Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến Pháp và Luật Hành Chính: Thực hiện pháp luật về dịch vụ văn hóa ở tỉnh Quảng Bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (387.17 KB, 26 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
…………/…………

BỘ NỘI VỤ
...…/...…

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

ĐỒN TUẤN TƢ

THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ DỊCH VỤ
VĂN HĨA Ở TỈNH QUẢNG BÌNH
Chun ngành: Luật hiến pháp - Luật hành chính
Mã số: 60 38 01 02

TĨM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

THỪA THIÊN HUẾ - NĂM 2018


Cơng trình đƣợc hồn thành tại: HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. LÊ THỊ HƢƠNG

Phản biện 1: .................................................
Phản biện 2: ................................................

Luận văn đƣợc bảo vệ tại Hội đồng chấm luận văn
thạc sĩ, Học viện Hành chính Quốc gia
Địa điểm: Phịng họp ...…., Nhà...... - Hội trƣờng bảo


vệ luận văn thạc sĩ, Học viện Hành chính Quốc gia
Số:… - Đƣờng………………… - TP……………
Thời gian: vào hồi … giờ … tháng …năm 2018

Có thể tìm hiểu luận văn tại Thƣ viện Học viện Hành
chính Quốc gia
hoặc trên trang Web Khoa Sau đại học, Học viện Hành
chính Quốc gia


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nhà nƣớc ta là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ
của nhân dân, là nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân
dân, do nhân dân và vì nhân dân. Quyền lực nhà nƣớc là thống nhất,
có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nƣớc trong việc
thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tƣ pháp. Nhà nƣớc quản lý
xã hội bằng pháp luật là phƣơng thức quản lý cơ bản của hầu hết các
nhà nƣớc đƣờng đại trên thế giới. Bởi pháp luật là cơng cụ điều chỉnh
mang tính quy phạm và tính bắt buộc chung, pháp luật điều chỉnh các
quan hệ xã hội mang tính phổ biến, điển hình trong hầu hết các lĩnh
vực quan trọng của đời sống xã hội, đáp ứng ngày một tốt hơn những
nhu cầu, đòi hỏi của mỗi cá nhân cũng nhƣ toàn xã hội. Tuy nhiên, ở
nƣớc ta hiện nay việc triển khai thực hiện đƣờng lối, chủ trƣơng của
Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nƣớc còn nhiều tồn tai, hạn
chế, kỷ luật, kỷ cƣơng chƣa nghiêm, tình trạng thiếu hiểu biết pháp
luật, coi thƣờng pháp luật, vi phạm pháp luật diễn ra tƣơng đối phổ
biến. Do đó, việc đề cao pháp luật, tơn trọng tính tối cao của pháp
luật, tăng cƣờng pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo đảm cho pháp luật
đƣợc thực hiện nghiêm túc là một yêu cầu cấp thiết trong giai đoạn

hiện nay.
Hịa nhịp với tiến trình đổi mới, cũng nhƣ các tỉnh, thành phố
khác trong cả nƣớc, Quảng Bình đã và đang ra sức phấn đấu và đạt
đƣợc đƣợc những thành tựu trên các mặt của đời sống chính trị, kinh
tế, văn hóa, xã hội. Đặc biệt trong hoạt động dịch vụ văn hóa trên địa
bàn tỉnh Quảng Bình đang diễn ra sơi động, góp phần tích cực vào
việc tuyền truyền, phổ biến các giá trị tinh hoa văn hóa của Việt Nam
đến khắp bạn bè trên thế giới. Các sản phẩm sách báo, bằng đĩa và
văn hóa phẩm với chủng loại phong phú, đa dạng đã và đang len lỏi
đến từng khu phố, cụm dân cƣ, thơn xóm và bản làng nhằm thỏa mãn
nhu cầu đa dạng của nhân dân. Đây thực sự là món ăn tinh thần quý
giá, nó thẩm thấu sâu vào nếp nghĩ, lối sống và biến thành hành vi
của ngƣời dân trong lao động, sáng tạo, trong quan hệ cộng đồng và
tinh thần yêu nƣớc. Bên cạnh đó, các hoạt động văn hóa dƣới dạng
tham gia dịch vụ nhƣ karaoke, vũ trƣờng, cà phê ca nhạc, internet…
cũng đang cuốn hút mọi tầng lớp từ thành thị đến nơng thơn. Loại
hình văn hóa này ngày càng phát triển đã kéo theo nhiều nhà cung
cấp dịch vụ ở mọi thành phần kinh tế khác nhau tham gia với quy mô
1


hoạt động ngày càng rộng nhằm thỏa mãn nhu cầu hƣởng thụ các giá
trị văn hóa của nhân dân và mang lại lợi ích cho nhà cung cấp. Các
sản phẩm văn hóa thuộc lĩnh vực tinh thần khi đƣợc phổ biến sẽ tác
động mạnh mẽ đến tƣ tƣởng, tình cảm của con ngƣời và làm hình
thành nhân cách con ngƣời.
Trong hoạt động dịch vụ và kinh doanh văn hóa phẩm hiện
nay ở nƣớc ta nổi bật lên sự xuất hiện của các loại hàng nhập lậu,
hàng giả, hàng cấm, hàng ngoài luồng gây nhức nhối cho các nhà
quản lý lĩnh vực văn hóa. Sự kiện này cịn liên quan đến vấn đề bản

quyền tác giả, mà lâu nay nhiều báo chí đã lên tiếng. Ví dụ: tranh phố
cổ của họa sĩ Bùi Xuân Phái rất đƣợc giá. Bỗng xuất hiện một số
ngƣời chép lại tranh của ông rồi đem bán, nói đây là bản gốc. Hiển
nhiên là cần phải xử lý về mặt bản quyền tác giả, đồng thời xử lý cả
ngƣời bán tranh giả nữa. Đồ gốm giả cổ của Trung Quốc nhập vào ta,
ngƣời bán hàng đồ cổ giả cứ đặt giá nhƣ đồ cổ thật, thì phải chịu
trách nhiệm thế nào?...
Xã hội truyền thống Việt Nam là xã hội nơng nghiệp, chƣa
có truyền thống bn bán, càng chƣa có “văn hóa bn bán”. Nói đến
nghề bn, ngƣời ta nghĩ ngay đến chuyện “buôn gian, bán lận” đến
sự trốn thuế đối với nhà nƣớc. Nghề kinh doanh văn hóa phẩm cũng
diễn ra nhƣ vậy.
Trên thực tế, việc thực hiện pháp luật về dịch vụ văn hóa ở tỉnh
Quảng Bình chƣa có cơ quan, tổ chức, cá nhân nào nghiên cứu đánh giá
một cách bài bản, khoa học, kết hợp giữa lý luận và thực tiễn để tổng kết,
rút kinh nghiệm, cũng nhƣ đề ra phƣơng hƣớng, giải pháp nhằm nâng cao
chất lƣợng cơng tác này.
Xuất phát từ tình hình nói trên, học viên chọn đề tài “Thực
hiện pháp luật về dịch vụ văn hóa ở tỉnh Quảng Bình” làm Luận
văn thạc sỹ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính, với mong muốn góp
phần nâng cao hiệu quả việc thực hiện pháp luật về dịch vụ văn hóa ở
tỉnh Quảng Bình.
Đề tài trên đây có ý nghĩa thực tiễn cấp bách, nó góp phần
tạo ra thói quen phục vụ tận tình, kinh doanh trung thực, lành
mạnh, hình thành nên văn hóa dịch vụ và kinh doanh, trƣớc hết là
đối với lĩnh vực văn hóa - vẫn đƣợc xem là dạng hàng hóa đặc biệt
trong nền kinh tế thị trƣờng tại tỉnh Quảng Bình.

