong cuộc đấu tranh cho hịa bình, thống nhất đất nước.
Quê hương, gia đình là trường học đầu tiên hình thành nên nhân cách
cao đẹp Hồ Chí Minh. Giáo sư Trần Văn Giàu viết: “Bất kỳ xưa nay, bất kỳ
xứ sở, gia đình ln ln là nơi hình thành những nét cảm tình, những nét lý
tính, những nét nhân cách đầu tiên của một con người” [19, 15]. Hồ Chí Minh
sinh trưởng trong một gia đình nhà Nho yêu nước. Thân phụ là phó bảng
Nguyễn Sinh Sắc, thân mẫu là bà Hoàng Thị Loan. Nguyễn Sinh Cung lớn lên
trong tình u thương, đùm bọc của ơng bà, cha mẹ, anh chị và thừa hưởng


10

nhiều tính cách, phẩm chất từ gia đình, cả hai bên nội ngoại đều có tiếng là
nhân từ “trọng nghĩa khinh tài” sống gần gũi với nhân dân lao động, không
cậy quyền, cậy chức.
Từ tuổi ấu thơ, Nguyễn Sinh Cung đã bị ảnh hưởng rất lớn từ đức tính
cao đẹp của cha – ơng Nguyễn Sinh Sắc. Ơng Sắc là một nhà Nho cấp tiến có
lịng u nước nồng nàn và sâu sắc, là một tấm gương sáng ngời về phẩm chất
liêm, chính. Tuy làm quan nhưng cụ Sắc sống hết sức giản dị, thanh bạch, gắn
bó với mọi người, không ham muốn địa vị, quyền lực. Luôn đấu tranh chống
lại cái xấu, bảo vệ lẽ phải và đứng về phía nhân dân lao động. Hồ Chí Minh
chịu ảnh hưởng rất lớn từ nhân cách người cha, đó là lịng yêu lao động, hết
lòng yêu nước thương dân, thanh liêm, chính trực. Những đức tính, đạo đức
đó đã xun suốt trong cả quá trình hoạt động của Người. Trên con đường kế
thừa, phát triển những giá trị mới thì nguồn gốc q hương, gia đình vẫn ln
là một hằng số bất biến trong con người, tư tưởng của Bác.
1.1.1.3. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin

Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là sự kế thừa những tấm gương đạo
đức trong sáng của C. Mác, Ph. Ăngghen, V.I. Lênin để lại. Đặc biệt, Người
chịu ảnh hưởng rất lớn từ tấm gương của Lênin, một tấm gương đạo đức trong
sáng, giản dị, cao thượng và khiêm tốn. Trong suốt cuộc đời chiến đấu liên
tục cho sự nghiệp cách mạng, Lênin khơng giây phút nào lo tới lợi ích cá
nhân. Tình thương nồng hậu nhất ông luôn dành cho giai cấp công nhân và
nhân dân lao động bị áp bức trên tồn thế giới. Chính vì những phẩm chất cao
đẹp đó mà suốt đời người, Hồ Chí Minh đã tự học tập và rèn luyện theo hình
mẫu của Lênin. Điều này thể hiện trong những dòng viết đầy xúc động sau
khi Lênin mất. Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Lênin đã nêu cho chúng ta một tấm
gương sáng về sự giản dị vĩ đại và khiêm tốn cao độ”. “Không phải chỉ thiên
tài của Người, mà chính là tính coi khinh sự xa hoa, tinh thần yêu lao động,
đời tư trong sáng, nếp sống giản dị, tóm lại là đạo đức vĩ đại và cao đẹp của


11

Người thầy, đã ảnh hưởng lớn lao tới các dân tộc và đã khiến trái tim của họ
hướng về Người, khơng gì ngăn cản nổi”. [33, 334 ]
Đạo đức mácxít thuộc hệ tư tưởng đạo đức của những người lao động.
Nó nêu lên những giá trị cơ bản của xã hội theo quan điểm của những người
lao động, phản ánh khát vọng của họ, xây dựng một xã hội mà tất cả mọi
người đều được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột bất cơng, mọi người được tự
do hồn thiện và phát triển hết các khả năng của mình. Đặc điểm của chủ
nghĩa Mác – Lênin phản ánh tính liên tục và tính cách mạng trong lĩnh vực
đạo đức. Đạo đức mácxít vì hạnh phúc, tự do, bình đẳng, bác ái thật sự của
con người từ trong quá trình lao động, sản xuất. Quan niệm đạo đức học Mác
– Lênin lấy chủ nghĩa duy vật làm cơ sở, xem xét đạo đức như một quá trình
sáng tạo ra những giá trị mới trong những mối quan hệ giữa người với người.
Mác – Lênin không đưa ra quan niệm cụ thể về chống tham ơ, lãng phí,

