Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

Thái độ của học sinh trường THPT nguyễn thượng hiền TP đà nẵng đối với tệ nạn cờ bạc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.43 MB, 85 trang )

ỌC
N N
ỌC SƢ P
M
KHOA TÂM LÝ – ÁO DỤC

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

Thái độ của học sinh trƣờng T PT Nguyễn Thƣợng
TP. à Nẵng đối với tệ nạn cờ bạc

iền

Sinh viên thực hiện : Lê Nhƣ Linh Ngọc
Chuyên ngành: Tâm lý

iáo dục

Ngƣời hƣớng dẫn : Lê Thị Phi

Đà Nẵng, tháng 5/ 2013
1


MỞ ẦU
1. Lí do chọn đề tài.
Nước ta đang trên đà bước vào cơng cuộc cơng nghiệp hóa _ hiện đại hóa đất
nước. Bên cạnh những thời cơ mới mà cơng nghiệp hóa _ hiện đại hóa mang lại cho
chúng ta, cũng có nhiều khó khăn, thách thức và những bất cập mới mới, nổi bật lên là
mặt trái của tồn cầu hóa và cơ chế thị trường đã làm nảy sinh các vấn đề xã hội mang
tính phức tạp. Trong đó có sự gia tăng của các loại tệ nạn xã hội nói chung và đặc biệt


là sự gia tăng của tệ nạn cờ bạc.
Tệ nạn cờ bạc phát triển rộng trên tất cả các thành phố lớn nhỏ, từ thành thị đến
nông thôn, ở các khu dân cư với nhiều loại hình khác nhau mang tính đa dạng và
phong phú. Tệ nạn cờ bạc lan rộng khắp mọi tầng lớp trong đó có tầng lớp thanh niên
– học sinh. Tệ nạn cờ bạc không chỉ gây ảnh hưởng xấu đến người tham gia mà còn
gây ảnh hưởng đến những người xung quanh, làm gia tăng tệ nạn xã hội, gây mất trật
tự an toàn xã hội.
Theo đánh giá của cơ quan công an, bên cạnh sự gia tăng về số lượng, ngồi những
loại hình cờ bạc "truyền thống", thời gian qua nhiều đường dây đánh bạc, cá độ bóng đá qua
mạng internet cũng hoạt động khá mạnh, với số lượng tiền chuyển ra nước ngoài rất lớn. Từ
đầu năm đến nay, công an các đơn vị, địa phương đã phát hiện, triệt phá gần 2 nghìn vụ
đánh bạc, bắt và xử lý gần 9.600 đối tượng. Tệ nạn cờ bạc cịn diễn ra trên diện rộng, qua
cơng tác nắm tình hình địa bàn, trinh sát hình sự phát hiện tại nhiều khu vực công cộng như
bến xe buýt, quán cóc vỉa hè đã trở thành bãi đáp cho tệ nạn cờ bạc.
Năm 2010, lực lượng công an tỉnh Nghệ An phát hiện và xử lý 519 vụ đánh
bạc với 2.079 đối tượng, tăng 36 vụ (6,48%) so với năm 2009. So với cùng kì năm
2009, số đối tượng tham gia đánh bạc tăng 620 đối tượng (42,49%). Trong đó có 23 vụ
có 39 cán bộ cơng chức nhà nước và đảng viên tham gia, chiếm tỷ lệ 1,87%. Hình thức
chủ yếu là đánh phỏm, đánh liêng (262 vụ), ghi đề (128 vụ), xóc đĩa (43 vụ), cá độ
bóng đá (3 vụ)…Lực lượng công an đã thu giữ 2,8 tỷ đồng, 2.000 USD, 154 bảng cáp

2


đề, 331 ĐTDĐ, 5 ô tô, 171 mô tô, xe máy, 1 máy fax, 2 bộ vi tính…Điều đó là minh
chứng cho sự phát triển của tệ nạn cờ bạc trong xã hội hiện nay.
Nhận thức đầy đủ tính chất nghiêm trọng và tính cấp bách của tệ nạn cờ bạc,
các cấp lãnh đạo Đảng và Nhà nước đã có nhiều chính sách, chủ trương triệt phá và bắt
giữ các đối tượng liên quan đến tệ nạn cờ bạc bất cứ dưới hình thức nào bằng nhiều
biện pháp kiên quyết, đồng bộ nhằm ngăn chặn, từng bước đẩy lùi tệ nạn cờ bạc ra

khỏi đời sống xã hội.
Thanh niên – học sinh là lực lượng xã hội to lớn, một trong những nhân tố quan
trọng quyết định tương lai, vận mệnh dân tộc, là lực lượng chủ yếu trên nhiều lĩnh vực,
đảm nhận những cơng việc địi hỏi sự hy sinh, gian khổ, sức khỏe và sáng tạo. Thanh
niên – học sinh là độ tuổi sung sức nhất về thể chất và sự phát triển trí truệ, thanh niên
– học sinh luôn năng động, sáng tạo và luôn muốn tự khẳng định mình. Vị trí của
thanh niên – học sinh trong xã hội là lực lượng xung kích cách mạng, việc phát triển
và bồi dưỡng thế hệ thanh niên – học sinh là vấn đề sống còn của dân tộc. Và trong
công tác về tệ nạn cờ bạc, thanh niên – học sinh cũng là lực lượng xung kích, đóng vai
trị cốt cán tham gia tích cực vào các cơng tác liên quan đến tệ nạn cờ bạc. Thanh niên
– học sinh sẽ có những kiến thức, sự hiểu biết về tác hại của cờ bạc gây ra cho bản
thân họ và cho mọi người xung quanh. Nhưng trong thực tế nhiều thanh niên – học
sinh chưa tích cực tham gia cơng tác phịng chống tệ nạn cờ bạc. Hơn nữa, vấn đề thái
độ của thanh niên – học sinh đối với cơng tác phịng chống tệ nạn cờ bạc chưa được
nghiên cứu nhiều. Vì vậy, tơi chọn đề tài nghiên cứu “Thái độ của học sinh trường
THPT Nguyễn Thượng Hiền_TP. Đà Nẵng đối với tệ nạn cờ bạc” để nghiên cứu, từ đó
đưa ra những khuyến nghị góp phần định hướng thái độ đúng đắn, tích cực cho học
sinh trường THPT Nguyễn Thượng Hiền_TP. Đà Nẵng đối với tệ nạn cờ bạc đạt hiệu
quả.
2. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu thái độ của học sinh trường trung học phổ thông Nguyễn Thượng
Hiền_TP. Đà Nẵng về tệ nạn cờ bạc.
Đề xuất một số biện pháp tác động nhằm làm cho học sinh có thái độ tích cực
đối với tệ nạn cờ bạc.
3


3. Đối tượng nghiên cứu, khách thể nghiên cứu, khách thể khảo sát.
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Thái độ của học sinh trường trung học phổ thông

Nguyễn Thượng Hiền_TP. Đà Nẵng về tệ nạn cờ bạc.
3.2. Khách thể nghiên cứu và khách thể khảo sát
- Khách thể nghiên cứu: Học sinh trường trung học phổ thông Nguyễn Thượng
Hiền_TP. Đà Nẵng.
- Khách thể khảo sát: 300 em học sinh trường trung học phổ thông Nguyễn
Thượng Hiền_TP. Đà Nẵng.
4. Phạm vi nghiên cứu
Do điều kiện hạn chế nên trong đề tài này tôi chỉ tập trung nghiên cứu thái độ
của học sinh đối với tệ nạn cờ bạc trong phạm vi trường THPT Nguyễn Thượng
Hiền_TP. Đà Nẵng.
5. Giả thuyết khoa học
- Học sinh trường trung học phổ thông Nguyễn Thượng Hiền_TP. Đà Nẵng nhìn
chung đã có thái độ đối với tệ nạn cờ bạc tuy nhiên một số em học sinh chưa hiểu đúng
về tệ nạn cờ bạc.
- Thái độ đối với tệ nạn cờ bạc giữa các khối lớp, giữa nam và nữ học sinh của
trường có sự khác nhau.
6. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu các vấn đề lý luận chung về thái độ, tệ nạn, tệ nạn cờ bạc, thái độ
của học sinh về tệ nạn cờ bạc.
- Tìm hiểu thực trạng thái độ của học sinh trường trung học phổ thông Nguyễn
Thượng Hiền_TP. Đà Nẵng về tệ nạn cờ bạc.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm hạn chế và đẩy lùi tệ nạn cờ bạc, nâng cao
nhận thức, thái độ của các em học sinh về vấn đề này.
7. Phƣơng pháp nghiên cứu.
7.1. Phương pháp phân tích và tổng hợp lý thuyết
Để xây dựng hệ thống khái niệm làm cơ sở lý luận cho đề tài, tơi đã sử dụng
phương pháp phân tích và tổng hợp lý thuyết.

