Tải bản đầy đủ (.pdf) (94 trang)

Đề tài nghiên cứu khoa học của người học: Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào xây dựng đời sống văn hóa của sinh viên trường Đại học Nội vụ Hà Nội hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.22 MB, 94 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI
KHOA TỔ CHỨC VÀ XÂY DỰNG CHÍNH QUYỀN

BÁO CÁO TỔNG HỢP
ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA NGƢỜI HỌC

VẬN DỤNG TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH
VÀO XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA CỦA SINH VIÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI HIỆN NAY

Mã số đề tài: TC.XDCQ.ĐTSV.2019.02

Chủ nhiệm đề tài : Đỗ Đức Hồng Đăng
Lớp
: 1805XDDA
Cán bộ hƣớng dẫn : ThS. Phan Thị Hải Hà

Hà Nội, 2020


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đề tài này là cơng trình nghiên cứu thực sự của tơi,
chưa được cơng bố trong bất cứ một cơng trình nghiên cứu nào. Các số liệu, nội
dung được trình bày trong đề tài này là hoàn toàn hợp lệ và đảm bảo tuân thủ
các quy định về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ. Tôi xin chịu trách nhiệm về đề tài
nghiên cứu của mình.
Chủ nhiệm đề tài

Đỗ Đức Hồng Đăng



LỜI CẢM ƠN
Để hồn thành đề tài của mình, em xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới
Ths. Phan Thị Hải Hà (Khoa Tổ chức và Xây dựng chính quyền), người đã trực
tiếp hướng dẫn tận tình giúp đỡ và động viên em trong suốt quá trình thực hiện
đề tài.
Em cũng xin gửi lời cảm ơn tới các thầy cơ giảng dạy trong Khoa Tổ chức
và Xây dựng chính quyền đã truyền dạy những kiến thức quý báu trong suốt quá
trình em được học tập và nghiên cứu ở Trường. Những kiến thức này khơng chỉ
hữu ích đối với việc trình bày đề tài mà cịn giúp chúng em rất nhiều trong công
việc sau này. Chúng em xin cảm ơn các thầy, cơ trong hội đồng khoa học đã
đóng góp những ý kiến góp ý có ý nghĩa rất quan trọng để chúng em có thể hồn
thiện đề tài này.
Cuối cùng, em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến các thầy, cô của \
trường Đại học Nội Vụ Hà Nội nói chung đã tạo điều kiện thuận lợi trong
suốt q trình nhóm chúng em tham gia học tập và nghiên cứu.
Kính chúc q thầy, cơ dồi dào sức khỏe và thành công trong sự nghiệp
cao quý.
Chúng em xin trân trọng cảm ơn!


DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 1: Kết quả phát triển Đảng trong sinh viên từ 2017 – 2019
Bảng 2: Điểm rèn luyện của dinh viên kỳ I năm học 2019 – 2020


DANH MỤC VIẾT TẮT
KÝ HIỆU

NGHĨA ĐẦY ĐỦ


BGH

Ban Giám hiệu

TW

Trung ương

CNH - HĐH

Cơng nghiệp hóa - Hiện đại hóa

KTTT

Kinh tế thị trường

Đảng

Đảng Cộng sản Việt Nam

Đoàn

Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh

Nhà trường, Trường

Trường Đại học Nội vụ Hà Nội


MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
DANH MỤC BẢNG BIỂU
DANH MỤC VIẾT TẮT
MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1
1. Lý do chọn đề tài......................................................................................... 1
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu: ................................................................ 2
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu .............................................................. 3
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .............................................................. 3
5. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................ 4
6. Giả thuyết nghiên cứu ................................................................................. 4
7. Đóng góp mới của đề tài ............................................................................. 4
8. Kết cấu của đề tài ........................................................................................ 4
Chƣơng 1: VẬN DỤNG TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VÀO XÂY DỰNG
ĐỜI SỐNG VĂN HĨA CỦA SINH VIÊN - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN . 6
1.1. Một số khái niệm cơ bản .......................................................................... 6
1.1.1. Khái niệm Tư tưởng Hồ Chí Minh ....................................................... 6
1.1.2. Khái niệm đời sống văn hóa ................................................................. 7
1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đời sống văn hóa ........................................... 9
1.2.1. Quan điểm Hồ Chí Minh về sự cần thiết phải xây dựng đời sống văn
hóa ................................................................................................................... 9
1.2.2. Quan điểm Hồ Chí Minh về những nội dung cơ bản xây dựng đời
sống văn hóa.................................................................................................. 11
1.2.3. Quan điểm Hồ Chí Minh về phương pháp xây dựng đời sống văn hóa ..... 24
Tiểu kết chương 1 ......................................................................................... 30
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG VẬN DỤNG TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH
VÀO XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG VĂN HĨA CỦA SINH VIÊN TRƢỜNG
ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI ............................................................................ 31
2.1. Giới thiệu khái quát về Trường Đại học Nội vụ Hà Nội ....................... 31



2.1.1 Qúa trình hình thành và phát triển ....................................................... 31
2.1.2. Vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy của Nhà trường ...... 33
2.2. Phân tích thực trạng cơng tác xây dựng đời sống văn hóa cho sinh viên
trường Đại học Nội vụ hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh ...................... 37
2.2.1. Nội dung xây dựng đời sống văn hóa cho sinh viên ở Trường Đại học
Nội vụ Hà Nội theo quan điểm của Hồ Chí Minh ........................................ 37
2.2.2. Phương pháp xây dựng đời sống văn hóa cho sinh viên ở Trường Đại
học Nội vụ Hà Nội theo quan điểm của Hồ Chí Minh ................................. 40
2.3. Đánh giá thực trạng đời sống văn hóa của sinh viên trường Đại học Nội
vụ Hà Nội hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh .......................................... 53
2.3.1. Về ưu điểm .......................................................................................... 53
2.3.2. Hạn chế ............................................................................................... 57
Tiểu kết chương 2 ......................................................................................... 60
Chƣơng 3. GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ VẬN DỤNG TƢ TƢỞNG
HỒ CHÍ MINH VÀO XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA CỦA SINH
VIÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI TRONG THỜI KỲ HỘI
NHẬP .................................................................................................................. 61
3.1. Bối cảnh triển khai các giải pháp ........................................................... 61
3.1.1. Đặc điểm sinh viên trường Trường Đại học Nội vụ Hà Nội .............. 61
3.1.2. Sự tác động của môi trường xã hội đến công tác xây dựng đời sống
văn hóa cho sinh viên .................................................................................... 62
3.2. Giải pháp ................................................................................................ 63
3.2.1. Nhóm giải pháp về nhận thức ............................................................. 63
3.2.2. Nhóm hồn thiện về thể chế ............................................................... 66
3.2.3. Các giải pháp khác .............................................................................. 75
Tiểu kết chương 3 ......................................................................................... 78
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................... 80
PHỤ LỤC ........................................................................................................... 82



MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống những luận điểm khoa học rộng lớn,
sâu sắc và phong phú trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong giai đoạn
cách mạng mới hiện nay trên con đường cơng nghiệp hóa - hiện đại đất nước,
việc xây dựng đời sống văn hóa là một trong những lĩnh vực chủ yếu trong tư
tưởng Hồ Chí Minh luôn cần được quan tâm. Nhận thức được tầm quan trọng
cũng như thấm nhuần được tư tưởng Hồ Chí Minh về đời sống văn hóa trong
việc vận dụng, đào tạo, rèn luyện xây dựng đời sống văn hóa đặc biệt là noi theo
tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh cho học sinh, sinh viên phải trở thành một
nhiệm vụ cấp bách trong xây dựng xã hội chủ nghĩa.Đời sống văn hóa là một
hình thức biểu hiện của văn hóa.
Đây là một đặc trưng quan trọng của con người Việt Nam trong giai đoạn
cách mạng mới hiện nay. Tuy nhiên, thực trạng đời sống văn hóa của học sinh sinh viên hiện nay đang nổi lên một số vấn đề đáng lo ngại. Đó là một bộ phận
học sinh - sinh viên sống thiếu niềm tin, phai nhạt lí tưởng, chạy theo lối sống cá
nhân, thực dụng, đua đòi, sa vào các tệ nạn xã hội, tiếp thu thiếu chọn lọc những
lối sống từ bên ngoài.
Đại đa số sinh viên Trường Đại học Nội vụ Hà Nội đều có ý thức chính trị
vững vàng, tuyệt đối tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, tin vào sự nghiệp
CNH-HĐH đất nước. Hầu hết sinh viên Trường Đại học Nội vụ Hà Nội có quyết
tâm học tập cao, tinh thần tự học, tự nghiên cứu rất lớn, khả năng tư rèn luyện và
vượt khó rất đáng ghi nhận.
Tuy nhiên, bên cạnh đó, vẫn còn một số sinh viên vi phạm kỷ luật, thiếu ý
thức học tập, rèn luyện, lối sống thiếu lành mạnh, hiện tượng tiêu cực trong sinh
viên vẫn con như đi học muộn, bỏ học không lý do, gian lận trong thi cử,… một
số ít có những biểu hiện đi ngược lại các giá trị đạo đức truyền thống dân tộc.
Để phát huy tính tích cực và điều chỉnh những lệch lạc trong suy nghĩ, hành
động của sinh viên. Vì vậy, em quyết định chọn chọn đề tài: “Vận dụng tư tưởng

Hồ Chí Minh vào xây dựng đời sống văn hóa của sinh viên trường Đại học Nội
1


vụ Hà Nội hiện nay”, để góp phần thay đổi nhận thức của những sinh viên mang
suy nghĩ lệch lạc trong xã hội, nhất là giới sinh viên trường Đại học Nội vụ Hà
Nội.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu:
- Về sách:
+ Đinh Xuân Lâm, Bùi Đình Phong (Đồng chủ biên), Hồ Chí Minh văn hóa
và đổi mới, Nxb Lao động, Hà Nội, 1998. Cuốn sách là hệ thống tập hợp những
bài nghiên cứu đã tiếp cận tư tưởng Hồ Chí Minh từ nhiều phía. Các tác giả đã
đưa ra một số phân tích về bản sắc văn hóa dân tộc tốt ra từ Hồ Chí Minh trong
nhiều suy nghĩ và hành động của Người.
+ Phạm Minh Hạc, Nguyễn Khoa Điềm (Đồng chủ biên), Về phát triển văn
hóa và xây dựng con người thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2003. Cuốn sách tập trung trình bày những nội dung cơ bản về
tư tưởng Hồ ChÍ Minh đối với phát triển văn hóa và xây dựng con người mới,…
từ đó đề ra một số giải pháp.
- Về luận văn:
+ Pham Tấn Xuân Tước, (2006), Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục đạo
đức, lối sống cho thanh niên và vận dụng vào việc giáo dục sinh viên các trường
Đại học ở thành phố Hồ Chí Minh hiện nay. Luận văn đã nghiên cứu những nội
dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục đạo đức, lối sống cho
thanh niên. Làm rõ lý luận và thực tiễn công tác giáo dục đạo đức, lối sống cho
sinh viên các trường Đại học ở thành phố Hồ Chí Minh qua đó đề xuất giải pháp
nâng cao hiệu quả công tác giáo dục đạo đức, lối sống cho sinh viên theo tư
tưởng Hồ Chí Minh.
+ Nguyễn Trung Hưng (2010), Quan niệm của Hồ Chí Minh về thực hành
đời sống mới trong Quân đội – Lý luận và thực tiễn. Luận văn phân tích, làm rõ

những quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về thực hành đời sống mới trong
quân đội. Đánh giá thực trạng việc thực hành đời sống mới trong quan đội hiện
này theo quan điểm Hồ Chí Minh từ đó đề xuất giải pháp về thực hành đời sống
mới trong quân đội hiện nay.
2


+ Nguyễn Quỳnh Nga (2011), Giáo dục đạo đức cách mạng cho sinh viên
Học viện cảnh sát nhân dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Luận văn phân tích
quan điểm, nội dung và phương pháp giáo dục đạo đức cách mạng theo tư tưởng
Hồ Chí Minh. Đánh giá thực trạng, nội dung và đưa ra giải pháp giáo dục đạo
đức cách mạng cho sinh viên Học viện cảnh sát nhân dân.
- Về tạp chí:
+ Nguyễn Ngọc Hoa, Giá trị tác phẩm “Đời sống mới” và việc vận dụng
trong thực tiễn văn hóa hiện nay, Tạp chí Tư tưởng văn hóa, số 7/2007. Tác
phẩm đã trình bày những giá trị của tác phẩm “Đời sống mới” và những giá trị
đó được vận dung trong thực tiễn văn hóa hiện nay.
+ Nguyễn Thế Nghĩa, Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa và xây dựng nền
văn hóa mới, Tạp chí Phát triển nhân lực, số 2/2007. Tác phẩm trình bày một cách
khái qt về Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa và xây dựng nền văn hóa mới.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục tiêu: Đề tài nghiên cứu, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào xây
dựng đời sống văn hóa của sinh viên trường Đại học Nội vụ Hà Nội hiện nay.
- Nhiệm vụ:
Một là: Làm rõ tư tưởng Hồ Chí Minh về đời sống văn hóa và những yếu tố
tác động đền công tác xây dựng đời sống văn hóa của sinh viên trường Đại học
Nội vụ Hà Nội hiện nay.
Hai là: Làm rõ thực trạng vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng đời
sống văn hóa của sinh viên trường Đại học Nội vụ Hà Nội hiện nay.
Ba là: Đề xuất một số giải pháp tiếp tục nâng cao hiệu quả xây dựng đời