quan liêu nhưng trong tư tưởng của ơng cũng ánh lên những hạt mầm có ảnh
hưởng không nhỏ đến tư tưởng chống tham ô, lãng phí, quan liêu, tư tưởng
đạo đức của Hồ Chí Minh.
Bàn về chống quan liêu, tham nhũng theo Mác là lợi ích của các giai
cấp thống trị áp bức và bóc lột, những lợi ích vật chất của giai cấp tư sản quện
rất chặt với việc duy trì bộ máy rộng lớn, tha hóa lao động, tha hóa quyền lực
là nguồn gốc của quan liêu, tham nhũng. Biện pháp chủ yếu để chống quan
liêu, tham nhũng là khắc phục giai cấp áp bức, bóc lột xây dựng Nhà nước
kiểu mới của giai cấp vô sản.
Lênin là một tấm gương sáng, cao đẹp về đạo đức cách mạng. Lênin rất
chú trọng và nói nhiều về vấn đề chống tham ơ, lãng phí, quan liêu. Theo
Lênin tham ô, hối lộ là xấu xa và cần phải có biện pháp trừng trị những kẻ
tham ô, ăn hối lộ một cách nghiêm khắc, thích đáng. Bàn về quan liêu, tham
ơ, hối lộ và lãng phí Lênin chỉ rõ: Tham ô, hối lộ là một trong những kẻ thù
trực diện, nguy hiểm của mỗi Đảng và đề cao vị trí, vai trị của tiết kiệm và


12

phịng chống lãng phí. Với Lênin, tiết kiệm khơng chỉ thật sự cần thiết, mà
tiết kiệm còn trở thành khẩu hiệu chun chính vơ sản trong cơng cuộc xây
dựng kinh tế. Lênin chỉ rõ: “Hãy tính tốn tiền nong cho cẩn thận và thành
thực, hãy tính tốn một cách tiết kiệm những món chi tiêu, đừng lười biếng,
đừng tham ơ” [24, 305].
Theo Lênin cần phải tiết kiệm để chống nạn lãng phí. Lênin viết:
“Nước nhà mà chúng ta ra sức xây dựng là phải làm sao cho cơng nhân có thể
lãnh đạo nơng dân và giữ gìn lịng tin cậy của nơng dân. Phải cực kì tiết kiệm
để tẩy sạch những vết tích lãng phí…” [23, 497]. Theo ơng, dưới chế độ xã
hội chủ nghĩa, tiết kiệm chống lãng phí là để xây dựng chủ nghĩa xã hội và cải
thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Vì vậy mà phải hết sức tiết

kiệm trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, đồng thời phải động viên lịng
nhiệt tình cách mạng của nhân dân lao động để tăng nguồn tích lũy.
Về cách chống bệnh quan liêu thì Lênin nói: “Cần phải dùng nhiều hình
thức và phương pháp kiểm tra từ dưới lên trên…để nhổ đi nhổ lại cho sạch hết
những cỏ rác bệnh quan liêu” [23, 497]. Như thế mới làm bộ máy nhà nước
thật sự trong sạch, mới chống cả được bệnh tham ô và lãng phí.
Từ những quan niệm đó của C. Mác, Ph. Ăngghen, V.I. Lênin, Hồ Chí
Minh đã kế thừa và phát triển lên. Tuy nhiên, Người tiếp thu chủ nghĩa Mác –
Lênin theo phương pháp nhận thức mácxít, theo lối nắm lấy cái tinh thần, cái
bản chất chứ không phụ thuộc vào cái vỏ ngôn từ. Người vận dụng sáng tạo tư
tưởng của chủ nghĩa Mác vào điều kiện cụ thể của nước ta và xuất phát từ yêu
cầu của đất nước, con người Việt Nam.
Có thể khẳng định thế giới quan và phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tấm gương đạo đức của C. Mác, Ph. Ăngghen, V.I. Lênin đã
định hướng cho Hồ Chí Minh trong việc kế thừa và phát triển các tư tưởng
đạo đức dân tộc và nhân loại. Từ đó sáng tạo ra một hệ thống đạo đức mới


13

phù hợp với thực tiễn đấu tranh cách mạng của nhân dân ta, đó là đạo đức Hồ
Chí Minh.
1.1.1.4. Phẩm chất cá nhân của Hồ Chí Minh
Cuộc đời hoạt động của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một tấm gương trong
sáng, tuyệt vời về sự phấn đấu cho những lý tưởng đạo đức cao cả nhất của
con người. Là một lãnh tụ vĩ đại, Hồ Chí Minh đã lãnh đạo Đảng, lãnh đạo
nhân dân chiến thắng mọi kẻ thù, giành độc lập tự do cho dân tộc. Người cống
hiến cả đời mình cho Tổ quốc, cho nhân dân, cho sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội. Phẩm chất cá nhân của Hồ Chí Minh, là một con người tuyệt vời
về nhân cách sống cao q, đạo đức chí cơng vơ tư, cả cuộc đời vì nước vì