4



7.2. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi
Đây là phương pháp chủ yếu được sử dụng trong đề tài để thu thập thông tin về thái
độ của học sinh trường THPT Nguyễn Thượng Hiền_TP. Đà Nẵng về tệ nạn cờ bạc.
Bảng hỏi được xây dựng dựa trên cấu trúc của thái độ là: mặt nhận thức, mặt
xúc cảm_tình cảm và mặt hành vi của học sinh về vấn đề này.
7.3. Phương pháp phỏng vấn
Sử dụng phương pháp này nhằm thu thập thơng tin đầy đủ, chính xác hơn thái
độ của học sinh về tệ nạn cờ bạc nhằm bổ trợ cho quá trình điều tra bằng phương pháp
bảng hỏi.
7.4. Phương pháp thống kê trong toán học
Xử lý số liệu thu được, nhằm đưa ra những kết luận chính xác, khách quan cho
đề tài nghiên cứu, tôi sử dụng phương pháp thống kê trong tốn học: tính tỉ lệ % và
tính trung bình cộng.

5


NỘI DUNG
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN CHUNG CỦA Ề TÀI NGHIÊN CỨU
1.1. Tổng quan các nghiên cứu về thái độ
1.1.1. Các nghiên cứu ở trong nƣớc.
Ở Việt Nam, các cơng trình nghiên cứu về thái độ nói chung, thái độ xã hội nói
riêng cịn ít, nhiều chịu ảnh hưởng của Tâm lý học Liên Xô. Tuy nhiên, gần đây các
quan niệm của Tâm lý học Phương Tây về thái độ đã bắt đầu được các nhà Tâm lý học
Việt Nam chú ý. Có thể kể tới một vài tác giả như: “Thái độ đối với quan hệ tình dục
trước hôn nhân của sinh viên Học Viện Ngân Hàng, phân viện Thành phố Hồ Chí
Minh” (Lê Thị Trang - luận văn thạc sĩ), “Thái độ của sinh viên Đại học luật Hà Nội
đối với vịêc bảo vệ môi trường tự nhiên” (Chu Liên Anh - luận văn thạc sĩ). Nhìn
chung các nghiên cứu đều mang tính thực tiễn ở qui mô nhỏ. Việc nghiên cứu thái độ

mới chỉ bắt đầu thu hút sự chú ý của các nhà nghiên cứu Việt Nam.
Như vậy, Thái độ được các nhà Tâm lý học nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác
nhau, các tác giả đã dựa vào nhiều tiền đề lý thuyết khác nhau và đã xem xét thái độ
với những mục đích khác nhau. [14, tr.7]
1.1.2. Các nghiên cứu ở nƣớc ngoài.
1.1.2.1. Ở Liên Xơ và Cộng Hịa dân chủ ức
- Thuyết tâm thế: Ở Liên Xô (cũ) việc nghiên cứu thái độ chủ yếu dựa trên nền
tảng của Tâm lý học hoạt động (A.N. Leonchiev) và Tâm lý học tâm thế. Các nghiên
cứu theo trường phái tâm thế ít sử dụng khái niệm “thái độ” mà hay dùng khái niệm
tương đương là “tâm thế xã hội” khi giải thích hành vi xã hội của cá nhân.
Trong một cuốn từ điển Tâm lý học Nga, thái độ được coi là “tâm thế xã hội đã
được củng cố, có cấu trúc phức tạp bao gồm thành phần nhận thức, tình cảm, hành
vi”[14, tr.7]
- Thuyết thái đô – nhân cách: A.Ph.Lazurxki là người đầu tiên đề xuất việc
nghiên cứu thái độ trong Tâm lý học Xơ viết khi ơng nghiên cứu tính cách. Theo
6


A.ph.Lazurxki, khía cạnh quan trọng của nhân cách là thái độ của cá nhân đối với môi
trường, theo nghĩa rộng bao gồm giới tự nhiên, sản phẩm lao động và những cá nhân
khác, các nhóm xã hội và những giá trị tinh thần như khoa học, nghệ thuật.
A.Ph.Lazurxki đặc biệt chú ý đến thái độ cá nhân đối với nghề nghiệp, với lao động,
với sở hữu, với người khác và xã hội. Các thái độ này được ông coi là chủ đạo khi định
nghĩa tính cách và phân loại nhân cách.
Sau này dựa trên tư tưởng của A.Ph.Lazurxki và xuất phát từ lập trường Macxit,
V.N.Miaxisev đã đề ra thuyết tâm lý và thái độ chủ quan của cá nhân – đó là thuyết
“thái độ nhân cách”.
V.N.Miaxisev đã coi nhân cách như một hệ thống thái độ. Ông viết : “Thái độ
dưới dạng chung nhất là hệ thống trọn vẹn các mối liên hệ cá nhân, có chọn lọc, có ý
thức của nhân cách với khía cạnh khác nhau của hiện thực khách quan. Hệ thống này

xuất phát từ toàn bộ lịch sử phát triển của con người, nó thể hiện khái niệm cá nhân và
qui định hành động và các thể nghiệm của cá nhân từ bên trong”. Như vậy, theo
V.N.Miaxisev, dưới góc độ Tâm lý học, thái độ là điều kiện khái quát bên trong của hệ
thống các hành động của con người. Thái độ có các tính chất cơ bản là: tính có ý thức,
tính trọn vẹn, tính có hệ thống. Tuy nhiên, V.N.Miaxisev lại cho rằng: nhu cầu, hứng
thú, tình cảm, ý chí, thị hiếu, tính cách, các quá trình tâm lý, sự đánh giá đều là thái độ.
Ông viết: “Tất cả các dạng hoạt động tâm lý hiểu theo nghĩa rộng có thể xem như một
dạng nào đó của thái độ”.
Như vây, với “thuyết thái độ nhân cách”, V.N.Miaxisev là một trong những
người đặt nền móng cho Tâm lý học thái độ theo quan điểm Macxit. Tuy vậy, “ Thuyết
thái độ nhân cách” cịn có một số hạn chế nhất định. Nó chưa làm rõ được ảnh hưởng
qua lại giữa quan hệ xã hội với thái độ chủ quan của cá nhân đối với hiện thực khách
quan. Việc ông xếp các quan hệ xã hội ngang hàng với thái độ, nhận thức, xúc cảm, ý
chí, thị hiếu là chưa thỏa đáng. Cũng như ông coi một loạt các hiện tượng tâm lý nêu
trên là chưa có cơ sở khoa học.[14, tr.8]
- Thuyết định vị: Khắc phục các sai lầm của phương pháp nghiên cứu thái độ và
tâm thế là: chỉ nghiên cứu trong phịng thí nghiệm, trong môi trường vi mô, Iađôp. V.N
đã phát triển khái niệm tâm thế và đưa ra „thuyết định vị”. Theo thuyết này, hệ thống
7


định vị của cá nhân bao gồm tâm thế, tâm thế xã hội, xu hướng cơ bản của hứng thú,
hệ thống định hướng giá trị xã hội. Như vây, tâm thế chỉ là một dạng định vị, điều
chỉnh hành vi, phản ứng của cá nhân trong những tình huống đơn giản. Khi có sự gặp
gỡ của nhu cầu, hệ thống định vị này được sắp xếp theo thứ bậc từ thấp đến cao điều
chỉnh hành vi xã hội của cá nhân. Trong một hệ thống định vị, định vị bậc cao có thể
chi phối định vị bậc thấp [14, tr.9]
- Thuyết thái độ chủ quan: Khi nghiên cứu nhân cách, Ph.Lơmơv đã phân tích
vai trị định hướng của giá trị, sự liên kết, sự ràng buộc. Sự tình cảm, ác cảm, hứng thú
và các mặt khác trong nhân cách, từ đó ơng cho rằng, khái niệm chung nhất chỉ rõ các