sống văn hóa theo tư tưởng Hồ Chí Minh cho sinh viên trường Đại học Nội vụ
Hà Nội hiện nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tƣợng: Tư tưởng Hồ Chí Minh về đời sống văn hóa, thực trạng vận
dụng tư tưởng của Người vào xây dựng đời sống văn hóa của sinh viên trường
Đại học Nội vụ Hà Nội hiện nay.

3


- Phạm vi nghiên cứu:
+ Nội dung: Nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về đời sống văn hóa.
+ Khơng gian: Đại học Nội vụ Hà Nội
+ Thời gian: từ 2015 đến nay.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Đề tài nghiên cứu sử dụng phương pháp chung của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
- Kết hợp nhiều phương pháp như: Phương pháp lịch sử - logic, phương
pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê,…
6. Giả thuyết nghiên cứu
Thực tế đặt ra nhiều vấn đề, nếu khơng kịp thời khắc phục thì sẽ khơng đáp
ứng được nhu cầu, địi hỏi của nhiệm vụ xây dựng đời sống văn hóa cho sinh
viên, tác động đến xây dựng con người mới đáp ứng nhu cầu thời đại mới. Việc
xây dựng đời sống văn hóa cho sinh viên được trường Đại học Nội vụ Hà Nội
quan tâm thực hiện, tuy nhiên vẫn còn tồn tại một số hạn chế. Nếu đề tài đưa ra
được những giải pháp hợp lý thì sẽ nâng cao được hiệu quả xây dựng đời sống
văn hóa của sinh viên theo tư tưởng của Hồ Chí Minh.
7. Đóng góp mới của đề tài
- Góp phần nghiên cứu một cách có hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh về đời
sống văn hóa.

- Khảo sát và đánh giá khách quan về thực trạng xây dựng đời sống văn
hóa theo tư tưởng Hồ Chí Minh của sinh viên trường Đại học Nội vụ Hà Nội
hiện nay
- Đề xuất một số giải pháp tiếp tục nâng cao hiệu quả xây dựng đời sống
văn hóa theo tư tưởng Hồ Chí Minh cho sinh viên trường Đại học Nội vụ Hà
Nội hiện nay.
8. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài
có kết cấu gồm 3 chương:
Chương 1: vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào xây dựng đời sống văn
4


hóa của sinh viên - một số vấn đề lý luận
Chương 2: Thực trạng vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào xây dựng đời
sống văn hóa của sinh viên trường đại học Nội vụ Hà Nội
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh
vào xây dựng đời sống văn hóa của sinh viên trường đại học Nội vụ Hà Nội
trong thời kỳ hội nhập

5


CHƢƠNG 1: VẬN DỤNG TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VÀO XÂY DỰNG
ĐỜI SỐNG VĂN HÓA CỦA SINH VIÊN - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1. Khái niệm Tư tưởng Hồ Chí Minh
Tư tưởng là sự phản ánh hiện thực trong ý thức, là biểu hiện quan hệ của
con người với thế giới chung quanh. Trong thuật ngữ "tư tưởng Hồ Chí Minh",
khái niệm "tư tưởng" có ý nghĩa ở tầm khái quát triết học. "Tư tưởng" ở đây

không phải dùng với nghĩa tinh thần - tư tưởng, ý thức tư tưởng của một cá
nhân, một cộng đồng, mà với nghĩa là một hệ thống những quan điểm, quan
niệm, luận điểm được xây dựng trên một nền tảng triết học(thế giới quan và
phương pháp luận) nhất quán, đại biểu cho ý chí, nguyện vọng của một giai cấp,
một dân tộc được hình thành trên cơ sở thực tiễn nhất định và trở lại chỉ đạo
hoạt động thực tiễn, cải tạo hiện thực.
Khái niệm "tư tưởng" liên quan trực tiếp đến khái niệm "nhà tư tưởng".
Một người xứng đáng là nhà tư tưởng, theo V.I.Lênin khi người đó biết giải
quyết trước người khác tất cả những vấn đề chính trị-sách lược, các vấn đề về tổ
chức, về những yếu tố vật chất của phong trào không phải một cách tự phát.
Quá trình nhận thức của Đảng ta về tư tưởng Hồ Chí Minh đi từ thấp đến
cao, từ những vấn đề cụ thể đến hệ thống hoàn chỉnh.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (tháng 6-1991) đánh dấu một cột
mốc quan trọng trong nhận thức của Đảng về tư tưởng Hồ Chí Minh. Đảng ta đă
khẳng định: Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền
tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động. Văn kiện của Đại hội định nghĩa: "tư
tưởng Hồ Chí Minh là kết quả của sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin
trong điều kiện cụ thể của nước ta, và trong thực tế tư tưởng Hồ Chí Minh đã trở
thành một tài sản tinh thần quý báu của Đảng và của cả dân tộc".
Kể từ sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng, công tác
nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh được tiến hành nghiêm túc và đạt được những
kết quả quan trọng. Những kết quả nghiên cứu đó đã cung cấp luận cứ khoa học
có sức thuyết phục để Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng (tháng 46