dân. Là Chủ tịch nhưng Người sống thanh liêm, tác phong khiêm tốn giản dị,
ln giáo dục mọi người phải sống có đạo đức, chống lại mọi thói hư tật xấu.
Người đã để lại cho đời không chỉ những giá trị về vật chất mà cịn cả kho
báu tinh thần, đó là những giá trị đạo đức cao đẹp thể hiện sự kết tinh những
giá trị đạo đức tinh túy nhất của dân tộc.
1.1.2. Vị trí của chống tham ơ, lãng phí, quan liêu trong tư tưởng Hồ Chí
Minh
Chống tham ơ, lãng phí, quan liêu là một vấn đề quan trọng trong tư
tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường quá độ lên chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam. Trong sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã
hội và con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam thì vị trí tư tưởng
chống tham ơ, lãng phí, quan liêu được thể hiện rõ nét.
1.1.2.1. Giữ vững mục tiêu của chủ nghĩa xã hội
Trên nền tảng lý luận của chủ nghĩa Mác –Lênin, đồng thời xuất phát từ
điều kiện, hoàn cảnh lịch sử thực tiễn Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
xây dựng sáng tạo học thuyết cách mạng giải phóng dân tộc và phát triển đất
nước Việt Nam. Trong đó, vấn đề cơ bản nhất, xuyên suốt nhất là: “Độc lập
dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội”. Đó là sự lựa chọn hoàn toàn đúng đắn,


14

khách quan, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại, đáp ứng khát vọng
thiêng liêng của toàn thể nhân dân Việt Nam, giải quyết triệt để những mâu
thuẫn nội tại của cách mạng Việt Nam.
Theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Cách mạng giải phóng
dân tộc phải phát triển thành cách mạng xã hội chủ nghĩa thì mới giành được
thắng lợi hồn tồn”. Bởi chỉ có gắn bó mục tiêu độc lập dân tộc với chủ
nghĩa xã hội, đưa cách mạng Việt Nam vào quỹ đạo cách mạng vô sản phù
hợp với xu thế phát triển của thời đại thì mới huy động được sức mạnh của

dân tộc với sức mạnh của thời đại, sức mạnh trong nước và sức mạnh quốc tế
để giành độc lập, tự do cho Tổ quốc và chỉ có chủ nghĩa xã hội mới bảo vệ
vững chắc độc lập dân tộc, đem lại tự do, hạnh phúc cho nhân dân.
Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội cũng chính là mục tiêu cao cả, bất
biến của toàn Đảng, toàn dân ta. Thực tiễn phát triển đất nước cho thấy, độc
lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa
xã hội là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc. Hiện nay chúng ta
đang tiến hành đổi mới toàn diện đất nước vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh,
xã hội dân chủ, công bằng, văn minh” là tiếp tục con đường cách mạng độc
lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội mà Hồ Chí Minh đã lựa chọn.
Tuy nhiên, trong giai đoạn hiện nay, trước tình trạng nhiều vấn đề xã
hội bức xúc và gay gắt chưa được giải quyết tốt như nạn thiếu việc làm, sự
phát triển của tệ nạn xã hội, sự khó khăn về đời sống của một bộ phận nhân
dân, bốn nguy cơ mà Đảng ta đã cảnh báo là nguy cơ chệch hướng xã hội chủ
nghĩa, tụt hậu xa hơn về kinh tế, “diễn biến hịa bình” và tệ quan liêu, tham ơ
của một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức vẫn tồn tại và diễn biến phức
tạp thì việc giữ vững định hướng, mục tiêu xã hội chủ nghĩa càng trở nên
quan trọng hơn bao giờ hết.
Hơn 80 năm chiến đấu và trưởng thành, Đảng ta đã hoàn thành được
một phần sứ mệnh lịch sử đó là đất nước độc lập, thống nhất, đi lên chủ nghĩa


15

xã hội. Song con đường phía trước khơng phải hồn toàn là bằng phẳng, trơn
tru. Sự đan xen sâu sắc giữa những thời cơ và thách thức mà thời đại đặt ra,
buộc dân tộc ta, Đảng ta và bản thân mỗi người dân Việt Nam chúng ta phải
“lớn” hơn ngày hơm qua. Trên bệ phóng của những thành cơng rực rỡ mà cha
ông đã xây dựng, thế hệ trẻ Việt Nam khát khao được là người kế nghiệp
xứng đáng. Thiết nghĩ, để khát khao ấy được thắp sáng, điểm xuất phát trước

hết phải là sự trung thành đối với Tổ quốc, với lý tưởng của Đảng và của nhân
dân, kiên định lập trường cách mạng, thấm nhuần chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh trong điều kiện mới, đặc biệt là nhất quyết thực hiện sứ
mệnh bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, xây dựng thành công chủ nghĩa xã
hội.
1.1.2.2. Phát huy quyền làm chủ của nhân dân, khơi dậy mạnh mẽ tất cả các
nguồn lực, trước hết là nội lực để thực hiện cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước.
Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta được khẳng định bởi tính
ưu việt của một chế độ xã hội tốt đẹp, với mục tiêu cao cả đó là giải phóng xã
hội, giải phóng con người khỏi mọi áp bức, bất công, tạo điều kiện để phát
triển toàn diện con người. Tuy nhiên, trong hoàn cảnh lịch sử Việt Nam, chủ
nghĩa xã hội là vấn đề rất mới, nhất là trong điều kiện nước ta kinh tế còn
nghèo nàn, lạc hậu, bị chiến tranh tàn phá nặng nề, kẻ thù lại thường xuyên
chống phá, xuyên tạc, cho nên nhiều người còn nhận thức mơ hồ về chủ nghĩa
xã hội, hồi nghi về tính hiện thực của chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, chủ nghĩa xã hội không phải là những
gì cao siêu, huyền bí. Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã
hội hết sức cụ thể, giản dị, dễ hiểu: “Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho dân
giàu, nước mạnh”, “mục đích của chủ nghĩa xã hội là không ngừng nâng cao
mức sống của nhân dân”, “chủ nghĩa xã hội là mọi người cùng ra sức lao