đặc điểm nêu trên của nhân cách là khái niệm “thái độ chủ quan của cá nhân”. Vì theo
Lơmơv, “thái độ” ở đây không chỉ là mối quan hệ khách quan của cá nhân với xung
quanh, mà còn bao hàm cả việc đánh giá, biểu hiện hứng thú của cá nhân.[14, tr.9]
- Theo quan điểm của tâm lý học Macxit: Thái độ là sự sẵn sàng của cá nhân để
phản ứng với một tình huống hay một phức thể tình huống, thái độ vốn có xu hướng rõ
rệt, hình thành theo qui định nhất quán phương thức xử thế của các cá nhân.[14, tr.9]
Tóm lai, nhờ vận dung cách tiếp cận hoạt động và nhân cách trong nghiên cứu
thái độ, gắn thái độ với xu hướng cá nhân, với các điều kiện hoạt động, coi thái độ là
một hệ thống có thứ bậc. Tâm lý học Xơ viết đã đưa ra cách lý giải hợp lý về thái độ, vị
trí của thái độ trong cấu trúc nhân cách, về chức năng thái độ trong điều chỉnh hành vi.
1.1.2.2. Ở phƣơng Tây
Vấn đề thái độ thường xuyên là trọng tâm nghiên cứu của các nhà khoa học,
gồm có 3 thời kỳ
- Thời kì đầu tiên (từ năm 1918 đến chiến tranh thế giới thứ hai): W.l.thomas và
F.Znanecki (Mỹ), là những người đầu tiên sử dụng khái niệm thái độ khi nghiên cứu sự
di cư của công dân Ba Lan sang Mỹ, trong thời kỳ này, các cơng trình nghiên cứu tập
trung vào định nghĩa, cấu trúc, chức năng, mối quan hệ thái độ hành vi. Đáng chú ý
là có tác giả đã phát hiện không nhất quán giữa thái độ và hành vi (nghịch lí
Lapier).[14, tr.10]
- Thời kì thứ hai (từ chiến tranh thế giới thứ hai đến cuối những năm 50): Nét
đặc trưng của nghiên cứu thái độ trong thời kỳ này là sự hoài nghi của thái độ trong
8


việc nghiên cứu hành vi. Vì lí do chiến tranh cộng với sụ bế tắc trong lý giải các
nghịch lý xãy ra khi nghiên cứu thái độ mà số lượng các cơng trình nghiên cứu thái độ
trong thời kỳ này có sự giảm sút đáng kể.[14, tr.10]
- Thời kì thứ ba (từ cuối những năm 50 đến nay): Đây là thời kì bùng nổ các
cơng trình nghiên cứu thái độ. Tâm lý học xã hội, vấn đề thía độ có một vị trí xứng
đáng. Các nghiên cứu tiếp tục đưa ra những quan niệm mới về định nghĩa, cấu trúc,

chức năng thái độ như M.Rokeach (1968), T.M. Ostron (1969).[14, tr.10]
Vào thời kỳ này đã xuất hiện những “tiểu lí thuyết” giải thích mối quan hệ thái
độ, hành vi, các phương pháp nghiên cứu, hình thành thay đổi thái độ như thang đo
thái độ, “kĩ thuật lấn từng bước( Foot – in the door)”.
Các lý thuyết về thái độ đã tìm các mối quan hệ giữa thái độ và hành vi “Thuyết
bất động nhận thức (leon festinger), “thuyết tự thể”, “thuyết tự tri giác”
Kết quả trên cho thấy, khi nghiên cứu thái độ chủ quan của cá nhân Attitude,
cách tiếp cận Tâm lý học Xơ viết và Phương Tây có sự khác biệt cơ bản. Trong Tâm lý
học Phương Tây, chúng được lý giải như là “cấu trúc lý luận” mà ý nghĩa của nó thể
hiện ở việc giúp đỡ cho hệ thống hoá các số liệu kinh nghiệm. Các hiện tượng được lý
giải có thể qui về các Attitude nhưng các cơ sở khách quan của chúng không đựoc làm
rõ. Người ta khẳng định rằng, sự thay đổi, xuất hiện các hiện tượng đó là sự ngẫu
nhiên. Khi nói đến cơ sở khách quan của Attitude, đôi khi người ta cố tìm ra các thuộc
tính di truyền, sinh lý cá nhân. Theo nhà nghiên cứu Xô viết P.M.Shikhỉev việc nghiên
cứu thái độ trong tâm lý học Phương Tây, một mặt càng có nhiều cơng trình và các
phương pháp nghiên cứu thái độ, mặt khác bế tắc về phương pháp luận trong việc lý
giải các số liệu thực nghiệm. Dựa vào thuyết hành vi mới, Tâm lý học nhận thức và các
thuyết khác, các nghiên cứu khơng giải thích được các mâu thuẫn giữa thái độ và hành
vi, tách rời thái độ khỏi hoàn cảnh xã hội và hoạt động.
Xu thế chung của nghiên cứu thái độ hiện nay ở Phương Tây là nghiên cứu ứng
dụng, phục vụ cho nhiều mục đích khác nhau.
1.2. Các khái niệm cơ bản đƣợc sử dụng trong đề tài
1.2.1. Lí luận về thái độ
1.2.1.1. Các lí thuyết về thái độ
9


- Thuyết hành động hợp lý: Ajzen và Fishbein phát triển lý thuyết hành động
hợp lý trên cơ sở giả định rằng con nguời thưòng hành xử theo cách nhạy cảm, tính
đến thơng tin và thái độ của mình trong hành động.

Trong mô tả này xuất phát từ sự kết hợp hai yếu tố cơ bản: Thứ nhất là thái độ
của cá nhân trái với hành vi hay những quan điểm của họ. Thứ hai là nhận thức áp lực
xã hội của cá nhân phải thực hiện hay không thực hiện hành động, điều này gọi là tiêu
chuẩn chủ quan. Có nghĩa là chúng ta chú ý thực hiện một hành vi nếu chúng ta đánh
giá nó tích cực và thấy rằng hành vi đó đã được xã hội chấp nhận, ủng hộ, chúng ta
thuờng hành động theo những chuẩn mực, tiêu chuản thuờng có trong xã hội. Những
điều này dựa vào kinh nghiệm của bản thân truớc một sự vật hiện tượng nào đó, trên
cơ sở kinh nghiêm gắn kết với hành vi của chúng ta theo một tình huống cụ thể, từ đó
đánh giá hành vi đó là hợp lý hay khơng hợp lý, khi đó sẽ hình thành nên thái độ của
cá nhân.[1, tr.12]
Những tiêu chuẩn xã hội này chủ yếu nằm trong một nhóm xã hội cụ thể. Và
khi cá nhân tham gia vào một nhóm xã hội nào đó sẽ cũng thực hiện theo những tiêu
chuẩn, chuẩn mực này.
- Thuyết cân bằng của Heider: Ông cho rằng tìm hiểu nhận thức hay quan điểm
của con người về các mối quan hệ của họ là tiền đề để tìm hiểu các hành vi xã hội của
họ. Theo ơng con nguời ln có mong muốn thái độ của mình sẽ ln nhất qn với
nhau, do đó nếu nó khơng nhất qn sẽ gây nên tình trạng mất cân bằng nhận thức,
điều này có thể dẫn đến sự mệt mỏi, căng thẳng cho con nguời, vì vậy họ sẽ ln có xu
huớng tìm kiếm sự cân bằng trong thái độ.
Heider áp dụng nguyên tắc cân bằng bộ đôi và bộ ba trong việc tìm hiểu các
mối quan hệ cá nhân và tìm hiểu thái độ. Mối quan hệ dễ chịu giữa hai nguời là cân
bằng bộ đôi, nếu mối quan hệ mất cân bằng sẽ gây nên sự hiểu lầm, căng thẳng và có
thể phá vỡ mối quan hệ. Ông cho rằng căng thẳng tạo nên bộ ba, mất cân bằng cũng
tạo ra áp lực thay đổi sao cho chúng ta lấy lại sự cân bằng nhận thức. Những điều này
liên quan đến những tình huống trực tiếp và cụ thể khác nhau.[1, tr.12-13]
Sau này, các nhà nghiên cứu thường có cái nhìn tích cực hơn so với bộ ba và
đánh giá rằng con người chúng ta thường có thái độ tích cực nhiều hơn là tiêu cực.
10