2001) và Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng (tháng 1-2011) xác
định khá toàn diện và có hệ thống những vấn đề cốt yếu thuộc nội hàm khái
niệm tư tưởng Hồ Chí Minh: "Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan
điểm tồn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam. kết
quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện

cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân
tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại; là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và
quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của
nhân dân ta giành thắng lợi".
1.1.2. Khái niệm đời sống văn hóa
Đời sống văn hố là cụm từ mới được sử dụng rộng rãi ở nước ta vào
những năm 80, 90 của thế kỷ XX. Tiền thân của cụm từ này là cụm từ đời sống
mới, tiêu đề của bài viết dưới dạng hỏi - đáp, công bố năm 1947, tác giả Tân
Sinh, một bút danh của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Bối cảnh ra đời cụm từ này là
dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã vùng lên làm cuộc Cách mạng tháng
Tám năm 1945, đánh đổ thực dân Pháp và tầng lớp thống trị phong kiến giành
chính quyền về tay nhân dân, khai sinh nước Việt Nam dân chủ cộng hoà (mồng
2 tháng 9 năm 1945). Sau đó, chính quyền nhân dân non trẻ bắt tay vào sự
nghiệp kiến quốc và kháng chiến đánh đuổi thực dân Pháp trở lại xâm lược Việt
Nam. Nhiệm vụ cấp bách đối với văn hố lúc đó là diệt giặt dốt, cổ động toàn
dân tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm, chống giặc đói, cổ vũ tinh thần yêu
nước, chống giặc ngoại xâm, xây dựng đạo đức cách mạng và sửa đổi nề nếp
sinh hoạt trong đời sống của mỗi người, mỗi nhà và mỗi cộng đồng làng bản,
đơn vị công tác. Đây là công việc mới dưới sự lãnh đạo của Đảng, chưa từng có
trong các giai đoạn lịch sử trước đó nên được gọi là xây dựng đời sống mới.
Trong bối cảnh trình độ học vấn của dân ta còn thấp, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã sử dụng từ "mới" thay cho từ "văn hoá" để cho dân dễ hiểu về xây dựng
đời sống văn hố. Có thể coi Đời sống mới là bài viết đầu tiên đặt cơ sở lý luận
cho việc xây dựng đời sống văn hóa ra đời sau Cách mạng Tháng Tám 1945.
Cho mãi tới những năm 80 của thế kỷ XX, trong chỉ đạo xây dựng đời sống văn
7


hoá, Đảng, Nhà nước vẫn sử dụng từ "mới" được hiểu là kết tinh hàm lượng văn
hoá, tri thức, cách tổ chức, giá trị mới trong xây dựng nếp sống, nền văn hố và

con người. Ví dụ ngày 15/1/1975, Ban Bí thư Trung ương Đảng ban hành Chỉ
thị số 214/CT-TW về việc thực hiện nếp sống mới trong việc cưới, việc tang,
ngày giỗ, ngày hội.
Sau Đại hội V, xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở trở thành một phong
trào phát triển sâu rộng trên địa bàn dân cư, đơn vị sản xuất, công tác, học tập
tác động trực tiếp đến tư tưởng, tình cảm, đạo đức và nhu cầu hưởng thụ, sáng
tạo văn hoá trong đời sống của mọi tầng lớp nhân dân. Từ đó, khái niệm về đời
sống văn hố ngày một sáng tỏ.
Đời sống văn hóa có thể hiểu đó là tất cả những hoạt động của con người
tác động vào đời sống vật chất, đời sống tinh thần, đời sống xã hội để hướng con
người vươn lên theo qui luật của cái đúng, cái đẹp, cái tốt, của chuẩn mực giá trị
chân, thiện, mĩ, đào thải những biểu hiện tiêu cực tha hoá con người. Đời sống
văn hóa là q trình diễn ra sự trao đổi thơng qua các hoạt động văn hóa nhằm
nâng cao chất lượng sống của con người. Đó là q trình các yếu tố văn hóa mà
con người tiếp thu được tác động vào đời sống vật chất để con người biến đổi
môi trường tự nhiên tạo lập môi trường nhân văn, làm ra được nhiều sản phẩm
vật chất cho xã hội; tác động vào đời sống tinh thần để con người thỏa mãn nhu
cầu chủ quan đáp ứng các yêu cầu về tư tưởng, tình cảm, đạo đức, lối sống; tác
động vào đời sống xã hội để xây dựng một hệ thống các giá trị chuẩn mực xã
hội; tác động vào chính bản thân đời sống cá nhân, điều chỉnh hành vi ứng xử
của cá nhân và cho cá nhân phương thức lựa chọn hướng đi tốt nhất cho chính
cuộc đời mình.
Đời sống văn hóa bao giờ cũng có tính kế thừa. Kế thừa các giá trị truyền
thống tốt đẹp của các thế hệ đi trước tạo ra sự ổn định và tiền đề khẳng định
những giá trị mới.
Đời sống văn hóa bao giờ cũng có tính đổi mới, bởi lẽ con người ln
ln có khát vọng vươn lên cái tốt đẹp, chỉ có mạnh dạn sáng tạo, mạnh dạn cải
đổi mới mong đáp ứng nhu cầu càng cao về vật chất và tinh thần của con người.
8



Từ những phân tích nêu trên, tác giả cho rằng: Đời sống văn hóa là hiện
thực sinh động các hoạt động của con người trong môi trường sống để duy trì,
đồng thời tái tạo các sản phẩm văn hóa vật chất, văn hóa tinh thần theo những
giá trị và chuẩn mực xã hội nhất định nhằm không ngừng tác động, biến đổi tự
nhiên, xã hội và đáp ứng nhu cầu đổi mới, nâng cao chất lượng sống của chính
con người.
1.2. Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về đời sống văn hóa
1.2.1. Quan điểm Hồ Chí Minh về sự cần thiết phải xây dựng đời sống
văn hóa
Đời sống văn hóa là một trong những lĩnh vực quan trọng của văn hóa
theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn thường xuyên
lo nghĩ, dành tâm trí xây dựng một nền văn hóa mới, đời sống mới.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã mở ra cho dân tộc ta
một kỷ nguyên mới - kỷ nguyên độc lập, tự do và CNXH. Ngay trong những
ngày đầu độc lập, Nhà nước Dân chủ Nhân dân vừa ra đời đã phải tiến hành
cuộc đấu tranh quyết liệt cho sự tồn tại của mình. Trong tình thế “ngàn cân treo
sợi tóc”, khó khăn chồng chất lại một lần nữa thử thách nhân dân ta: nền tài
chính đất nước kiệt quệ, nạn đói đe dọa, đại đa số nhân dân khơng biết chữ…
Trong phiên họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ ngày 3-9-1945, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã nêu ra sáu nhiệm vụ cấp bách, trong đó có nhiệm vụ xây dựng lối
sống mới cho phù hợp với chế độ mới: “Chúng ta có nhiệm vụ cấp bách là phải
giáo dục lại nhân dân chúng ta. Chúng ta phải làm cho dân tộc chúng ta trở nên
một dân tộc dũng cảm, yêu nước, yêu lao động, một dân tộc xứng đáng với nước
Việt Nam độc lập. Tôi đề nghị mở một chiến dịch giáo dục lại tinh thần nhân
dân bằng cách thực hiện: cần, kiệm, liêm, chính”[11,tr7].
Ngày 3-4-1946, Ủy ban vận động đời sống mới Trung ương được thành
lập. Đến đầu năm 1947, dù cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đang diễn ra
quyết liệt, với bút danh Tân Sinh (nghĩa là đời sống mới, cuộc sống mới, cách
sinh hoạt mới...), Người đã viết và cho xuất bản tác phẩm Đời sống mới (20-32017) với mục tiêu xây dựng một lối sống mới phù hợp với điều kiện mới của