16

động sản xuất để được ăn no, mặc ấm và có nhà ở sạch sẽ”. Người khẳng định
xã hội xã hội chủ nghĩa là “một thế giới khơng có người bóc lột người, mọi
người sung sướng, vẻ vang, tự do, bình đẳng, xứng đáng là thế giới của lồi
người”. Đối với điều kiện, đặc điểm của Việt Nam, một nước nơng nghiệp lạc

hậu, có xuất phát điểm thấp, chưa kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ
nghĩa, thì mục tiêu ban đầu của chủ nghĩa xã hội phải đặt ra một cách thiết
thực: “Làm cho người nghèo thì đủ ăn. Người đủ ăn thì khá giàu. Người giàu
thì giàu thêm. Người nào cũng biết chữ. Người nào cũng biết đồn kết, u
nước”. Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, xã hội xã hội chủ nghĩa luôn là sự thống
nhất biện chứng của các yếu tố kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Người nói:
“xã hội ngày càng tiến, vật chất ngày càng tăng, tinh thần ngày càng tốt, đó là
chủ nghĩa xã hội”. Cụ thể hơn, Bác cho rằng chủ nghĩa xã hội phải “có cơng
nghiệp và nơng nghiệp hiện đại, có văn hóa và khoa học tiên tiến”.
Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa là một tất yếu đối với tất cả các nước
nông nghiệp lạc hậu quá độ lên xã hội chủ nghĩa không kinh qua tư bản chủ
nghĩa. Quán triệt sâu sắc quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Chủ nghĩa xã
hội là cơng trình tập thể của nhân dân, do nhân dân tự xây dựng nên dưới sự
lãnh đạo của Đảng, phải đem “tài dân, sức dân, của dân làm lợi cho dân”,
chúng ta phải phát huy cao độ quyền làm chủ của nhân dân trong sự nghiệp
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa. Muốn thế phải thực hiện nghiêm túc cơ chế
“dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” và phải nhất quán thực hiện chiến
lược đại đồn kết của Hồ Chí Minh, trên cơ sở lấy liên minh cơng – nơng – trí
thức làm nịng cốt. Hợp tác, tranh thủ sự đóng góp, ủng hộ của những ai tán
thành đổi mới vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng,
văn minh”.
Cịn về chính trị, xã hội xã hội chủ nghĩa là do nhân dân làm chủ, bao
nhiêu lợi ích đều vì dân, bao nhiêu quyền hạn đều của dân, quyền hành và lực
lượng đều ở mọi người dân, mọi cán bộ, công chức Nhà nước đều là công bộc


17

của dân. Theo tinh thần đó, ngày nay, cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
phải dựa vào nguồn lực trong nước là chính, trong đó nguồn lực con người là

vốn quý nhất. Con người là yếu tố quyết định. Do đó, Bác đặc biệt quan tâm
tới việc tuyên truyền, vận động, giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng con người, đặc
biệt là thế hệ trẻ.
1.1.2.3. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại
Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại là một nội dung lớn
của tư tưởng Hồ Chí Minh. Vì vậy trong xây dựng và bảo vệ đất nước hiện
nay nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức
mạnh thời đại là một yêu cầu quan trọng. Thời đại ngày nay, đặc biệt là giai
đoạn hiện nay đang diễn ra một cuộc đấu tranh gay gắt trên mặt trận tư tưởng
cũng như về hoạt động thực tiễn mà chúng ta cần nhận thức đúng đắn để tiến
hành những hoạt động quốc tế phù hợp phục vụ sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Để thực hiện được điều đó
chúng ta cần phải thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh về những nội dung cơ
bản của việc kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại đó là: Đặt cách
mạng Việt Nam trong sự gắn bó với cách mạng vô sản thế giới; Kết hợp chặt
chẽ chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong sáng; Giữ
vững độc lập tự chủ, dựa vào sức mình là chính, tranh thủ sự giúp đỡ của các
nước xã hội chủ nghĩa, sự ủng hộ của nhân loại tiến bộ, đồng thời không quên
nghĩa vụ quốc tế cao cả của mình; Mở rộng tối đa quan hệ hữu nghị, hợp tác,
sẵn sàng làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ.
Xây dựng chủ nghĩa xã hội phải biết tranh thủ các điều kiện quốc tế
thuận lợi, tận dụng tối đa sức mạnh của thời đại. Ngày nay, sức mạnh của thời
đại tập trung ở cuộc cách mạng khoa học và cơng nghệ, xu thế tồn cầu hóa.
Chúng ta phải tranh thủ tối đa các cơ hội do xu thế đó tạo ra để nâng cao hiệu
quả hợp tác quốc tế; phải có cơ chế, chính sách đúng để thu hút vốn đầu tư,


