Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

Giá trị thẩm mỹ của nghệ thuật tạo dáng và trang trí gốm hoa lam thời Lê

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (716.44 KB, 13 trang )

l

Ti ểu lu ận
Giá tr ị th ẩm m ỹ
c ủa ngh ệthu ật t ạo dáng
và trang trí
g ốm hoa lam th ờ
i Lê

1


Gốm hoa lam là tên gọi các sản phẩm gốm được trang trí bằng hoa văn màu lam.
Chất liệu tạo màu chủ yếu là ơ-xyt cơ-ban màu lam, hay cịn gọi màu chàm.

Lọ gốm hoa lam thời Lê, trang trí đề tài long truy, thế kỷ 16 - 17, hiện vật của Bảo tàng gốm sứ Kyushu.

Loại gốm này không còn là loại sành xốp hoặc gốm đàn, mà ta đã thấy ở chất liệu
sản phẩm gốm men ngọc và gốm hoanâu thời Lý - Trần. Phần lớn gốm hoa lam thuộc
loại sành trắng (sành cứng) cũng gọi là sành sứ.
2


Về mặt kỹ thuật, xương gốm hoa lam tạo bằng đất sét trắng, mịn, do được luyện rất
kỹ. Men gốm này hầu hết là men trấu tro, men đá. Do đó, sản phẩm có độ trắng cao
hơn, men cũng đều và bóng hơn so với hai loại gốm quý kể trên.
Có lẽ gốm hoa lam xuất hiện ở Việt Nam vào khoảng thế kỷ XIV, tức cuối thời
Trần.
Cơ sở của sự phỏng đoán chưa được chứng minh này là những đồ gốm hoa lam rất
hồn chỉnh có niên đại rõ ràng thời Lê sơ (thế kỷ XV) đã được tìm thấy khá nhiều.
Đứng trước các hiện vật chỉnh chu đó, người ta ngờ rằng: hẳn phải có những sản


phẩm khơng hồn chỉnh bằng, đã ra đời trước đó hàng thế kỷ, nghĩa là từ khoảng cuối
thời nhà Trần. Trong suốt các thời Lê - Mạc, hơn 300 năm, (thế kỷ XV - đầu thế kỷ
XVIII) gốm hoa lam đã đạt tới đỉnh cao huy hồng của nó. Những người thợ gốm
Việt Nam đương thời đã sáng tạo ra hàng loạt sản phẩm, đủ các loại hình, kiểu dáng,
với phong cách, bút pháp và nội dung trang trí vơ cùng sinh động và đậm nét dân
gian.

Rồng trang trí trên bát gốm hoa lam, triều Lê sơ – Mạc (thế kỷ 15 – 16)

3


Bát gốm hoa lam

Kiệt tác bình gốm hoa lam vẽ thiên nga

Thời gian này, những làng gốm thủ công mang tính chất chun mơn hóa xuất hiện
ở nhiều nơi trong nước. Vai trò của người làm gốm được đề cao hơn trước, bằng
chứng là người thợ gốm được ghi tên mình và niên đại tạo tác lên sản phẩm, mà một
trong số những thợ gốm tài hoa ấy đến nay chúng ta còn được biết là Đặng Huyền
4


Thông, người Nam Sách (Hải Dương), ở thế kỷ XVI. Kỹ thuật nung gốm được cải
tiến một bước quan trọng. Nhiệt độ nung cao hơn trước, nên xương gốm có khi đã
chớm chảy, kết cấu hạt chặt chẽ, mịn màng, khiến gốm rất cứng. Đó là điều kiện để
có thể vuốt xương gốm thật mỏng. Sản phẩm bền, nhẹ, tiện dụng.
Để tiết kiệm chỗ trong lò, các sản phẩm gốm thông dụng được chồng lên nhau.
Người ta phải cạo men ở trơn và lịng các gốm mộc (gọi là ve lịng) cho khỏi dính
nhau khi nung, khơng phải dùng “con kê” như khi xếp nung gốm men ngọc. Kỹ thuật