Chúng ta thấy bộ ba có thái độ tích cực giữa một cá nhân với một đối tượng thái độ dễ
học và dễ nhớ hơn.
- Thuyết đồng hoá tương phản: Sherif và Hovland cho rằng con người thường
sử dụng kinh nghiệm cá nhân của riêng mình như mọt chuẩn đánh giá các phát biểu
khác. Vì thế nếu cá nhân đó nhận thấy rằng việc đó là có thể chấp nhận được sẽ đánh
giá có lợi hơn và tích cực hơn giống với suy nghĩ của họ so với thang điểm chung.
Điều này gọi là tác dụng đồng hố.[1, tr.13]
Từ đó hai ơng dự đốn rằng có tác dụng tương phản tức là ta sẽ có đánh giá và
phát biểu mang tính cực đoan tiêu cực hơn nếu nó trái với nhìn nhận kinh nghiệm của
cá nhân ta. Và nếu những phát biểu này mang tính kinh nghiệm cá nhân trong một giới
hạn nhất định nào đó thì ta hồn tồn có thể thay đổi thái độ đó được, và nó nằm trong
một phạm vi gọi là phạm vi chấp nhận được. Con người cũng sẽ dễ dàng thay đổi
những quan niệm của mình về một sự vật hiện tượng nào đó để những phát biểu và
hành vi của mình trở nên phù hợp hơn so với người khác và so với những chuẩn mực
chung. Thái độ này dễ dàng thay đổi nếu những quan niệm, suy nghĩ, cách đánh giá
của họ về một điều gì đó là khơng được chắc chắn lắm.
Đôi khi phát biểu rất cực đoan tạo ra tác dụng mà Sherif và Hovland gọi là tác
động dội lại. Sự tương phản được hình thành do sự khác nhau giữa phát biểu và giá trị
riêng của cá nhân mạnh đến mức tạo ra sự thay đổi hoàn toàn trái ngược với thái độ
theo chủ ý. Mặc dù hầu hết nhũng tác động dội lại là không phổ biến, chúng ta thường
có những khuynh hướng bị những phát biểu rơi vào phạm vi chấp nhận tác động vì
chúng ta đang đồng hóa chúng dễ hơn.
1.2.1.2. Khái niệm thái độ
Thái độ là một hiện tượng tâm lý được nghiên cứu nhiều trong tâm lý học xã
hội, ngay từ năm 1935 trong “sổ tay tâm lý học xã hội” Allport đã cho rằng “Thái độ
có lẽ là khái niệm phân biệt nhất và quan trọng nhất trong tâm lý học hiện đại xã hội
Mỹ”. Nhiều nhà khoa học đã định nghĩa thái độ xã hội thực tế là khoa học nghiên cứu
các thái độ. Có nhiều người cho rằng quan điểm đó là thái quá. Nhưng thực tế mấy
chục năm qua đã chứng minh rằng tuyên bố của Allport có giá trị dự đoán. Năm mươi
năm sau, năm 1985 trong cuốn “sổ tay tâm lý học xã hội” của tác giả Kiliam McGuire,

11


ông đã tổng kết rằng “Thái độ và sự thay đổi thái độ vẫn là một trong những đề tài
được nghiên cứu nhiều nhất trong tâm lý học xã hội”.
Người đầu tiên sử dụng khái niệm thái độ như một đặc tính quan trọng của một
vấn đề là Thomas và Znanicki – hai nhà nghiên cứu Mỹ. Trong những nghiên cứu của
mình về thái độ hai ơng cho rằng: Thái độ là trạng thái tinh thần của cá nhân đối với
một giá trị.
Allport lại coi nhân cách như là một tổ chức bên trong cơ động, một cái tơi siêu
hình nào đó bao gồm các mục đích, các thái độ được hiện thực hoá bằng hành vi và tư
duy. Năm 1935 ông định nghĩa: “Thái độ là trạng thái sẵn sàng về mặt tinh thần và
thần kinh được tổ chức thông qua kinh nghiệm sử dụng sự điều chỉnh hoặc ảnh hưởng
năng động trong phản ứng của cá nhân với tất cả các khách thể và tình huống mà nó có
mối quan hệ”. “Thái độ là cách phản ứng của một người theo cách có lợi hoặc bất lợi
với các đối tượng và tình huống mà người đó gặp phải”. Định nghĩa này bao hàm cả
nghĩa thái độ là trạng thái sẵn sàng của tâm thần kinh cho hoạt động tâm lý hoặc sinh
lý, thái độ chuẩn bị, định hướng cho cá nhân với một hoạt động nào đó và thái độ điều
chỉnh hành vi của con người.
Tiếp cận dưới quan điểm của tâm lý học nhân cách Guilford (1964) đã cho rằng
nhân cách là cấu trúc độc đáo, có cấu trúc gồm 7 khía cạnh (nhu cầu, hứng thú, khí
chất năng lực, giải phẫu hình thành, thái độ) để đưa ra khái niệm về thái độ. Theo ông:
Thái độ là những cử chỉ, phong thái, ý nghĩ liên quan đến những hồn cảnh xã hội. Ở
khái niệm này ơng chỉ ra rằng thái độ của con người có mối quan hệ chặt chẽ với
những hoàn cảnh xã hội cụ thể.
Cũng tiếp cận theo quan điểm này thì Miaxisev lại cho rằng: Thái độ là nòng
cốt của nhân cách, là điều kiện khách quan bên trong của hệ thống các hành vi con
người, và là mặt quan trọng biểu hiện rõ nhất trong nhân cách con người.
R.Martens lại cho rằng “Thái độ là xu hướng thường xuyên đối với tình huống
xã hội, nó biểu thị sự thống nhất của ý nghĩ, tình cảm và hành động”. Thái độ của con

người có mối quan hệ chặt chẽ với hành vi bởi thế được xác định bởi tính thống nhất
bên trong. Quan điểm này khẳng định thái độ là một cấu trúc có hệ thống, thái độ thể
hiện ý nghĩ, xúc cảm bên trong con người mà được biểu hiện thông qua hành vi. Và
quan điểm của Martens giống với quan điểm của Guilford về thái độ.
12


Hfillmore thì định nghĩa: Thái độ là sự sẵn sàng phản ứng tích cực hay tiêu cực
đối với đối tượng hay các đối tượng hay các ký hiệu trong môi trường thái độ là sự
định hướng của cá nhân đến các khía cạnh khác nhau của mơi trường và là cấu trúc có
tính cơ động.
Theo Newcome thì thái độ của cá nhân đối với một khách thể nào đó là: “Thiên
hướng hành động, nhận thức, tư duy, cảm nhận của anh ta với khách thể liên quan”.
Đó là sự sẵn sàng phản ứng. Những gì mà chúng ta tin là đúng và có một thái độ nhất
định về một khách thể nào đó hay một nhóm nào đó sẽ đóng một vai trò hiển nhiên
trong việc quy định sự sẵn sàng phản ứng theo một cách thức nhất định của chúng ta.
Tuy nhiên định nghĩa này chưa bao hàm một thực tế rằng trong nhiều trường hợp quá
trình này diễn ra phức tạp hơn nhiều.
Tác giả Philipkotkie thì cho rằng: Thái độ là sự đánh giá tốt hay xấu của cá thể
được hình thành trên cơ sở tri thức hiện có và bền vững về một khách thể hay một ý
tưởng nào đó quy định phương hướng hành động. Định nghĩa này chỉ ra được mặt
đánh giá của cá nhân với một sự vật hiện tượng nào đó trong cuộc sống, chính sự đánh
giá là tốt hay xấu này quy định thái độ của cá nhân đối với sự vật hiện tượng đó.
Như vậy các định nghĩa trên của các nhà tâm lý học được diễn đạt bằng nhiều
hình thức khác nhau nhưng đều có chung một điểm là nghiên cứu thái độ theo quan
điểm chức năng thái độ định hướng hành vi ứng xử các vấn đề xã hội.
Ở Việt Nam cũng có những tác giả và tài liệu đề cập đến vấn đề thái độ.
Trong Từ điển Tiếng Việt – Hoàng Phê (chủ biên) cho rằng: “Thái độ là tổng
thể nói chung những biểu hiện ra ngồi (nét mặt, cử chỉ, lời nói, hành động) của ý
nghĩ, tình cảm đối với ai hoặc sự kiện nào đó trước một vấn đề.