18

kinh nghiệm quản lý và công nghệ hiện đại, thực hiện kết hợp sức mạnh dân

tộc với sức mạnh thời đại theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Muốn vậy, chúng ta phải có đường lối chính trị độc lập, tự chủ. Tranh
thủ hợp tác phải đi đôi với thường xuyên khơi dậy chủ nghĩa yêu nước, tinh
thần dân tộc chân chính của mọi người Việt Nam nhằm góp phần làm gia tăng
tiềm lực quốc gia. Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế phải gắn liền với nhiệm
vụ trau dồi bản lĩnh và bản sắc văn hóa dân tộc, nhất là cho thanh, thiếu niên lực lượng rường cột của nước nhà, để khơng tự đánh mất mình bởi xa rời cội
rễ dân tộc. Chỉ có bản lĩnh và bản sắc dân tộc sâu sắc, mạnh mẽ đó mới có thể
loại trừ các yếu tố độc hại, tiếp thu tinh hoa văn hóa lồi người, làm phong
phú, làm giàu thêm nền văn hóa dân tộc.
Khơng ngừng bảo vệ và phát huy bản sắc văn hóa truyền thống của
dân tộc, làm cho bản sắc văn hoá được giữ vững và phát triển. Giữ vững tinh
thần độc lập tự chủ trong tiếp thu sức mạnh bên ngoài, đồng thời kết hợp sức
mạnh trong nước. Việc giáo dục tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc chính
đáng, ý thức bảo vệ văn hố dân tộc, tiếp thu có chọn lọc văn hố nước ngoài
là những yêu cầu cấp thiết được đặt ra đối với việc “mở cửa”. Công tác đối
ngoại được xác định có vai trị quan trọng đối với việc kết hợp sức mạnh dân
tộc với sức mạnh của thời đại.
1.1.2.4. Chăm lo xây dựng Đảng vững mạnh, làm trong sạch bộ máy Nhà
nước, đẩy mạnh đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, thực hiện
cần, kiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội
Nghiên cứu về những điều kiện đảm bảo cách mạng thành công, xây
dựng thành công chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta, điều quan trọng nhất, theo
Chủ tịch Hồ Chí Minh, trước hết phải có Đảng. Cách mạng có Đảng lãnh đạo
như tàu có lái mới vượt qua được phong ba bão táp; Phải xây dựng và tăng
cường vai trò lãnh đạo của Đảng, Đảng Cộng sản là nhân tố quyết định thành
công của sự nghiệp cách mạng, của việc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.


19


Đảng phải lấy chủ nghĩa Mác – Lênin làm nền tảng tư tưởng. Do vậy, Chủ
tịch Hồ Chí Minh hết sức quan tâm tới công tác xây dựng Đảng; yêu cầu
Đảng phải nâng cao bản lĩnh chính trị, tư tưởng, trí tuệ, vận dụng một cách
sáng tạo những nguyên lý của chủ nghĩa Mác – Lênin về xây dựng chủ nghĩa
xã hội vào hoàn cảnh thực tiễn nước ta; phải thường xuyên xây dựng Đảng
vững mạnh về tổ chức chính trị, tư tưởng và đạo đức; xây dựng Đảng trong
sạch, vững mạnh, giữ gìn đồn kết thống nhất trong Đảng “như giữ gìn con
ngươi của mắt mình”; xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên để mỗi cán bộ,
đảng viên phải “xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành
của nhân dân”.
Cùng với xây dựng Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh hết sức chú trọng xây
dựng, tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước, bởi đó chính là nhân tố đảm
bảo cho thực hiện thắng lợi các mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Bác nói: “Nếu khơng có nhân dân thì Chính phủ khơng đủ lực lượng. Nếu
khơng có Chính phủ, thì nhân dân khơng ai dẫn đường”. Xây dựng Nhà nước,
theo Bác thì điều quan trọng hàng đầu là Nhà nước đó phải là Nhà nước của
nhân dân, chăm lo lợi ích của nhân dân, phục vụ nhân dân. Cơ sở xã hội của
Nhà nước là khối đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh công - nông trí thức do Đảng lãnh đạo. Đồng thời, phải xây dựng được bộ máy nhà nước
gọn nhẹ, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả; phải nhanh chóng xây dựng và hồn
thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách trên các lĩnh vực. Theo Bác, sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội là sự nghiệp của tồn dân, do đó cần phát
huy tính tích cực, chủ động của tồn dân, của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức
đoàn thể nhân dân, tạo điều kiện để họ thực hiện đầy đủ vai trị của mình
trong cơng cuộc xây dựng đất nước, bảo vệ Tổ quốc, góp phần xây dựng
thành cơng chủ nghĩa xã hội.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, “muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội phải có
con người xã hội chủ nghĩa”. Bác đòi hỏi phải giáo dục, đào tạo con người