2



2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
Làm thế nào để nâng cao chất lƣợng, hiệu quả việc thực hiện
pháp luật trong hoạt động dịch vụ hóa đã và đang là vấn đề đƣợc nhiều
nhà nghiên cứu, nhà quản lý quan tâm nhằm tìm ra những giải pháp tích
cực. Đến nay đã có một số cơng trình nghiên cứu ở những cấp độ khác
nhau đƣợc cơng bố thể hiện qua sách chuyên khảo, luận văn, bài báo. Một
số cơng trình nghiên cứu tiêu biểu nhƣ:
- Giáo trình Lý luận chung về nhà nước và pháp luật của GS.TS
Đinh Văn Mậu (2011), Nhà xuất bản khoa học và kỹ thuật. Giáo trình đã
cung cấp những kiến thức lý luận cơ bản nhất về nhà nƣớc và pháp luật làm
cơ sở phƣơng pháp luận để nghiên cứu các vấn đề thực tiễn về nhà nƣớc, về
quản lý nhà nƣớc về xây dựng, thực hiện pháp luật, đồng thời để nghiên cứu
sâu về các khoa học pháp lý, hành chính chun ngành.
- Giáo trình Quản lý nhà nước về văn hóa của PGS.TS Nguyễn
Văn Tiến (2009), Nhà xuất bản văn hóa. Giáo trình đã cung cấp những kiến
thức cơ bản về quản lý, quản lý nhà nƣớc về văn hóa, vai trị của cơng tác
quản lý nhà nƣớc về văn hóa.
- Luận văn Quản lý nhà nước về văn hóa trên địa bàn quận
Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội của học viên Nguyễn Thị Xuân
Thƣ, chuyên ngành Quản lý văn hóa, Trƣờng Đại học Sƣ phạm Nghệ
thuật Trung ƣơng (2013-2015). Luận văn này sau khi nghiên cứu
tổng quan vai trị của quản lý nhà nƣớc về văn hóa đối với sự phát
triển văn hóa - xã hội quận Hai Bà Trƣng, bƣớc đầu đánh giá đƣợc
thực trạng quản lý nhà nƣớc đối với một số lĩnh vực văn hóa để trên
cơ sở đó đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà
nƣớc về văn hóa ở quận Hai Bà Trƣng.
Bên cạnh những ấn phẩm, tài liệu khoa học và các nghiên cứu
của luận văn cao học chun ngành Văn hóa, Quản lý cơng, Luật thì
các bài báo cũng đã đề cập đến vấn đề này nhƣ:

- Bài báo trên báo điện tử Vĩnh Phúc về “Tăng cường quản lý
hoạt động văn hóa và kinh doanh dịch vụ văn hóa cơng cộng” của tác
giả Lê Duyên đã nêu rõ thực trạng công tác quản lý hoạt động văn
hóa và dịch vụ văn hóa cơng cơng trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc và
những nội dung chỉ đạo của Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh Vĩnh Phúc
về thực hiện các chủ trƣơng của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nƣớc liên quan đến hoạt động dịch vụ văn hóa.
Dƣới góc độ khoa học, các cơng trình nói trên là hết sức
có giá trị đối với những ngƣời đã và đang nghiên cứu về thực
3


hiện pháp luật. Tuy nhiên, đến nay chƣa có cơng trình nào
nghiên cứu vấn đề thực hiện pháp luật về dịch vụ văn hóa. Vì
vậy, luận văn là cơng trình đầu tiên thực hiện đề tài này trong
phạm vi một địa phƣơng. Tuy vậy, các cơng trình nghiên cứu nêu
trên là nguồn tài liệu quý giá để học viên tham khảo trong việc
thực hiện đề tài này.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
Trên cơ sở cơ sở lý luận về dịch vụ văn hóa và pháp luật
về dịch vụ văn hóa kết hợp thực trạng thực hiện pháp luật về dịch
vụ văn hóa ở tỉnh Quarnng Bình, luận văn đề xuất một số giải
pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác thực hiện pháp luật về
dịch vụ văn hóa nói chung và ở tỉnh Quảng Bình nói riêng.
3.2. Nhiệm vụ
- Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận của thực hiện pháp luật
về dịch vụ văn hóa với tƣ cách là những phƣơng tiện để đƣa pháp
luật về dịch vụ văn hóa vào cuộc sống thực tiễn.
- Đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật về dịch vụ văn hóa

ở tỉnh Quảng Bình
- Đề xuất các giải pháp nhằm góp phần bảo đảm thực hiện
pháp luật về dịch vụ văn hóa ở tỉnh Quảng Bình.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu:
Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận thực hiện pháp
luật về dịch vụ văn hóa nói chung và thực tiễn thực hiện pháp luật về
dịch vụ văn hóa ở tỉnh Quảng Bình hiện nay nói riêng, dƣới góc độ
chuyên ngành Luật Hiến pháp và Luật Hành chính.
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
Nghiên cứu hệ thống các văn bản qui phạm pháp luật về
dịch vụ văn hóa và hoạt động thực hiện pháp luật về dịch vụ văn
hóa ở tỉnh Quảng Bình. Các số liệu, thơng tin làm cơ sở đƣợc thu
thập trong thời gian năm 2010 đến nay.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Phương pháp luận
Luận văn đƣợc nghiên cứu trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa
Mác – Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về nhà nƣớc và pháp luật. Quan
điểm, chủ trƣơng, đƣờng lối của Đảng và pháp luật của Nhà nƣớc về
dịch vụ văn hóa và thực hiện pháp luật về dịch vụ văn hóa.
4


5.2. Phương pháp nghiên cứu
Tác giả sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu khoa học phù
hợp với tính chất và yêu cầu của đề tài nhƣ:
+ Phƣơng pháp phân tích: đƣợc sử dụng trong luận văn để
phân tích các quy định pháp luật tại Chƣơng 1, Chƣơng 2 và Chƣơng
3. Việc phân tích các quy định của pháp luật, các tình huống thực tiễn
có liên quan để làm căn cứ đƣa ra các kết luận tại mỗi chƣơng.

+ Phƣơng pháp thống kê: đƣợc sử dụng trong luận văn để
thống kê hành vi vi phạm, chọn lựa những hành vi vi phạm điển hình
đối với việc thực hiện kinh doanh dịch vụ văn hóa.
+ Phƣơng pháp quy nạp: sử dụng các kết quả nghiên cứu đã
công bố để đƣa vào luận văn của mình.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Luận văn góp phần tiếp tục làm sáng tỏ về mặt lý luận và
thực tiễn thực hiện pháp luật về dịch vụ văn hóa nói chung và thực
hiện pháp luật về dịch vụ văn hóa ở tỉnh Quảng Bình nói riêng. Kết
quả của việc nghiên cứu là một tài liệu có ý nghĩa tham khảo, ứng
dụng trong tổ chức thực hiện pháp luật về dịch vụ văn hóa trên địa
bàn tỉnh; trong thực hiện quản lý, hƣớng dẫn nghiệp vụ, kiểm tra
công tác đăng ký, quản lý dịch vụ văn hóa của Chính quyền và cá
nhân có thẩm quyền ở các cấp.
- Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần nhất định
trong cơng tác quản lý, tổ chức thi hành pháp luật về dịch vụ văn hóa
của tỉnh; nâng cao ý thức pháp luật của ngƣời dân trong việc tuân
thủ, thi hành và sử dụng pháp luật dịch vụ văn hóa...
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục.
Nội dung chính của luận văn bao gồm 2 chƣơng cụ thể nhƣ sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận của thực hiện pháp luật về dịch vụ
văn hóa
Chương 2: Thực trạng và giải pháp bảo đảm thực hiện pháp
luật về dịch vụ văn hóa ở tỉnh Quảng Bình

5


Chương 1:

CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
VỀ DỊCH VỤ VĂN HĨA
1.1. Quan niệm dịch vụ văn hóa và pháp luật về dịch vụ văn hóa
1.1.1. Quan niệm về dịch vụ văn hóa
1.1.1.1. Văn hóa
Văn hố thƣờng đƣợc quan niệm một cách hình tƣợng nhƣ
một thiên nhiên thứ hai - thiên nhiên nhân tạo. Ẩn dụ này đã đƣợc
rộng rãi các nhà khoa học chấp nhận, bao hàm trong nó hai nghĩa cơ
bản:
Tóm lại, các định nghĩa về văn hóa hiện nay rất đa dạng, mỗi
định nghĩa đề cập đến những dạng thức hoặc những lĩnh vực khác
nhau trong văn hóa. Dựa trên các định nghĩa đã nêu để xác định một
khái niệm văn hóa nhằm thuận tiện cho việc thu thập và phân tích dự
liệu khi nghiên cứu luận văn, theo quan điểm của tác giả, dƣới góc độ
pháp luật văn hóa là sản phẩm của con người được tạo ra trong quá
trình lao động (từ lao động trí óc đến lao động chân tay), được chi
phối bởi môi trường (môi tự nhiên và xã hội) xung quanh và tính
cách của từng tộc người. Nhờ có văn hóa mà con người trở nên khác
biệt so với các loài động vật khác; và do được chi phối bởi mơi
trường xung quanh và tính cách tộc người nên văn hóa ở mỗi tộc
người sẽ có những đặc trưng riêng.
1.1.1.2. Dịch vụ văn hóa
Cơ bản có 9 dạng dịch vụ văn hóa nhƣ sau:
a) Hoạt động nghệ thuật biểu diễn
b) Hoạt động điện ảnh và kinh doanh băng đĩa hình
c) Hoạt động mỹ thuật
d) Hoạt động đào tạo cán bộ văn hoá nghệ thuật
e) Hoạt động bảo tồn, bảo tàng
f) Hoạt động lễ hội truyền thống
g) Hoạt động nhà văn hoá, Trung tâm VHTT

h) Hoạt động bảo hộ bản quyền tác giả
i) Hoạt động xuất bản.
1.1.1.3. Đặc điểm của dịch vụ văn hóa