Theo từ điển Tâm lý học của Nguyễn Khắc Viện thì trước một đối tượng nhất
định, nhiều người thường có phản ứng tức thì, tiếp nhận dễ dàng hay khó khăn, đồng
tình hay chống đối như đã có sẵn, tri giác về đối tượng cũng như tri thức bị chi phối về
vấn đề thì thái độ gắn liền với tâm thế.
Trong từ điển Tâm lý học (Vũ Dũng chủ biên) thì lại cho rằng: Thái độ là
những phản ứng tức thì tiếp nhận dễ dàng hay khó khăn, đồng tình hay chống đối như
đã có sẵn những cơ cấu tâm lý tạo ra định hướng cho việc ứng phó.
13


Trong Tâm lý học xã hội thái độ là sự sẵn sàng ổn định của cá nhân để phản
ứng lại tình huống gắn liền với một cá nhân đó. Và đối với một số nhà tâm lý học Việt
Nam thái độ thường là biểu hiện của tính cách. Thái độ chính là phản ứng của con
người trước thực tiễn mơi trường sống, thái độ đó có thể là tiêu cực hoặc tích cực tuỳ
thuộc vào nhận thức cũng như xúc cảm của cá nhân trước sự việc đó như thế nào.
Qua đó ta thấy cả trên thế giới và ở Việt Nam có rất nhiều các định nghĩa khác
nhau về thái độ, mỗi định nghĩa thường tiếp cận dưới một góc độ nhưng đều có những
điểm chung nhất định về khái niệm thái độ. Qua việc phân tích khái niệm của các tác
giả về thái độ, nắm bắt được những nội hàm cơ bản trong khái niệm thái độ, tôi xin rút
ra khái niệm thái độ cho đề tài của mình như sau: Thái độ là trạng thái tinh thần có
tính đặc trưng của con người, đó là sự sẵn sàng phản ứng với một đối tượng nào đó
liên quan đến chủ thể và nó được thơng qua kinh nghiệm, sự hiểu biết của con người.
Thái độ có tác dụng điều chỉnh, ảnh hưởng hoặc tác động tới hành vi hoặc tình huống
và khách thể mà nó tham gia. Sự đánh giá thái độ là sự đánh giá theo hướng cụ thể là
thái độ tiêu cực hoặc tích cực, khơng có thái độ một cách chung chung khơng rõ ràng.
[1, tr.17]
1.2.1.3.

ặc điểm của thái độ


Năm 1957 G.W.Allport đã rút ra 5 đặc điểm của thái độ:
+ Thái độ là trạng thái tinh thần của hệ thần kinh
+ Thái độ là sự sẵn sàng phản ứng
+ Thái độ là trạng thái có tổ chức
+ Thái độ được hình thành trên cơ sở kinh nghiệm quá khứ
+ Thái độ điều khiển và ảnh hưởng tới hành vi [1, tr.17]
1.2.1.4. Chức năng của thái độ
Tổng kết ý kiến của các nhà nghiên cứu có thể thấy thái độ xã hội có một ssố
chức năng chủ yếu sau:
- Chức năng thích nghi: Tuỳ vào những trường hợp cụ thể mà con người thay đổi thái
độ do tác động của môi trường xung quanh để phù hợp hơn. [1, tr.18]

14


- Chức năng nhận thức: Nhờ có thái độ mà chủ thể biết cách phải ứng xử như thế nào
trong các tình huống khác nhau một cách đơn giản, tiết kiệm thời gian sức lực năng
lực thần kinh. [1, tr.18]
- Chức năng biểu hiện: Thái độ là phương tiện giúp con người biểu lộ cảm xúc, đánh
giá, hoạt động và thể hiện giá trị nhân cách của mình. [1, tr.18]
- Chức năng bảo vệ: Thái độ giúp con người tìm cách tự bào chữa, tìm lý do giải thích,
hợp lý hố hành vi của mình, giảm bớt xung đột nội tâm. [1, tr.18]
- Chức năng tiết kiệm, trí lực: Cá nhân tiết kiệm trí lực, năng lực thần kinh, cơ bắp
trong hoạt động nhờ các khuôn mẫu hành vi quen thuộc. [15, tr.19]
- Chức năng thỏa mãn nhu cầu: Thái độ được hình thành như là kết quả củ những
thành công hay thất bại trong quá khứ mỗi con người sau khi được hình thành, thái độ
vẫn tiếp tục có ích trong công việc giúp con người thỏa mãn các nhu cầu hoặc đạt
được các mục đích. [15, tr.19]
- Chức năng điều khiển hành vi và hoạt động: Đây là chức năng mà các nhà TLH chú
ý, quan tâm hơn cả, họ tập trung làm rõ các cơ chế, thực hiện các chức năng của thái

độ, tìm ra các điều kiện để các chức năng đó được thực hiện. [15, tr.19-20]
1.2.1.5. Cấu trúc của thái độ
Các nhà tâm lý học đều nhất trí với cấu trúc 3 thành phần của thái độ do Smith
(1942) đưa ra. Theo ông thái độ bao gồm nhận thức, tình cảm và hành vi của cá nhân
với đối tượng.
+ Yếu tố nhận thức: [15, tr.16-17]
Nhận thức là kiến thức của cá nhân về đối tượng của thái độ, cho dù kiến thức
đó có tương ứng hay khơng tương ứng, tức là có đúng hay khơng.
Nhận thức là yếu tố tiền đề, đầu tiên của thái độ, klhi đứng truóc một đối tượng
nào đó người ta sẽ khơng có thái độ nếu như khơng biết gì về đối tượng đó.
Con người có thể đạt đến những mức độ nhận thức khác nhau: Mức độ thấp là
nhận thức cảm tính bao gồm cảm giac, tri giác, ở mức độ cao là nhận thức lý tính bao
gồm tư duy, tưởng tượng. Hai mức độ này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, bổ sung
cho nhau, chi phối lẫn nhau trong cùng một hoạt động thống nhất của con người.

15


Nhận thức trong cấu trúc của thái độ thể hiện chủ yếu ở những quan điểm,
những đánh giá của chủ thể về đối tượng của thái độ. Đặc biệt một trong những yếu tố
quan trọng nhất trong nhận thức của thái độ là quan điểm và đánh giá về mối quan hệ
mà đối tượng của thái độ có được đối với mục đích quan trọng nào đó.
Nhận thức là một quá trình lĩnh hội tri thức kinh nghiệm, nhờ tri thức có được
về đối tượng mà chủ thể có cảm xúc và có khả năng đánh giá đối tượng.
+ Yếu tố xúc cảm, tình cảm: [1, tr.19-20]
Xúc cảm, tình cảm là thái độ rung cảm của cá nhân đối với sự vật, hiện tượng
liên quan đến nhu cầu, cuộc sống của con người. Thể hiện ở sự hài lòng, dễ chịu, đồng
cảm, vui sướng, mừng rỡ hoặc khó chịu, bất bình, tức giận… tức là có vảm tình hay
khơng có cảm tình với đối tượng và ở sự rung động, quan tâm chú ý đến đối tượng.
Xúc cảm tình cảm là sự biểu thị thái độ của cá nhân đối với các hiện tượng xảy

ra trong hiện thực có liên quan mật thiết đến việc thoả mãn hay không thoả mãn các
nhu cầu của cá nhân.
Xúc cảm tình cảm thúc đẩy con người trong hoạt động, giúp họ vượt qua khó
khăn trở ngại trong cuộc sống, thúc đẩy và tạo điều kiện cho cá nhân nhận thức về đối
tượng. Chính xúc cảm tình cảm đã làm cho tư duy về đối tượng tốt hơn và ảnh hưởng
trực tiếp đến hành vi của họ. Vì vậy yếu tố xúc cảm tình cảm tình cảm được xem như
một chỉ bảo quan trọng khi nghiên cứu về thái độ.
Tuy nhiên trong quan hệ với đối tượng, xúc cảm luôn luôn mang sắc thái chủ
quan của cá nhân. Dựa vào tình cảm người ta thường gán cho đối tượng những thuộc
tính mà có thể đối tượng khơng có, tạo nên sự nhân thức sai lệch về đối tượng “Yêu
nên tốt, ghét nên xấu”, phản ánh rõ ràng ảnh hưởng của tình cảm với nhận thức.
+ Yếu tố hành vi: [15, tr.18]
Hành vi được coi như là một cấp độ của thái độ, đó là những biểu hiện ra bên
ngoài hay xu hướng hoạt động của cá nhân với đối tượng của thái độ và chia làm 2
loại: Hành vi tích cực và hành vi tiêu cực
Hành vi có thể biểu hiện ra bên ngồi và được người khác đánh giá còn thái độ
bên trong đối tượng với hành vi đó của bản thân được thể hiện ở sự tự đánh giá theo
chuẩn mực mà chủ thể đã cảm nhận.
16