20


một cách tồn diện về đức, trí, thể, mỹ, đặc biệt là giáo dục, rèn luyện về đạo
đức, vì “sức có mạnh mới gánh được nặng, đi được xa. Người cách mạng phải
có đạo đức cách mạng làm nền tảng mới hồn thành được nhiệm vụ cách
mạng vẻ vang”, “có đạo đức cách mạng thì khi gặp khó khăn, gian khổ, thất
bại cũng không sợ sệt, rụt rè, lùi bước...khi gặp thuận lợi và thành cơng vẫn
khiêm tốn, lo hồn thành nhiệm vụ cho tốt chứ không kèn cựa về mặt hưởng
thụ, không công thần, không quan liêu, không hủ hóa”. Theo Bác, đạo đức
cách mạng, nói một cách tóm tắt, “là tuyệt đối trung thành với Đảng, với nhân
dân. Đặt lợi ích của Đảng và của nhân dân lao động lên trên, lên trước lợi ích
riêng của cá nhân mình. Hết lịng hết sức phục vụ nhân dân. Vì Đảng, vì dân
mà đấu tranh quên mình, gương mẫu trong mọi việc”, là “cần, kiệm, liêm,
chính, chí cơng vơ tư”. Để trở thành con người xã hội chủ nghĩa, theo Bác,
mỗi người phải “học tập, học tập nữa, học chính trị, thời sự, kỹ thuật”, “muốn
rèn luyện đạo đức cách mạng, thì chúng ta phải ra sức học tập, tu dưỡng, tự
cải tạo để tiến bộ nữa... không phải chỉ ở tại nhà trường, có lên lớp, mới học
tập, tu dưỡng, rèn luyện và tự cải tạo được. Trong mọi hoạt động cách mạng
chúng ta đều có thể và đều phải học tập, tự cải tạo”. Bác đặc biệt nhấn mạnh
để rèn luyện đạo đức cách mạng, để trở thành con người xã hội chủ nghĩa thì
phải chống chủ nghĩa cá nhân, vì do chủ nghĩa cá nhân mà sinh ra nhiều tính
xấu, “vì chưa gột sạch chủ nghĩa cá nhân cho nên có đảng viên cịn kể cơng
với Đảng. Có ít nhiều thành tích, thì họ muốn Đảng “cảm ơn” họ. Họ đòi ưu
đãi, họ đòi danh dự và địa vị, họ địi hưởng thụ. Nếu khơng thỏa mãn u cầu
của họ thì họ ốn trách Đảng, cho rằng “họ khơng có tiền đồ”, họ “bị hy
sinh”. Rồi dần dần họ xa rời Đảng, thậm chí phá hoại chính sách và kỷ luật
của Đảng”. Vì vậy, Bác yêu cầu mọi người, nhất là mỗi cán bộ, đảng viên,
công chức phải quét sạch chủ nghĩa cá nhân. Tích cực đấu tranh chống tham
ơ, lãng phí, quan liêu để xây dựng Đảng và bộ máy nhà nước trong sạch, vững



21

mạnh. Đó là một trong những điều kiện cần thiết có ý nghĩa quan trọng nhằm
xây dựng thành cơng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về chống tham ơ, lãng phí, quan liêu
1.2.1. Các khái niệm
1.2.1.1. Tham ô:
Theo từ điển Tiếng Việt tham ô có nghĩa là lợi dụng quyền hành để lấy
cắp của cơng.
Theo pháp luật hình sự ta có thể hiểu tham ô là hành vi của người lạm
dụng chức vụ, quyền hạn, hoặc cố ý làm trái pháp luật để phục vụ cho lợi ích
cá nhân.
Tham ơ và tham nhũng là 2 khái niệm gần nhau, trong đó tham nhũng
có nội dung rộng hơn.
Luật phòng chống tham nhũng quy định hành vi tham nhũng gồm 12
điểm đó là: Tham ơ tài sản; Nhận hối lộ; Lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm
đoạt tài sản; Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong thi hành nhiệm vụ, cơng vụ
vì vụ lợi; Lạm quyền trong khi thi hành nhiệm vụ, cơng vụ vì vụ lợi; Lợi dụng
chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng với người khác để trục lợi; Giả mạo trong
cơng tác vì vụ lợi; Đưa hối lộ, môi giới hối lộ, được thực hiện bởi người có
chức vụ, quyền hạn để giải quyết công việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị hoặc
địa phương vì trục lợi; Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để sử dụng trái phép tài
sản nhà nước vì vụ lợi; Nhũng nhiễu vì vụ lợi; Khơng thực hiện nhiệm vụ,
cơng vụ vì vụ lợi; Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để bao che cho người có hành
vi vi phạm pháp luật vì vụ lợi, cản trở, can thiệp trái pháp luật vào việc kiểm
tra, thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án vì vụ lợi.
1.2.1.2. Lãng phí:
Theo từ điển Tiếng Việt, lãng phí là làm tốn kém, hao tổn một cách vơ
ích. Ngược nghĩa với lãng phí là tiết kiệm.



