Tải bản đầy đủ (.pdf) (48 trang)

Nghiên cứu về thực trạng văn hóa đọc của sinh viên trường đại học văn hóa hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (843.76 KB, 48 trang )

MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
2. Mục đích nghiên cứu
3. Dối tượng nghiên cưu
4. Lịch sử nghiên cứu
5. Phạm vi nghiên cứu
6. Nhiệm vụ nghiên cứu
7. Nội dung nghiên cứu
8. Phương pháp nghiên cứu
CHƯƠNG 1: VĂN HÓA ĐỌC VỚI SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN
HÓA HÀ NỘI
1. 1Khái niệm
1.2. Biểu hiện của văn hoá đọc
1.2.1. Nhu cầu đọc.
1.2.2. Kỹ năng hiểu và lĩnh hội các gía trị trong sách
1.2.3. Thái độ ứng xử với sách báo
1.3.

yếu tố ảnh hưởng đến văn hóa đọc

1.3.1. Chính trị
1.3.2.b Kinh tế
1.3.3. Sự phát triển của khoa học và công nghệ
1.3.4. Mơi trường học tập
1.4. Văn hố đọc đối với sinh viên Trường đại học Văn hoá Hà Nội
1.4.1 Đặc điểm của sinh viên Trường đại học Văn hoá Hà Nội
1.4.2 Vai trị của văn hố đọc trong sinh viên Trường đại học Văn hoá Hà Nội
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VĂN HÓA ĐỌC CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG
ĐẠI HỌC VĂN HÓA HÀ NỘI



2.1. Những biểu hiện văn hoá đọc của sinh viên Trường đại học Văn hoá HN
2.1.1. Thực trạng nhu cầu tin
2.1.2. Kỹ năng đọc và lĩnh hội thông tin
2.1.3. Thái độ ứng xử có văn hố với sách, báo, thơng tin
2.2. Thực trạng giáo dục văn hoá đọc cho sinh viên Trường đại học Văn hoá HN
2.2.1 Giáo dục trong chương trình đào tạo của nhà trường
2.2.2. Giáo dục văn hố đọc trong thư viện
2.2.3. Giáo dục thơng qua các hoạt động khác
2.3. Đánh giá nhận xét
2.3.1. Sự biến đổi của văn hoá đọc trong sinh viên
2.3.2. Những hạn chế và nguyên nhân
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO VĂN HÓA ĐỌC CHO SINH VIÊN
3.1. Nâng cao chất lượng hoạt động của thư viện trường
3.1.1. Tăng cường cơ sở vật chất và nguồn lực thông tin
3.2. Tăng cường giáo dục văn hố đọc
3.2.1. Lồng ghép trong chương trình đào tạo
3.2.2. Hoạt động đào tạo người dùng tin của thư viện
3.2.3. Các hình thức khác
KẾT LUẬN
Danh mục tài liệu tham khảo
Phụ lục


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngày nay, sự phát triển mạnh mẽ của khoa học – công nghệ đã đưa đến cho
chúng ta nhiều loại hình tài liệu và phương tiện để đọc. Thời đại công nghệ thông
tin với sự bùng nổ của các sản phẩm văn hóa hiện đại như phim ảnh, băng đĩa, ca
nhạc, internet, games... đã thâm nhập sâu sắc vào lĩnh vực giải trí của con người.

Chính vì vậy, văn hóa đọc đang là chủ đề được nhiều người quan tâm. Văn hóa đọc
- một bộ phận của Văn hóa – là một trong những động lực thúc đẩy sự hình thành
nên con người mới, những cơng dân có hiểu biết, có trí tuệ để có thể thích ứng với
sự phát triển của xã hội hiện đại – xã hội dựa trên nền tảng của nền kinh tế tri
thức.
Văn hoá đọc, với tư cách văn hoá hành vi của mỗi cá nhân con người, biểu
hiện ở khả năng lựa chọn sách, kỹ năng đọc và lĩnh hội sách cũng như cách thức
ứng xử với sách báo, là sự thể hiện rõ ràng nhất đặc điểm tâm lý và nhân cách của
mỗi cá nhân, đặc biệt rất quan trọng đối với sinh viên. Ngày xưa, sinh viên có rất ít
hình thức giải trí, thú vui chủ yếu là đọc sách. Cuốn sách hay sẽ được truyền tay
nhau từ người này sang người khác để đọc. Ngày nay, khi xã hội phát triển, điều
kiện đọc của sinh viên đã thay đổi cơ bản. Họ có rất nhiều sách và nhiều hình thức
đọc để lựa chọn. Nhưng sinh viên ngày nay không mấy mặn mà, hứng thú với việc
đọc sách, nghiền ngẫm những cuốn sách… Sự phong phú, tràn ngập của vô số
kênh thông tin trên mạng Internet, trên truyền hình… đã làm cho họ khơng cịn đủ
sự kiên nhẫn để tìm kiếm những cuốn sách hay. Vì vậy, việc tìm hiểu văn hóa đọc
trong sinh viên để từ đó tìm ra giải pháp thúc đẩy văn hóa đọc trong sinh viên là
việc làm cần thiết
Hiện nay, trường Đại học Văn hóa Hà Nội (ĐHVH HN) đã thực hiện quy chế
đào tạo mới theo hình thức tín chỉ nhằm nâng cao chất lượng học tập của sinh viên.
Đặc thù của phương thức đào tạo này là vai trò quan trọng của sinh viên trong việc


chủ động tự học. Vấn đề tham khảo tài liệu của sinh viên để tự học là vấn đề quan
trọng thiết thực, giúp sinh viên hoàn thành nhiệm vụ học tập. Vì vậy, nghiên cứu
văn hóa đọc ngày nay trở nên cần thiết đối với sinh viên ĐHVH HN. Xuất phát từ
những lý do trên, chúng em quyết định chọn đề tài ‘‘Nghiên cứu về thực trạng văn
hóa đọc của sinh viên trường Đại Học Văn Hóa Hà Nội”
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu, khảo sát thực trạng văn hoá đọc sinh viên ĐHVH

HN, đồng thời đề xuất giải pháp định hướng phát triển văn hoá đọc cho sinh viên
ĐHVH HN.
3. Đối tượng nghiên cứu của đề tài:
Văn hoá đọc của sinh viên.
4. Lịch sử nghiên cứu:
- Đọc là một dạng lao đơng chí óc, rất hữu ích và rất cần thiết cho con người
và cho xã hội.
- Trong xã hội hiện đại để đáp ứng nhu cầu phát triển các hoạt động giáo dục
khoa học, văn hóa, kinh tế, vv…việc đọc sách báo (và các tài liệu khác)với mục
đích khai thác, sử dụng thông tin, chi thức càng ngày càng trở nên cấp thiết. “ Con
người ngừng tư duy khi ngừng đọc”- Lời phát biểu của Đơni Điđơrô(1) cách đây
hơn 2 thế kỉ đến nay vẫn còn giá trị như một lời cảnh tỉnh, một lời nhắc nhở khơi
gợi nhiều điều, giúp chúng ta suy ngẫm. Theo giáo sư, tiến sĩ khoa học Ju.P.
Melentieva (2007) thì "Phải thừa nhận rằng, đọc (dù là đọc trên giấy, hay trên màn
hình) vẫn là quy trình kỹ thuật duy nhất của hoạt động trí tuệ, nhằm khai thác
những tri thức mà nhân loại đã tích lũy, theo nghĩa rộng nhất của khái niệm này.
Đọc là chiến lược quan trọng nhất trong cuộc sống của bất cứ người nào biết suy
nghĩ. Khơng đọc thì khơng có giáo dục, khơng có sự hình thành thế giới quan,
khơng có sự trưởng thành nghề nghiệp, khơng có sự phát triển về cảm xúc và trí
tuệ. Sự đọc thâm nhập vào mọi lĩnh vực và mọi giai đoạn phát triển của cá nhân, từ


