Tải bản đầy đủ (.doc) (70 trang)

Phân tích dạng Se(IV), Se(VI) vô cơ trong mẫu nước ngầm và thực phẩm bằng phương pháp động học – xúc tác trắc quang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (455.65 KB, 70 trang )

Mở đầu
Selen được Jons Jakob Berzelius phát hiện năm 1817, và ông nhận thấy nguyên
tố này gắn liền với Telua (đặt tên theo Trái Đất) nên Selen theo tiếng Hy Lạp có
nghĩa là Mặt Trăng.
Trong công nghiệp Selen được ứng dụng rộng rãi trong pha trộn cao su, tạo hợp
kim thép, trong sản xuất thủy tinh, trong hóa chất và dùng làm thuốc nhuộm….
Trong đời sống hàng ngày Selen được xem là nguyên tố thiết yếu, có mặt trong
thực phẩm. Selen chính là coenzym của glutathion peroxydase, là một chất chống
ôxy hóa, giữ vai trò chủ chốt bảo vệ cơ thể chống lại tác hại của các gốc tự do,
chống lão hóa. Hàng ngày cơ thể chúng ta cần khoảng 0,05 - 0,10mg Selen, nó
được hấp thu ở ruột non và thải trừ qua phân, nước tiểu, mồ hôi. Selen có trong
thành phần của iodothyronin deiodinase có liên quan đến tổng hợp hormon
triiodothyronin (T3) từ thyroxin (T4) là chất có tác dụng hoạt hóa hormon tuyến
giáp. Selen còn có tác dụng làm giảm độc tính của các kim loại nặng, vì Selen kết
hợp với các kim loại như thủy ngân, chì, asen, cadmium,... cùng với một loại
protein đặc biệt là metalloprotein làm mất tác dụng của các kim loại độc và tăng
cường quá trình đào thải chúng ra khỏi cơ thể [1].
Vì những ảnh hưởng và vai trò quan trọng của nó tới sự sống nên Selen ngày
càng được quan tâm nhiều hơn. Các nghiên cứu khoa học ngày nay hướng tới các
phương pháp xác định tổng hàm lượng siêu vết và hàm lượng các dạng selen một
cách nhanh nhất, nhạy nhất và chính xác nhất.
Có rất nhiều phương pháp được sử dụng để xác định lượng vết Selen. Trong số
các phương pháp phân tích như phương pháp sắc kí, huỳnh quang Rơnghen,
động học xúc tác, kích hoạt nơtron , phương pháp hấp thụ nguyên tử sử dụng kỹ
thuật hidrua hóa ( HG – AAS)...thì phương pháp động học – xúc tác trắc quang là
1
phương pháp đang được quan tâm nghiên cứu để xác định Selen vì phương pháp
này có độ nhạy và độ chính xác cao, quy trình phân tích đơn giản không tốn nhiều
hoá chất và không tốn kém về trang thiết bị, có khả năng xác định được các dạng
hóa trị khác nhau của Selen. Vì vậy, để đóng góp và việc phát triển ứng dụng
phương pháp này với đối tượng nghiên cứu là thực phẩm và nước ngầm chúng tôi


chọn đề tài: ‘Phân tích dạng Se(IV), Se(VI) vô cơ trong mẫu nước ngầm và thực
phẩm bằng phương pháp động học – xúc tác trắc quang’.
2
CHƯƠNG 1 - TỔNG QUAN
1.1. Tổng quan về Selen và các hợp chất của Selen
1.1.1. Trạng thái tự nhiên và tính chất của Selen
1.1.1.1. Trạng thái tự nhiên
Trữ lượng Selen trong vỏ Trái đất khoảng 10
-5
%. Trong thiên nhiên, Selen
thường tồn tại cùng với các kim loại như Cu, Pb, Hg, Ag, Au. Những khoáng vật
riêng của Selen rất ít gặp mà thường ở lẫn với những khoáng vật của lưu huỳnh.
Selen ở dạng tinh khiết là những tinh thể kim loại màu xám hoặc màu đen,
thường được gọi là bụi Selen hay Selen nguyên tố. Bụi Selen được tạo ra trong quá
trình tinh chế đồng. Selen nguyên tố không tồn tại trong môi trường, nó thường kết
hợp với các chất khác. Phần lớn, Selen trong đất thường kết hợp với các khoáng
của bạc, đồng, chì và niken. Selen cũng kết hợp với oxi tạo thành một số tinh thể
không màu. Một vài hợp chất của Selen tồn tại ở trạng thái khí [1].
Ngoài ra, Selen có mặt trong tự nhiên ở một số dạng hợp chất vô cơ, như
Selenua, Selenat và Selenit. Trong đất Selen thường xuất hiện ở các dạng hòa tan
như Selenat (tương tự như Sunfat) và bị thẩm thấu rất dễ dàng vào các con sông do
nước chảy [29].
Trong các hợp chất sinh học, Selen tồn tại ở các dạng hợp chất hữu cơ như
dymetyl selenua, selenomethionin, methylselenocystein và selenocystein. Trong
các hợp chất này thì Selen có vai trò tương tự như nguyên tố lưu huỳnh [29].
Selen được sản xuất phổ biến nhất từ Selenua hoặc trong nhiều loại quặng
sunfat, như từ các khoáng vật của đồng, bạc hay chì. Nó thu được dưới dạng phụ
phẩm của quá trình chế biến các loại quặng này, từ bùn anot trong tinh lọc đồng và
3
bùn từ các buồng chì trong các nhà máy sản xuất axit sunfuric. Các loại bùn này có

thể được xử lý bằng nhiều cách để thu được Selen tự do.
Các nguồn tự nhiên chứa Selen bao gồm các loại đất giàu Selen và Selen được
tích lũy sinh học bởi một số thực vật có độc như loài cây họ đậu trong các chi
Oxytropis hay Astragalus. Các nguồn chứa Selen do con người tạo ra có việc đốt
cháy than cũng như khai thác và nung chảy các loại quặng sunfat.
1.1.1.2.Tính chất vật lý
Selen có nguyên tử lượng 78,96 đvc, nằm ở phân nhóm chính nhóm VI trong
Bảng Hệ Thống Tuần Hoàn. Selen có nhiều dạng thù hình, nhưng bền nhất và hay
gặp nhất là Selen lục phương và selen xám. Selen xám là chất bán dẫn, độ dẫn điện
tăng khi bị chiếu sáng.
Một

số

hằng

số

vật



của

Selen:
tỷ trọng: 4,8g/cm
3
, nhiệt độ
nóng chảy: 217
o

C, nhiệt độ sôi: 684,9
o
C [2,6].
1.1.1.3. Tính chất hóa học
Trong phân nhóm chính nhóm VI đi từ O, S, Se, Te, Po tính kim loại tăng dần
và tính phi kim giảm dần nên Selen nguyên tố dễ dàng phản ứng với oxi và các
nguyên tố halogen tạo thành oxit SeO
2
và halogenua như SeCl
4
.
Giống như lưu huỳnh, Selen tác dụng với nhiều kim loại tạo ra các Selenua
tương tự như muối Sunfua. Với Hidro, Selen tác dụng ở nhiệt độ cao. Selen tác
dụng với flo và clo ở nhiệt độ cao và với oxit khi đun nóng. Selen tan được trong
dung dịch kiềm tương t ự lưu huỳnh:
3Se + 6KOH = K
2
SeO
3
+ 2K
2
Se + 3H
2
O.
Trong dung dịch HNO
3
loãng, Selen phảm ứng tạo ra Selenit:
3Se + 4HNO
3
+ H