này có ảnh hưởng tích cực tới nghệ thuật gốm, tạo tiền đề cho sự xuất hiện một phong
cách trang trí mới trên những kiểu dáng mới của gốm hoa lam.
Sử sách, kết quả khai quật khảo cổ học ở Việt Nam và ở nước ngoài, hiện vật tạo
các
bảo tàng v.v... đã cho biết: đồ gốm hoa lam của ta thời ấy được làm rất đẹp và số
lượng rất lớn, không chỉ phục vụ đủ nhu cầu trong nước. Hàng vạn sản phẩm gốm
này đã đến vùng hải đảo hiện nay là Indonesia, ấy là chưa nói tới rất nhiều hiện vật có
mặt tại các nước khác đến nay cịn lưu giữ ở bảo tàng Anh, Pháp, Thổ Nhĩ Kỳ, Trung
Quốc, Nhật bản, Phi-líp-pin v.v...
Theo Fujiko Koiama, một nhà nghiên cứu khoa học người Nhật, thì xưa kia người
Nhật rất ưa chuộng loại bát cổ vẽ trên men mà gọi quen “Hồng An nam” để uống trà
đạo.
Năm 1893, một nhà nghiên cứu Nhật Bản khác, ơng Oueda Tokounosouké cũng đã
nói đến thợ gốm Nhật Bản ngay từ năm 1596 - 1873 đã làm theo đồ gốm cổ Việt
Nam, mà họ gọi “gốm Giao Chỉ” (Kotchi) - như trên chúng tôi đã nói.
Cho đến tận ngày nay, gốm hoa lam vẫn được duy trì sản xuất và sử dụng rất rộng
rãi

Gốm hoa lam thường trang trí dưới men, nhưng khơng khắc vạch, và chỉ vẽ lối nhẹ
nhàng như thủy mạc. Vẽ đẹp tiêu biểu của gốm hoa lam Việt Nam là lối vẽ phóng bút
trên các lọ hoa, chân đèn, bát đĩa to hoặc nhỏ nhất là từ cuối thế kỷ 15 đến cuối thế kỷ
17. Đề tài trang trí thường là rồng, phượng, mây, hoa sen, hoa cúc dây v..v.. với màu
lam ngả về xám trên nền trắng hơi ngà. Hình dáng của loại này cũng có nhiều cái đẹp
độc đáo: bát, chén, đĩa chân rất to và rất cao; chân đèn, lọ hoa dáng khỏe mà thanh
nhã. Đặc biệt từ giữa thế kỷ 15, một số chân đèn, lư hương, lọ hoa, con giống không
5


những khắc niên đại mà có khi cịn khắc cả tên người làm. Đó là điều rất hiếm trong
nghệ thuật cổ đại Việt Nam. Cũng cần nói thêm : bát men ngọc thời Lý thì chân nhỏ

xíu mà bát hoa lam thời này chân rất to và cao, trước tiên là do yêu cầu kỹ thuật thay
đổi có lợi về mặt kinh tế ( từ việc sử dụng con kê chuyển sang cạo men ở lòng bát để
chồng lên nhau khi vào lị, thì với một loại xương đất nào đó, buộc phải chuyển việc
làm bát từ chân nhỏ thành chân to và cao để khỏi dính nhau khi nung ở độ lửa rất cao
(khoảng trên 1.000 độ C). Yêu cầu thuần túy kỹ thuật ấy, sau này đã biến thành một
nhu cầu thẩm mỹ của người sử dụng, các đồ gốm hoa lam đế cao được nhân dân ưa
chuộng. Cho nên, người thợ có ý tạo dáng nhiều loại sản phẩm khác nhau đều có đế
cao, kể cả những chiếc đĩa to nơng lịng, mà hầu như khơng cần phải có đế cao vẫn
xếp chồng được và khơng sợ bị dính vào nhau khi nung. Những cái đĩa chân cao tựa
chiếc mâm bồng, ra đời lúc đó quả là rất đẹp

Bát hoa lam chân rất to và cao

Và như vậy, có thể nói: Gốm hoa lam là cái mốc lớn thứ ba trên tiến trình lịch sử
phát triển gốm Việt Nam - một cái mốc cả về hai phương diện kỹ thuật và nghệ thuật,
sau gốm đất nung nổi tiếng thời tiền sử, và sau gốm sành xốp thời Lý - Trần.
Thời hoàng kim của gốm hoa lam là ở thời Lê - Mạc. Nói đến gốm hoa lam Việt
Nam, cũng có nghĩa là nói đến một loại gốm đặc sắc của ta, phát triển đến đỉnh cao
nhất do các triều đại Lê sơ - Mạc.