lúc cịn thơ ấu cho đến khi nhắm mắt xi tay, và nó quyết định phần lớn sự thành
đạt trong cuộc sống. Càng ngày càng có thêm nhiều người nhận thức rằng, đọc
sách là một việc phải làm suốt đời"[6].
Vào nửa sau thế kỷ XX, nhiều nhà khoa học cho rằng cần có những nghiên
cứu phối hợp trong phạm vi quốc tế về vấn đề đọc sách, để có thể phân tích so sánh
thực trạng việc đọc tại các nước khác nhau. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân,
những nghiên cứu thuộc loại này đến nay vẫn chưa có nhiều.
Năm 1954, một cuộc khảo sát quốc tế với câu hỏi: "Hiện giờ bạn có đọc sách

hay khơng?" được tiến hành tại Mỹ, Canađa, Ôxtrâylia, Anh và Đức. Đây được coi
là một bước đi mới trong nhận thức về việc đọc như là một hiện tượng có tính chất
chung cho cả thế giới. Những nhà nghiên cứu tiến hành cuộc khảo sát này đã có
được những điều kiện để so sánh các chỉ số đọc sách trong các nước khác nhau, để
phân tích thực trạng, tìm ngun nhân của những dị biệt, rút ra những kết luận.
Trong những năm 70, Tiểu ban ĐỌC SÁCH của Hiệp hội Thư viện Quốc tế
(IFLA), một tiểu ban do V.Đ. Stelmakh (Nga) có sáng kiến đề nghị thành lập, và
sau đó, là người trực tiếp phụ trách (từ 1993-1997), đã tiến hành một đợt khảo sát
quốc tế về việc đọc của lứa tuổi thiếu nhi, bao gồm 26 nước tham gia. Cuộc khảo
sát này đã góp phần giải quyết nhận thức về việc nghiên cứu vấn đề đọc sách như
là một vấn đề nghề nghiệp chung của tồn thế giới. Cũng vào những năm tháng đó,
riêng ở Liên Xô cũng đã tiến hành những nghiên cứu quốc tế về việc đọc, với sự
tham gia của các nước mà thời đó được gọi là nước anh em, như: Ba Lan, Hungari,
CHDC Đức, v.v… Như vậy, các nhà khoa học Nga đã góp phần đáng kể vào hoạt
động nghiên cứu việc đọc trong phạm vi quốc tế.
Vì vậy cho thấy văn hóa đọc là vấn đề rất đáng được quan tâm đối với trường
DHVHHN
5. Phạm vi nghiên cứu:
Trường ĐHVH HN Hà Nội giai đoạn hiện nay.


6. Nhiệm vụ nghiên cứu+ Nhiệm vụ:
- Hệ thống hoá các vấn đề cơ sở lý luận về văn hoá đọc.
- Khảo sát thực trạng văn hoá đọc của học sinh viên ĐHVH HN.
- Đề xuất các giải pháp định hướng phát triển văn hoá đọc cho sinh viên ĐHVH
HN.
7. Nội dung nghiên cứu
- Văn hóa với sinh viên trường ĐHVHHN
- Thực trạng đọc của sinh viên trường ĐHVHHN
- Giải pháp cho sinh viên trường ĐHVHHN

- Kết luận
8. Phương pháp nghiên cứu
+ Phân tích và tổng hợp tài liệu.
+ Điều tra bằng phiếu hỏi
+ Phỏng vấn trực tiếp
+ Quan sát
+ Thông kê số liệu


CHUONG 1
VĂN HÓA ĐỌC VỚI SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC
VĂN HĨA HÀ NỘI
Văn hố đọc” trong thời gian gần đây được báo chí trên giấy và trên mạng
bàn luận khá nhiều. Mỗi người có cách nhìn khác nhau, tầm nhìn khơng đồng nhất,
góc nhìn khơng giống nhau, điểm nhìn cách biệt nhau, thậm chí cịn có ý kiến cho
rằng khái niệm văn hóa đọc chưa hình thành. Nên nhận định không trùng nhau,
lệch nhau, trái ngược nhau cũng là điều bình thường, khơng khó hiểu, sự đa dạng
này cũng có ý nghĩa tích cực, giúp cho nhìn nhận về văn hố đọc được cởi mở hơn,
tồn diện hơn, sâu sắc hơn và cũng hướng tới đúng đối tượng hơn, một điểm không
nhỏ để dẫn tới đồng thuận.
Khái niệmTheo nghĩa rộng, đó là ứng xử đọc, giá trị đọc và chuẩn mực đọc
của cộng đồng xã hội, các cơ quan quản lý nhà nước và các nhà quản lý, các thành
viên trong xã hội. ứng xử đọc, giá trị đọc, chuẩn mực đọc của các nhà quản lý và
cơ quan quản lý nhà nước là chính sách, đường lối, kế hoạch, biện pháp cụ thể
nhằm phát triển nền văn hoá đọc quốc gia. Các hoạt động này đều nhằm tạo ra
hành lang pháp lý thúc đẩy, phát triển tài liệu đọc có giá trị, chất lượng, phong phú,
đa dạng và lành mạnh, đồng thời tuyên truyền, hướng dẫn đọc chúng cho mọi
người đọc khác nhau, khơng phân biệt giàu nghèo, trình độ cao hay thấp, ở đô thị
hay vùng nông thôn hẻo lánh đều có khả năng ngang nhau tiếp cận chúng (thơng
qua sự phát triển các loại hình thư viện, các loại cửa hàng sách).

Ứng xử đọc, giá trị đọc, chuẩn mực đọc của cộng đồng phải kể tới truyền
thống văn hóa đọc của cha ơng, các hoạt động đa dạng, phong phú và thường
xuyên của các tổ chức văn hóa, xã hội, giáo dục tổ chức thi đọc sách, tìm hiểu một
vấn đề nào đó (hội phụ nữ, đồn thanh niên, cơng đồn...); sự phát triển và hoạt