2
O = 3H
2
SeO
3
+ 4NO.
4
Khi cho Selen tác dụng với dung dịch axit loãng có thể thu được hidroselenua
(H
2
Se). Khi hòa tan H
2
Se vào nước thì dung dịch của nó có tính oxi hóa yếu. Dưới
tác dụng của oxy không khí, Selenua sẽ tạo thành sản phẩm màu đỏ có cấu tạo như
polysunfua là polyselenua.
H
2
Se tác dụng với oxy không khí tạo ra SeO
2
, là tinh thể màu trắng, tan tốt
trong nước tạo ra Selenơ H
2
SeO
3
(K
1
= 2x10
-3-
, K
2

= 5x10
-9
). Khác với SO
2
, SeO
2

chất oxi hóa mạnh, dễ dàng bị khử đến Se theo phản ứng:
SeO
2
+ 2SO
2
= Se + 2SO
3
.
H
2
SeO
3
tồn tại ở dạng những tinh thể lục phương không màu, chảy rữa khi để
trong không khí ẩm nhưng tự vụn dần trong không khí khô. H
2
SeO
3
mất nước tạo
thành SeO
2
. Axit Selenơ và muối của nó là chất oxi hóa khá mạnh. Người ta điều
chế nó bằng cách hòa tan Selen bột trong HNO
3

loãng.
Axit Selenic rất giống axit sunfuric về khả năng tạo hidrat mạnh, độ mạnh của
axit và tính chất của muối. Khi kết tinh từ dung dịch nó có thể tách ra ở dạng hidrat
H
2
SeO
4
.H
2
O[6T], ngoài ra người ta cũng thấy tồn tại các dạng hidrat như sau:
H
2
SeO
4
.2H
2
O, H
2
SeO
4
.4H
2
O, H
2
SeO
4
.6H
2
O [10].
1.1.1.4. Tính chất điện hóa của Selen(IV)

Selen (VI) có tốc độ khử điện cực rất nhỏ nên không có hoạt tính điện hóa. Cực
phổ của Selen đã được nghiên cứu từ rất lâu. Lần đầu tiên được nghiên cứu bởi
Schwaer và Suchy [20 ], các tác giả này đã xác định được ba bước sóng khử với
các quá trình khử Se(IV) đến các mức oxi hóa +2, 0, -2 trong nền HCl 1M. Trong
dung dịch nền rất loãng thì hai sóng đầu chập làm một, ngoài ra các tác giả này còn
phát hiện ra một sóng đơn ứng với quá trình khử Se
+4
về Se
o
trong nền amoni [5].
5
Lingane và Niedrach [20 ] nhận thấy SeO
3
2-
cho một sóng khuếch tán trên điện
cực thủy ngân giống như của SO
3
2-
. Theo các tác giả này sóng khử của SeO
3
2-
trong
môi trường amoni tương ứng với bước khử của Se
4+
về Se
2+
.
Speranskaya [16] cũng ghi nhận hai bước sóng khử về Selen nguyên tố, sóng
thứ hai ứng với bước sóng khử từ Selen nguyên tố đến Se
2-

. Sóng thứ hai đi kèm
với sóng khử của H
+
.
Khi nghiên cứu ảnh hưởng của pH đến sóng cực phổ Se(IV) sử dụng đệm
ortho-photphat 0,2M thì trong môi trường axit hai sóng đầu quan sát được là tương
tự như các trường hợp trên. Tuy nhiên, ở khoảng pH = 3 xuất hiện sóng thứ ba
không thuận nghịch với E
1/2
= -1,2V (So với SCE).
Trong đệm amoni axetat pH = 6,5, khi nồng độ Se(IV) là 0,125 mM thì chỉ
quan sát được sóng thứ ba. Khi nồng độ Se(IV) tăng đến 1 mM thì quan sát được cả
ba sóng, tuy nhiên sóng thứ nhất rất nhỏ, ở pH này chỉ quan sát được sóng thứ hai
và sóng thứ ba. Cũng theo các tác giả này số điện tử trao đổi trong phản ứng khử
điện cực ở sóng thứ hai và sóng thứ ba đều bằng 2.
Tóm lại, Se(IV) cho ba sóng cực phổ tùy thuộc vào pH của dung dịch. Dòng
giới hạn của tất cả các sóng đều là dòng khuếch tán nhưng chỉ có sóng thứ hai là
thuận nghịch. Sóng thứ nhất tương ứng với bước khử trao đổi 4e của Se(IV) để tạo
thành Selenit thủy ngân HgSe:
H
2
SeO
3
+ Hg + 4H
+
+ 4e

HgSe + 3H
2
O.

Sóng thứ hai là sóng khử 2e của HgSe để tạo H
2
Se:
HgSe + 2e + 2H
+


Hg + H
2
Se.
Trong môi trường kiềm sóng thứ ba tương ứng với bước khử 6e:
6
SeO
3
2-
+ 6e + 6H
+


Se
2-
+ 3H
2
O.
1.1.2. Ứng dụng và độc tính của Selen
Ứng dụng lớn nhất của Selen trên toàn thế giới là sản xuất thủy tinh và vật liệu
gốm, trong đó nó được dùng để tạo ra màu đỏ cho thủy tinh, men thủy tinh và men
gốm cũng như để loại bỏ màu từ thủy tinh bằng cách trung hòa sắc xanh lục do các
tạp chất sắt (II) tạo ra. Selen được sử dụng cùng Bitmut trong hàn chì cho đồng
thau để thay thế cho chì độc hại hơn. Nó cũng được dùng trong việc cải thiện sức