6


Tuy vậy, qua sáu - bảy thế kỷ tồn tại và phát triển tới ngày nay, gốm hoa lam Việt
Nam đã trải qua những bước thăng trầm. Không phải lúc nào nó cũng đạt được tuyệt
đỉnh về phong cách, bút pháp và nội dung trang trí. Những biến đổi của xã hội, sự
thay đổi quan niệm thẩm mỹ từng thời đại đã tác động quyết định đến kiểu dáng và
nghệ thuật trang trí trên loại gốm này. Do đó, ta thấy những đồ gốm hoa lam từ thế kỷ
XV đến XVIII được thể hiện hết sức phóng khống, bay bướm, nhuần nhị với các dải
đồ án theo phong cách dân gian truyền thống. Nhưng đến cuối thế kỷ XVIII - đầu thế

kỷ XIX, tình hình xã hội thời Lê - Trịnh rối ren, kinh tế sút kém, gốm hoa lam có
hình dáng nặng nề, trang trí rời rạc, kém phóng khống, màu sắc nhợt nhạt đi mà lại
có vẻ gay gắt hơn. Trong lịch sử, đây là thời kỳ suy thoái của Nhà nước phong kiến,
dẫn đến sự xâm lược Việt Nam của thực dân Pháp. Nhất là dưới triều Nguyễn và
chính phủ ''bảo hộ'' thực dân (thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX), gốm hoa lam chuyển sang
tả thực, nhưng theo hai xu hướng: một là đơn giản hóa hình dáng và trang trí đến mức
nghèo nàn - lối vẽ yếu ớt, cẩu thả, nước men cũng kém trong. Hai là, xu hướng tạo
tác các sản phẩm giá đắt phục vụ thị hiếu ''trưởng giả'' giàu có học làm sang. Các sản
phẩm này trang trí có phần phơ trương, như các chậu hoa, bình rượu với hoa văn
rườm rà, hoặc rập khn và bắt chước hình trang trí đắp nổi trên cơng trình kiến trúc
đương thời, hay trên đồ sứ đời Thanh của Trung Quốc. Những đồ sứ hoa lam tuyệt
mỹ, mang dấu ấn ''nội phủ'' được nhà Nguyễn dùng, mà có người đã gọi lầm là “gốm
màu lam Huế” (Bleu de Hue) đều là hàng đặt kiểu sản xuất tại các lò gốm sứ ở Trung
Quốc.
Trở lại gốm hoa lam thời cực thịnh, ta hãy tìm hiểu một số hiện vật trong những mặt
hàng thông dụng, được sản xuất với số lượng lớn: bát đĩa các loại, nậm rượu, bình
hoa, lọ, chân đèn, lư hương, con giống v.v... Trong đó, những đồ thờ bằng gốm (chân
đèn, lư hương, tượng, con giống...), loại này xuất hiện khá nhiều, trong khi gốm đất
nung, gốm hoa nâu trước kia ít chú ý đến.


Kỹ thuật và nghệ thuật tạo dáng

Sở dĩ đồ gốm hoa lam dáng thanh thốt, bớt thơ mập hơn gốm đất nung và gốm hoa
nâu trước kia, bởi nó có xu hướng vươn lên theo chiều cao. Nếu gốm hoa nâu Lý Trần phần lớn là các sản phẩm hình ống (thạp, liễn...) thì gốm hoa lam Lê - Trịnh mặc
dù cũng tạo nhiều sản phẩm mới tương tự (chân đèn, lưu hương, nậm rượu...) nhưng
lại dùng các đường cong có độ lớn khi tạo dáng. Cịn các loại bát, đĩa hoa lam giai
đoạn đầu triều hậu Lê (thời Lê sơ), cũng là lúc bắt đầu phát triển đi lên của gốm hoa
lam, do xu hướng vươn theo chiều cao và thanh thoát, mà người ta cố ý tạo chân đế
cao. Bát, đĩa chân cao lúc này tương tự bát đĩa men ngọc thời Lý - Trần, nhưng chân

7


đế to và vững hơn. Khi tạo dáng bát đĩa chân cao, người thợ gốm đã khéo kết hợp nét
cong khỏe của thân với nét thẳng và dài của đế hình ống. Tồn bộ sản phẩm từ dưới
chân vươn lên thẳng đứng, rồi nở dần ra, tạo ''quả'' bát, càng lên cao càng loe rộng.
Cách tạo hình như vậy làm cho sản phẩm có dáng thẳng đứng hơn, quả bát trịn, bầu
bĩnh, hoặc hơi gãy góc. Khơng chỉ bát, mà cả đĩa và “tước” uống rượu, phần nào cả
bình, lọ nữa, đều được tạo dáng đơn giản, khỏe và độc đáo như thế.

Nguyên mẫu: đĩa gốm hoa lam Chu Đậu vẽ tam long, khoảng thời Lê thế kỷ XV, đường kính
38cm vớt trong xác tàu đắm Cù lao Chàm.