động của các hội nghề nghiệp liên quan tới đọc như hội nhà văn, hội nhà báo, hội
thư viện...; dư luận xã hội thông qua các cơ quan truyền thông tuyên truyền, định
hướng, giới thiệu sách báo có giá trị, chất lượng, phê phán sách báo không lành
mạnh, lệch lạc, kém chất lượng; tôn vinh người viết sách báo, người đọc sách báo,
tôn vinh các bậc tha mẹ, ông bà đọc cho con, cháu ở độ tuổi trước khi đến trường
nghe thường xun.
Ở nghĩa hẹp, đó là văn hố đọc của mỗi cá nhân trong xã hội, được thể hiện
thành thói quen đọc, sở thích đọc và kỹ năng đọc của họ. Thói quen đọc được gây
dựng, ni dưỡng và định hình trong suốt cuộc đời. Nếu khơng được ni dưỡng
chu đáo, hoặc bị áp lực xã hội như công việc căng thẳng, chiếm hết thời gian trong
ngày, bị các phương tiện nghe nhìn cuốn hút..., thói quen đọc cũng có thể bị suy
thối, lụi tàn
.
Văn hố đọc là một trong những nhân tố cấu thành nên đời sống văn hoá của
con người và xã hội. Để làm rõ quan niệm về văn hoá đọc, trước hết chúng ta cần
tiếp cận khái niệm văn hố.
Từ văn hố có rất nhiều nghĩa. Trong tiếng Việt, “Văn hố” được dùng theo
nghĩa thơng dụng để chỉ học thức (trình độ văn hố), lối sống (nếp sống văn hoá);
theo nghĩa chuyên biệt để chỉ trình độ phát triển của một gian đoạn (văn hố Đơng
Sơn)…; Theo nghĩa rộng, văn hố bao gồm cả những giá trị vật chất và các giá trị
tinh thần do con người tạo nên. Văn hóa theo Chủ tịch Hồ Chí Minh là ‘‘ Vì lẽ sinh
tồn cũng như mục đích của cuộc sống, lồi người mới sáng tạo và phát minh ra
ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học tôn giáo, văn học, nghệ thuật,
những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng.

Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa’’
Phân tích cách tiếp cận văn hố phổ biến hiện nay, có thể xác định được
bốn đặc trưng cơ bản mà tổng hợp lại, có thể nêu ra một định nghĩa “Văn hố” như


sau: “Văn hoá là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con
người sáng tạo và tích luỹ qua q trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác
giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội”.
Văn hố đọc cũng chính là một bộ phận văn hoá của con người được trao
truyền qua rất nhiều thế hệ. Từ khi có chữ viết ra đời, cùng với nó là hoạt động đọc
của con người cũng xuất hiện. Khi công nghệ in ấn phát triển, hoạt động đọc của
con người ngày càng trở nên phổ biến hơn trong xã hội. Sách báo cung cấp cho con
người tri thức khoa học kỹ thuật, chính trị kinh tế, văn học... Trong sách báo lưu
giữ các kinh nghiệm sống, kinh nghiệm sản xuất và chiến đấu mà con người đã tích
luỹ và đúc kết lại trong quá trình sống. Thơng qua q trình đọc và tự đọc, các tri
thức này được truyền từ đời này qua đời khác, từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Văn hoá đọc mang những giá trị văn hoá của thế hệ trước truyền lại cho thế
hệ sau. Từ xa xưa, các bậc tiền bối đã khẳng định vai trò quan trọng của việc đọc
trong đời sống xã hội và trong sự phát triển của mỗi cá nhân. Nhiều bậc vĩ nhân
trong lịch sử cũng đã đề cao sức mạnh của sách và việc đọc sách. Chủ tịch Hồ Chí
Minh khẳng định: “ Sách là thuốc bổ tinh thần, sách là thuốc chữa tội ngu” [7].
V.I.Lênin cho rằng: “Khơng có sách thì khơng có tri thức. Khơng có tri thức thì
khơng có chủ nghĩa cộng sản”… Từ đó, có thể đúc kết lại: văn hoá đọc là nền tảng,
là cơ sở cho sự phát triển những ý tưởng sáng tạo, góp phần nâng cao dân trí, đồng
thời cũng là phương tiện lưu giữ trí thức, kinh nghiệm cho các thế hệ. Và vì thế,
văn hố đọc cịn là một nét đẹp truyền thống của mỗi dân tộc.
1.2. Biểu hiện của văn hoá đọc
Đọc là một nhu cầu, một thói quen, và trên hết là một nét văn hóa của đời
sống. Chính vì vậy, khi nói về văn hóa đọc chúng ta đáng giá thể hiện không chỉ
ở số lượng tài liệu đã đọc mà còn ở chất lượng đọc. Kiến thức, kinh nghiệm tích

luỹ được của mỗi người sẽ giúp ích nhiều cho việc đọc hiểu, lĩnh hội sâu sắc kiến
thức và thông tin được chuyển tải trong tài liệu. Hiệu quả của việc đọc phải được


thể hiện ở khả năng vận dụng sáng tạo những tri thức thu được từ việc đọc vào
cuộc sống và cơng việc hàng ngày của chủ thể đọc. Văn hố đọc còn bao gồm cả
thái độ ứng xử của chủ thể đọc đối với tài liệu mà họ đã, đang và sẽ đọc. Nói cách
khác, văn hố đọc phụ thuộc vào trình độ văn hố của mỗi người. Xã hội có phát
triển thì nhu cầu đọc con người khơng bao giờ mất đi mà chỉ có thể thay đổi. Do đó
mà khi đánh giá về văn hóa đọc chúng ta phải xem xét tới biểu hiện của văn hóa
đọc như thế nào. Và biểu hiện của nó thể hiện ở những yếu tố sau đây:
1.2.1. Nhu cầu đọc.
Đọc sách là một dạng nhu cầu về tinh thần, là nhu cầu thiết yếu và cách
thưởng thức văn hóa sang trọng, là cách tốt nhất để làm giàu vốn từ vựng của con
người. Đọc phải luôn đi đôi với suy nghĩ, suy ngẫm, tra cứu, tìm tịi, …là cơ sở
hữu ích cho việc nâng cao tri thức, hiểu biết tạo dựng sự vững chắc trong toàn bộ
hệ thống kiến thức, nhận thức của mỗi con người.
Yếu tố đầu tiên khi đề cập đến văn hoá đọc là nhu cầu đọc và hứng thú đọc
của chủ thể đọc. Chúng ta không thể đọc tất cả những điều cần biết nhưng có đủ
thời gian để đọc những điều cần thiết cho cuộc sống.
Nhu cầu đọc là đòi hỏi khách quan của con người đối với việc tiếp nhận và sử
dụng tài liệu nhằm duy trì và phát triển hoạt động sống. Con người ai cũng muốn
vươn lên, ai cũng muốn hiểu biết. Chúng ta tiếp nhận sự hiểu biết qua lao động,
qua học tập, qua việc đọc sách, tài liệu.
Nhu cầu đọc là thái độ nhận thức hoặc cảm thụ của người đọc (cá nhân, nhóm
người) đối với việc đọc như đối với hoạt động cần thiết của cuộc sống mà nhờ đó,
các nhu cầu giao tiếp, nhận thức, thẩm mỹ được thoả mãn. Nhu cầu đọc chỉ xuất
hiện khi bản thân người đọc cảm nhận được việc đọc chính là chất dinh dưỡng tinh
thần không thể thiếu được trong đời sống thường nhật của họ.
Nhu cầu đọc là nhu cầu tinh thần xuất phát từ nhu cầu nhận thức, nhu cầu