22

Theo khoản 2 điều 3 của Luật thực hành tiết kiệm, chống lãng phí thì
lãng phí là: Quản lý, sử dụng tài sản, lao động, thời gian lao động và tài
nguyên thiên nhiên không hiệu quả.
Đối với các lĩnh vực đã có định mức do Nhà nước quy định thì lãng phí
là quản lý, sử dụng ngân sách nhà nước, tiền, tài sản,… vượt định mức, tiêu
chuẩn, chế độ quy định, hoặc sử dụng đúng quy định nhưng kết quả khơng đạt
mục đích đã quy định.
1.2.1.3. Quan liêu:
Quan liêu là cách lãnh đạo thoát ly thực tế, đại khái, chung chung,
chuộng hình thức, ưa làm việc bàn giấy, nặng về giấy tờ, ít kiểm tra, thiếu dân
chủ, thích dùng mệnh lệnh hành chính, xa nhân dân, coi thường nguyên tắc
tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, bảo thủ, hách dịch,chun quyền, độc
đốn, thậm chí ức hiếp cán bộ cấp dưới và nhân dân.
Trong các tài liệu khái niệm quan liêu được xác định như sau: Quan
liêu là hiện tượng xã hội tiêu cực mang tính lịch sử cụ thể, gắn liền với bộ
máy lãnh đạo, quản lý xã hội, thể hiện ở hình thức, phương thức, phương
pháp lãnh đạo, quản lý đã bị biến dạng, biến chất, gây hậu quả nguy hiểm trên
nhiều phương diện cho xã hội.
Quan liêu thể hiện cụ thể ở các điểm sau: Đó là sự độc đoán, chuyên
quyền, đối lập với chế độ dân chủ; “Quan liêu là sự ăn cắp quyền lực của
nhân dân”, “là sự biểu hiện trên thực tế sự tha hóa về chính trị”; Quan liêu là
sự cách biệt của bộ máy lãnh đạo, quản lý với xã hội, với nhân dân để đứng
trên xã hội, đứng trên nhân dân; Quan liêu là sự biến chất của đội ngũ cán bộ,
cơng chức, lạm dụng các quyền mang tính quyền lực mà pháp luật cho phép
để khẳng định vị thế của mình, để giành và bảo vệ lợi ích của nhóm, của cá
nhân mình.



23

1.2.2. Những quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về chống tham ơ, lãng
phí, quan liêu
1.2.2.1. Tham ơ
Chống tham ô là một bộ phận hợp thành quan trọng của tư tưởng Hồ
Chí Minh. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm chống lại tệ tham ơ ngay từ trong
lịng chế độ cũ. Người luôn đấu tranh, tố cáo nạn tham ô trong các chế độ
thực dân, đế quốc, thuộc địa và chế độ tay sai bán nước để thức tỉnh chính
quyền nhân dân, tiến hành vận động cách mạng. Trước cách mạng tháng Tám
năm 1945, khi cịn đi tìm đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc đã viết rất nhiều
bài báo, phóng sự tố cáo nạn tham ơ trong các loại quan chức chính quyền
thực dân ở Đơng Dương, coi tham ô, tham nhũng là hiện tượng bản chất của
chế độ này.
Trong “Bản án chế độ thực dân Pháp”, viết bằng tiếng Pháp xuất bản
tại Pari năm 1925, Nguyễn Ái Quốc đã dành hẳn một chương để viết về nạn
tham ô trong bộ máy cai trị, của những kẻ tự xưng là “quan phụ mẫu” của
dân. Người vạch ra các thủ đoạn phung phí tiền của dân cho việc tham quan,
triển lãm, giải trí, khai man để rút tiền cơng quỹ, chi tiêu sử dụng cho riêng
mình. Tệ tham ơ cùng các thủ đoạn bóc lột làm cho gánh nặng thuế khóa đè
lên vai người dân thuộc địa. Cùng một số bài báo nổi tiếng như “ Văn minh
Pháp ở Đông Dương”, “Phong trào nông dân tỉnh Quảng Đông”, “Công lý
của Mĩ” Người đã lên án tố cáo mạnh mẽ nạn tham ơ trong bộ máy chính
quyền của thực dân Pháp, Trung Quốc và Mĩ…
Sau cách mạng tháng Tám năm 1945, tiếp đến cuộc kháng chiến chống
Pháp, kháng chiến chống Mỹ cứu nước rồi xây dựng chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí
Minh khơng lúc nào lơi lỏng cuộc đấu tranh chống tệ tham ơ ngay trong lịng
chế độ mới mà Người đã sáng lập nên. Ngay từ khi chính quyền cách mạng
được thành lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm nhận diện ra căn bệnh hết sức