9


cuộc kháng chiến, kiến quốc.
Trong tác phẩm, Người chỉ rõ sự cần thiết phải xây dựng đời sống văn
hóa tinh thần cho nhân dân ta: “Trong lúc này, người thì lo đánh giặc, người thì
lo phá hoại, người thì lo tản cư, tồn dân ai cũng khó nhọc vất vả. Kêu gọi thực
hành đời sống mới, chẳng không hợp thời sao? Hợp thời lắm. Chính trong lúc
này càng phải thực hành đời sống mới là Cần, Kiệm, Liêm, Chính”[11,tr7]. Đây
cũng chính là nhiệm vụ cấp bách sau khi giành được độc lập: giáo dục lại tinh
thần nhân dân. Theo Người, xây dựng đời sống là trực tiếp góp phần xây dựng
lối sống mới và nếp sống mới.
Văn hóa mới, đời sống mới mà Hồ Chí Minh đã phát động trong những
năm kháng chiến chống thực dân Pháp và mãi đến tận cuối đời, đó thực chất là
Người muốn đưa văn hóa vào cuộc sống nhân dân như một động lực để sửa đổi
lối sống với những thói hư tật xấu trong xã hội như: lười biếng, xa hóa, gian xảo,
tham ô, dị đoan, mê tín. Người Việt Nam yêu nước, dũng cảm, đáp lời kêu gọi
của Chủ tịch Hồ Chí Minh thực hiện cần, kiệm, liêm, chính, sáng mắt, sáng lòng
đi vào cuộc kháng chiến với tinh thần hồ hởi và niềm tin thằng lợi, là minh
chứng hùng hồn của sức mạnh động lực văn hóa.
Như vậy là việc xây dựng đời sống mới đã được Hồ Chí Minh nêu ra từ
rất sớm, khi vấn đề lối sống, nếp sống, phong cách sống, chất lượng sống,… Và
cuộc vận động này đã trở thành một phong trào quần chúng sôi nổi ngay từ khi
cách mạng mới thành công và nhân dân ta đã phải tiến hành cuộc kháng chiến
chống ngoại xâm hết sức quyết liệt, cuộc sống còn trăm bề thiếu thốn. Cuộc vận
động có ý nghĩa quan trọng trong việc thực hiện chủ trương vừa kháng chiến
vừa kiến quốc, tạo nên những chuyển biến to lớn trong đời sống văn hóa của
nhân dân ta.
Quan điểm xây dựng đời sống mới thực sự là quan điểm rất độc đáo của
Hồ Chí Minh về văn hóa. Văn hóa là bộ mặt tinh thần của xã hội, nhưng bộ mặt

tinh thần ấy không phải là cái gì cao siêu, trừu tượng mà lại thường được thể
hiện ra ngay trong cuộc sống hàng ngày của mỗi người, rất dễ hiểu, dễ thấy.
Điều đấy đã được Hồ Chí Minh chỉ ra khi nói về nội dung của đời sóng mới
10


cũng như cách thức xây dựng đời sống mới trong một nước Việt Nam.
Khái niệm Đời sống mới được Hồ Chí Minh nêu ra bao gồm cả “đạo đức
mới, lối sống mới và nếp sống mới”. Ba nội dung ấy, có quan hệ mật thiết với
nhau, trong đó đạo đức đóng vai trị chủ yếu. Đạo đức gắn liền với lối sống và
nếp sống. Chính vì vậy, việc xây dựng đạo đức mới phải được tiến hành đồng
thời với việc xây dựng lối sống mới và nếp sống mới. Có dựa trên cái nền đạo
đức mới thì mới xây dựng được lối sống mới, nếp sống mới lành mạnh, vui tươi,
hướng con người tới tầm cao của văn hóa, của đất nước độc lập và xã hội học.
1.2.2. Quan điểm Hồ Chí Minh về những nội dung cơ bản xây dựng đời
sống văn hóa
1.1.2.1. Xây dựng đạo đức
Xây dựng đời sống mới trước hết phải xây dựng đạo đức mới. Theo Hồ
Chí Minh, đạo đức mới cần phải được xây dựng trong một nước Việt Nam độc
lập và xã hội chủ nghĩa là đạo đức mới, hay còn gọi là đạo đức cách mạng.
Đạo đức cách mạng do Hồ Chí Minh đề xướng về lý luận và dày công xây
đắp trong thực tiễn là đạo đức mang bản chất và phẩm chất của giai cấp công
nhân và nhân dân lao động, kết hợp nhuần nhuyễn và sinh động với những
truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc ta và những tinh hoa đạo đức của lồi
người. “Đạo đức đó khơng phải là đạo đức thủ cựu. Nó là đạo đức mới, đạo đức
vĩ đại, nó khơng phải vì danh vọng của cá nhân, mà vì lợi ích chung của Đảng,
của dân tộc, của loài người”.[12,tr292]
Khi bàn về đạo đức, Hồ Chí Minh rất hay sử dụng những khái niệm, phạm
trù đạo đức đã quen thuộc với dân tộc ta từ lâu đời, trong đó có đạo đức Nho
giáo, Phật giáo, nhưng Người đã đưa vào đó những nội dung mới, có khi hồn

tồn mới, đồng thời Người bổ sung những khái niệm, phạm trù đạo đức của thời
đại mới. Chính vì thế mà có sự hịa nhập những giá trị đạo đức mới với những
giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, làm cho quan niệm và tư tưởng đạo đức
của Hồ Chí Minh ln ln gần gũi, dễ hiểu đối với nhân dân, với mọi người.
Hồ Chí Minh khẳng định đạo đức mới là nền tảng của người cách mạng
bởi vì, theo Người, sự nghiệp cách mạng tiêu diệt xã hội cũ, xây dựng xã hội
11