2. Trang trí hoa lam
Trang trí hoa lam trên gốm bằng bút lơng và màu lam (hay xanh chàm). Nếu
trang trí gốm hoa nâu thời trước, người thợ dùng bút lông chấm men màu nâu để tô
lên từng mảng đồ án văn khắc trên xương đất mộc, thì giờ đây trên gốm hoa lam,
người ta vẽ thực sự. Tùy trình độ, tay nghề, tài năng mà người thợ gốm chỉ vẽ theo
mẫu sẵn, hoặc có thể phóng bút linh hoạt, kiểu “trưởng ý định hình” nhưng nét bút
phải hoạt, thao tác chính xác, vẽ đâu được đấy. Đặc điểm gốm mặc dù đã hay chưa
tráng men, đều hút màu rất nhanh - màu ngấm nhanh vào xương gốm. Do đó, khi vẽ
trang trí trên gốm mộc, mỗi nét là một lần hạ bút, chỉ một lần thơi, khơng thể tẩy xóa
để vẽ lại điều đó khác với phương pháp vẽ trên men gốm đã nung hiện nay: khi men
8


gốm đã tráng và qua lò nung một lần, được đem vẽ trang trí thì có thể tẩy xóa nét lỗi,
hình sai... rồi tráng men lên trên và nung lần thứ hai.
Để trang trí hoa lam có ba cách vẽ:
- Vẽ dưới men

- Vẽ giữa men
- Vẽ trên men
Cách vẽ dưới men, thực hiện trên xương đất mộc (chưa qua lò nung) rồi tráng
lớp men mỏng lên trên. Cách vẽ thứ hai (vẽ giữa men) là vẽ trên đồ mộc đã tráng một
lớp men, vẽ xong lại tráng lên tất cả một lớp men thứ hai, rất mỏng. Cách vẽ thứ
ba (vẽ trên men) chỉ vẽ lên lớp men của gốm mộc (xương đất) mà không cần tráng
lớp men phủ lên trên hoa văn.
Phương pháp trang trí ấy, nhất là cách vẽ dưới và giữa men, tạo nên hiệu quả
kỳ diệu của sản phẩm sau khi nung. Hoa văn trang trí như hiện lên dưới lớp men
trong, do đó mà lung linh mờ ảo.
Đề tài trang trí trên gốm hoa lam khác rất nhiều so với các loại gốm thời trước.
Chẳng hạn, trên gốm hoa nâu thường được trang trí với các đề tài hoa điểu, như hoa
cúc, hoa sen, chim èo, chim thước và hình các con vật khác như voi, hổ... Đến gốm
hoa lam ta thấy những đề tài mới được sáng tạo và sử dụng ngày càng nhiều:
Trên gốm hoa lam gia dụng (bát, đĩa, ấm, chén, bình rượu) nội dung trang trí
vẫn là chim, hoa, lá, cá, ngựa. Sáng đã xuất hiện hình rồng, phượng, kỳ lân. Trên các
đồ thờ (chân đèn, lư hương,…) tuy vẽ hình tứ linh theo truyền thống, nhưng kiểu
dáng của chúng đã đơn giản hóa và có vẻ hiền lành, gần gũi hơn trước nhiều.
Một số đề tài chủ yếu trên gốm hoa lam đương thời, đó là:
- Hoa lá:
Hoa cúc dây và hoa sen được sử dụng để vẽ trên gốm hoa lam. Hoa nối nhau
thành đường diềm cành nối cành. Lá cong xoắn như tày bầu bí, tay mướp, gần với
hình mây lửa, và khác hẳn hình răng cưa trên gốm hoa nâu. Cành hoa được vẽ bằng
những nét phẩy bút màu lam. Cịn hoa sen thì được tách rời cánh, để nối các cánh sen
với nhau tạo thành đồ án trang trí, mà mỗi cánh dường như đều chứa đựng sóng
nước trong lịng. Lại có những trang trí theo một kiểu mô phỏng hoa lá, chỉ lấy cái
thần của hoa lá thiên nhiên, chứ khơng vẽ theo hình sắc bất kỳ loại hoa, lá cụ thể nào.
Lối vẽ này mang tính tự do, phóng khống và sáng tạo của từng nghệ sĩ gốm dân
gian.
- Chim:

Là hình tuợng phổ biến trên trang trí gốm hoa lam.
9


Ta thường thấy hình: chim phượng, chim khách trên nhiều sản phẩm, thậm chí
thành tên gọi một số loại đồ gốm: “bát con phượng”, “đĩa con phượng” v.v... Nếu
trên gốm hoa nâu chỉ thấy hình chim di, thì trên gốm hoa lam, chim đã bay lượn. Lối
vẽ phóng bút ở đây đã tạo nên dáng chim bay nhẹ nhàng, uyển chuyển, đa dạng. Hình
chim phượng bay trong lịng đĩa, trên thành bát, trên thân bình, lọ... Khơng chỉ có
chim bay đơn, mà cịn có cả đàn chim bay với nhiều tư thế khác nhau, như trong một
khn (ơ trang trí) của chiếc bình lớn. Bay quanh một chim phượng đang xòe lượn là
bốn chú sẻ, mỗi con một kiểu, đều hướng đầu vào phượng. Có người bảo đấy là hình
tượng cặp quân tử - tiểu nhân theo quan niệm. Nho giáo được thể hiện trên gốm hoa
lam thời Lê.
- Tôm cá:
- Các loại gốm trước đó đã từng trang trí hình tơm cá bằng đắp nổi, khắc chìm,
tơ nâu. Nhưng đến gốm hoa lam, hình tơm cá được vẽ, tư thế luôn sống động, ẩn hiện
tựa tranh thủy mạc.
Tại Bảo tàng Hải Hưng còn lưu giữ được chiếc đĩa khá điển hình cho trang trí
gốm hoa lam cổ với đề tài tơm cá. Đĩa khá to, đường kính tới 24cm. Hình một con cá
chép mềm mại đang bơi gọn trong lòng đĩa, giữa những cây rong rêu - nét vẽ đậm
nhạt, rất hoạt, chứng tỏ nghệ nhân rất thành thạo khi dùng bút lông vẽ màu trên gốm.
- Ngựa:
Trên gốm hoa lam, hình ảnh con ngựa xuất hiện cũng khá nhiều, đặc biệt là
trên một số loại sản phẩm: lư hương, bát, bình, lọ. Ngựa bao giờ cũng được vẽ ở tư
thế lồng lên phi nước phi đại. Bằng những nét bút lơng nhấn lướt, lại được men chảy
kéo nhịe nhiều nét, những con ngựa được vẽ trên gốm dù đang tung vó bất cứ kiểu
nào cũng vẫn tốt lên vẻ đẹp lung linh, êm nhẹ.

10



Một dạng long mã mang đậm chất ngựa

- Rồng mây:
Hình rồng trên gốm hoa lam mang đậm nét con rồng thời Lê: dáng khỏe, đầu
có sừng, lưng hình n ngựa, bờm gáy dựng ngược, mình trần hoặc đầy vẩy, chân
nhiều móng sắc. Nghệ nhân gốm đương thời vẽ rồng ở nhiều tư thế. Có khi nó vươn
dài, như bay trong mây. Có khi nó uốn khúc và cuộn trịn, đầu lọt vào giữa râu tóc tỏa
ra hai bên.
11


Rồng cũng như nghê đều là những con vật tưởng tượng, thể hiện sự thiêng
liêng, sùng kính. Nhưng trên gốm, hình ảnh của chúng có cái gì đấy rất gần gũi, đời
thường, mà không kém phần lãng mạn trong tư thế bay lên.
Rồng bay trong mây. Và cả những đám mây cách điệu theo lối trang trí điêu
khắc dân gian, rất nhiều loại đồ án khác nhau, cũng vun vút bay về một hướng và góp
phần tơ điểm cho các đồ án lân cận.

Rồng bay trong mây

Ngoài ra, để tăng hiệu quả cho những đề tài trang trí kể trên, trên gốm hoa lam
cũng sử dụng một số đồ án hình học. Đó là cá đường chỉ đơn, đường chỉ song song
chạy quanh miệng, vai và đế sản phẩm hay các đồ án kẻ chéo cắt nhau, xen kẽ những
chấm nhỏ.
Nghệ thuật trang trí gốm hoa lam có thể tóm gọn ở mấy từ: nghệ
thuật hội họa, đaphong cách, rất dân gian.
Gốm hoa lam từ thế kỷ 19 trở về sau kém đẹp có lẽ do thị trường xuất khẩu hạn
chế. Nước men kém trong, do chất liệu về đất pha vào men có thay đổi. Như nhiều

loại bình có niên hiệu Gia Long không những men kém chảy, kém trong mà hình
dáng nặng nề, trang trí mảnh dẻ khơng ăn với nhau, báo hiệu giai đoạn đi xuống của
gốm hoa lam. Về sau, kỹ thuật gốm hoa lam có tiến bộ hơn; nhưng lối vẽ tay thành
thục của những thế kỷ xưa nhường bước cho lối in hoa, không cho phép trở lại cái
đẹp như trước được nữa.
12


13



×