6


1.1.2. Pháp luật về dịch vụ văn hóa
1.1.2.1. Khái niệm và đặc điểm pháp luật về dịch vụ văn hóa
Từ cơ sở lý luận trên, tác giả đƣa ra quan điểm cho rằng: Pháp
luật về dịch vụ văn hóa là hệ thống các quy tắc xử sự do Nhà nước
ban hành và bảo đảm thực hiện để điều chỉnh các quan hệ trong lĩnh
vực kinh doanh dịch vụ văn hóa.
1.1.2.2. Đối tượng điều chỉnh của pháp luật về dịch vụ văn hóa
Đối tƣợng điều chỉnh của pháp luật là những quan hệ xã hội
trong một lĩnh vực của đời sống xã hội hoặc những nhóm quan hệ xã
hội có tính chất giống nhau, gần gũi với nhau do một ngành luật điều
chỉnh.
1.2. Thực hiện pháp luật về dịch vụ văn hóa
1.2.1. Khái niệm
Từ phân tích trên có thể khái qt: Thực hiện pháp luật là
q trình hoạt động có mục đích làm cho các quy định của pháp luật
đi vào cuộc sống và trở thành những hoạt động thực tế, hợp pháp của
các chủ thể pháp luật.
Trên nền các khái niệm: Văn hóa, dịch vụ văn hóa, pháp luật
về dịch vụ văn hóa có thể hiểu: Thực hiện pháp luật về dịch vụ văn
hóa là hoạt động có mục đích làm cho những quy định của pháp luật
về thực hiện đăng ký, quản lý dịch vụ văn hóa đi vào cuộc sống, góp
phần xây dựng, phát triển nền văn hóa và đảm bảo sự quản lý của
nhà nước.

- Thực hiện pháp luật về dịch vụ văn hóa phải là xử sự của
các chủ thể có năng lực hành vi pháp luật, tức là xử sự của chủ thể
có khả năng bằng hành vi của chính mình xác lập và thực hiện các
quyền và nghĩa vụ pháp lý của mình.
Nhƣ trên đã nói, pháp luật về dịch vụ văn hóa chỉ có thể điều
chỉnh xử sự của các chủ thể có khả năng nhận thức, với các chủ thể
khơng có khả năng nhận thức thì các quy định của pháp luật hồn
tồn vơ tác dụng. Song khơng phải tất cả các chủ thể có khả năng
nhận thức đều có thể đƣợc coi là có năng lực hành vi pháp luật, một
chủ thể cụ thể chỉ có thể đƣợc coi là có năng lực hành vi pháp luật
khi có đủ những điều kiện nhất định. Điều kiện này là khác nhau đối
với các loại chủ thể khác nhau. Đối với chủ thể là tổ chức thì sẽ có
năng lực hành vi pháp luật từ khi nó đƣợc thành lập hoặc đƣợc cơng
nhận. Cịn đối với chủ thể là cá nhân thì điều kiện đó là độ tuổi và
khả năng nhận thức của chủ thể.
7


1.2.2. Đặc điểm của thực hiện pháp luật về dịch vụ văn hóa
Thứ nhất, về chủ thể thực hiện pháp luật về dịch vụ văn hóa
Thứ hai, về phạm vi thực hiện pháp luật về dịch vụ văn hóa
Thứ ba, về khách thể của thực hiện pháp luật về dịch vụ văn
hóa
1.2.3. Vai trị của thực hiện pháp luật về dịch vụ văn hóa
Một là, thực hiện pháp luật về dịch vụ văn hóa góp phần
tích cực đưa pháp luật vào đời sống thực tiễn, thúc đẩy giá trị văn
hóa tinh thần phát triển theo đúng quan điểm, đường lối chủ trương
của Đảng, pháp luật của Nhà nước
Hai là, thực hiện pháp luật về dịch vụ văn hóa góp phần
ngăn ngừa và hạn chế các vi phạm pháp luật, giải quyết kịp thời

những vi phạm pháp luật, tăng cường pháp chế trong hoạt động dịch
vụ văn hóa.
Ba là, thơng qua thực hiện pháp luật về dịch vụ văn hóa góp
phổ biến, giáo dục pháp luật, xây dựng thói quen, ý thức của công
dân sống và làm việc theo Hiến pháp và Pháp luật.
1.2.4. Nội dung của thực hiện pháp luật về dịch vụ văn hóa
1.2.4.1. Ban hành văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành pháp
luật về dịch vụ văn hóa
Pháp luật về dịch vụ văn hóa sau khi đƣợc các cơ quan có
thẩm quyền ban hành khơng phải ngay lập tức đƣợc tổ chức thực
hiện, thi hành ngay mà cần phải có những văn bản hƣớng dẫn thi
hành. Từ luật/pháp lệnh đến nghị định, thông tƣ hƣớng dẫn thi hành
luật/pháp lệnh, trên cơ sở đó, các cơ quan đơn vị, bộ, ban ngành tiếp
tục có những văn bản chỉ đạo, quy định chi tiết hƣớng dẫn thi hành
pháp luật (văn bản quy phạm pháp luật và văn bản cá biệt) trong
phạm vi mình quản lý đảm bảo pháp luật đƣợc hiểu rõ và thực thi
phù hợp với điều kiện, tình hình của đơn vị, địa phƣơng. Đối với
pháp luật về dịch vụ văn hóa cũng vậy, sau khi các văn bản pháp luật
ra đời, Bộ Tƣ pháp và rất nhiều cơ quan liên quan (Bộ Văn hóa – Thể
thao và Du lịch, Bộ Tài chính...), các tỉnh, thành trong cả nƣớc căn cứ
các quy định để ban hành văn bản quy định chi tiết để hƣớng dẫn thi
hành nhằm đảm bảo các quy định của pháp luật đƣợc hiểu và thực thi
một cách thống nhất từ trung ƣơng đến địa phƣơng, đây chính là một
khâu quan trọng trong việc thực hiện pháp luật nói chung và pháp
luật về dịch vụ văn hóa nói riêng. Tuy nhiên, việc ban hành các văn
bản hƣớng dẫn thi hành (dù là văn bản cá biệt hay văn bản quy phạm
8


pháp luật) đều cần tuân theo một quy trình luật định, có nhƣ vậy, các

văn bản ban hành mới đảm bảo đƣợc tính hợp pháp và có giá trị thực
thi trên thực tế. Hiện nay quy trình này đƣợc quy định cụ thể trong
pháp luật về ban hành văn bản quy phạm pháp luật, các văn bản pháp
luật quy định về nhiệm vụ, thẩm quyền của các cơ quan ở trung ƣơng
và địa phƣơng.
1.2.4.2. Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về dịch vụ văn
hóa
1.2.4.3. Tổ chức các hoạt động tập huấn nghiệp vụ dịch vụ văn hóa
1.2.4.4. Thực hiện các hoạt động quản lý nhà nước, các hoạt động
phối hợp, và hỗ trợ kinh phí cho hoạt động dịch vụ văn hóa
1.2.4.5. Thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật về dịch
vụ văn hóa
1.2.4.6. Tổng kết, đánh giá việc thực hiện pháp luật về dịch vụ văn
hóa
1.2.5. Các hình thức thực hiện pháp luật về dịch vụ văn hóa
Hình thức thực hiện pháp luật là cách thức mà các chủ thể
tiến hành các hoạt động có mục đích làm cho các quy định của pháp
luật đi vào cuộc sống. Các quy phạm pháp luật rất phong phú nên
hình thức thực hiện chúng cũng rất phong phú và khác nhau. Căn cứ
vào tính chất của hoạt động thực hiện pháp luật, có thể xác định thực
hiện pháp luật bao gồm các hình thức: Tuân thủ pháp luật, thi hành
pháp luật, sử dụng pháp luật, áp dụng pháp luật. Trong đó, Tn thủ
pháp luật là một hình thức thực hiện pháp luật, theo đó các chủ thể
pháp luật kiềm chế không tiến hành những hoạt động mà pháp luật
cấm; Thi hành pháp luật là một hình thức thực hiện pháp luật, các
chủ thể pháp luật thực hiện nghĩa vụ pháp lý của mình bằng hành
động tích cực; Sử dụng pháp luật là hình thức trong đó các chủ thể
pháp luật thực hiện quyền chủ thể của mình (thực hiện những hành vi
mà pháp luật cho phép), ở hình thức này các chủ thể pháp luật có thể
thực hiện hoặc không thực hiện quyền đƣợc pháp luật cho phép theo