mới với những lý tưởng và khát vọng cao đẹp, là một “sự nghiệp khổng lồ”, đầy
gian khổ, phức tạp, cần một sự phấn đấu không mệt mỏi, sự kiên định, lòng
dũng cảm và hy sinh lớn của nhiều thế hệ cách mạng. Không chăm lo xây dựng
đạo đức mới cho cán bộ, đảng viên và nhân dân, Đảng khó có thể thực hiện
được đến cùng mục tiêu cao cả của cách mạng. Theo cách diễn đạt bình dị của
Người, đạo đức như gốc của cây, ngọn nguồn của sông suối, sức mạnh của con
người, sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa. Ngay trong những năm
kháng chiến chống Mỹ cứu nước, khi Đảng đang tiến hành sự nghiệp vĩ đại giải
phóng và thống nhất đất nước, Hồ Chí Minh đã khái quát và cảnh báo: “Một dân
tộc, một đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn,
khơng nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi,
nếu lịng dạ khơng cịn trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”. Chính vì
vậy mà Hồ Chí Minh thường xuyên nhấn mạnh “Đảng phải là đạo đức, là văn
minh”, và yêu cầu việc rèn luyện, tu dưỡng đạo đức phải là nhân tố có ý nghĩa
quyết định đối với phẩm chất nười cách mạng, người đảng viên.
Như vậy, Hồ Chí Minh, nền đạo đức mới của dân tộc ta bắt đầu hình
thành và phát triển mạnh mẽ, thấm sâu vào đời sống, trở thành một bộ phận hết
sức quan trọng khắc họa diện mạo và đặc trưng của nền văn hóa Việt Nam, của
Văn hiến Việt Nam hiện đại. Nó đã trở thành vũ khí mạnh mẽ của Đảng và của
nhân dân ta trong cuộc đấu tranh vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vì mục
tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội cơng bằng, dân chủ, văn minh” và vì hịa

bình, hợp tác và hữu nghị với tất cả các dân tộc trên thế giới.
Từ cuộc sống thực của nhân dân, cuộc đời thực của con người và xã hội
Việt Nam, từ sự từng trải sâu sắc và tu dưỡng của chính mình, từ niềm tin lớn
lao vào khát vọng và sức vươn lên cái chân, cái thiện, cái mỹ của con người, Hồ
Chí Minh đã dày cơng xây đắp các phẩm chất đạo đức cho con người Việt Nam,
cho mọi người, mọi đối tượng (cơng nhân, nơng dân, trí thức, văn nghệ sĩ, bộ
đội, công an, già trẻ, thanh niên, phụ nữ, đồng bào dân tộc, tôn giáo...) trong mọi
lĩnh vực hoạt động và sinh sống của con người, trong mọi phạm vi (cá nhân, gia
đình, làng xóm, phố phường, tập thể..) và trong các quan hệ phong phú, phức
12


tạp, tinh tế của con người.... Từ đó, Người khái quát thành những phẩm chất cơ
bản của con người Việt Nam, những chuẩn mực chung của nền đạo đức cách
mạng Việt Nam.
Một là, trung với nước, hiếu với dân là phẩm chất bao trùm nhất, quan
trọng nhất. Vận dụng khái niệm truyền thống về trung và hiếu, Hồ Chí Minh đã
đưa vào đó nội dung hồn tồn mới: trung với nước là sự trung thành với sự
nghiệp dựng nước, giữ nước và xây dựng đất nước của nhân dân. Nước ở đây là
nước của dân, còn dân là người làm chủ, chủ nhân của đất nước, “bao nhiêu
quyền hạn đều của dân”, “bao nhiêu lợi ích đều vì dân”. Vì thế, theo Hồ Chí
Minh, tư tưởng mà Người đề xướng “hiếu với dân”, không phải chỉ dừng lại ở
chỗ thương dân, mà là gần dân, gắn bó với dân, kính trọng và học tập dân, dựa
hẳng vào dân, lấy dân làm gốc.
Đối với cán bộ, đảng viên, Hồ Chí Minh cịn u cầu cao hơn: đó là “tận
trung, tận hiếu”, có như vậy mới xứng đáng là Đảng của đạo đức và văn minh,
cán bộ vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân.
“Trung với nước, hiếu với dân, suốt đời phấn đấu hy sinh vì độc lập, tự do
của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội...” là chuẩn mực đạo đức bao trùm của con
người Việt Nnam, là định hướng chính trị - đạo đức lớn nhất cho mỗi người, là

khát vọng vươn lên tự hồn thiện mình của tất cả chúng ta theo ngọn cờ, tư
tưởng đạo đức Hồ Chí Minh.
Hai là, yêu thương con người là một trong những phẩm chất đạo đức đẹp
đẽ à cao cả nhất mà Hồ Chí Minh yêu cầu và khẳng định đối với con người Việt
Nam và chính Hồ Chí Minh đã chứng minh tuyệt vời phẩm chất đó bằng tồn bộ
cuộc đời mình.
“Đầu tiên là công việc đối với con người”, trong bản bổ sung cho Di chúc,
Hồ Chí Minh đã viết như vậy và toàn bộ sự nghiệp của Người cũng đã chứng
minh cho tư tưởng nhân văn cao cả này.
Hồ Chí Minh u thương đồng bào, đồng chí của Người, khơng phân biệt
miền xuôi hay miền ngược, già hay trẻ, trai hay gái... hễ là người Việt Nam yêu
nước thì đều có chỗ trong tấm lịng nhân ái của Người, nhưng trước hết là dành
13


cho những người cùng khổ, những người lao động bị áp bức, bóc lột. Khơng có
tình u thương đó, khơng có thể nói đến cách mạng, càng khơng thể nói đến lý
tưởng xã hội chủ nghĩa. Tình u thương đó gắn liền với thái độ tôn trọng con
người, biết cách ngăn đỡ con người, rộng lượng và khoan dung với người, đồng
thời nghiêm khắc với mình.
Vì u thương vơ hạn đối với con người, Hồ Chí Minh coi đấu tranh giải
phóng dân tộc, giành độc lập tự do là con đường để giải phóng con người, coi
con người được giải phóng và được sống trong độc lập, tự do là nguyện vọng
sâu xa và hạnh phúc lớn lao của chính con người.
Yêu thương con người gắn liền với niềm tin tuyệt đối vào khả năng tự giải
phóng của con người, vào năng lực và khát vọng vươn lên tự hoàn thiện mình
theo lý tưởng chân, thiện, mỹ.
Ba là, cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư là những phẩm chất được Hồ
Chí Minh đề cập nhiều nhất, thường xuyên nhất trong các bài viết, bài nói về
đạo đức cách mạng.