kháng mài mòn của cao su lưu hóa. Selen là chất xúc tác trong nhiều phản ứng hóa
học và được sử dụng trong nhiều phản ứng tổng hợp hóa học ở phòng thí nghiệm
lẫn trong công nghiệp. Nó cũng được sử dụng rộng rãi trong việc xác định cấu trúc
của các protein hay axit nucleic bằng tinh thể học tia X. SeS
2
, thực tế là disunfua
selen hay sunfua selen (IV), là thành phần hoạt hóa trong một vài loại dầu gội đầu
chống gàu. Hiệu ứng của thành phần hoạt hóa là giết chết nấm da đầu Malassezia.
Thành phần hoạt hóa này cũng được dùng trong mỹ phẩm dùng cho da để điều trị
nấm da Tinea do nhiễm các loại nấm Malassezie [46].
Selen và các hợp chất của nó là rất quan trọng cho động vật và con người.
Nó có thể gây ra bệnh tật nếu thiếu hụt Selen trong cơ thể. Tuy nhiên nếu con
người tiếp xúc nhiều và thường xuyên sẽ bị ngộ độc cấp tính hoặc gây nên các rối
loạn nội tạng có thể dẫn đến tử vong. Mặc dù vậy cơ thể con người cần phải được
hấp thụ một lượng rất nhỏ Selen thông qua thực phẩm để giảm nguy cơ mắc một số
bệnh về tim mạch, ung thư, chậm phát triển và ít sinh sản.
*Độc tính của Selen
Mặc dù Selen là vi dưỡng chất thiết yếu nhưng nó lại có độc tính nếu dùng thái
quá. Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) tính toán, hàm lượng Selen trong máu người
trung bình phải đạt trên 0,15
µ
g/ml thì mới đủ lượng chất cần thiết cho cơ thể.
7
Những kết quả nghiên cứu của WHO khẳng định, nguyên tố Selen có vai trò sinh
học rất lớn với sức khỏe con người. Điều tra dịch tễ học tại Mỹ và Bắc Âu cho thấy
có sự liên hệ giữa Selen và sự gia tăng khả năng mắc bệnh tim mạch, huyết áp cao,
não dẫn đến tử vong với con người. Việc sử dụng vượt quá giới hạn trên theo
khuyến cáo là 400
µ
g/ngày có thể dẫn tới ngộ độc Selen như: mùi hôi của tỏi trong

hơi thở, các rối loạn tiêu hóa, rụng tóc, bong, tróc móng tay chân, mệt mỏi, kích
thích và tổn thương thần kinh, có thể gây bệnh sơ gan, phù phổi và tử vong.
Ngộ độc Selen từ các hệ thống cung cấp nước có thể xảy ra khi các dòng chảy
của các hệ thống tưới tiêu mới trong nông nghiệp chảy qua các vùng đất thông
thường là khô cằn và kém phát triển. Quá trình này làm thẩm thấu các Selen tự
nhiên và có khả năng hòa tan trong nước (như các Selenat), sau đó có thể tích lũy
đậm đặc hơn trong các vùng đất ẩm ướt mới khi nước bay hơi đi. Nồng độ Selen
cao sinh ra theo kiểu này đã được tìm thấy như là nguyên nhân gây ra một số rối
loạn bẩm sinh nhất định ở chim sống ở các vùng ẩm ướt.[3]
Thiếu hụt selen [29]
Khi cơ thể thiếu Selen có thể làm tăng nguy cơ mắc các bệnh ở cơ vân và cơ
tim, tăng các biến chứng trong các bệnh về tim mạch, giảm khả năng miễn dịch, do
vậy mà tăng nguy cơ hoặc làm tăng thêm quá trình nhiễm trùng.
Thiếu hụt Senlen có thể dẫn tới bệnh Keshan, là bệnh có tiềm năng gây tử
vong. Thiếu selen cũng đóng góp (cùng sự thiếu hụt Iot) vào bệnh Kashin – Beck .
Triệu chứng chính của bệnh Keshin là chết hoại cơ tim, dẫn đến suy yếu tim. Bệnh
Kashin – Beck tạo ra sự teo dần, thoái hóa và chết hoại của các mô chất sụn [39].
Bệnh Kashan cũng làm cho cơ thể dễ bị mắc các bệnh tật do các nguồn dinh dưỡng,
hóa sinh học hay nhiễm trùng.
8
Ngoài ra, thiếu Selen còn dẫn đến tình trạng vô sinh của nam giới và làm giảm
khả năng thụ thai của nữ giới, làm mất độ bóng, dễ gãy tóc và móng, gây rối loạn
chuyển hóa hormone ảnh hưởng tới sự phát triển và hoàn thiện của cơ thể.[11]
Các hiệu ứng sức khỏe mâu thuẫn
Ung thư:
Một vài nghiên cứu cho rằng có liên quan giữa ung thư và thiếu hụt Selen
[15,19,33,38,48] . Một nghiên cứu được thực hiện về hiệu ứng cả bổ trợ Selen đối
với sự tái phát của ung thư da không chứng minh có tần suất suy giảm của sự tái
phát ung thư da, nhưng thể hiện xảy ra suy giảm đáng kể của ung thư tổng thể [22].
Một nghiên cứu về mức Selen có trong tự nhiên trên 60000 người đồng ý tham gia

và không chỉ ra mối tương quan đáng kể giữa các mức này với ung thư [43].
Nghiên cứu SU. VI. MAX [14] kết luận rằng sự bổ xung liều thấp (100
µ
g Selen)
tạo ra sự sụt giảm 31% trong tỉ lệ bị ung thư và sự sụt giảm 37% trong mọi nguyên
nhân gây tử vong của đàn ông, nhưng lại không tạo kết quả đáng kể nào đối với
phụ nữ [49]. Selen đã chứng minh là có sự hỗ trợ hóa học trị liệu, ngăn ngừa sức đề
kháng của cơ thể với thuốc [44]. Một nghiên cứu [45] chỉ ra rằng chỉ trong 72 giờ
thì hiệu lực của điều trị bằng các loại thuốc như Taxol và Adriamycin, cùng với
Senlen là cao hơn đáng kể so với điều trị chỉ dùng mỗi thuốc. Kết quả thu được thể
hiện trong nhiều tế bào ung thư (vú, phổi, ruột non, ruột già, gan).
HIV/AIDS
Một vài nghiên cứu chỉ ra có liên quan về mặt địa lý giữa các khu vực có đất
thiếu hụt Selen với tỉ lệ cao của khả năng nhiễm HIV/AIDS. Không phụ thuộc vào
nguyên nhân làm hao kiệt Selen ở các bệnh nhân AIDS, các nghiên cứu chỉ ra rằng
thiếu hụt Selen có liên quan mạnh tới tiến triển của bệnh và rủi ro tử vong
[27,35,36]. Bổ trợ Selen có thể giúp giảm nhẹ các triệu chứng của AIDS và làm
9
giảm rủi ro tử vong. Cần lưu ý rằng chứng cứ cho tới nay không gợi ý rằng Selen
có thể giảm rủi ro nhiễm hay tần suất lan truyền của AIDS, mà chỉ có thể điều trị
các triệu chứng của những người nhiễm HIV.
Tiểu đường
Một nghiên cứu được kiểm soát tốt chỉ ra rằng Selen có liên quan tích cực với
rủi ro phát hiện bệnh tiểu đường tip II. Do mức Selen cao trong huyết thanh có liên
quan tích cực với sự phát triển của bệnh đái đường và do thiếu hụt Selen là khá
hiếm nên việc bổ trợ không được khuyến cáo cho những người có dinh dưỡng đầy
đủ [47].
Chính vì những ưu điểm của Selen và danh giới tác dụng tích cực và tiêu cực
của Selen có liên quan chặt chẽ tới sức khỏe con người, do đó việc tìm ra các
phương pháp xác định chính xác với độ nhạy và độ chọn lọc cao là rất cần thiết.