ý chí của mình; Áp dụng pháp luật là một hình thức thực hiện pháp
luật, trong đó nhà nƣớc thơng qua các cơ quan nhà nƣớc có thẩm
quyền hoặc nhà chức trách tổ chức cho các chủ thể pháp luật thực
hiện những quy định của pháp luật, hoặc tự mình căn cứ vào những
quy định của pháp luật để tạo ra các quyết định làm phát sinh, thay
đổi, đình chỉ hoặc chấm dứt những quan hệ pháp luật cụ thể.

9


1.3. Các điều kiện bảo đảm thực hiện pháp luật về dịch vụ văn
hóa
1.3.1. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về dịch vụ văn hóa
Bản thân pháp luật sinh ra là để điều chỉnh các quan hệ xã
hội, là cơ sở để các chủ thể thực hiện pháp luật. Song chính các mặt,
các khía cạnh khác nhau của chuẩn mực pháp luật cũng có ảnh hƣởng
nhất định đến hoạt động thực hiện pháp luật. Ngƣời dân thực hiện
pháp luật tốt hơn với một hệ thống pháp luật toàn diện (hệ thống
pháp luật phải có khả năng đáp ứng đƣợc đầy đủ nhu cầu điều chỉnh
pháp luật trên các lĩnh vực quan trọng), đồng bộ ( không đƣợc chồng
chéo, không đƣợc mâu thuẫn với nhau) và phù hợp (nội dung của
thực hiện pháp luật ln có sự tƣơng quan với trình độ phát triển kinh
tế xã hội của đất nƣớc). Có thể nói pháp luật là đời sống xã hội đƣợc
khái qt hóa và nâng lên thành luật thơng qua hoạt động lý trí và ý
chí của con ngƣời. Do vậy sự thống nhất, toàn diện, đồng bộ, phù
hợp của các văn bản pháp luật, đặc biệt là các đạo luật là vô cùng
quan trọng, đảm bảo cho hiệu quả của việc thực hiện pháp luật.
Trong thực tiễn xây dựng pháp luật ở nƣớc ta, nhiều văn bản pháp
luật đƣợc ban hành (thậm chí ngay cả hiến pháp ) chƣa phù hợp với
qui luật phát triển khách quan của xã hội, chƣa đồng bộ và thống

nhất. Có khi nhiều văn bản pháp luật vừa ban hành đã phải sửa đổi,
bổ sung, thậm chí phải đƣợc thay thế bằng văn bản khác, vì nếu để
ngun khơng những khơng thực hiện đƣợc trong thực tế mà còn gây
thiệt hại cho đất nƣớc.
1.3.2. Điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội
- Chính trị
Pluật nói chung, pháp luật về dịch vụ văn hóa nói riêng là sản
phẩm của Nhà nƣớc, do đó ln chịu sự đác động, chi phối bởi chủ
chƣơng, đƣờng lối của giai cấp cầm quyền, phản ánh bản chất chính
trị của kiểu Nhà nƣớc đó.
Thực tế pháp luật về dịch vụ văn hóa Việt Nam cũng chịu sự
quản lý, điều hành của Đảng Cộng sản Việt Nam. Việc luật hóa các
chủ chƣơng, đƣờng lối của Đảng là cơ sở bảo đảm thực hiện các
quyền, lợi ích hợp pháp của nhân dân và duy trì sự ổn định, phát triển
của xã hội. Pháp luật về dịch vụ văn hóa qua các thời kỳ thể hiện sự
tiến bộ, hoàn thiện cả về kỹ thuật lập pháp đến nội dung điều chỉnh,
trên cơ sở phù hợp với đƣờng lối chỉ đạo của Đảng

10


Ngồi ra tính chất, mức độ của nền dân chủ xã hội cũng ảnh
hƣởng quan trọng đến hoạt động thực hiện pháp luật. Trong điều
kiện xã hội có nền dân chủ rộng rãi, các tầng lớp xã hội có thể thẳng
thắn, công khai bày tỏ ý kiến, quan điểm, nguyện vọng của mình
đối với các vấn đề pháp luật và các cơ quan pháp luật, sẵn sàng lên
tiếng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Ngƣợc lại,
trong điều kiện xã hội thiếu dân chủ, thông tin nghèo nàn, bầu
khơng khí chính trị ngột ngạt, gị bó thì các cơng dân khơng dám
bày tỏ những suy nghĩ thật của mình, khơng dám địi hỏi cơng lý vì

tâm lý lo lắng, e ngại.
- Tình hình phát triển kinh tế xã hội.
Pháp luật là sự phản ánh sự phát triển kinh tế- xã hội của mỗi
quốc gia. Vì vậy pháp luật về dịch vụ văn hóa ln chịu chi phối, tác
động tích cực hoặc ngƣợc lại từ sự phát triển của nền kinh tế- xã hội
đất nƣớc. Điều kiện kinh tế- xã hội phát triển, là điều kiện đảm bảo
Nhà nƣớc bổ sung, đƣa ra các yêu cầu cao hơn từ hoạt động quản lý,
thực hiện pháp luật về dịch vụ văn hóa đƣợc đầy đủ, hồn thiện và
văn minh hơn.
1.3.3. Tổ chức bộ máy, cơ sở vật chất, trang thiết bị và nguồn lực
tài chính phục vụ hoạt động thực hiện pháp luật về dịch vụ văn
hóa
Đồng thời phải có nguồn kinh phí đảm bảo thực hiện các nội
dung khác của thực hiện pháp luật về dịch vụ văn hóa nhƣ: Thực hiện
cơng tác tun truyền bồi dƣỡng, tập huấn nâng cao trình độ chun
mơn nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác văn hóa,
đặc biệt là tập huấn, bồi dƣỡng, triển khai ứng dụng công nghệ thông
tin, thực hiện phần mềm đăng ký kinh doanh và quản lý dịch vụ văn
hóa trực tuyến đƣợc hiệu qua.
1.3.4. Trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ, cơng chức, viên chức
làm cơng tác văn hóa
Yếu tố con ngƣời luôn là trung tâm, quyết định sự thành
công hay thất bại của hoạt động cụ thể. Trong thực hiện pháp luật về
dịch vụ văn hóa cũng vậy, đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức là
chủ thể đặc biệt tham gia vào các hình thức của thực hiện pháp luật
và là chủ thể duy nhất của hoạt động áp dụng pháp luật. Do đó trình
độ, năng lực chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ công chức, viên
chức chính là yếu tố quyết định hiệu quả của thực hiện pháp luật về
dịch vụ văn hóa.
11