giao tiếp và nhu cầu thẩm mỹ. Đọc không chỉ để nhận thức mà còn để cảm nhận,


thấu hiểu, thưởng thức một vẻ đẹp, một giá trị. Nhu cầu đọc thường xuất hiện và
được duy trì ổn định ở những người có đời sống tinh thần phát triển cao. Nhu cầu
đọc bắt nguồn từ yêu cầu của các hoạt động khác nhau trong đời sống của mỗi
người và chịu sự ảnh hưởng trực tiếp của các điều kiện xã hội. Điều này được thể
hiện qua nội dung và phương thức mà xã hội thoả mãn nhu cầu đọc cho người đọc.
Nhu cầu đọc nếu được đáp ứng thường xuyên, đầy đủ thì ngày càng phát triển và
bền vững, ngược lại nếu không được đáp ứng lâu dần sẽ suy giảm và mất đi.
Đọc là quá trình tiếp thu, lĩnh hội tri thức và các giá trị văn hoá được thể hiện
trên tài liệu. Hoạt động đọc là hoạt động tinh thần bên trong của con người, bắt
nguồn từ nhu cầu đọc. Hoạt động đọc có sự tham gia trực tiếp của các yếu tố tâm
lý như: cảm giác, tri giác, trí nhớ, tư duy, ngơn ngữ. Vì thế đọc là quá trình tâm lý
đặc biệt của con người, trong đó khơng chỉ có sự tham gia của các q trình nhận
thức cảm tính, lý tính mà cịn chịu sự chi phối của các trạng thái tâm lý và các
thuộc tính tâm lý cá nhân [8].
Nội dung nhu cầu đọc xuất phát từ yêu cầu của hoạt động sống, nội dung đọc
vì vậy liên quan chặt chẽ đến hoạt động chủ đạo của chủ thể đọc. Nếu hoạt động
chủ đạo của chủ thể đọc là học tập thì các loại tài liệu có nội dung liên quan đến
chương trình học tập, các loại tài liệu tham khảo, sách hướng dẫn học tập, sách
giáo khoa… được quan tâm chọn lựa. Đây là vấn đề trọng tâm cần xem xét khi
nghiên cứu phát triển văn hố đọc cho các nhóm người đọc khác nhau.
Kết quả của hoạt động đọc là tri thức, giá trị văn hoá, kinh nghiệm xã hội
chứa đựng trong tài liệu được người đọc lĩnh hội, vận dụng vào cuộc sống và làm
thay đổi nhận thức, hành vi của họ theo hướng tích cực, đồng thời những nội dung
mà người đọc thu nhận được từ tài liệu khơng hề bị mất đi mà trái lại cịn được phổ
biến, sản sinh ra nhiều hơn.
Khi đọc sách kèm theo cảm xúc thì hứng thú đọc sẽ xuất hiện. Hứng thú là
thái độ đặc biệt của cá nhân đối với một đối tượng nào đó vừa có ý nghĩa trong đời



sống vừa có khả năng đem lại cho chủ thể những khối cảm. Hứng thú có quan hệ
mật thiết với nhu cầu, giữa nhu cầu và hứng thú có thể chuyển hoá cho nhau [9].
Hứng thú đọc là thái độ lựa chọn tích cực của chủ thể đối với việc đọc những
tài liệu có ý nghĩa và có sức hấp dẫn về mặt tình cảm đối với chủ thể. Hứng thú
đọc của thiếu nhi bị chi phối bởi yếu tố: đặc điểm lứa tuổi, giới tính, khả năng học
tập, hồn cảnh kinh tế gia đình…
Nhu cầu đọc và hứng thú đọc là nguồn gốc tính tích cực trong hoạt động đọc,
quyết định hiệu quả của hoạt động đọc, đồng thời cũng là hai khái niệm luôn đi đôi
với nhau trong việc nghiên cứu hoạt động đọc của tất cả mọi thành phần người
đọc. Nhu cầu đọc là nhân tố duy trì sự tồn tại và phát triển của văn hố đọc, cịn
hứng thú đọc là yếu tố kích thích sự phát triển của văn hố đọc. Có thể bạn đọc có
nhu cầu về 1 tài liệu nhưng trong q trình đọc, nội dung sách phong phú, cộng
thêm cảm xúc của bạn đọc dẫn tới hứng thú đọc gây ra sự tị mị từ đó sẽ xuất hiện
những nhu cầu đọc mới lớn hơn nhu cầu ban đầu. Như vậy, hứng thú đọc có vai trị
rất quan trọng đối với việc hình thành và phát triển nhu cầu đọc, nhất là đối với
lứa tuổi sinh viên. Đây là đối tượng bạn đọc trẻ, rất nhạy bén và tinh tế có sự hiểu
biết ham học hỏi, thích sự khám phá mới mẻ. Hoạt động của các bạn sinh viên
thường chịu sự chi phối ảnh hưởng của yếu tố cảm xúc, hứng thú…vì thế nếu biết
cách kích thích hứng thú đọc thì nhu cầu đọc sẽ được hình thành và duy trì lâu bền.
Trong q trình đọc, con người ngày hồn thiện các kỹ năng đọc để việc đọc
đạt hiệu quả cao nhất. Đó là kỹ năng lựa chọn sách phù hợp với lứa tuổi, với vấn
đề mà mình quan tâm, biết sàng lọc các loại tài liệu có nội dung lành mạnh, khoa
học và hạn chế, thậm chí tẩy chay những tài liệu có nội dung lệch lạc, phản khoa
học… và khi việc lựa chọn tài liệu một cách chính xác, phù hợp, đạt được các kết
quả cao trong quá trình đọc thì nó sẽ là một thành tố quan trọng để chủ thể đọc có
văn hố đọc.



1.2.2. Kỹ năng hiểu và lĩnh hội các gía trị trong sách.
Đọc sách báo là rất cần thiết trong cuộc sống đối với mỗi người, có ý nghĩa
lớn trong việc nâng cao trình độ tự hồn thiện bản thân. Việc đọc sách có hiệu quả
đó là người đọc phải nhận thức tiếp thu lĩnh hội được những tri thức, hiểu đúng
hiểu sâu những giá trị trong cuốn sách để từ đó biến những tri thức đó thành của
mình để nâng cao mở rộng sự hiểu biết điều quan trọng đó là có thể vận dụng
những kiến thức đó vào trong cuộc sống của chính mình. Xong khơng phải ai đọc
sách cũng thu được kết quả như mong muốn. Để đạt được hiệu quả thì chủ thể cần
phải được trang bị kỹ năng đọc.
Kỹ năng là khả năng, trình độ kỹ thuật, thao tác vận dụng năng lực vào thực
tiễn của từng cá nhân. Kỹ năng (phương pháp) là một yếu tố rất quan trọng trong
cuộc sống trên con đường tới thành cơng. Điều đó đúng trong mọi lĩnh vực hoạt
động của chúng ta. Khi làm bất cứ một công việc gì khơng chỉ đơn thuần dựa vào
năng lực nếu có kỹ năng phương pháp đúng đắn chắc chắn sẽ đem lại hiệu quả cao
trong công việc. Trái lại khi làm bất cứ cơng việc gì chúng ta có kiến thức nhưng
khơng có kỹ năng, phương pháp để áp dụng vào cuộc sống thực tế thì sẽ khơng
đem lại hiệu quả cao trong cơng việc. Vì vậy có thể khẳng định rằng phương pháp
là yếu tố quyết định trong việc tiếp thu lĩnh hội giá trị tri thức để vận dụng trong
cuộc sống của chính mình.
Từ đó ta cũng có thể khẳng định rằng kỹ năng đọc cũng có vai trị quan trọng
trong việc đánh giá hiệu quả của hoạt động đọc. Kỹ năng đọc là khả năng hiểu biết,
lĩnh hội, cảm thụ được nội dung có trong tài liệu, biến tri thức, kinh nghiệm trong
tài liệu thành tri thức, kinh nghiệm của bản thân chủ thể đọc, đồng thời có thể vận
dụng tri thức, kinh nghiệm ấy vào những hoạt động sống khác nhau nhằm làm
phong phú hơn cho cuộc sống vật chất, tinh thần của chủ thể đọc. Kỹ năng đọc phụ
thuộc vào nhiều yếu tố như tri thức, kinh nghiệm, năng lực… trong mỗi cá nhân
người đọc và do q trình rèn luyện lâu dài mới có được. Để có được hiệu quả đọc


thì bạn đọc cần thực hiện các nguyên tắc sau:

Thứ nhất, bạn đọc cần xác định được mục đích của việc đọc.
Mục đích chung của việc đọc sách đó là nâng cao nhận thức, hiểu biết về
những vấn đề cụ thể nào đó trong đời sống, chính trị xã hội…Ngồi những mục
đích chung, thì cịn có những mục đích riêng do nhu cầu của từng người đọc có thể
là tìm hiểu về 1 đối tượng, giải quyết một vấn đề, tìm hiểu thơng tin, hay đơn giản
chỉ để giải trí. Từ việc xác định mục đích sẽ giúp bạn đọc có thể đi sâu vào những
vấn đề cần khai thác mà khơng bị phân tán thơng tin. Từ đó để xác định được
phương pháp đọc, lựa chọn cách thức đọc, nên tìm hiểu tồn bộ nội dung cuốn sách
hay tìm hiểu về một vấn đề một khía cạnh nào đó sao cho hợp lý hiệu quả cao.
Thứ hai, lựa chọn sách đọc
Sau khi đã xác định được mục đích thì cần phải tiến hành lựa chọn sách.
Chúng ta có thể biết trong xã hội bùng nổ thông tin như hiện nay thì việc lựa chọn
sách cũng là một vấn đề khó khăn đối với bạn đọc. Để có được sự lựa chọn đúng
đắn thì mỗi người cần xác định được rõ ràng nhu cầu của bản thân để lựa chọn
sách phù hợp đáp ứng nhu cầu đó. Đối với những tài liệu triết học hay những tác
phẩm kinh điển thì cần phải đào sâu suy nghĩ hiểu được hàm ý bên trong câu chữ,
hiểu được bản chất của vấn đề nắm được nội dung của sách. Có những loại sách
với lượng kiến thức lớn và khối lượng lớn thì cần phải lựa chọn thông tin tiếp thu
những thông tin giá trị loại bỏ những thông tin tiêu cực. Đồng thời cũng phải lựa
chọn sách sao cho phù hợp với trình độ, người đọc có trình độ cao, khả năng tập
trung chú ý tốt, có tri thức, kinh nghiệm phong phú sẽ cảm thụ, lĩnh hội nội dung
tài liệu ở mức độ cao hơn. Từ đó đem lại hiệu quả tốt nhất trong việc lựa chọn và
lĩnh hội tri thức.
Tiếp theo đó là khi đọc cần phải có sự suy ngẫm, ln đặt ra những câu hỏi để
có thể tiếp nhận nguồn tri thức một cách sâu sắc tiếp nhận thông tin mới có sự
chọn lọc những thơng tin có giá trị cao phù hợp với bản thân và có thể áp dụng


trong cuộc sống. Để làm được điều đó thì trong q trình đọc cần có những cơng
cụ hỗ trợ.

Việc đọc phải gắn liền với việc ghi chép. Bạn có thể nằm trên giường đọc
sách rất thoải mái, hay vừa đi đường vừa đọc hay là vừa làm việc khác vừa đọc
sách bạn nghĩ làm như vậy sẽ tiết kiệm thời gian và có thể thư giãn khi đọc. Nhưng
thực tế điều đó chỉ làm lãng phí thời gian cơng sức và khơng đem lại hiệu quả.
Thói quen ghi chép buộc chúng ta phải có trách nhiệm có ý thức với điều mình
đọc, buộc tư duy ln phải vận động suy nghĩ để có thể chắt lọc những thơng tin có
giá trị, những thông tin liên quan đến suy nghĩ của mình những thơng tin dữ kiện,
giúp ta có tư duy logic, có hệ thống ghi chép làm sao cho ngắn gọn dễ hiểu. Như
vậy sau khi đọc xong cuốn sách ta có thể dễ dàng nắm được sơ bộ nội dung cuốn
sách. Đồng thời nó cũng giúp cho q trình mã hóa tri thức chuyển vào bộ nhớ dễ
dàng hơn. Sau khi lĩnh hội được những kiến thức đó nếu được trao đổi với bạn bè
hay những người xung quanh về vấn đề đó thì chắc chắn lượng thơng tin đó sẽ
được lưu trữ lâu dài và sâu sắc hơn rất nhiều.
Khi đọc để đạt được hiệu quả thì cần phải có kế hoạch cụ thể. Phải có sự tập
trung vừa đọc vừa ghi chép trong một khoảng thời gian định sẵn. Trước đây khi
chưa xuất hiện những phương tiện nghe nhìn hay những phương tiện truyền thơng
khác thì việc đọc có sự dễ dàng hơn. Ngày nay các bạn trẻ cũng gặp nhiều khó
khăn hơn do chịu sự tác đông chi phối của các phương tiện truyền thông cách thức
tiếp nhận thơng tin đang có dần sự biến đổi. song việc đọc sách vẫn đóng một vai
trị quan trọng nếu bạn đọc biết cách lựa chọn nội dung đọc phù hợp với nhu cầu
tin cần đọc, khi đọc có hiệu quả thì kỹ năng đọc đã được hình thành.
Đối với các bạn sinh viên khi bước vào năm thứ nhất hay cả bốn năm học đó
hồn tồn là một môi trường học tập mới khác hẳn khi học phổ thơng. Sinh viên có
những đặc điểm riêng các bạn là tầng lớp trẻ năng động nhạy bén, sự sáng tạo cao.
Nhưng các bạn vẫn chư có kỹ năng đọc chính vì vậy ngay từ đầu các bạn được


hướng dẫn định hướng phương pháp đọc, kỹ năng đọc một cách khoa học, phát
triển nhu cầu đọc lành mạnh giúp các bạn có thể lĩnh hội được những tri thức mới
và có thể áp dụng trong cộc sống thực tiễn hình thành thói quen đọc. Đó là cơng