nguy hiểm, tiềm ẩn nguy cơ làm cho những người có chức quyền dễ bị tha


24

hóa biến chất, khơng cịn là “đầy tớ của nhân dân”, làm cho dân mất niềm tin
và bất bình.
Theo cách nói của Hồ Chí Minh tham ơ bao gồm cả tham nhũng. Đối
với cán bộ, tham ô là “ăn cắp của công làm của tư”; “đục khoét của nhân
dân”; “ăn bớt của bộ đội”; “tiêu ít mà khai nhiều, lợi dụng của chung của
Chính phủ để làm quỹ riêng cho địa phương mình, đơn vị mình” [23, 488].
“Của cơng” ở đây chính là tài sản của nhân dân, do nhân dân đóng góp, phục
vụ mục đích chung là giải phóng dân tộc, xây dựng đất nước. “Của tư” không
chỉ là tài sản riêng của một cán bộ, công chức nào. Tài sản chung khi khơng
dành phục vụ mục đích chung, chỉ dành làm của riêng, quỹ riêng cho một tập
thể, một địa phương cũng bị coi là “của tư”.
Đối với nhân dân, tham ô là “ăn cắp của công, khai gian, lậu thuế” [23,
488]. Chủ thể của hành vi tham ô không chỉ là cán bộ, công chức – những
người nắm chức vụ, quyền hạn nhất định trong bộ máy nhà nước. Người dân
bình thường nếu như “ăn cắp của cơng, khai gian, lậu thuế” cũng có thể là chủ
thể của hành vi tham ô. Bất cứ hành vi nào lấy “của công” làm “của tư” cũng
đều bị Hồ Chủ tịch coi là hành vi tham ô.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, tham ơ là hành động xấu xa nhất của con
người. Nhân dân lao động ta làm lụng đổ mồ hơi, sơi nước mắt để góp phần
xây dựng của công – của Nhà nước, của tập thể. Của công ấy là nền tảng vật
chất của chế độ xã hội chủ nghĩa, là nguồn gốc chủ yếu để nâng cao đời sống
của nhân dân ta. Vậy mà những kẻ có chức, có quyền lại lợi dụng những địa
vị, chức vụ ấy để tham ô, ăn cắp công sức của người dân. Người gọi “tham ô
là trộm cướp, là hành động xấu xa nhất, tội lỗi đê tiện nhất trong xã hội”.
Về thực chất, tham ơ là bóc lột nhân dân lao động, bóc lột của cải do

con người làm ra, bóc lột của cải của tập thể, của xã hội. Do đó tham ơ là một
tội ác lớn trong khi nhân dân ta đang đòi hỏi phải cần kiệm trong sản xuất, tiết
kiệm trong tiêu dùng, dành vốn đầu tư cho phát triển kinh tế nước nhà.


25

Nguyên nhân của tham ô là do thiếu lương tâm, cán bộ các cơ quan, các
đồn thể, cấp cao thì quyền to, cấp thấp thì quyền nhỏ. Dù to hay nhỏ, có
quyền mà thiếu lương tâm là có dịp đục kht, có dịp ăn của đút, có dịp “dĩ
cơng vi tư”; do kém lịng trách nhiệm, khơng có trách nhiệm với công việc,
đứng núi này trông núi nọ, làm việc cho qua chuyện, chậm chạp, khơng hồn
thành nhiệm vụ, là “ăn cắp giờ của Chính phủ, của nhân dân”.
Nguồn gốc của các bệnh tật trên là do “chủ nghĩa cá nhân”, so bì đãi
ngộ về lương thấp, cao, quần áo đẹp, xấu, là uể oải, muốn nghỉ ngơi, hưởng
thụ, an nhàn, làm việc gì cũng chỉ lo cho lợi ích của riêng mình, khơng quan
tâm đến lợi ích chung của tập thể, “miễn là mình béo mặc thiên hạ gầy”.
1.2.2.2. Lãng phí
Để chống lại lãng phí, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn giáo dục và kêu gọi
mọi người phải thực hành tiết kiệm, khơng xa xỉ, khơng hoang phí, khơng bừa
bãi. Tất cả mọi người đều phải tiết kiệm, chúng ta khơng chỉ tiết kiệm của cải,
thời gian của mình mà còn phải tiết kiệm cho tập thể, Nhà nước.
Với Bác lãng phí khơng chỉ đơn giản là lãng phí tiền bạc mà bao gồm
lãng phí sức lao động, thì giờ và tiền của của Nhà nước, cơ quan và bản thân
mình.
Lãng phí sức lao động là vì kém tinh thần phụ trách và tổ chức, sắp xếp
vụng, việc gì ít người cũng làm được mà vẫn dùng nhiều người. Do tính tốn
khơng cẩn thận, điều động hàng trăm người đến cơng trường, nhưng chưa có
việc làm hay là người nhiều việc ít. Bố trí nhân sự khơng đúng, người quản lý
quá nhiều, người trực tiếp sản xuất quá ít. Trong qn đội, các cơ quan, các xí

nghiệp đều có khuyết điểm ấy. Trong việc sữa chữa đường cầu, phục vụ chiến
dịch, lãng phí nhân cơng q nhiều, vì tổ chức khơng khéo, đó là một ví
dụ.[23, 488]
Lãng phí thì giờ: Việc gì có thể làm trong một ngày, một buổi cũng kéo
dài đến mấy ngày. Ví dụ, những cuộc khai hội, vì người phụ trách chuẩn bị


×