Phẩm chất này gắn với hoạt động thực tiễn, được thể hiện cụ thể, hàng
ngày của mỗi con người, là cái nhìn thấy được của đạo đức, khơng thể che giấu,
gắn chặt giữa nói và làm, suy nghĩ và hành động....
Hồ chí Minh đã sử dụng những khái niệm truyền thống của đạo đức
phương Đơng, giữ lại những gì tốt đẹp, phù hợp, lọc bỏ những gì lạc hậu, lỗi
thời và đưa vào những nội dung mới của thời đại mới.
Cần tức là lao động cần cù, siêng năng, tự lực cánh sinh, có kế hoạch,
sáng tạo và có năng suất cao.
Kiệm là tiết kiệm sức lao động, thì giờ, tiền của của nhân dân, của nước,
của bản thân, tiết kiệm từ cái nhỏ đến cái to, khơng phơ trương, hình thức, xa xỉ,
hoang phí....
Liêm là “Ln ln tơn trọng của cơng, của dân”, liêm khiết trong mọi
hồn cảnh “khơng tham địa vị, không tham tiền tài. Không tham sung sướng.
Không ham người tâng bốc mình”.
Chính “nghĩa là khơng tà, thẳg thắn, đứng đắn” đối với mình đối với
14


người và đối với việc. “Việc thện thì dù nhỏ mấy cũg làm, việc ác thìdù nhỏ mấy
cũng tránh”.
Về chí cơng vơ tư, theo Hồ Chí Minh là “khi làm bất cứ việc gì cũng đừng
nghĩ đến mình trước, khi hưởng thụ thì mình nên đi sau”, “phải lo trước thiên hạ,
vui sau thiên hạ”.
Hồ Chí Minh đã dành nhiều bài nói, bài viết để phân tích, giải thích sinh
động, cụ thể và sâu sắc về các phẩm chất trên, đồng thời chỉ ra quan hệ mật thiết
giữa chúng với nhau. cần, kiệm, liêm, chính tốt sẽ dẫn tới chí cơng vơ tư, và chí
cơng vơ tư, một lịng vì vì dân, vì nước nhất định sẽ thực hiện được cần, kiệm,
liêm, chính. Người yêu cầu mọi người dân Việt Nam đều phải rè luyện, tu
dưỡng theo tác phẩm chất trên, trong đó đặc biệt là cán bộ, đảng viên có chức,
có quyền: “Trước nhất là cán bộ các cơ quan, các đồn thể, cấp cao thì quyền to,

cấp thấp thì quyền nhỏ. Dù to hay nhỏ, có quyền mà thiếu lương tâm là có dịp
đục khoét,c ó dịp ăn của đút, có dịp “dĩ cơng vi tư”.
Bốn là, tinh thần quốc tế chân chính, trong sáng là yêu cầu và phẩm chất
đạo đức mới của giai cấp công nhân và nhân dân lao động nhằm vào mối quan
hệ rộng lớn, vượt ra ngoài quốc gia, dân tộc, xây dựng tình đồn kết “bốn hương
vơ sản đều là anh em”, tình đồn kết với các dân tộc, với nhân dân các nước, với
tất cả những người tiến bộ trên thế giới vì hịa bình, hữu nghị, cơng lý và tiến bộ
xã hội.
Để xây dựng nền đạo đức mới, cùng với việc đúc kết thành lý luận đạo
đức nhằm chỉ đạo thực tiễn, Hồ Chí Minh đồng thời xác định những nguyên tắc
và phương châm để định hướng cho sự lãnh đạo của Đảng và cho việc rèn luyện,
tu dưỡng đạo đức của mỗi con người. Đây cũng là một đặc trưng rất riêng, độc
đáo của tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh.
Một là, nói đi đơi với làm, phải nêu gương về đạo đức là một yêu cầu, một
phương châm lớn và sâu sắc để xây dựng đạo đức mà bằng cả cuộc đời mình,
Hồ Chí Minh đã thực hiện một cách triệt để, nghiêm túc và trọn vẹn. Đối với Hồ
Chí Minh, nói phải ln ln đi đơi với làm và cao hơn, làm rồi mới nói, làm
nhiều, nói ít và thậm chí làm hết lòng, làm tận tụy mà khơng nói, khơng tự phơ
15


trương mình.
Hồ Chí Minh rất gét những kẻ đạo đức giả, nói mà khơng làm, nói một
đàng, làm một nẻo và Người cho rằng, những kẻ đó làm giảm đi lòng tin của
nhân dân đối với Đảng. Đây là bài học thời sự sâu sắc đối với vấn đề đạo đức
trong Đảng ta hiện nay. Người chỉ ra một luận điểm rất quan trọng, có giá trị vơ
cùng thiết thực khơng chỉ lúc đó, mà trực tiếp với hiện nay: “Trước mặt quần
chúng, không phải ta cứ viết lên trán chữ “cộng sản” mà ta được họ yêu mến.
Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn
nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước”.

Chính luận điểm này đã thể hiện rõ một phương châm xây dựng đạo đức
là vấn đề nêu gương. Khơng gì thuyết phục hơn, có sức cảm hóa và lơi cuốn hơn
trong lĩnh vực đạo đức bằng việc nêu gương, Hồ Chí Minh đã làm như vậy một
cách cần mẫn, tinh tế, sáng tạo và vì thế đã có tác dụng vơ cùng to lớn, sâu sắc
trong toàn bộ đời sống đạo đức của xã hội ta, đất nước ta. Người đã hai thác
triệt để các tấm gương “người tốt, việc tốt”, gương các anh hùng, liệt sĩ, gương
các vị tiền bối, cha ông trong lịch sử, từ chung đến riêng, từ lớn đến nhỏ, từ xa
tới gần, của thế hệ này đối với thế hệ khác.... để dày công xây đắp nền tảng vững
chắc và các đỉnh cao của đạo đức mới.
Hai là, xây đi đôi với chống, muốn xây phải chống, chống nhằm mục đích
xây là con đường để xây dựng đạo đức mới, là nguyên tắc được Hồ Chí Minh
khẳng định và vận dụng thường xuyên, linh hoạt, đầy sáng tạo trong chỉ đạo
thực hiện. Xây dựng đạo đức mới là một cuộc đấu tranh vô cùng phức tạp, gay
gắt, tinh vi, diễn ra trong mọi lúc, mọi nơi, trong từng tập thể và từng con người,
vì thế ngun tắc trên là một địi hỏi khách quan, cần vận dụng triệt để, không
được né tránh, đặc iệt với cuộc chiến đấu chống cái ác, cái xấu, sự thối hóa,
biến chất hiện nay trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên.
Xây dựng đạo đức mới, trước hết là tuyên truyền, giáo dục các phẩm chất,
chuẩn mực đạo đức mới cho mỗi người, trong từng gia đình, từng giới, tập thể,
cộng đồng, làng xóm, trường học và tồn xã hội. Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm
đến công việc này, đến việc tạo ra môi trường đạo đức trong sáng, lành mạnh
16