1.2. CÁC PHƯƠNG PHÁP XÁC ĐỊNH SELEN
1.2.1. Các phương pháp phân tích cổ điển
1.2.1.1. Phương pháp phân tích khối lượng [4]
Đặc điểm của phương pháp này là ảnh hưởng của một số ion kim loại có thể
làm nhiễm bẩn, gây sai số đáng kể. Ngày nay phương pháp phân tích trọng lượng ít
được sử dụng, nó được thay thế bằng các phương pháp công cụ cho độ chính xác
cao và đơn giản hơn. Người ta có thể tạo nhiều dạng kết tủa như SeO
2
, piazo Seol...
Tuy vậy đối với phương pháp trọng lượng, việc kết tủa tách ra ở dạng Se nguyên tố
là đáng tin cậy nhất. Để làm kết tủa Se người ta thường dùng các chất như SO
2
,
hydrazin, hydroxylamin, hypophotphit, Na, SnCl
2
,... Để xác định vi lượng Se trong
hợp chất hữu cơ, người ta chuyển nó về dạng Selenit, bằng cách phân huỷ chất
khảo sát trong bom vạn năng chứa Na
2
O
2
, sau đó khử Selenit và cân nó dưới dạng
10
Selen kim loại. Phương pháp điện phân định lượng Selen cũng đã được bắt đầu chú
ý nghiên cứu vào đầu những năm 1960, nhờ sử dụng cặp điện cựa Cu -Pt .Khi đó
Selen được tách ra dưới dạng Cu
2
Se, là dạng không bị hút ẩm và không bị thay đổi
khi nung đến nhiệt độ 1300
0

C. Sai số của phương pháp này là 0,3%. Phương pháp
này được ứng dụng để xác định SeO
2
trong kỹ thuật.
1.2.1.2. Phương pháp phân tích thể tích [5]
Phương pháp chuẩn độ cơ bản được sử dụng để xác định Se
6+
là chuẩn độ Iot.
Do phương pháp nhạy, nên cần tách triệt để các nguyên tố ảnh hưởng đến phép xác
định. Chỉ thị dùng cho phép chuẩn độ có thế là chỉ thị hoá học hoặc chỉ thị điện
hoá. Phép chuẩn độ dựa trên việc dùng KI để khử H
2
SeO
3
:
4I
-
+ SeO
3
2-
+ 6H
+


Se + 2 I
2
+ 3 H
2
O
I

2
sinh ra được chuẩn độ bằng Na
2
S
2
O
3
với chỉ thị hồ tinh bột
I
2
+ 2Na
2
S
2
O
3

2NaI + Na
2
S
4
O
6

Phương pháp này xác định được đến 50 mg Se.
1.2.2. Các phương pháp phân tích quang phổ
1.2.2.1. Phương pháp phân tích trắc quang [31,52]
Nguyên tắc của phương pháp là dựa trên khả năng tạo phức màu của chất phân
tích với một thuốc thử nào đó. Sau đó đo độ hấp thụ quang của phức màu ta
sẽ biết được nồng độ chất phân tích.

Phương pháp thông dụng để xác định Se(IV) là dựa trên phản ứng tạo màu của
Se(IV) với các o-diamin thơm. Thuốc thử hay được sử dụng nhất là
3,3’diaminobenzidin. Trong môi trường axit thuốc thử này được tạo với Selen phức
piazoseol có màu vàng. Đo độ hấp thụ quang của phức màu trong pha nước ở
11
490nm (hay sau khi chiết bằng toluen 420nm). Khoảng tuân theo định luật
Lamber - Beer là 0,25
µ
g/ml đến 2,5
µ
g/ml .
Cũng có thể xác định Selen bằng phản ứng tao phức của Se(IV) với 2,3
-diaminonaphtalen ở pH=1, sau đó phức được chiết vào dung môi cyclohexan và
đo huỳnh quang ở 520nm sau khi kích thích ở 380nm (ở các dung dịch mà nồng độ
Selen là quá nhỏ thì Selen được làm giàu bằng phản ứng tạo phức với amino
pyrolidin dithiocacbamat ở pH=4,2 và sau đó được giải chiết bằng HNO
3
).
Phương pháp cho phép xác định Selen đến nồng cỡ nM.
1.2.2.2. Phương pháp phổ phát xạ nguyên tử
Selen được xác định bằng phương pháp AES dựa trên ba vạch phổ đặc trưng
196,1 nm; 204 nm; 206,3 nm. Khi sử dụng nguồn năng lượng là ngọn lửa đèn khí,
hồ quang điện hoặc tia lửa điện, độ nhạy của phép xác định chỉ đạt tới
µ
g/ml. Gần
đây, kỹ thuật tạo hợp chất Hydrua được sử dụng rộng rãi khi phân tích các chất dễ
tạo hợp chất hydrua như As, Se, Hg,…Nguyên tắc của phương pháp là dựa trên
việc sử dụng các chất khử mạnh trong môi trường axit để khử các chất phân tích về
dạng Hydrua dễ bay hơi, sau đó hơi Hydrua được dẫn vào buồng nguyên tử hóa để
sinh phổ phát xạ. Một hệ thống kết nối trực tiếp gồm hydrua hóa – plasma cảm ứng