1.2.1.6. Cơ chế hình thành thái độ
Nhà tâm lý học người Đức M.Vorwerg và H.Hiebsch cho rằng thái độ được
hình thành thông qua 4 cơ chế tâm lý xã hội sau:
- Bắt chước: Đó là sự hình thành thái độ bằng con đường tự phát là học các
phương thức hành vi hoặc phản ứng mà không cần sử dụng những kỹ thuật giáo dục
theo một phương thức nào cả. [1], [15]
- Đồng nhất hóa: Đồng nhất hóa là sự bắt chước một cách tự giác, có ý thức.
Tức là quá trình chủ thể thống nhất bản thân mình với cá nhân khác của nhóm này hay
nhóm khác dựa trên mối liên hệ xúc cảm và đồng thời chuyển những chuẩn mực, giá

trị vào thế giới nội tâm của mình. Hay nói cách khác, đó chính là q trình cá nhân tự
đặt mình vào người khác để có những ý nghĩa và hành động như người khác. [1], [15]
- Giảng dạy: Đây là một cách đặc biệt của việc truyền đạt thông tin, nghĩa là cá
nhân được người khác chủ động tác động tới nhằm thông báo truyền thụ thông tin. [1],
[15]
- Chỉ dẫn: Là hình thức hình thành thái độ địi hỏi chủ thể phải hành động tích
cực theo hướng chỉ dẫn nào đó trong q trình tiếp thu, lĩnh hội tri thức. [1], [15]
Ta có thể thấy rằng, bốn cơ chế trên tuy khác nhau song đều ảnh hưởng tới sự
hình thành, củng cố hay thay đổi thái độ.
1.2.1.7. Phân loại thái độ
Từ các quan điểm khoa học khác nhau, các nhà tâm lý học đã đã có sự phân loại
thái độ theo các cách khác nhau. Chẳng hạn: dựa vào tính chất của thái độ,
V.N.Miasixev đã chia thái độ thành các loại là thái độ tích cực, thái độ trung tính, phân
cực. Biểu hiện của nó có thể là phản ứng hoặc đánh giá thích hay khơng thích, đồng ý
hay khơng đồng ý.
B.Ph.Lomov lại dựa vào tính chi phối của thái độ để chia thái độ thành hai loại
là thái độ chủ đạo hay thứ yếu. Các loại thái độ chủ đạo (hay chi phối) là các loại thái
độ có liên quan đến mục đích sống và động cơ chủ đạo của cá nhân, chi phối toàn bộ
hệ thống thái độ.

17


Dựa vào cách phân loại trên, chúng tôi xác định trong đề tài của mình, thái độ
được phân thành 3 loại như sau: Thái độ tích cực, thái độ chưa tích cực, thái độ tiêu
cực. Cụ thể: [1, tr.22-23]
- Thái độ tích cực (loại A) thể hiện: Nhận thức đúng, thái độ cảm xúc phù hợp,
hành vi phản ứng tích cực.
- Thái độ chưa tích cực (Loại B) thể hiện: Nhận thức đúng, thái độ cảm xúc phù
hợp nhưng hành vi phản ứng chưa đúng.

- Thái độ tiêu cực (loại C) thể hiện: Nhận thức sai, thái độ chưa phù hợp, hành
vi phản ứng chưa đúng.
1.2.2. Lí luận về tệ nạn cờ bạc
1.2.2.1. Khái niệm về tệ nạn cờ bạc
Các trò chơi “đỏ đen” đã khá phổ biến trong các tầng lớp nhân dân và từ lâu đã
trở thành vấn nạn xã hội. Tới nay, tệ nạn đó đã len lỏi vào nhà trường, những người
thầy đã trở thành con thiêu thân của trị chơi sát phạt này. Do đó, việc tìm hiểu khái
niệm cơ bản về “đánh bạc” là rất cần thiết. Nó giúp cho mọi người hiểu rõ hơn về tệ
nạn đánh bạc.
“ Đánh bạc là được thua bằng tiền hay lợi ích khác trên cơ sở một kết quả
không hiển nhiên hoặc một biến cố sẽ xảy ra trong tương lai. Thông thường, các kết
quả hay biến cố nói trên sẽ biết được rõ ràng, trong thời gian ngắn. Ngoài ra, đánh bạc
cũng được hiểu khác nhau tùy thuộc vào bối cảnh văn hóa, lịch sử”. [11]
Cờ bạc là một tệ nạn xã hội, một hiện tượng xã hội tiêu cực gây ra thiệt hại
nghiêm trọng làm cho đạo đức xã hội xuống cấp, quan hệ giữa người với người trở nên
hận thù vì thua bạc, gây tan vỡ gia đình và là nguồn phát sinh các tội phạm trộm cắp,
lừa đảo, gây rối trật tự công cộng. Việc nhiều cán bộ Nhà nước lấy tiền đi cá độ hay
đánh đề đã xâm hại trực tiếp đến tài sản xã hội chủ nghĩa. Và việc đấu tranh, phòng
ngừa và bài trừ tệ nạn đánh bạc ra khỏi xã hội là yêu cầu cấp bách, và là nhiệm vụ
chung của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân chứ không phải của riêng cá nhân, hay cơ
quan chức năng nào.

18


Đánh bạc được hiểu là nhiều người (ít nhất là hai ngươi trở lên) cùng tham gia
thực hiện hành vi dưới bất kỳ hình thức nào với mục đích được thua bằng tiền hay hiện
vật.
Tệ nạn cờ bạc xâm phạm trực tiếp đến tài sản, nhân phẩm con người, một số ít
trường hợp cịn xâm phạm đến tài sản của Nhà nước và xã hội.

Nhiều người đánh bạc, số đề nhận thấy trước hậu quả thiệt hại cho xã hội, cho
gia đình và cho chính bản thân họ do hành vi của mình gây ra, nhưng vẫn hy vọng
“thắng”, “trúng” và hy vọng, tin tưởng các rủi ro, không may mắn sẽ không xảy ra.
Tổ chức đánh bạc: Được hiểu là hành vi tập hợp, rủ rê, lôi kéo nhiều người
tham gia vào việc đánh bạc.
Gá bạc: Được hiểu là hành vi cho thuê, cho mượn, hoặc cho thuê, đi mượn địa
điểm, phương tiện để cho người khác sử dụng làm nơi tụ tập đánh bạc. [11]
1.2.2.2. Các hình thức của cờ bạc
Cờ bạc là một hiện tượng xuất hiện rất sớm trong lịch sử xã hội lồi người nói
chung và ở Việt Nam nói riêng. Ngày nay, tệ nạn đánh bạc đang có xu hướng phát
triển nhanh chóng ở khắp mọi nơi trên thế giới. Nó khơng chỉ tồn tại ở các nước phát
triển mà ngay cả các nước chậm phát triển. Tệ nạn đánh bạc ở trên thế giới và ở Việt
Nam phổ biến chủ yếu dưới ba hình thức sau:
* Cờ bạc chun nghiệp
Trong các sịng bài dạng casino, hình thức đánh bài chủ yếu là sóc đĩa. Do đời
sống kinh tế tăng trưởng, nhiều người có tiền của mải mê ăn thua trong đó có các bọn
cầm đầu các nhóm lưu manh, tham nhũng, bn lậu đã lao vào các sịng bạc, ném vào
đó bạc triệu. Những “xới bạc” hiện nay có tổ chức chặt chẽ, hoạt động mang tính
thường xun chứ khơng như trước đây tự lập, tự phát. Xới cờ bạc có chủ xới phụ
trách chung, có người đứng đầu thu tiền “hồ” của con bạc, có bọn bảo kê thường là
những đối tượng đầu gấu, có tiền án, tiền sự. Tại xới bạc con bạc có thể cầm đồ, đổi
tiền vàng và được đáp ứng các dịch vụ như ăn uống, chích hút ma túy, chơi gái…[11]
Các con bạc không chỉ là các cậu ấm cô chiêu con nhà giàu, những thanh niên
thất nghiệp, bọn trộm cắp, học sinh, sinh viên mà những sòng bạc lớn con bạc chủ yếu
là các đối tượng bn bán kinh doanh, những cán bộ tha hóa, tham nhũng của Nhà
19


nước, những tên tội phạm đầu sỏ… Các sòng bạc có số con bạc chơi cùng lúc từ 30 –
40 thậm chí cả 100 tên cũng khơng hiếm.