Bên cạnh năng lực, trình độ chun mơn nghiệp vụ, địi hỏi
cán bộ, cơng chức phải có phẩm chất đạo đức công vụ tốt trong thực
hiện pháp luật về dịch vụ văn hóa; lấy quyền, lợi ích hợp pháp của cá
nhân là mục tiêu hoạt động của công tác thi hành pháp luật về dịch
vụ văn hóa; tránh để xảy ra tiêu cực làm xâm hại đến quyền, lợi ích
hợp pháp của cá nhân và hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nƣớc trong
lĩnh vực dịch vụ văn hóa.
1.3.5. Các điều kiện khác
Một là, trình độ hiểu biết về pháp luật của chủ thể tham gia
quan hệ pháp luật về dịch vụ văn hóa.
Đây là yếu tố tác động trực tiếp đến việc thực hiện pháp
luật về dịch vụ văn hóa. Nếu chủ thể có nhận thức cao chính là
điều kiện đầu tiên, cơ bản để có những hành vi xử sự hợp pháp,
nếu chủ thể có trình độ hiểu biết về pháp luậtdẫn đến việc thực
hiện pháp luật tốt, điều đó sẽ ngƣợc lại nếu khơng hiểu biết về
pháp luật thì việc thực hiện pháp luật thật khó khăn, dẫn đến vi
phạm pháp luật. Nếu chủ thể không hiểu biết về pháp luật liên
quan đến hoạt động dịch vụ văn hóa thì sẽ khơng hiểu đƣợc sâu
sắc bản chất, thậm chí cịn có thể hiểu sai, điều đó sẽ ảnh hƣởng
rất lớn đến việc thực hiện pháp luật, đôi khi dẫn đến tình trạng vi
phạm pháp luật. Nhận thức đúng đắn vấn đề này, các cơ quan
quản lý nhà nƣớc về dịch vụ văn hóa thƣờng xuyên tuyên truyền,
giáo dục pháp luật cho các đối tƣợng tham gia dịch vụ văn hóa.
Hai là, yếu tố tâm lý.
Trong điều kiện xã hội hiện nay, nhất là ở nông thôn, yếu tố
tâm lý cũng đang bộc lộ những tác động tích cực và tiêu cực của nó
đối với cơng tác thực hiện pháp luật. Hẳn ai cũng biết truyền thống
trọng tình, duy tình trong quan hệ dịng họ thân tộc của ngƣời Việt

Nam đã đƣợc tạo nên từ lối sống, từ tập quán sản xuất và sinh hoạt
lâu đời, đã tạo nên sự đồn kết, nhất trí, tƣơng trợ, giúp đỡ lẫn nhau,
động viên nhau những lúc khó khăn… là cơ sở hình thành nên giá trị
đời sống tinh thần của ngƣời dân. Đây là nhân tố tích cực thúc đẩy
các chủ thể thực hiện pháp luật tích cực hơn, nhiệt tình hơn vì họ
khơng muốn mang tiếng xấu với ngƣời thân, làng xóm. Tuy nhiên
cũng từ tâm lý trọng tình nghĩa này mà ngƣời dân nhiều khi mới
“chín bỏ làm mƣời”, có trƣờng hợp biết ngƣời thân phạm tội mà
khơng nỡ tố giác… điều đó gây khó khăn cho cơng tác quản lý xã
hội, và hoạt động thực thi, bảo vệ pháp luật. Yếu tố tâm lý đã đƣợc
12


hình thành từ lâu đời và trở nên quá bền vững, thật khơng dễ gì thay
đổi để ngƣời Việt tiếp nhận pháp luật một cách tự nguyện và tích cực
hơn…
Ba là, phong tục tập quán và lối sống.
Cũng nhƣ các yếu tố khác, phong tục tập quán cũng có tác
động hai mặt đến thực hiện pháp luật, bao gồm cả tích cực và tiêu cực.
Những phong tục tập quán tích cực phù hợp với ý chí nhà nƣớc thì sẽ
đƣợc nhà nƣớc đảm bảo và thừa nhận trở thành quy phạm pháp luật,
còn những phong tục tập quán nào trái với ý chí nhà nƣớc sẽ bị hạn chế
hoặc bài trừ. Nhƣ chúng ta đã biết, giỗ tổ Hùng Vƣơng là một phong
tục tốt đẹp của ngƣời dân ta, để mỗi ngƣời dân luôn biết đến cội nguồn,
luôn nhớ đến cội nguồn. Vì vậy mà Đảng và nhà nƣớc ta đã công nhận
ngày 10-3 âm lịch hàng năm là ngày quốc giỗ, là ngày nghỉ lễ cho
ngƣời lao động đƣợc hƣởng nguyên lƣơng, khuyến khích xây dựng đền
Hùng trở thành di sản văn hóa thế giới… Tuy nhiên bên cạnh đó, cũng
có những phong tục tập quán lạc hậu đã ăn sâu, bén rễ vào trong tiềm
thức, suy nghĩ, trong lối sống cách hành xử của ngƣời dân ta từ bao đời

nay, gây ảnh hƣởng xấu đến việc thực hiện pháp luật mà cần phải bài
trừ, thanh toán.
1.4. Kinh nghiệm thực hiện pháp luật dịch vụ văn hóa ở một số
địa phƣơng và bài học kinh nghiệm rút ra cho tỉnh Quảng Bình
1.4.1. Kinh nghiệm của các địa phương
Dƣới tác động của công cuộc đổi mới và sự quan tâm chỉ đạo
của các cơ quan chủ quản đối với hoạt động dịch vụ văn hoá, thời
gian qua các địa phƣơng đẩy mạnh việc thực hiện pháp luật đối với
hoạt động dịch vụ văn hoá nhằm khai thác đạt hiệu quả cao nhất tiềm
năng và thế mạnh trong phát triển dịch vụ văn hố của địa phƣơng
mình, nhất là các tỉnh nhƣ Thanh Hố, Ninh Bình, Nam Định, Hải
Dƣơng... Tuy nhiên, luận văn chỉ nghiên cứu, tìm hiểu kinh nghiệm
quản lý nhà nƣớc đối với hoạt động dịch vụ văn hoá của một số địa
phƣơng có điều kiện tự nhiên, xã hội có sự tƣơng đồng với tỉnh
Quảng Bình, đó là tỉnh Ninh Bình và Thanh Hóa.
* Kinh nghiệm của tỉnh Ninh Bình
Bức tranh kinh tế của tỉnh Ninh Bình với những gam màu
tƣơi sáng, ấn tƣợng, tốc độ tăng trƣởng kinh tế bình quân hàng năm
18,2%. Cùng với lãnh đạo đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế, công
tác quy hoạch, xây dựng, quản lý đơ thị cũng có những chuyển biến
tích cực. Song hành với phát triển kinh tế, xây dựng, chỉnh trang đô
13


thị, lĩnh vực văn hóa xã hội của Ninh Bình cũng có nhiều tiến bộ, đời
sống nhân dân đƣợc nâng lên rõ rệt. Các hoạt động thông tin, tuyên
truyền, cổ động trên địa bàn đảm bảo phong phú về nội dung, đa
dạng về hình thức. Phong trào “Tồn dân đồn kết xây dựng đời sống
văn hóa” tiếp tục phát triển, mang lại nhiều kết quả thiết thực. Đến
nay, tỉnh có 87% cơ quan, trƣờng học, 58% tổ dân phố, thôn (xóm)

và 90% gia đình đạt tiêu chuẩn văn hóa; 14/14 phƣờng, xã có nhà văn
hóa, 104/175 tổ dân phố (thơn, xóm) có điểm sinh hoạt văn hóa, đạt
tỷ lệ 60%.
* Kinh nghiệm của tỉnh Thanh Hóa
Đối với tỉnh Thanh Hóa, các loại hình dịch vụ văn hố phát
triển đa dạng, phong phú, khơng chỉ có loại hình hoạt động văn hố
Nhà nƣớc quản lý, mà cịn có mơ hình văn hóa dân lập với hàng trăm
khu văn hố gia đình; hằng ngàn điểm bán văn hoá phẩm, cửa hàng
karaoke, nhiều tụ điểm vui chơi giải trí ở cả nội thị và nơng thơn;
các hình thức câu lạc bộ hát với nhau, câu lạc bộ thể thao, câu lạc
bộ nhạc truyền thống, câu lạc bộ sinh vật cảnh, các điểm kinh doanh
du lịch phong phú: du lịch tâm linh, du lịch…Rất nhiều mơ hình
đƣợc hình thành từ chủ trƣơng, chính sách của Nhà nƣớc đối với
việc phát triển và quản lý hoạt động dịch vụ văn hố, góp phần
đáng kể vào việc nâng cao đời sống văn hoá của ngƣời dân.
1.4.2. Bài học kinh nghiệm cho Quảng Bình
Từ kinh nghiệm thực hiện pháp luật đối với hoạt động
dịch vụ văn hoá ở các địa phƣơng nêu trên, có thể rút ra một số
bài học cho tỉnh Quảng Bình nhƣ sau:
Thứ nhất, nâng cao nhận thức hoạt động dịch vụ văn hóa
- sản phẩm tinh thần thuộc lĩnh vực tƣ tƣởng, có liên quan đến
thuần phong mỹ tục, bản sắc của dân tộc, nên cần phải tăng
cƣờng vai trò định hƣớng của các cấp lãnh đạo và hƣớng dẫn của
các cơ quan chuyên môn. Tăng cƣờng công tác giáo dục lý
tƣởng, đạo đức, lối sống cho thanh niên.
Thứ hai, thông qua việc tổ chức và quản lý các hoạt động
dịch vụ văn hóa của tỉnh đến huyện, xã đối với một số hoạt động văn
hóa nói chung, dịch vụ văn hố nói riêng cần phải xây dựng các văn
bản pháp quy để điều chỉnh, quản lý các hoạt động dịch vụ văn hóa,
quyền lợi và nghĩa vụ của các tổ chức cá nhân tham gia hoạt động