– phổ phát xạ nguyên tử áp dụng để xác định As và Se, sử dụng chất khử NaBH
4
,
dưới các điều kiện đã được tối ưu thu được giới hạn nồng độ phát hiện của As và
Se tương ứng là 0,3 và 0,5
µ
g/l [40]. Một phương pháp Hydrua hóa mới [34]
được đưa ra với mục đích giảm đến mức tối thiểu sự nhiễu của các nguyên tố
chuyển tiếp. Thí nghiệm được lặp lại 10 lần tại nồng độ Se 500
µ
g/l, sai số nhỏ
hơn 2%, và nồng độ giới hạn phát hiện là 2
µ
g/l. Hệ thống được thực hiện thành
công và ứng dụng cho việc đo phổ hấp thụ nguyên tử.
12
1.2.2.3. Phương pháp quang phổ hấp thụ nguyên tử (AAS)
Độ nhạy của phương pháp này phụ thuộc rất nhiều vào nguồn năng lượng
nguyên tử hóa và kích thích phổ. Khi nguồn năng lượng là ngọn lửa Hidro- không
khí thì độ nhạy đạt được là 1
mlg /
µ
sử dụng vạch 196,1 nm [17]. Khi sử dụng ngọn
lửa không khí axetylen độ nhạy tăng cỡ 1,6 lần. Khi nguồn năng lượng là ống
phóng catot, Se(IV) có giới hạn nồng độ phát hiện là 0,25
mlg /
µ
theo vạch 196,1
nm. Khi sử dụng kỹ thuật nguyên tử hóa không ngọn lửa xác định Selen trong máu
và trong huyết thanh, giới hạn phát hiện là 0,8

mlg /
µ
. Gần đây rất nhiều công trình
xác định Selen sử dụng kỹ thuật tạo Hydrua ghép nối với AAS (HG-AAS). Nguyễn
Thị Phương Thảo và Phạm Thúy Nga [7] đã xác định Selen trong mẫu máu và nước
tiểu bằng phương pháp phổ hấp thụ nguyên tử sử dụng kỹ thuật Hydrua hóa, đã xác
định được giới hạn phát hiện của Selen là 0.41 ng/ml. Ondrej Hegedus và cộng sự
[24] đã xác định hàm lượng Selen trong rau bằng phương pháp ET-AAS và HG-
AAS, với phương pháp Hg – AAS, dùng bước sóng 196,0 nm, cường độ dòng của
đèn là 10mA, chất khử là NaBH
4
0,6% /NaOH 0,5%, thu được kết quả là
0,001-0,034 mg/kg trong mẫu rau tươi, với giới hạn phát hiện là 0,49
µ
g/l. Rau
nhiều đường và tinh bột thì chứa ít Selen, khoai tây và cà rốt chứa nhiều Selen
(0,034 mg/kg và 0,02 mg/kg). Magda A.Akl và cộng sự [42] đã xác định được
Selen trong một số mẫu thức ăn như: sữa trâu tươi là 0,053
µ
g/g; sữa bột là 0,071
µ
g/g; thịt bò hun khói là 0,47
µ
g/g; cá hồi là 0,81
µ
g/g. Hisatake Narataki xác
định Selen trong nước sông đạt giới hạn phát hiện là 0,04
µ
g/ml.
Knen Y Chion và cộng sự xác định Selen trong không khí, nguyên tử hóa bằng

kỹ thuật lò graphit, giới hạn phát hiện là 1 ng/ml. Araz Bidari và cộng sự [31] đã
xác định Selen trong mẫu nước bằng phương pháp GF- AAS, thu được giới hạn
phát hiện Selen là 2
µ
g/l. Adriana Paiva de Oliveira [32] đã sử dụng phương pháp
GF- AAS xác định Selen trong sữa với 10 mẫu sữa, nồng độ Selen thay đổi từ 5-20
13
µ
g/l. Poliana Aleixo đã xác định trực tiếp Selen trong sữa bò bằng phương pháp
GF-AAS, cho thấy nồng độ Selen thay đổi lớn từ 2-1270
µ
g/l, phụ thuộc vào vùng
địa lý. Denise Bohrer và các cộng sự [52] đã so sánh hai kỹ thuật GF-AAS và HG-
AAS trong việc xác định Selen trong thịt gà. Kết quả cho thấy giới hạn phát hiện
của Selen theo phương pháp HG-AAS là 1
µ
g/l, theo phương pháp HG-AAS là
0,6
µ
g/l. Quá trình Hydro hóa chỉ thực hiện được với Se(IV) nên việc chuyển
Se(VI) về Se(IV) là rất cần thiết. Quá trình chuyển hóa được thực hiện bằng cách
đun mẫu với HCl 4 - 6M hoặc sử dụng lò vi sóng. William R.Mindak và Scott
P.Dolan đã xác định tổng hàm lượng Asen và Selen trong các mẫu thức ăn như: thịt
bò, gấu, bánh mỳ, ngũ cốc, trứng, sữa, hoa quả, nước chanh, lạc. Nồng độ giới hạn
phát hiện của Selen là 0,09 ng/ml, giới hạn định lượng là 0,02 mg/kg.
1.2.3. Các phương pháp khác
1.2.3.1. Các phương pháp phân tích điện hóa[16,23]
Phương pháp cực phổ nói chung cho độ nhạy chỉ đạt cỡ 10
-4
-10

-5
M. Cường độ
dòng phụ thuộc thế điện phân trong dung dịch và thế điện cực. Người ta tiến hành
điện phân và đo cường độ dòng với một dãy dung dịch chuẩn biết trước nồng độ.
Dựa vào đồ thị xác định được nồng độ chất phân tích khi biết cường độ dòng. Giá
trị nửa thế sóng cho biết thành phần định tính, chiều cao sóng cho biết thành phần
định lượng của chất phân tích. Đã có một số công trình xác định Se
4+
bằng phương
pháp cực phổ dòng một chiều, tuy nhiên giới hạn phát hiện không cao (10
-5
M). Để
tăng độ nhạy có thể xác định Se
4+
theo sóng piazoSeol (trong dung dịch chiết hay
trong phần chiết với toluen). Sử dụng các complexon III để loại các ảnh hưởng của
các ion kim loại nặng. Năm 1986 G.E. Batley sử dụng phương pháp cực phổ xung
vi phân xác định Selen trong nước thải. Tác giả dùng nền HCl, pH = 2, píc ở –0,6V
(so với điện cực Ag/AgCl) được dùng để định lượng. Nước thải được loại bỏ tạp
chất thô bằng cách dội qua cột C18 sep-pak sau đó dùng nhựa chelex 100 để loại bỏ
14
lượng vết các kim loại. Khoảng nồng độ tuyến tính của phương pháp là 2-100µg/l.
Đặc biệt các phương pháp von - ampe hoà tan, nhờ làm giàu chất phân tích lên bề
mặt điện cực bằng phản ứng khử hay oxi hóa kết tủa chất sau đó hoà tan sản phẩm
kết tủa và ghi tín hiệu hoà tan mà các phương pháp điện hóa hoà tan có độ nhạy
cao, công trình của Wang. J và Jianmin. L sử dụng CSV trên nền 0,1M H
2
SO
4
+ 10