Sự phát triển của thế giới hiện đại, kỹ thuật cờ bạc ngày càng phát triển, xuất
hiện nhiề hình thức cờ bạc mới như cá độ bóng đá, đá gà ăn tiền, đánh bạc online…
Ví dụ: Vụ án Trương Văn Cam (Năm Cam) về tội tổ chức đánh bạc, gá bạc…
* Cờ bạc lợi dụng kết quả xổ số kiến thiết
Một hình thức cờ bạc trở lên phổ biến, lây lan nhanh trên diện rộng đó là tệ nạn
chơi lơ đề lợi dụng xổ só kiến thiết.
Đối với loại hình cờ bạc này cơ quan bảo vệ pháp luật rất khó kiểm sốt vì hoạt
động của chủ đề kín đáo, năng động, đa dạng. Nhiều chủ đề hoạt động núp dưới hình
thức cửa hàng cầm đồ, đội ngũ đầu gấu, đòi nợ cơ động, núp dưới hình thức bạn bè,
người nhà của chủ đề. Các thư ký đề thường xuyên, cán bộ nghỉ hưu, thậm chí là
người khuyết tật, trẻ em…[11]
* Cờ bạc cơng khai
Cờ bạc lẩn khuất núp bóng dưới các casino giải trí và lợi dụng kết quả xổ số
kiến thiết thì hình thức cờ bạc cơng khai dưới các trị sát phạt như tá lả, đỏ đen, ba cây,
tổ tôm, đánh chắn, rút xì, đầu đít… Hoạt động cơng khai các nơi cơng cộng, hè phố, cơ
quan, xí nghiệp, trường học, ga tàu, bến bãi… Loại hình cờ bạc này phát triển và phổ
biến lâu dài trong lịch sử nhà nước phong kiến Việt Nam đến nay vẫn còn tồn tại và
phát triển. [11]
Ngoài ra, trên thế giới và cả ở nước ta được đều nhận thấy sự xuất hiện của
những hình thức cờ bạc mới trong số đó đặc biệt có cá độ là một biến tướng của tệ cờ
bạc, nó gắn liền với hoạt động văn hóa thể thao và một số hoạt động xã hôi khác. Ban
đầu cá độ chỉ làm tăng độ hấp dẫn cho những cổ động viên bóng đá và những mơn thể
thao có tính đối kháng cao khi họ theo dõi trận đấu. Dần dần nó trở thành hình thức
đáng bạc nguy hiểm với những địa điểm cá độ, người làm trọng tài, người cá độ, người
đòi nợ thuê. Giá trị mỗi lần lên tới cả tỷ đồng với đường dây cá độ hàng trăm người.
1.2.2.3. Tình hình, phƣơng thức hoạt động cờ bạc ở nƣớc ta hiện nay.
Xem xét tình hình tệ nạn cờ bạc ở TP. Hà Nội chúng ta thấy Hà Nội là trung
tâm chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội là đầu mối giao thông trong nước và quốc tế với
dân số trên 5 triệu người, mật độ dân số đông đúc. (……dân số hiện nay………)
20



Trong những năm gần đây tình hình kinh tế xã hội ở Hà Nội có nhiều biến
động, có khoảng 3 – 7 vạn người khơng có cong ăn việc làm, số đơng là tầng lớp thanh
niên. Từ đó kéo theo các tệ nạn cờ bạc phát triển dưới nhiều hình thức: đánh ổ tơm,
xóc đĩa, tam cúc, bài tú lơ khơ, đỏ đen, cị quay, đầu đít… Tệ nạn mua bán số đề ngồi
đường phố, từng qn nước, trong xóm ngõ, vùng ngoại thành, cơ quan xí nghiệp,
trước cửa trường học diễn ra nhan nhản (vì vạn người tham gia).
Từ năm 1987 đến nay ở Hà Nội có 3.544 chủ chứa cờ bạc gồm 23.770 con bạc
hoạt động cờ bạc dưới nhiều hình thức (khong tính số liệu mua bán số đề), qua số liệu
phân tích:
- Giới tính: Nam có 21.302 đối tượng, nữ có 2.468 đối tượng
- Lứa tuổi:
+ Từ 17 tuổi trở xuống có 1.319 đối tượng
+ Từ 18 – 30 tuổi có 8.799 đối tượng
- Thành phần nghề nghiệp:
+ Có nghề nghiệp: 8.634 đối tượng
+ Học sinh, sinh viên: 870 đối tượng
+ Không nghề nghiệp: 14.266 đối tượng
- Tiền án, tiền sự:
+ Có tiền án, tiền sự: 3.766 đối tượng
+ Chưa có tiến án, tiền sự: 11.504 đối tượng
Trong số 23.770 con bạc có 10.693 con bạc chuyên nghiệp chiếm tỉ lệ 45%, lứa
tuổi thanh thiếu niên chiếm tỉ lệ 63%. Đáng chú ý trong số đối tượng hoạt động cờ bạc
cịn có những người là cán bộ công nhân viên chức nhà nước. Những người lao động
có nghề nghiệp như lái xe, cơng nhân trong nhà máy, học sinh, sinh viên tỉ lệ 40%.
Tính chất hoạt động của đối tượng này tuy đơn giản lợi ích vật chất nhỏ nhưng
đó chính là những tiền đề nhằm góp phần làm nảy sinh và khuyến khích tệ nạ cờ bạc
phát triển ngày càng nhiều. [8], [11]
1.2.2.4. Nguyên nhân của tệ nạn cờ bạc

Trong điều kiện chuyển đổi của nền kinh tế thị trường, đời sống nhân dân gặp
nhiều khó khăn, số người khơng có việc làm ngày càng tăng, người giàu người nghèo
21


có sự phân hóa rõ rệt. Chính sách xã hội chưa chuyển đổi kịp thời như giải quyết chế
độ tiền lương, giải quyết việc làm nhất là số thanh niên đến tuổi lao động còn nhiều
vướng mắc chưa tháo gỡ được. [11]
Theo số liệu thống kê hàng năm nước ta có thêm 1,2 triệu lao động cần giải
quyết việc làm đây thực sự là vấn đề lan giải trong bối cảnh kinh tế khó khăn những
năm gần đây. Năm 2011 và 9 tháng đầu năm 2012 có tới hơn 45.000 doanh nghiệp phá
sản hoặc lâm vào tình trạng phá sản kéo theo hệ lụy là người lao động thất nghiệp với
số lao động chưa có việc làm thực sự bài toán giải quyết việc làm thêm rắc rối. Gánh
nặng kịnh tế đặt trên vai xã hội và những người đi làm, không những vậy thất nghiệp
đi liền với tệ nạn, “nhàn cư vi bất thiện” hay “đói ăn vụng túng làm liều” theo đó cờ
bạc, mại dâm, cướp giật… gia tăng về số vụ và xuất hiện ở những địa phương vốn an
ninh xã hội tốt từ trước tới giờ như TP. Đà Nẵng. [8]
Việc quản lý xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường còn bộc lộ nhiều lúng
túng, kẽ hở, công tác quản lý nhân khẩu, hỗ khẩu cịn nhiều yếu kém, kỷ cương xã hội
bị bng lỏng kéo dài.
Sự phối hợp giữa các ngành, các cấp, các tổ chức xã hội trong việc tuyên truyền
lên án chưa tạo được dư luận toàn xã hội, lên án còn chưa mạnh mẽ, thiểu quyết liệt
với tệ nạn cờ bạc nhất là tệ nạn mua bán số đề.
Việc đấu tranh đẩy lùi và tiến tới xóa bỏ tệ nạn cờ bạc chưa được coi trọng,
chưa có sự kết hợp đồng bộ, nhịp nhàng và sự ủng hộ của các ngành các cấp. Nhất là
cơng tác phối hợp giữa chính quyền khối cơ sở và đồn viên thanh niên cịn chưa chặt
chẽ. Hoạt động tuyên truyền đấu tranh phòng chống các tệ nạn như mại dâm, ma túy
có phần lấn lướt tệ nạn cờ bạc. [11]
Trong công tác xử lý bằng luật đối với những chủ chứa và con bạc chưa được
nghiêm minh, tỷ lệ xử lý chưa đạt 27% trong tổng số vụ bắt giữ, còn phần lớn vụ bắt

giữ chỉ dùng lại ở mức độ xử lý biện pháp hành chính là phạt tiền. Hiện tượng tiêu cực
nhất phải kể tới phạm tội một đằng truy tố và luận tội một khác nhằm giảm án, “chạy
tội” diễn ra khơng hiếm. Do đó chưa gây được dư luận quần chúng lên án mạnh mẽ.
Điển hình là vụ bê bối liên quan tới tham nhũng, đánh bạc, cá độ bóng đá trong bộ
Giao thông vận tải đầu năm 2006 – vụ án PMU 18. Sau 18 tháng điều tra, nguyên thứ
22