việc cấp bách cần phải được thực hiện nhằm phát triển văn hóa đọc cho sinh viên.
1.2.3. Thái độ ứng xử với sách báo
Thuật ngữ văn hoá ứng xử tồn tại hàng ngày trong đời sống của con người.
Văn hoá ứng xử chính là cách mà con người thể hiện thái độ của mình với người
khác và với mơi trường xung quanh một cách thích hợp nhất [10].
Thái độ ứng xử là tâm trạng và hành vi của chủ thể với khách thể trong hoạt
động giao tiếp. Thái độ ứng xử của một cá nhân đối với cá nhân hoặc với một đối
tượng vật chất, tinh thần là sự biểu hiện tâm trạng, tình cảm và hành động của cá
nhân đó vớí đối tượng mà mình tiếp xúc.
Sách báo tài liệu là sản phẩm văn hóa nó phải được ứng xử có văn hóa. ứng
xử có văn hóa là một phạm vi rộng được nghiên cứu tìm hiểu ở nhiều góc độ và
phương diện khác nhau. Ứng xử có văn hóa với tài liệu được thể hiện ở thái độ,
hành vi phù hợp, biết trân trọng, giữ gìn tài liệu, biết cách sử dụng tài liệu có hiệu
quả mà khơng làm chúng hư hỏng, khơng chiếm giữ tài liệu mà cần có thái độ ứng
xử có văn hóa đối với tài liệu. Hiện nay vẫn có những tình trạng bạn đọc khơng có
ý thức, khơng tơn trọng tài liệu như hành vi vẽ bậy lên tài liệu, xé rách tài liệu,
khơng có ý thức tơn trọng giữ gìn bảo vệ tài liệu thậm chí có tình trạng lấy cắp tài
liệu trong thư viện. Ngồi ra ứng sử có văn hóa cịn được thể hiện ở tư thế, tâm thế
của người sử dụng qua tác phong khi đọc tài liệu. Bạn đọc có thực sự hiện túc ngồi
vào bàn đọc ghi chép cụ thể hay chỉ đọc lướt qua, vừa đọc vừa làm việc khác, vừa
đọc vừa ngủ gật… rổi bỏ xó tài liệu mà khơng có sự lĩnh hội tri thức để áp dụng
vào cuộc sống, đọc chỉ để biết hay chỉ lấy số lượng thì sẽ khơng hiệu quả, khơng
có tác dụng gì. Đó cũng thể hiện văn hóa ứng xử đối với tài liệu.
Bạn đọc cần phải tập cách tôn trọng, giữ gìn những cuốn sách mình có, điều


quan trọng đó là phải cố gắng để có thể hiểu được cách thức sử dụng chúng một
cách tốt nhất và có hiệu quả. Sách báo là sản phẩm kết tinh các giá trị văn hoá của
nhân loại, là tài sản tinh thần của thế hệ trước truyền lại cho thế hệ sau. Sách được
coi là “người thầy” vĩ đại - người hướng dẫn con người tri thức. Nếu chúng ta biết

cách tiếp thu lĩnh hội thì giá trị đó sẽ khơng ngừng tăng lên có thể sang tạo ra
những giá trị mới nhưng trái lại nếu không được sử dụng nó sẽ dần mất đi. Văn hóa
ứng xử được thể hiện đó là bạn có tơn trọng những cuốn sách- sản phẩm trí tuệ của
cha ơng ta hay khơng? Bạn thể hiện sự tơn trọng đó như thế nào?
Đối với những bạn sinh viên ngày nay thế hệ trẻ, tầng lớp tri thức liệu các bạn
đã thực sự có sự nhận thức rõ ràng về cách ứng xử trong văn hóa đọc hay chưa?
Chính vì vậy việc giáo dục về thái độ ứng xử có văn hóa là một nội dung quan
trọng và cần phải được thực hiện nhằm hình thành thói quen phát triển văn hóa
đọc.
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến văn hóa đọc
1.3.1 Chính trị
Nghị quyết trung ương 5 khóa VIII của đảng đã khẳng định: ‘‘văn hóa là nền
tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển
kinh tế xã hội”. Văn hóa đọc – một bộ phận của văn hóa – là một trong những động
lực thúc đẩy sự hình thành nên con người mới, những cơng dân có hiểu biết, có trí
tuệ để có thể thích ứng với sự phát triển của xã hội hiện đại – xã hội dựa trên nền
tảng của kinh tế tri thức. Chính vì vậy, phát triển văn hóa đọc luôn là một vấn đề
mang ý nghĩa chiến lược của mỗi quốc gia trong việc nâng cao dân trí, góp phần
phát triển bền vững nguồn nhân lực – nhân tố quyết định thành công. Trong chiến
lược phát triển văn hóa đến năm 2020 (ban hành kèm theo quyết định số
581/QĐ-TTG ngày 6-5-2009) đã đặt ra mục tiêu, nhiệm vụ của ngành văn hóa là
phải “xây dựng phong trào đọc sách trong xã hội, góp phần xây dựng có hiệu quả
thế hệ đọc tương lai”.


Chỉ thị 42/CT – TW ngày 25 tháng 8 năm 2004 của ban chấp hành trung ương
đảng đã chỉ rõ “ chăm lo phát triển nhu cầu văn hóa đọc của các tầng lớp nhân dân,
tổ chức và phát triển các lực lượng, mạng lưới phát hành xuất bản phẩm đáp ứng
đây đủ, đúng đối tượng và địa bàn, đặc biệt quan tâm vùng nông thôn vùng sâu,
vùng xa, miền núi…đến năm 2020, phấn đấu đưa sách đến huyện và đưa sách đến

phần lớn các xã đề đạt chỉ tiêu 6 bản sách/ người/ năm. Tập trung củng cố phát
triển hệ thống thư viện, các phòng đọc, trước hết là ở cơ sở…”
Như vây, Đảng và nhà nước rất chú trọng quan tâm chú trọng tới nâng cao và
phát triển văn hóa đọc. Đây là yếu tố đầu tiên làm nền tàng cho sự hình thành và
phát triển văn hóa đọc một cách bền vững.
1.3.2 Kinh tế
Kinh tế phát triển tạo động lực cho q trình nâng cấp cơng nghệ ở trong
nước. Tất cả các khâu công việc dần trở thành tự đơng hóa với trang thiết bị hiện
đại cùng với xu hướng phát triển của kinh tế thế giới. Sự phát triển đó ảnh hưởng
khơng nhỏ tới sinh hoạt của mọi người nói chung và sinh viên nói riêng.
Kinh tế phát triển, nhu cầu vật chất của con người được thỏa mãn cao hơn.
Tuy nhiên nó làm cho con người phải đối mặt với cơm áo gạo tiền. Quỹ thời gian
theo đó cũng hạn hẹn dần.
Kinh tế phát triển, kéo theo những chính sách đầu tư cho giáo dục được nâng
cao. Sinh viên có điều kiện tốt hơn trong mơi trường học tập, nhưng nó cũng địi
hỏi đặt những thách thức lớn về nguồn nhân lực đòi hỏi sinh viên phải thích ứng
với mơi trường làm việc cao hơn. Cơ hội thì ít, nhưng thách thức thì nhiều. Vì vậy,
môi trường học tập của các trường cũng phải đổi mới để theo kịp nhu cầu của xã
hội.
1.3.3 Sự phát triển của khoa học và công nghệ
Các phương tiện truyền thông kỹ thuật số hôm nay mở ra nhiều loại hoạt
động hấp dẫn, cuốn hút giới trẻ hơn bao giờ hết, và tạo ra nơi họ hàng loạt những


nhu cầu mới mà các thế hệ trước đây không tưởng tượng nổi. Các loại điện thoại di
động ngày càng đa dạng, đa chức năng, với các dịch vụ như ghi âm, chụp hình, nối
mạng, gắn nhạc chng và hình nền đủ loại, tán gẫu và gởi tin nhắn, nghe nhạc và
xem phim…
Các thiết bị máy tính bảng nhỏ gọn hay các thiết bị đọc sách điện tử ra đời ồ
ạt. Đi đơi với nó là việc kết nối 3G trở nên phổ biến hơn ở nhiều quốc gia, giúp