µg/l Rh
3+
. Điện phân làm giàu ở –0,2V. Phương pháp dựa trên phản ứng tích luỹ và
sau đó khử lớp Rh
2
Se
3
trên HMDE. Giới hạn phát hiện của phương pháp là 0,5µg/l
khi thời gian điện phân là 3 phút.
1.2.3.2. Phương pháp sắc kí [20]
K.W. Michell xác định Se(IV) trong nước biển bằng phương pháp sắc kí khí
(GC) sử dụng detector cộng kết điện tử (ECD). Selen được kết tủa cùng với
Fe(OH)
3
ở pH = 5, sau đó kết tủa được hoà tan bằng HCl và chuyển Selen
về dạng 5-nitropiazoSeol, phức này được chiết bằng toluene sau đó dẫn vào cột
sắc kí. Giới hạn phát hiện là 5ng/l. Độ chính xác 6% ở mức 0,025
µ
g/l [20].
Donald Creamer xác định Selen trong vật liệu sinh học bằng sắc kí khối phổ sử
dụng detector cặp ion sau khi chuyển Selen về dạng 5-nitropiazoSeol (đồng phân
80
Se và
82
Se).
1.3. Phương pháp động học – xúc tác trắc quang xác định Selen
1.3.1. Nguyên tắc của phương pháp
Cơ sở của phương pháp trắc quang là dựa vào phản ứng tạo chất màu của chất
cần xác định với thuốc thử và dựa vào định luật Lambe - Beer để xác định hàm
lượng chất đó. Phương trình biểu diễn mối liên hệ giữa độ hấp thụ quang và nồng

độ chất phân tích có dạng: A=ε.l.C, trong đó: A là độ hấp thụ quang của phức màu,
l là chiều dày cuvet và C là nồng độ chất cần phân tích [5].
15
Cơ sở phương pháp động học xúc tác [21] là dựa trên việc đo tốc độ phản ứng
để xác định nồng độ các chất. Phương pháp tiến hành dựa trên hiệu ứng xúc tác của
cấu tử cần định lượng đối với một phản ứng nào đó. Vì vậy, nó cho phép xác định
được lượng vết, đặc biệt là các anion và các hợp chất hữu cơ một cách đơn giản,
nhanh chóng với giới hạn phát hiện thấp. Các phép xác định cần sử dụng thiết bị
theo dõi thời gian, máy điều nhiệt và phổ quang kế có thể đọc tự động, kết hợp với
máy tính để theo dõi các thí nghiệm và cho phép đánh giá dữ liệu về độ chính xác,
giới hạn phát hiện, sự nhanh chóng và tự động hóa của phương pháp đã đưa
phương pháp động học trở nên phổ biến.
Khi sử dụng phản ứng có xúc tác để nghiên cứu ta có thể xác định được nồng
độ cực kì nhỏ của chất xúc tác thông qua sự tăng tốc độ phản ứng vì một chất xúc
tác tham gia vào nhiều vòng của phản ứng xúc tác. Khi nồng độ của chất xúc tác
tăng sẽ dẫn đến tăng tốc độ phản ứng.
Phương pháp xác định động học xúc tác thường dựa theo hai hướng sau:
(i) Dựa vào kết quả đo tốc độ phản ứng ở thời điểm bắt đầu của phản ứng
(phân tích xúc tác).
(ii) Dựa vào những biến đổi của tốc độ phản ứng (phân tích các thay đổi như
chất hoạt hóa hoặc chất ức chế).
Cơ sở của phương pháp động học xúc tác dựa trên việc đo tốc độ phản ứng chỉ
thị. Phản ứng chỉ thị là phản ứng được xúc tác bởi chất phân tích. Chất để theo dõi
tốc độ phản ứng chỉ thị được gọi là “chất chỉ thị ”.
Giả thiết có phản ứng như sau:
A + B
ku
→
P
1

+ P
2
(1)
16
Ở đây, P
1
, P
2
là sản phẩm được tạo thành từ các phản ứng không xúc tác của A
và B.
Giả sử trong phản ứng có mặt chất xúc tác C, cơ chế mới như sau :
A + C
→
kc
P
1
+ X (2)
X + B
→
nhanh
P
2
+ C (3)
Ở đây, X là phức chất trung gian hoạt động.
Nếu phản ứng (3) xảy ra nhanh hơn phản ứng (2), nồng độ của chất xúc tác sẽ
không đổi suốt quá trình phản ứng và tốc độ phản ứng (v) sẽ bằng tổng của tốc độ
phản ứng không xúc tác và có xúc tác, tức là:
v = -
[ ]d A
dt

= k
u
[A][B] + k
c
[C][A][B] (4)
Ở đây, A là chất chỉ thị.
Nếu coi như tốc độ của phản ứng không xúc tác không đáng kể, có thể bỏ qua,
ta có:
v = -
[ ]d A
dt
= [C
0
] .

. k
c
(5)
Ở đây, [C
0
] : là nồng độ của chất xúc tác được xác định.


: là tích nồng độ của các chất ảnh hưởng đến tốc độ phản
ứng chỉ thị.
k
c
: là hằng số tốc độ phản ứng.
Định luật tốc độ tổng của phản ứng xúc tác chỉ có thể được áp dụng sau khi xét
hết ảnh hưởng của các yếu tố động học. Do ta không thể biết trước nồng độ của

17
một chất xúc tác trực tiếp trong mỗi trường hợp, cho nên để xác định nồng độ chưa
biết của chất xúc tác cần phải dựng đường chuẩn. Hai phương pháp chính được sử
dụng để phân tích xúc tác là phương pháp vi phân và phương pháp tích phân, kết
hợp với ba cách xây dựng đường chuẩn: phương pháp thời gian ấn định, phương
pháp nồng độ ấn định và phương pháp tg
α
.
A. Phương pháp vi phân
Đánh giá tốc độ phản ứng trực tiếp qua d/dt:
* Đo nồng độ ban đầu, từ đó xác định được tốc độ ban đầu và dùng để đánh giá
nồng độ.
* Đo độ dốc của đường cong thực nghiệm tại một điểm bất kì, từ đó có thể tính
được nồng độ.
B. Phương pháp tích phân
Phương pháp tích phân chủ yếu dựa vào việc đánh giá tốc độ tương ứng vượt
quá một giới hạn, thường là khoảng nhỏ

t.
* Đo thời gian ấn định và đo sự thay đổi của một biến số có liên quan tới
nồng độ của chất phản ứng hoặc sản phẩm vượt qua một khoảng thời gian xác định.
* Phương pháp nồng độ ấn định hoặc biến thiên thời gian (chu kì thời
gian) được áp dụng để đo sự thay đổi tương tự trong nồng độ chất phản ứng hoặc
sản phẩm.
C. Phương pháp khác
* Phương pháp dựa trên việc đo độ dài của chu kì cảm ứng.
* Phương pháp đặc biệt như phản ứng dao động.
18
Cần chú ý là độ chính xác của phương pháp phân tích động học phụ thuộc vào
độ tin cậy của kỹ năng phân tích khi đo những thay đổi nồng độ của một cấu tử.