trưởng Bộ Giao thông Vận tải Nguyễn Việt Tiến đã được miễn trách nhiệm hình sự và
khơi phục sinh hoạt Đảng vào ngày 7 tháng 5 năm 2008, còn Bùi Tiến Dũng và năm
thuộc cấp bị truy tố lần lượt về hành vi "cố ý làm trái các qui định của Nhà nước về
quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng" và "tham ô tài sản". Dũng lãnh án 13 năm
tù (sáu năm vì tội cá độ, bảy năm vì ăn hối lộ). Bảy người khác cũng bị kết án tù. Tịa
án kết luận là Cao Ngọc nh khơng liên hệ gì đến vụ chạy án. [8]
1.2.2.5. Hậu quả của tệ nạn cờ bạc
Người ta thường nói: “Cờ bạc là bác thằng bần” hay “Đánh đề ra đê mà ở”. Tệ
nạn cờ bạc ở bất kỳ giai đoạn lịch sử nào cũng luôn được coi là mặt tiêu cực của xã
hội, gây ảnh hưởng lớn đến mọi mặt của đời sống tư tưởng, đạo đức, sức khỏe, kinh tế,
văn hóa. Cờ bạc gây mất trật tự và an tồn xã hội.
Cờ bạc là môi trường thuận lợi nuôi dưỡng các hành vi phạm tội, các vi phạm
pháp luật khác, các hiện tượng bất ổn, lộn xộn trong xã hội. [11]
Cờ bạc cịn làm tha hóa, biến chất cả đội ngũ cán bộ trung cáo cấp của Nhà
nước, của các cơ quan bảo vệ pháp luật. Vụ án Năm Cam là một điển hình.
Tệ nạn cờ bạc, nhất là số đề gây ra những hậu quả xã hội nghiêm trọng, có nhiều
người có chức vụ lấy tiền nhà nước đi đánh đề, thua hết rồi tự tử
Tệ nạn cờ bạc len lỏi vào nhiều lĩnh vực trong đó phải kể đến lĩnh vực thể thao.
Tệ nạn cá độ đã và đang thâm nhập vào nền bóng đá nước ta. Hiện tượng bán đố như
là một hệ quả dễ nhận thấy nhất của tệ nạn cá độ, đã có nhiều tuyển thủ và cả trọng tài,
huấn luyện viên liên quan tới việc bán độ như cầu thủ Văn Quyến, Quốc Vượng, trọng
tài Lương Trung Việt… Làm giảm uy tín của nền thể thao nước nhà cũng như bóng đá

Việt Nam gây mất lòng tin nơi người hâm mộ. [11]
Nhiều địa bàn công cộng trở nên phức tạp về an ninh, trậ tự do tệ nạn cờ bạc
gây ra. Sự phát triển của tệ nạn cờ bạc còn trực tiếp thúc đẩy các tội phạm về tệ nạn xã
hội khác phát triển. Có thể nói “bộ ba tệ nạn” ma túy, mại dâm, cờ bạc là những tội
phạm liên quan mật thiết với nhau, tác động qua lại và thúc đẩy lẫn nhau phát triển. Ở
đâu ngửi thấy mùi ma túy, nhìn thấy bơm kim tiêm và gái mại dâm là người ta có thể
nghĩ ngay tới cờ bạc và ngược lại. [8]

23


Tệ nạn xã hội đã làm cho đạo đức xã hội xuống cấp nghiêm trọng, quan hệ giữa
người với người trở nên thù hận vì thua bạc, dẫn đến cướp bạc, chửi lộn, đâm chém,
giết người. Ví dụ Trần Văn Lợi ở P.Phúc Xá, Q. Ba Đính, TP. Hà Nội do tua bạc đã
gây ra trọng án giết người.
Tệ nạn ờ bạc cũng gây ảnh hưởng đến tình cảm, hạnh phúc gia đình, làm nhiều
gia đình đến tan vỡ hạnh phúc. Ví dụ Vũ Văn Huỳnh ở Đơng Anh, TP. Hà Nội là chr
chức cờ bạc, nhiều lần vợ y can ngăn những do ham mê cờ bạc dẫn đến hạnh phúc gia
đình tan vỡ. [11]
Bạo lực gia đình liên quan tới bài bạc là rất phổ biến tại nhiều gia đình có các
con bạc đặc biệt là người chồng, người cha. Một hiện tượng là đối tượng tham gia
đánh bạc là nữ ngày càng tăng và hậu quả họ mang lại cũng khơng hề nhỏ, có nhiều vụ
nhảy sơng tự tử vì thua bạc đã xảy ra. Gần đây nhất vụ án Trần Thúy Liễu do thua bạc
đã giất hại dã man chống là nhà báo Hoàng Hùng gây trấn động dư luận về hệ quả của
bài bạc. [8]
Tại các vùng q nơng thơn trình độ dân trí cịn thấp, khi kinh tế nơng thơn có
dấu hiệu khởi sắc, số gia đình giàu lên nhiều cũng là lúc tệ nạn cờ bạc tìm tới gõ cửa
từng nhà hàng ngày hàng giơ. Nhiều bậc phụ huynh nhất là thanh thiếu niên, khơng
cảnh giác, một phút khơng làm chủ được mình đã bị vướng theo các cuộc chơi đỏ đen
mà bỏ bê lao động, học hành, trộm cắp tài sản… Khi thua bạc các con bạc tìm tới tận

nhà địi nợ, nhiều gia đình táng gia bại sản vì những quý tử khơng hiểm. Nhiều thanh
niên phải biệt xứ vì sợ chúng thanh tốn, địi nợ kiểu giang hồ làm bất ổn an ninh xã
hội tại nhiều địa phương.
Tệ nạn cờ bạc gắn liền với tệ nạn khác như nghiện hút, ma túy, mại dâm, cơn đồ
, càn quấy… Ví dụ Trần Văn Sơn ở phố Nhổn – Từ Liêm – Hà Nội, vừa là chủ cờ nạc,
vừa là chủ nghiện hút. [11]
1.2.2.6.

ặc điểm tâm lý của các thành phần tham gia tệ nạn cờ bạc.

a. Người đứng ra tổ chức đánh bạc.
Người đứng ra tổ chức đánh bạc thường là những con bạc chuyên nghiệp, nhiều
kinh nghiệm về đánh bạc. Người đứng ra tổ chức đánh bạc biết một số người có máu

24


ham mê cờ bạc để rủ rê, lôi kéo họ đánh bạc (như: những đại gia, con nhà giàu…) để
thu lợi bất chính từ các song bạc với số tiền khổng lồ, bạc tỷ.
Ví dụ: Năm Cam lơi kéo các đại gia chơi bạc, chỉ sau 7 ngày sát phạt tại sịng
bạc của Năm Cam mở tại 780 Nguyễn Đình Chiểu_TP. HCM, Trần Lệ Nguyên
nguyên tổng giám đốc công ty Kinh Đơ thua 170.000 USD.
Chúng thường giở trị bịp bợm như dung máy quay camera để nhìn trộm bài.
Mua chuộc các cán bộ chính quyền địa phương và các cơ quan chức năng.
Người đúng ra tổ chức đánh bạc thay đổi địa điểm thường xuyên để tránh bị lộ,
thay đổi biến động theo địa bàn và thời gian không theo quy luật nhất định. Động cơ,
mục đích là nhắm vụ lợi bất chính. [11]
b. Người tham gia gá bạc.
Người tham gia gá bạc có thể là những người có hành vi cho người đứng ra tổ
chức đánh bạc thuê, mượn địa điểm, phương tiện tổ chức đánh bạc hoặc là người đi

thuê, đi mượn địa điểm, phương tiện để cho người khác sử dụng làm nơi tụ tập đánh
bạc.
Người tham gia gá bạc thường là nguời rất am hiểu về địa bàn hoạt động, về
tình hình trật tự tại địa điểm đó. Họ thường có sự thăm dị trước về địa bàn dự định
thuê, mượn để tổ chức đánh bạc hoặc cho người khác thuê mượn.
Người tham gia gá bạc thường chọn địa điểm cho thuê ở nơi hẻo lánh, ít người
lui tới, ít có sự chú ý của cán bộ chức năng…
c. Người tham gia đánh bạc.
Người tham gia đánh bạc rất đa dạng và phức tạp cả về lứa tuổi, nghề nghiệp,
trình độ, thành phần xuất than của những đối tượng rất khác nhau. Người tham gia
đánh bạc phổ biến là những đối tượng thanh_ thiếu niên, có trình độ văn hóa thấp,
khơng có nghề nghiệp ổn định, có nhân than xấu. bên cạnh đó đã phát hiện nhiều cán
bộ kể cả cán bộ trung ương cấp cao cũng tham gia đánh bạc, nhất là cá độ bóng đá và
đánh đề.
Nhiều người đánhn bạc, đánh số đề nhận thấy trước hậu quả thiệt hại cho xã
hội, gia đình và bản thân do hành vi của mình gây ra, nhưng vẫn hy vọng “thắng”,
“trúng” và hy vọng, tin tưởng các rủi ro, xui xẻo không xảy ra. [8]
25


×