này, kiểm tra và chống mọi biểu hiện thƣơng mại hóa văn hóa. Từng
bƣớc đa dạng hoá các hoạt động văn hoá, đồng thời tạo ra đƣợc các
14


sản phẩm văn hoá đặc thù của địa phƣơng nhằm đáp ứng nhu cầu
hƣởng thụ văn hoá ngày càng phong phú, đa dạng của nhân dân.
Thứ ba, phát huy hiệu quả sự tham gia của toàn xã hội,
của mọi lực lƣợng vào hoạt động tổ chức, phát triển và quản lý
văn hóa. Thu hút tồn xã hội tham gia các hoạt động sáng tạo,
cung cấp và phổ biến pháp luật về hoạt động dịch vụ văn hóa.
Q trình này sẽ tạo điều kiện cho văn hóa phát triển văn hóa của
nhân dân, giữ gìn, phát triển sáng tạo nền văn hóa Việt Nam tiên
tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Đồng thời cần có sự liên kết, hợp
tác giữa các địa phƣơng, các vùng để phát triển và tăng cƣờng
quản lý hoạt động văn hoá bằng pháp luật đƣợc thực thi.
Thứ tư, thu hút các nguồn đầu tƣ, khai thác các tiềm năng
về nhân lực, vật lực và tài lực trong toàn xã hội. Tranh thủ sự
quan tâm của tỉnh, của Trung ƣơng để có nguồn lực đầu tƣ cho
phát triển văn hố, trong đó có dịch vụ văn hóa.
Thứ năm, để nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về hoạt động
dịch vụ văn hóa phải đồng thời đẩy mạnh phát triển kinh tế; tạo công ăn
việc làm, nhất là đối tƣợng thanh niên; tăng cƣờng hiệu quả phối hợp của
các cơ quan chuyên môn trong công tác quản lý và nâng cao chất lƣợng
các hoạt động văn hoá.
Tiểu kết chương 1

15



Chương 2:
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN
PHÁP LUẬT VỀ DỊCH VỤ VĂN HĨA Ở TỈNH QUẢNG BÌNH
2.1. Thực trạng bảo đảm thực hiện pháp luật về dịch vụ văn hóa
ở tỉnh Quảng Bình
2.1.1. Các yếu tố ảnh hưởng đến thực hiện pháp luật về dịch vụ
văn hóa ở tỉnh Quảng Bình
2.1.1.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội
2.1.1.2. Tình hình hoạt động dịch vụ văn hóa ở tỉnh Quảng Bình
2.1.2. Thực tiễn thực hiện pháp luật về dịch vụ văn hóa ở tỉnh
Quảng Bình
2.1.2.1. Thực trạng thực hiện pháp luật về dịch vụ văn hóa của cơ
quan quản lí nhà nước
Năm 2013 lực lƣợng thanh tra Sở Văn hóa - Thể thao và Du
lịch tỉnh Quảng Bình đã tiến hành kiểm tra 418 lƣợt tại đơn vị kinh
doanh và hoạt động dịch vụ văn hóa, phát hiện 87 đơn vị vi phạm,
cảnh cáo 17 đơn vị, đình chỉ hoạt động 8 đơn vị, tạm giữ giấy phép
hoạt động của 5 đơn vị, chuyển hồ sơ truy cứu trách nhiệm hình sự 1
vụ việc, phát hiện 1 trƣờng họp in, nhân bản băng đĩa trái phép. Hiện
vật thu giữ: 196 đầu máy các loại; 78 máy đánh bạc; 15 amply, 8 đầu
thu, và 6 TVRO; 4 ti-vi; 5 thùng đĩa trắng; 6 kiện nhãn đĩa; 33 giấy
đề can, bản phim in, sổ sách; 6 kiện sách, bìa; 44 tủ thuốc lá ngoại.
Xử lý phạt vi phạm hành chính: 7.856 triệu đồng.
Năm 2014, Thanh tra Sở đã tiến hành xử phạt hành chính 30
triệu đồng do vi phạm về dịch vụ văn hóa, phạt 155 triệu đồng do vi
phạm về báo chí, xuất bản, tiến hành tiêu huỷ 20.500 đĩa CD, VCD
và 815 sách vi phạm.
Các hoạt động thanh tra nhƣ trên là vô cùng quan trọng, nó
hỗ trợ cho cơng tác xã hội hóa dần dần đi vào thế ổn định.
2.1.2.2. Thực trạng thực hiện pháp luật về dịch vụ văn hóa của tổ

chức, cá nhân tham gia hoạt động văn hóa
Nhìn chung việc thi hành pháp luật về văn hóa của các tổ chức,
cá nhân cơ bản thực hiện theo quy định, khơng có vấn đề nghiêm trọng,
nổi cộm, song vẫn còn nhiều tồn tại, vi phạm (chủ yếu là vi phạm hành
chính) và nhiều khó khăn, vƣớng mắc trong q trình thực thi pháp luật
trong lĩnh vực văn hóa.
16


Về hoạt động kinh doanh điện ảnh và băng đĩa hình:
Băng đĩa có nội dung khơng lành mạnh, khơng phù hợp với
văn hoá Việt Nam vẫn tồn tại trong thị trƣờng băng đĩa lậu. Theo
thanh tra Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch tỉnh Quảng Bình: 80 % thị
trƣờng băng đĩa hiện nay là băng đĩa lậu, trong số đó, 80 % là băng
đĩa phim truyện và các chƣơng trình ca nhạc bị ăn cắp bản quyền, 20
% là bãng đĩa nhập lậu. Hàng năm các lực lƣơng liên ngành tốn rất
nhiều công sức và tiền của nhƣng vẫn khơng quản lý đƣơc nạn băng
đĩa ngồi luồng, vì chúng ta mới đang chỉ quản lý phần ngọn. Từ năm
2012 - 2017, Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch tỉnh Quảng Bình đã
thực hiện cơng tác kiểm tra, kiểm soát trên diện rộng với 62 lƣợt
kiểm tra đã phát hiện 55 cơ sở vi phạm , 1 ổ nhóm in sao băng đĩa
trái phép, đã đình chỉ hoạt động 23 cơ sở, thu giữ 664 băng đĩa các
loại [3].
Hoạt động kinh doanh mỹ thuật, gallery, mỹ nghệ phẩm.
Tuy nhiên, những mấy năm gần đây, vẫn có Gallery thƣờng
xuyên tổ chức các buổi triển lãm lớn để giới thiệu, quảng bá nghệ
thuật hội hoạ cho công chúng (chủ yếu là khách du lịch nƣớc ngoài).
Nhiều chủ nhân của các cuộc triển lãm này là ngƣời am hiểu, có vốn
nghệ thuật, nhƣng vì chạy đua theo lợi nhuận, nên có ngƣời đã nhận
xét rằng: chỉ vì kiếm sống nên họ cũng trở thành nhữing tay bn bán

cị con dễ bị dẹp tiệm. Ngay cả Gallery Nam Sơn đƣợc coi là nơi thu
hút những thiên tài một thời nay cũng là một “cửa hàng” kinh doanh
tranh vẽ thông thƣờng, mặc dù đôi khi cũng tổ chức những đợt triển
lãm.
- Thứ nhất, hầu nhƣ nó khơng có cơng chúng trong nƣớc
hoặc có thì cũng rất ít. Các cuộc triển lấm có rất ít ngƣời đến xem.
Ngƣời mua tranh thì chủ yếu là ngƣời nƣớc ngoài và tranh đƣợc bán,
đƣợc mua phần nhiểu cũng là những loại tranh vẽ hàng loạt, ít có ý
nghĩa khích lệ cho sự tìm tịi sáng tạo.
- Thứ hai, Các sản phẩm mỹ thuật đƣợc “tiêu dùng” vận
động trên thị trƣờng hầu nhƣ khơng tác động tới q trình tìm tịi,
sáng tạo cái mới trong hoạt động mỹ thuật của dân tộc. Các nhà thiết
kế trong lĩnh vực mỹ thuật ứng dụng, khi đi tìm những chất liệu mới,
những kỹ thuật mới và cả những tiêu chuẩn mỹ thuật mới cũng hầu
nhƣ không căn cứ vào những qui ƣớc văn hóa thực sự mang bản sắc