Độ nhạy và giới hạn phát hiện của phương pháp: Ưu điểm chính của phương
pháp là giới hạn phát hiện (nồng độ thấp nhất mà chất xúc tác đo được) thấp và độ
nhạy cao. Nồng độ các chất xúc tác ở trong khoảng 10
-6
-10
-11
g/ml có thể xác định
được dựa trên khả năng xúc tác của chúng và nồng độ phù hợp để có thể đo được
tín hiệu phân tích nhỏ nhất.
Độ chọn lọc của phương pháp: Theo IUPAC, độ chọn lọc biểu thị cho khả
năng xác định một chất khi có mặt các chất cản trở đi kèm trong mẫu. Các đặc tính
riêng không gây ảnh hưởng cản trở trong trường hợp này.
Đặc tính xúc tác của một ion vô cơ phụ thuộc vào kích thước ion, điện tích và
liên kết của nó. Các chất có đặc tính tương tự như chất phân tích sẽ ảnh hưởng tới
tốc độ phản ứng, và do đó phương pháp phân tích động học thường không có tính
chọn lọc cao khi có mặt các chất hoá học có liên quan đến các nguyên tố.
Độ chọn lọc của phương pháp xúc tác có thể được cải thiện bằng các cách sau:
Thay đổi điều kiện phản ứng (pH, nồng độ chất phản ứng, nhiệt độ...), sử dụng các
kỹ thuật tách (trao đổi ion, phương pháp phổ, khuyếch tán phổ, kết tủa đồng thời,
chưng cất, điện di...), sử dụng các tác nhân che để hạn chế ảnh hưởng của các ion
cản.
Giới hạn phát hiện là một ưu điểm thường được nhấn mạnh trong phương pháp
phân tích động học xúc tác. Tuy nhiên, độ chọn lọc thấp có thể là nguyên nhân hạn
chế một phần các ứng dụng của phương pháp này.
19
1.3.2. Một số nghiên cứu xác định Selen theo phương pháp động học – xúc
tác trắc quang
Phương pháp động học xúc tác xác định Se(IV), Se(VI), và tổng Selen vô cơ
trong nước, dựa vào khả năng xúc tác của Se(IV) trong phản ứng khử Bromat bằng
p-nitrophenyl hydrazin khi có mặt NaBr 0,6 M ở pH = 3. Br

2
sinh ra làm mất màu
calmagite. Độ hấp thụ quang của dung dịch được đo tại bước sóng 523nm bằng
phương pháp trắc quang theo thời gian ấn định. Trong phản ứng chỉ thị này, Br
-
đóng vai trò là chất hoạt hóa cho sự xúc tác của Se(IV) và là chất khử Se(VI) ở
pH=3,0. Ở điều kiện tối ưu (thời gian t= 7 phút và nhiệt độ là 25
o
C), đường chuẩn
tuyến tính trong khoảng 1,0- 35,0
µ
g Se(IV)/ l, giới hạn phát hiện của phương
pháp là 0,22
µ
g/l. Ảnh hưởng của các cation và anion đến xác định Se(IV) cũng
đã được nghiên cứu [51 ].
Trong một công trình khác, lượng nhỏ Se(IV) có thể xúc tác cho phản ứng oxi
hóa làm mất màu metyl tím bằng bromat trong môi trường đệm Clark - Lubs với
pH = 3,0. Dựa trên phản ứng chọn lọc của Se(IV), người ta đã phát triển phương
pháp động học - xúc tác để xác định dạng của Selen trong sinh vật biển. Sau khi
được xử lí bằng HNO
3
- HClO
4
và khử bằng HCl, Selen hữu cơ được oxi hóa lên
Se(IV), đồng thời Se(VI) bị khử về Se(IV), do đó tổng lượng Selen, Se(VI), Se(IV)
và Selen hữu cơ được xác định lần lượt bằng phương pháp quang phổ xúc tác và
phương pháp vi phân. Khoảng tuyến tính của phương pháp này là 0,14 – 8,0
µ
g/l,

và giới hạn phát hiện tuyệt đối Selen trong mẫu sinh học là 3,5 ng. Phân tích dạng
Selen trong rong biển và động vật thân mềm hai mảnh vỏ đã được thực hiện cho
kết quả khả quan [55 ].
Phương pháp động học xúc tác còn được dùng để xác định selen trong nền mẫu
sinh học dựa trên khả năng xúc tác của Selen đối với phản ứng giữa Metylen xanh
và Na
2
S. Dựa trên phản ứng này, người ta khảo sát độ hấp thụ quang của dung dịch
20
metylen xanh theo thời gian và xác định được thời gian (t) cần thiết để phản ứng
xảy ra hoàn toàn. Đồ thị thể hiện sự phụ thuộc của t
-1
vào nồng độ Selen cho ta
đường chuẩn có khoảng tuyến tính từ 2,5 – 30,0 ng/ml Selen. Trong nghiên cứu
này, người ta cũng đã kiểm tra các thông số thí nghiệm và ảnh hưởng của các ion
cản tới việc xác định selen.Tetramethyl ammoni hydroxyt được dùng để xử lí mẫu
máu, tóc và nước tiểu, kết quả cho mẫu nước tiểu là tốt nhất. Phương pháp xúc tác
được ứng dụng cho mẫu nước tiểu với hiệu suất thu hồi là 84,9% [25 ].
Phương pháp động học xúc tác cũng đã được nghiên cứu để xác định selen
trong mẫu nước ở môi trường đệm phtalat pH = 2, người ta đã nghiên cứu sự xúc
tác của Se(IV) cho phản ứng làm mất màu xylenol da cam bằng Na
2
S. Phản ứng
xúc tác là một phản ứng bậc không, hằng số của tốc độ phản ứng là 7,67x 10
-5
mol/l.s và năng lượng hoạt hóa là 50,09 kJ/mol. Sự phụ thuộc của delta A (hiệu độ
hấp thụ giữa phản ứng có và không có xúc tác) vào nồng độ của Se (IV) là tuyến
tính khi nồng độ Se(IV) <= 0,12mg/l, giới hạn phát hiện là 2,66x 10
-5
g/l. Phương