cho con người, cho từng cộng đồng.
Xây dựng đạo đức cũng bằng việc khơi dậy ý thức vươn lên tự nguyện
của con người tới cái chân, cái thiện, cái mỹ, từ đó tạo ra bằng được năng lực tự
trau dồi đạo đức trong mỗi con người, loại bỏ cái ác, cái xấu, cái vô đạo đức.
Cùng với xây, nhiệm vụ Chống giữ vị trí đặc biệt quan trọng để tạo môi
trường cho cái tốt đẹp nảy nở, để bảo vệ và khẳng định được cái mới về đạo đức

đang hình thành và phát triển trong cuộc đấu tranh quyết liệt với cái ác, cái xấu,
cái phản động và cái vô đạo đức.
Hồ chí Minh đã nhiều lần vạch ra rất cụ thể những khuyết điểm, những
căn bệnh đạo đức của cán bộ, đảng viên, nhân dân và chỉ rõ tác hại ghê gớm của
chúng đối với Đảng và sự nghiệp cách mạng. Ngay từ năm 1952, Người đã quy
những tệ nạn đó vào ba loại chính là tham ơ, lãng phí, quan liêu và Người coi đó
là tội ác, là kẻ thù nguy hiểm của nhân dân, là bạn đồng minh của thực dân,
phong kiến, là thứ “giặc nội xâm”, “giặc ở trong lòng”, phá từ trong phá ra.
Người khẳng định dứt khoát, phải kiên quyết chống lại những tệ nạn đó. “Cần
phải nêu những đồng chí đã ăn hối lộ ra để cho dư luận quở trách và cần phải
đuổi họ ra khỏi Đảng.... Phải lập tức đề nghị một đạo luật để trừng trị những vụ
hối lộ”.
Tạo ra được một phong trào quần chống rộng rãi tham gia trực tiếp vào
quá trình xây và chống là con đường hiệu quả nhất trong các cuộc vận động xây
dựng đạo đức mới của chúng ta, đó cũng là kinh nghiệm lớn mà Hồ Chí Minh đã
dày cơng chỉ đạo và thực hiện.
Ba là, phải tu dưỡng đạo đức suốt đời, kiên trì, bền bỉ, hàng ngày, bởi vì
“Đạo đức cách mạng khơng phải trên trời rơi xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện,
bề bỉ, hàng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng,
vàng càng luyện, càng trong”. Hồ Chí Minh cũng đã chỉ ra một hiện tượng mà đến
nay, chúng ta càng thấm thía vì tính thời sự của nó, đó là có những người trong lúc
đấu tranh thì trung thành, khơng sợ nguy hiểm, cực khổ... có cơng với cách mạng,
song đến khi có “ít quyền họn trong tay thì đâm ra kiêu ngạo, xa xỉ, phạm vào tham
ơ, lãng phí, quang liêu... mà biến thành người có tội với cách mạng”.
17


Theo quan điểm Hồ Chí Minh, đã là người thì ai cũng có chỗ hay, chỗ dở,
cái xấu, cái tốt, ai cũng có thiện, có ác ở trong bản thân mình, trong lịng mình.
Vì vậy, cần có cách nhìn biện chứng và nhân văn để phát triển cái thiện, đẩy lùi

cái ác trong mỗi con người và đặc biệt quan trọng là từng người phải rèn luyện,
tu dưỡng, dám đấu tranh với chính mình để làm cho “phần tốt ở trong mỗi người
nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu bị mất dần đi, đó là thái độ của người
cách mạng.
1.2.2.2. Xây dựng lối sống
Hồ Chí Minh cho rằng, lối sống mới là lối sống có lý tưởng, có đạo đức,
văn minh, tiên tiến, kết hợp tinh hoa của văn hóa dân tộc và nhân loại. Lối sống
bao gồm lối sống riêng của từng cá nhân và lối sống chung từng nhóm người,
rộng hơn là tồn xã hội.
Người mong muốn nhân dân ta có lối sống khiêm tốn, giản dị, chừng
mực, ngăn nắp, vệ sinh, yêu lao động, quý trọng thời gian, ít lịng tham muốn về
vật chất, chức quyền, danh lợi. Trong quan hệ với đồng chí, anh em thì chân
tình, ân cần, yêu quý và trân trọng con người; đối với mình thì nghiêm khắc; đối
với người thì khoan dung, độ lượng.
Xây dựng lối sống mới, theo Hồ Chí Minh phải bắt đầu từ những điều cơ
bản nhất nhưng cũng đơn giản nhất mà mọi người đều phải thực hành đó là ăn,
mặc, ở, đi lại, làm việc. Người viết: “Bất kỳ ai, muốn sống thì phải có bốn điều
ăn, mặc, ở, đi lại. Muốn có cơm ăn, áo mặc, nhà ở, đường đi, thì phải làm. Từ
trước đến giờ, ta vẫn có làm, vẫn có cơm, áo, nhà, đường sá. Nhưng vì làm chưa
hợp lý cho nên số đơng dân ta ăn đói, mặc rách, nhà cửa chật hẹp, đường sá gập
ghềnh. Người nghèo khổ thì nhiều, người no ấm thì ít. Đời sống mới khơng phải
cao xa gì, cũng khơng phải khó khăn gì. Nó khơng bảo ai phải hy sinh chút gì.
Nó chỉ sửa đổi những việc rất cần thiết, rất phổ thông, trong đời sống của mọi
người, tức là sửa đổi cách ăn, cách mặc, cách ở, cách đi lại, cách làm việc. Sửa
đổi được những điều đó, thì mọi người đều được hưởng hạnh phúc”[12, tr.113).
Người còn chỉ ra sự cần thiết phải “mới hóa” những thói quen, tập tục trong sinh
hoạt văn hóa; trong hội hè, cưới hỏi, ma chay, giỗ Tết; trong ăn, mặc, ở; trong
18



×