17


Việt Nam trong ngơn ngữ tạo hình mà chỉ căn cứ vào nhu cầu thị
hiếu của những ngƣời mua tranh nƣớc ngồi.
- Thứ ba, Tình trạng trên khơng kích thích đƣợc nhiệt tình, sáng tạo
của các hoạ sĩ, của những ngƣời làm nghệ thuật chân chính trên lĩnh
vực này. Khơng ít hoạ sĩ đã thừa nhận không biết khai thác năng
lƣợng ở đâu cho sự sáng tạo. Các hoạ sĩ hoặc lặp đi lặp lại chính
mình, hoặc lặp lại của ngƣời khác. Các giải thƣởng mỹ thuật Việt
Nam hàng năm chỉ thấy những gƣơng mặt quen thuộc trong khi đó
các khuynh hƣớng nghiệp dƣ ngày càng lấn lƣớt, lan tràn.
2.1.3. Đánh giá chung về thực hiện pháp luật về dịch vụ văn hóa ở
tỉnh Quảng Bình

2.1.3.1. Kết quả đạt được
Mặc dù thực tế thực hiện pháp luật về dịch vụ văn hóa ở
Quảng Bình gặp khơng ít kho khăn, tuy nhiên, sự phối hợp giữa các
cơ quan, ban ngành liên quan trong việc quản lý dịch vụ văn hóa
cũng nhƣ các tổ chức tham gia dịch vụ văn hóa có những chuyển
biến tích cực, góp phần tích cực đƣa pháp luật vào đời sống cũng nhƣ
thúc đảy hoạt động dịch vụ văn hóa ngày càng phát triển, cụ thể:
Thứ nhất, công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật
và tổ chức hƣớng dẫn thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật của
Nhà nƣớc trong lĩnh vực hoạt động dịch vụ văn hoá từ tỉnh đến cơ sở
đƣợc chú trọng. Bên cạnh đó, việc chỉ đạo xây dựng và tổ chức triển
khai thực hiện các cơ chế, chính sách, đề án, dự án phát triển dịch vụ
văn hoá của Quảng Bình ngày càng chặt chẽ. Điều đó đã góp phần
nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của tổ chức, cá nhân tham gia
kinh doanh dịch vụ văn hoá, đồng thời nâng cao hiệu lực, hiệu quả
quản lý Nhà nƣớc về dịch vụ văn hoá trên địa bàn tỉnh Quảng Bình.
Thứ hai, cơng tác đào tạo, bồi dƣỡng và hỗ trợ đào tạo, bồi
dƣỡng nguồn nhân lực cho hoạt động dịch vụ văn hoá đƣợc tăng
cƣờng, đã tạo điều kiện để các cơ sở đào tạo đa dạng hoá chuyên
ngành đào tạo, nâng cao kiến thức về kỹ năng giao tiếp, phục vụ...cho
lực lƣợng lao động ngành dịch vụ văn hố.
Thứ ba, cơng tác kiểm tra, thanh tra đối với hoạt động dịch vụ
văn hố đƣợc duy trì thƣờng xuyên, góp phần ổn định thị trƣờng, đẩy
mạnh các hoạt động dịch vụ văn hố, giữ gìn kỷ cƣơng pháp luật
trong hoạt động dịch vụ văn hoá trên địa bàn tỉnh Quảng Bình.

18


2.1.3.2. Hạn chế và nguyên nhân

* Hạn chế
- Hoạt động dịch vụ văn hố là một loại hình có tính đặc thù,
phát triển rất nhanh, đa dạng, nhạy cảm và phức tạp. Cơng tác tun
truyền phổ biến chính sách pháp luật, các quy định về hoạt động dịch
vụ văn hoá cho ngƣời dân và việc nâng cao nhận thức của cộng đồng
dân cƣ về vai trò của dịch vụ văn hoá trong phát triển kinh tế - xã hội
mặc dù đã đƣợc các cấp, các ngành thực hiện khá tích cực, song hiệu
quả còn thấp, chƣa đáp ứng đƣợc yêu cầu. Sự phối kết hợp của các
cấp, các ngành liên quan chƣa chặt chẽ. Hệ thống văn bản quy phạm
pháp luật về lĩnh vực văn hoá chƣa đồng bộ, chƣa kịp thời.
* Nguyên nhân của những hạn chế.
- Trong những năm qua, cơ chế chính sách pháp luật chung
liên quan đến phát triển kinh tế nói chung và dịch vụ văn hố nói
riêng cịn chậm đƣợc sửa đổi, chƣa đồng bộ, thiếu nhất qn và thiếu
thơng thống; việc ban hành các văn bản hƣớng dẫn thực hiện, hƣớng
dẫn tổ chức hoạt động dịch vụ văn hố cịn chậm, chƣa kịp thời gây
khó khăn cho hoạt động ở các địa phƣơng. Nội dung, phƣơng thức và
phƣơng pháp tuyên truyền phổ biến giáo dục chính sách pháp luật
hình thức cịn nghèo nàn, đơn điệu và chƣa phù hợp với điều kiện
thực tế của thị xã.
2.1.3.3. Bài học kinh nghiệm
Từ những đánh giá kết quả thực hiện pháp luật về dịch vụ
văn hóa trên địa bàn tỉnh Quảng Bình, tác giả rút ra một số bài học
kinh nghiệm nhƣ sau:
2.2. Phƣơng hƣớng và giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về
dịch vụ văn hóa ở tỉnh Quảng Bình
2.2.1. Phương hướng bảo đảm thực hiện pháp luật về dịch vụ văn
hóa ở tỉnh Quảng Bình
Thứ nhất, đảm bảo các mục tiêu vận hành của hoạt động
dịch vụ văn hoá trên địa bàn tỉnh

Thứ hai, bảo đảm các nguyên tắc vận hành của hoạt động
dịch vụ văn hoá trên địa bàn tỉnh
2.2.2. Các giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về dịch vụ văn
hóa ở tỉnh Quảng Bình .
2.2.1. Các giải pháp chung
2.2.1.1. Tiếp tục hoàn thiện pháp luật về dịch vụ văn hóa

19


Hoàn thiện hệ thống pháp luật là nhiệm vụ mang tính chiến
lƣợc, bởi bất kỳ một hệ thống pháp luật, một ngành luật hay chế định
luật nào cũng luôn cần có sự nghiên cứu, điều chỉnh bổ sung cho phù
hợp với sự vận động, phát triển và biến đổi không ngừng của các
quan hệ xã hội mà nó điều chỉnh. Pháp luật về dịch vụ văn hóa cũng
khơng nằm ngồi quy luật đó, sự hồn thiện pháp luật về dịch vụ văn
hóa là cơ sở, tiền đề bảo đảm thực hiện các giải pháp khác trong việc
nâng cao chất lƣợng hiệu quả thực hiện pháp luật về dịch vụ văn hóa
trên địa bàn tỉnh.
Nhằm đạt đƣợc mục tiêu đề ra và giải quyết đƣợc những vấn
đề còn bất cập đã nêu tại Chƣơng 2 của luận văn, việc soạn thảo dự
thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định số 131/2013/NĐ-CP,
Nghị định số 158/2013/NĐ-CP, tác giả để xuất triển khai theo hƣớng
sau:
- Phân định cụ thể thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính
về quyền tác giả, quyền liên quan, trong lĩnh vực văn hóa, thể thao,
du lịch và quảng cáo. Sửa đổi, điều chỉnh những quy định về thẩm
quyền, mức phạt và hình thức xử phạt chƣa phù hợp với thực tế,
khơng có tính khả thi và chƣa phù hợp với quy định của Luật xử lý vi
phạm hành chính.