pháp đã nêu được áp dụng để xác định lượng vết của Se(IV) trong mẫu nước [53 ].
Kết luận phần tổng quan: Như vậy bằng phương pháp động học- xúc tác trắc
quang người ta có thể xác định được các dạng tồn tại của Selen trong các mẫu khác
nhau, môi trường đệm khác nhau nhờ tác dụng xúc tác cho các phản ứng chỉ thị oxi
hóa- khử của chúng.
21
CHƯƠNG 2: THỰC NGHIỆM
2.1. Mục tiêu, nội dung và phương pháp nghiên cứu
2.1.2. Nguyên tắc của phương pháp động học - xúc tác trắc quang xác định
hàm lượng Selen.
Metyl da cam là hợp chất có màu và được sử dụng như một chất chỉ thị oxy hóa
khử. Sự làm mất màu của metyl da cam (MO) khi có mặt ion Bromat trong môi
trường axit xảy ra khá chậm. Khi có mặt Se(IV) làm xúc tác thì việc khảo sát độ
hấp thụ quang của dung dịch rất khó khăn vì phản ứng xảy ra quá nhanh. Do vậy,
việc bổ sung thêm hydrazine vào môi trường phản ứng sẽ làm cho tốc độ phản ứng
chậm lại. Cơ chế xúc tác của Se(IV) có thể giả định như sau: muối hydrazin khử
Se(IV) về Selen nguyên tố trong môi trường axit theo phản ứng (1). Selen nguyên
tố được tạo thành lại bị oxi hóa thành Se(IV) bởi BrO
3
-
và sinh ra Br
-
theo phản ứng
(2). Trong môi trường axit, Br
-
bị oxi hóa bởi BrO
3
-
thành Br
2

theo phản ứng (3) và
chính Br
2
sinh ra làm mất màu MO theo phản ứng (4). Do đó sự oxi hóa MO được
tăng tốc đáng kể khi có mặt lượng nhỏ Br
2
, tức là phản ứng được xúc tác gián tiếp
khi có mặt lượng nhỏ Se(IV) [50 ].
SeO
3
2-
+ 2H
+
+ N
2
H
4


Se
0
+ N
2
+ 3H
2
O (1)
3Se
0
+ 2BrO
3

-
+ 3H
2
O


3H
2
SeO
3
+ 2Br
-
(2)
BrO
3
-


+ 5Br
-
+ 6 H
+


3Br
2
+ 3H
2
O (3)
22

Vì vậy, bằng cách theo dõi sự giảm độ hấp thụ quang của metyl da cam (khi có
mặt hydrazin, KBrO
3
) theo nồng độ Se(IV) thì có thể định lượng được Se(IV) trong
mẫu. Nếu trong mẫu có Se(VI) thì cần khử Se(VI) xuống Se(IV) bằng chất khử
thích hợp, sau đó xác định tổng lượng Selen rồi từ đó suy ra hàm lượng Se(VI)
trong mẫu.
2.1.2. Nội dung nghiên cứu
Nội dung nghiên cứu của luận văn gồm:
- Tối ưu hóa các điều kiện của phép xác định gồm nghiên cứu ảnh hưởng của
các yếu tố sau đến phản ứng chỉ thị:
+ Phổ hấp thụ của dung dịch chất màu và chọn cực đại hấp thụ để đo độ hấp thụ
quang.
+ Ảnh hưởng của thời gian phản ứng. Theo dõi biến thiên tốc độ phản ứng để
chọn phương pháp tgα hay phương pháp thời gian ấn định.
+ Ảnh hưởng của nồng độ đầu các tác nhân phản ứng như (NH
3
Cl)
2
, MO,
KBrO
3
đến tốc độ phản ứng.
+ Ảnh hưởng của môi trường phản ứng .
- Nghiên cứu ảnh hưởng của các ion lạ đến phép xác định.
23
- Đánh giá phương pháp phân tích : gồm khảo sát giới hạn phát hiện, giới hạn
định lượng, khoảng tuyến tính; đánh giá độ chụm và độ chính xác của phương pháp
phân tích, tính hiệu suất thu hồi của phương pháp phân tích.
- Xây dựng qui trình phân tích và ứng dụng phân tích mẫu thực tế.

2.2. Hóa chất, dụng cụ, thiết bị
2.2.1. Dụng cụ, thiết bị
* Bình định mức thủy tinh loại A có dung tích 25, 50, 100, 250, 500 ml.
* Cốc thuỷ tinh chịu nhiệt dung tích 100, 250 ml.
* Bình nón dung tích 250 ml, buret 25 ml.
* Các loại pipet chia vạch: 0,1; 0,2; 0,5; 1; 2; 5; 10; 25 ml.
* Máy trắc quang UV - VIS 1601 PC - Shimadzu (Nhật Bản), bước sóng làm
việc tử 190- 900 nm , cuvet thạch anh chiều dày l = 1cm.
* Cân phân tích Scientech SA 210 độ chính xác 0,0001g.
* Máy điều nhiệt.
* Đồng hồ bấm giờ.
* Máy đo pH.
24
2.2.2. Hóa chất
Các hóa chất cần dùng là loại tinh khiết phân tích (p.a. và tinh khiết thuốc
thử (p.R.). Các dung dịch được pha chế bằng nước cất hai lần.
Pha các dung dịch tiêu chuẩn:
+ Pha 100,00ml dung dịch Se(IV) 1000ppm từ SeO
2
Cân chính xác 0,1405 gam SeO
2
tinh thể trên cân phân tích, hòa tan sơ bộ
lượng cân này bằng nước cất hai lần, chuyển vào bình định mức 100ml, tráng rửa
cốc cân nhiều lần rồi chuyển vào bình định mức trên, thêm nước cất tới vạch mức,
sóc trộn đều dung dịch ta được 100,00ml dung dịch Se(IV) 1000ppm.
+ Thiết lập lại nồng độ Se(IV) bằng dung dịch Iot tiêu chuẩn
- Pha 100,00 ml dung dịch I
2
0,0127 M từ Iot tinh thể
Cân chính xác 0,32g

±
0,01 Iot trên cân kỹ thuật. Hòa tan sơ bộ lượng cân này
bằng nước cất, sau khi iot tan hết thêm khoảng 10g KI. Thêm nước cất tới vạch
mức, sóc trộn đều dung dịch được dung dịch I
2
0,0127 M. Dung dịch vừa pha bảo
quản trong chai thủy tinh màu nút nhám.
- Pha 100,00 ml dung dịch Na
2
S
2
O
3
0,025M từ Na
2
S
2
O
3
tinh thể
Cân chính xác 0,62
±
0,01g Natri thiosunfat trên cân kỹ thuật, hòa tan sơ bộ
bằng nước cất, chuyển vào bình dịnh mức 100,00 ml, tráng rửa cốc cân, thêm nước
cất tới vạch mức được 100,00 ml dung dịch Na
2
S
2
O
3

0,025 M.
- Pha 100,00 ml dung dịch K
2
Cr
2
O
7
4,17x10
-3
M
Cân chính xác 0,1227
±
0,0001g Kali dicromat loại tinh khiết hóa học trên cân
phân tích, hòa tan sơ bộ bằng nước cất chuyển vào bình định mức 100ml, tráng rửa
25

×