- Bổ sung những hành vi vi phạm hành chính đƣợc phát hiện
qua công tác theo dõi thi hành pháp luật cần phải đƣợc điều chỉnh.
- Bổ sung những hành vi vi phạm hành chính mới căn cứ vào
quy định trong những văn bản mới ban hành nhƣ Nghị định số
15/2016/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số
79/2012/NĐ-CP ngày 05/10/2012 của Chính phủ quy định về biểu
diễn nghệ thuật; trình diễn thời trang; thi ngƣời đẹp, ngƣời mẫu; lƣu
hành, kinh doanh bản ghi âm, ghi hình ca múa nhạc, sân khấu, Nghị
định về hoạt động nhiếp ảnh, Nghị định về điều kiện kinh doanh hoạt
động thể thao, một số Thông tƣ quy định chi tiết về văn hóa và kinh
doanh dịch vụ văn hóa cơng cộng, bảo vệ mơi trƣờng trong hoạt động
văn hóa, thể thao và du lịch, quy chuẩn rạp chiếu phim, phòng chiếu
phim....
2.2.1.2. Tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy, chính quyền các cấp
trong thực hiện pháp luật về dịch vụ văn hóa trên địa bàn tỉnh
Nếu hồn thiện pháp luật về dịch vụ văn hóa là điều kiện cần
thì tăng cƣờng sự lãnh đạo của cấp ủy, chính quyền các cấp là điều
kiện đủ đảm bảo thực hiện pháp luật về dịch vụ văn hóa trên địa bàn
20


tỉnh đƣợc hiệu quả. Công tác lãnh chỉ đạo kịp thời của cấp ủy, chính
quyền ln là cơ sở đảm bảo cho thực hiện pháp luật về dịch vụ văn
hóa đƣợc thực hiện đồng bộ, hiệu quả. Sự quan tâm, chỉ đạo của cấp
ủy, chính quyền đối với dịch vụ văn hóa phụ thuộc việc nhận thức
đúng vị trí, vai trị, ý nghĩa của dịch vụ văn hóa trong cơng tác quản
lý nhà nƣớc ở địa phƣơng. Nội dung của công tác chỉ đạo, điều hành
đƣợc biểu hiện bằng các chủ trƣơng, chính sách quản lý phù hợp, chi
phối tới các giải pháp cụ thể về nguồn nhân lực, cơ sở vật chất và các
nội dung khác của hoạt động thực hiện pháp luật về dịch vụ văn hóa

nhƣ sau:
2.2.1.3. Tăng cường phổ biến, giáo dục pháp luật cho cán bộ, công
chức, những tổ chức, cá nhân tham gia dịch vụ văn hóa và quần
chúng nhân dân
Trƣớc hết cần phải đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục sâu rộng
hơn cho các cơ sở kinh doanh dịch vụ văn hóa về các quy định của
pháp luật có liên quan đến kinh doanh dịch vụ văn hóa. Ngồi các
hình thức nhƣ từ trƣớc đến nay đã làm (tổ chức các hội nghị tập huấn,
triển khai các quy định của pháp luật), cần biên soạn và phát hành
đến tận các cơ sở bán lẻ văn hóa phẩm những hình thức nhƣ: Sổ tay,
tờ rơi về kinh doanh văn hóa. Trong đó giới thiệu về các quy định
pháp luật cũng nhƣ những nội dung cần chú ý thực hiện khi kinh
doanh dịch vụ văn hóa. Trong hình thức tun truyền này cũng nên
có những khuyến cáo về đạo đức và văn hoá kinh doanh, cũng nhƣ
những cảnh báo các nguy cơ nếu vi phạm pháp luật (đƣa thơng tin
các cơ sở có hành vi vi phạm lên các phƣơng tiện thông tin đại
chúng…). Các cơ quan quản lý nhà nƣớc trong quá trình thanh kiểm
tra cũng phải thƣờng xuyên nhắc nhở các cơ sở kinh doanh về thực
hiện đúng quy định của pháp luật.
2.2.2. Các giải pháp cụ thể
2.2.2.1. Kiện toàn và nâng cao năng lực, trình độ chun mơn nghiệp
vụ của đội ngũ cán bộ, cơng chức làm cơng tác văn hóa trên địa bàn
tỉnh
2.2.2.2. Tăng cường công tác phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức
trong thực hiện pháp luật về dịch vụ văn hóa trên địa bàn tỉnh
2.2.2.3. Tiếp tục thực hiện cải cách thủ tục hành chính trong thực
hiện pháp luật về dịch vụ văn hóa trên địa bàn tỉnh

21



2.2.2.4. Tăng cường thanh tra, kiểm tra, giám sát đối với thực hiện
pháp luật về dịch vụ văn hóa
2.3.2.5. Nâng cao trình độ quản lý, năng lực thi hành cơng vụ của đội
ngũ các cá nhân có chức năng và trách nhiệm trong công tác xử lý
hành vi vi phạm
Tiểu kết chương 2

22


KẾT LUẬN
Trong nền kinh tế thị trƣờng, hoạt động văn hóa nói chung,
hoạt động dịch vụ văn hóa nói riêng phải đƣợc thực hiện thông qua
pháp luật và định hƣớng phục vụ cho mục tiêu phát triển kinh tế- xã
hội của đất nƣớc. Để hoạt động dịch vụ văn hóa đạt đƣợc những kết
quả, trƣớc hết cần nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về dịch vụ
văn hóa. Xuất phát từ đặc trƣng của hoạt động dịch vụ văn hóa, trách
nhiệm, phạm vi, phƣơng thức quản lý của nhà nƣớc đối với hoạt động
dịch vụ văn hóa, bởi đó là một loại hàng hóa đặc biệt, khơng giống
các loại hàng hóa khác, nếu bng lỏng cơng tác thực hiện pháp luật,
để hoạt động dịch vụ văn hóa trơi nổi theo quy luật thị trƣờng là sai
lệch mục tiêu của dịch vụ văn hóa, dẫn đến thƣơng mại hóa, chỉ chạy
theo lợi nhuận sẽ gây ảnh hƣởng tiêu cực đến tƣ tƣởng, đạo đức, lối
sống của thế hệ trẻ và truyền thống văn hóa của dân tộc.
Trong những năm qua hoạt động dịch vụ văn hóa ở tỉnh
Quảng Bình phát triển mạnh mẽ cả về số lƣợng, chất lƣợng, nâng cao
đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân, góp phần vào sự phát triển
kinh tế- xã hội trong công cuộc đổi mới đất nƣớc do Đảng lãnh đạo,
đồng thời thực hiện pháp luật về dịch vụ văn hóa là q trình hoạt

động có mục đích của cơ quan, đơn vị, tổ chức và cá nhân làm cho
quy định của pháp luật đƣợc thực hiện trong thực tế cuộc sống.
Quá trình nghiên cứu thực tiễn thực hiện pháp luật về dịch vụ
văn hóa ở tỉnh Quảng Bình cho thấy việc thực hiện pháp luật trong lĩnh
vực này đã đạt đƣợc kết quả nhất định. Tuy nhiên, trong lĩnh vực này
còn bộc lộ nhiều yếu kém, hạn chế: hệ thống các văn bản pháp quy
thiếu đồng bộ, chậm đƣợc sửa đổi, bổ sung. Nhiều quy định trong các
văn bản đã lạc hậu so với thực tiễn hoặc còn quá chung chung, khi xử
lý cụ thể khó thực hiện, gây nên tình trạng thực thi luật và các văn bản
dƣới luật thiếu nghiêm minh.Việc xem xét và xử lý những vi phạm
trong hoạt động dịch vụ văn hóa cịn có tình trạng nể nang, nƣơng nhẹ
hoặc đùn đẩy trách nhiệm. Sự phối hợp giữa các cơ quan bảo vệ pháp
luật thiếu thống nhất. Một số cơ quan chủ quan buông lỏng quản lý để
các cơ sở kinh doanh dịch vụ văn hóa chƣa chấp hành nghiêm quy chế
nên còn xảy ra những sai phạm đáng tiếc.
Dựa trên cơ sở nghiên cứu lý luận và tổng kết thực hiện pháp
luật về dịch vụ văn hóa thời gian qua ở tỉnh Quảng Bình, luận văn đã
góp phần làm rõ thêm một số nội dung nhƣ sau:
23


×