người sử dụng tiếp cận thông tin, mà cụ thể là các kho sách trực tuyến nhanh chóng
và dễ dàng hơn.
Trên thực tế, ngoài việc các thiết bị đọc sách hay máy tính bảng ra đời ồ ạt,
các kho sách trực tuyến cũng được cung cấp kèm với nó. Có thể kể ra các tên tuổi
mới nổi lên trong thời gian gần đây như iBook của Apple dành cho iPad, kho sách
dành cho thiết bị đọc sách Kindle của Amazon, Barn&Noble cũng có kho sách
riêng cho thiết bị của mình. Google Books cũng là một thương hiệu không thể
không kể đến cùng nhiều kho sách trực tuyến khác đang hiện hữu trên mạng
internet.
Sách điện tử hay kho sách trực tuyến không chỉ tạo sự tiện lợi cho người sử
dụng trong việc đọc hay mua sách, nó cịn giúp các nhà xuất bản tiết kiệm chi phí
in ấn, vận chuyển hay phân phối. Đó là chưa kể với sách điện tử, người đọc có thể
tiếp cận nhiều hơn với các nội dung media như âm thanh hay video, điều mà sách
in không có được. Theo các chuyên gia xu hướng sách điện tử này có thể sẽ cịn
gây ảnh hưởng sang cả tạp chí hay báo in.
Nhưng nổi bật khơng thể khơng nói tới là mạng Internet: Đủ loại trang web
mọc lên như nấm, có giao diện được thiết kế bằng nhiều hình ảnh động với màu
sắc hấp dẫn, bắt mắt. Các dịch vụ quảng cáo và khuyến mãi trực tuyến không
ngừng mời chào, và người ta có thể mua bất cứ thứ gì qua mạng, kể cả những thứ
đồ cổ q hiếm, các loại hàng “độc” có xuất xứ từ những nơi nổi tiếng, cho đến
những món hàng “hi-tech” (cơng nghệ cao) mới vừa ra lị. Nhiều trang web có khả


năng tương tác cao, cho phép người sử dụng tham gia đóng góp ý kiến của mình
vào các diễn đàn mở. Họ có thể tự do bày tỏ cảm nghĩ hoặc phê phán chỉ trích
những điều mình thấy chư hợp lý , và nếu cần có thể chất vấn lại chính tác giả. Họ
có quyền và có cơ hội nói những tâm tư, ước muốn, bức xúc và mọi ý tưởng của
mình… Và nhiều khi những ý kiến thiểu số lại có thể thắng thế trong các diễn đàn
chung, vì có cơ hội được nói ra để mọi người ủng hộ. Việc sở hữu những địa chỉ
email, tạo blog hoặc tham gia vào các nhóm bạn trên mạng cũng đang đáp ứng cho

nhu cầu sống dân chủ, thể hiện bản thân, có khoảng khơng gian riêng tư và khơng
bị kiểm sốt của con người.
Để đáp ứng nhu cầu thơng tin và giải trí qua truyền hình, hệ thống truyền hình
cáp và truyền hình kỹ thuật số đã khá phổ biến tại Việt Nam, cho phép người xem
chọn rất nhiều kênh khác nhau với đủ loại chương trình tin tức thời sự, tài liệu và
phim ảnh. Có rất nhiều “trị chơi trí tuệ” trên ti-vi, rất hấp dẫn giới trẻ, ngay cả các
sinh viên học sinh, với những món tiền thưởng hậu hĩnh và cơ hội thể hiện chính
mình! Các chương trình chiếu phim đủ loại, từ các phim Hàn Quốc nhiều tập cho
đến các loại phim bạo lực và nóng bỏng của Mỹ, Úc, và cả các nước Tây Âu...
Nhiều chương trình kịch ngắn, thể thao, văn hóa, ca nhạc thiếu nhi cũng được nâng
cao chất lượng hơn và có nhiều người ưa thích. Người ta cũng có thể xem các
chương trình truyền hình hoặc nghe phát thanh và đọc các loại sách báo qua hệ
thống Internet. Và như thế, báo điện tử đang có khuynh hướng “lấn sân” của các
loại báo viết.
Sự ra đời của công nghệ kỹ thuật số đã biến thế giới hiện nay thành một thế
giới điện tử, với các loại email (thư điện tử), e-book (sách điện tử), e-learning (học
qua mạng), e-business (thương mại điện tử), e-marketing (tiếp thị điện tử)… dẫn
đến nhiều thay đổi trong các tương giao và hoạt động xã hội. Nhờ có các phương
tiện truyền thơng mới, hàng loạt các dịch vụ trở nên thuận tiện vì người ta có thể
đăng ký học, xin việc, giao dịch, mua vé máy bay hoặc tàu xe cũng như thực hiện


các dịch vụ khác nhau qua mạng. Các trang web có thể giúp đào tạo nhân sự, điều
phối cơng việc, chia sẻ kiến thức và cho phép những hình thức hỗ trợ khác đối với
mọi chức vụ. Một lối sống mới hình thành, trong đó những người sử dụng khơng
gian số ảo trở nên mạnh dạn và tự tin hơn trong các giao tiếp của mình, thậm chí có
khi trở thành “suồng sã”, thiếu tôn trọng nhau.
1.3.4. Môi trường học tập
Phương pháp giảng dạy và học trong trường đại học hiện nay có ảnh hưởng
rất lớn đến trình độ văn hóa đọc của sinh viên. Một trong những yếu điểm hiện nay

là phương pháp học vẫn còn lạc hậu, nặng về truyền thụ, một chiều, thầy đọc, trị
ghi, ít phát huy được tính chủ động, sáng tạo của sinh viên. Phương pháp dạy và
học theo lối truyền thống làm sinh viên ngày nay thiếu sự tìm tịi, sáng tạo. Chính
cách học đó khiến họ khơng tạo ra được thói quen đọc sách- học chủ động mà đọc
theo nhu cầu sở thích. Dẫn đến việc đọc đối phó hiện nay dừng lại ở chỗ đáp ứng
nhu cầu bắt buộc thi cử.
Với mơi trường học tập như vậy. Do đó hầu hết sinh viên khi chuyển sang
hình thức đào tạo tiến chỉ đều lâm vào ngỡ ngàng, thiếu hụt về phương pháp và các
thức đọc, khơng thích ứng được với mơi trường hiện tại và kết quả thu được không
được như mong muốn.
1.4. Văn hoá đọc đối với sinh viên Trường đại học Văn hoá Hà Nội
1.4.1 Đặc điểm của sinh viên Trường đại học Văn hoá Hà Nội
Trường Đại học Văn hóa Hà Nội- ngơi trường đã trải qua hơn nửa thế kỷ, nơi
đây đã đào tạo được hàng chục ngàn cán bộ văn hóa hiện nay cơng tác trên khắp
mọi miền đất nước. Hầu hết đội ngũ cán bộ làm cơng tác văn hóa ở các cơ quan
trung ương địa phương đều đã và đang là sinh viên trường Đại học Văn hóa Hà
Nội, trong số họ có rất nhiều cán bộ đang làm công tác quản lý và lãnh đạo trong
các cơ quan của chính phủ và ngành văn hóa thơng tin.
Cùng với thời gian, trường đã khẳng định được vị thế của mình trong thương


hiệu đào tạo, giảng dạy và nghiên cứu. Để nâng cao chất lượng đào tạo, trường đã
không ngừng đổi mới, hồn thiện hiện đại hóa chương trình đào tạo của mình theo
học chế tín chỉ để đáp ứng nhu cầu của xã hội.
Là ngôi trường đào tạo về nghiệp vụ văn hóa, với nhiều chuyên ngành đào tạo
phong phú nên sinh viên Trường ĐHVH HN có phương pháp và cách thức học
khác với các trường khối kĩ thuật. Sinh viên Trường ĐHVH HN ngoài những đặc
điểm chung của sinh viên thì cịn có những đặc điểm khác biệt so với những sinh
viên trường kỹ thuật. Cụ thể:
*Đặc điểm chung:

Sinh viên là một tầng lớp có tri thức đang được đào tạo theo một chuyên môn
lĩnh vực nhất định. Đặc điểm nổi trội nhất của sinh viên ngày nay đó là sự nhanh
nhạy, năng động, dễ tiếp thu cái mới, thích cái mới thích sự tìm tịi và sáng tạo.
Mơi trường sinh hoạt trong một cộng đồng tương đối ổn định thống nhất về tri thức
và lứa tuổi. Đây cũng là tầng lớp xưa nay vẫn khá nhạy cảm về những vấn đề xã
hội đặc biệt trong việc lĩnh hội tiếp thu những giá trị tri thức mới sinh viên cần
phải được định hướng rõ ràng, phải có sự hiểu biết về cách thức tiếp nhận thông tin
khi mà xã hội và khoa học công nghệ ngày càng phát triển.
*Đặc điểm sinh viên trường ĐHVHHN.
Phần lớn đầu vào của sinh viên trường ĐHVH HN là khối xã hội nên đặc
điểm chung là thích đọc sách, truyện, các tác phẩm văn học.
Do sở thích, đam mê nên các bạn sớm được tiếp cận với những tài liệu văn
học từ đó tạo nên thói quen đọc sách từ rất sớm.
Sinh viên trường ĐHVH có khối lượng chương trình học tương đối nhẹ nhàng
hơn các trường kỹ thuật nên có nhiều thời gian đọc sách.
Chính vì sự tiếp cận sớm với tài liệu nên đa số các bạn cũng có sự hiểu biết
cách thức, phương pháp. Đây là điểm khác biệt với sinh viên trường khác.
Những đặc điểm đó là điều kiện thuận lợi giúp sinh viên trường ĐHVH HN


có thể dễ dàng tiếp cận với văn hóa đọc. Tuy nhiên, bên cạnh đó cũng cịn tồn tại
một số những vấn đề sau:
Khả năng sử dụng công nghệ, các phương tiện kỹ thuật cịn hạn chế;
Khả năng phân tích phản xạ còn kém.
Sinh viên chủ yếu đọc các tác phẩm văn học để giải trí, cịn chưa chịu
khó đọc các tài liệu phục vụ học tập
Những đặc điểm trên trên của sinh viên cho thấy rằng: văn hóa đọc có
vai trị quan trọng trong xã hội hiện nay nhưng nó đang có nguy cơ mai một. Sự
phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ, phương tiện truyền thông, cách thức
tiếp cận thông tin ngày càng phong phú đa dạng lôi cuốn các bạn sinh viên vào

luồng thông tin với những hình thức giải trí mới mẻ thu hút. Chính vì vậy, các cơ
quan thơng tin thư viện cần phải có những giải pháp cụ thể thu hút bạn đọc đến với
thư viện nâng cao phát triển chất lượng văn hóa đọc.
1.4.2 Vai trị của văn hố đọc trong sinh viên Trường Đại học Văn hoá Hà
Nội
Sách là người bạn khơng thể thiếu của con người, nó là nguồn tri thức q giá
mà mỗi chúng ta có thể tìm tịi trong suốt cuộc đời. M.Gorki từng nói” mỗi cuốn
sách đều là những bậc thang nhỏ, khi bước lên tôi tách khỏi con thú và đến gần với
con người, tới gần quan niệm về cuộc sống tốt đẹp nhất và sự thèm khát cuộc
sống” và ông cũng kêu gọi “hãy u q sách vì đó là nguồn gốc của mọi tri thức”.
Như vậy có thể thấy văn hóa đọc có vai trò quan trọng trong cuộc sống là con
đường dẫn tới thành cơng. Điều đó cịn quan trọng hơn nữa đối với sinh viên một
tầng lớp trẻ trong xã hội đang chịu sự biến đổi tác động mạnh mẽ khi nền kinh tế
xã hội đang phát triển. Việc tiếp thu lĩnh hội tri thức mới để theo kịp với sự phát
triển của xã hội càng đóng một vai trị quan trọng.
Về mặt xã hội, có thể nói văn hố đọc góp phần nâng cao sự hiểu biết và làm
phong phú đời sống tinh thần của con người. Đọc có thể là gia tăng tri thức, nhu


cầu tìm kiếm tri thức đóng vai trị quan trọng trong lịch sử tồn tại và phát triển của
xã hội loài người, mối quan hệ giữa việc đọc và nhu cầu nâng cao tri thức ngày
càng rõ rệt. Trong thời đại kinh tế tri thức nếu văn hố đọc khơng phát triển con
người sẽ không tiếp thu kịp thời thông tin và tri thức. Với vốn văn hoá hạn chế và
lạc hậu của cư dân, quốc gia không thể phát triển và hội nhập quốc tế. Ý nghĩa của
văn hoá đọc khơng chỉ bó hẹp trong việc tìm tri thức để sinh tồn bởi vì trong thế
giới nội dung đọc rộng lớn không phải tác phẩm nào cũng nhằm chuyển tải tri thức
mà bao gồm cả những tác phẩm văn học nghệ thuật, tác phẩm lịch sử, triết học,…
Chức năng của những tác phẩm này là khơi gợi tư tưởng, bồi dưỡng tinh thần, định
hướng cuộc sống và hun đúc nhân cách cho con người.
Đối với cá nhân, văn hoá đọc cịn giúp hình thành và phát triển nhân cách cho

mỗi người ngay từ khi con ấu thơ. Giáo dục văn hoá đọc cho sinh viên là việc làm
quan trọng giúp họ tu dưỡng và rèn luyện bản thân về nhiều mặt, cả năng lực lẫn
đạo đức. Đọc là phương thức tốt nhất giúp tiếp thu tri thức, người có tri thức làm
việc sẽ đạt hiệu quả cao hơn và dễ đạt được thành tựu về mọi mặt trong cuộc sống
vì họ có tri thức và biết vận dụng tri thức vào thực tế hoạt động của chính họ. Đối
với việc nâng cao những đức tính tốt đẹp cho con người, có thể khẳng định: văn
hố đọc có tác dụng nuôi dưỡng tâm hồn mỗi cá nhân, thông qua việc đọc, cảm
thụ, thưởng thức những tình tiết sinh động và những tình cảm chân thực trong từng
tác phẩm.
Trường Đại Học Văn Hóa Hà Nội là một trường thuộc khối xã hội, nhiệm vụ
chủ yếu là đào tạo cán bộ làm cơng tác văn hóa thì văn hóa đọc giữ một vai trò
quan trọng và thiết yếu đối với sinh viên trong trường.
Văn hóa đọc đối với sự phát triển năng lực theo chuyên ngành của sinh viên
trường ĐHVH HN.
Văn hóa đọc là yếu tố hỗ trợ nâng cao chất lượng học tập cho sinh viên.
Trong trường các chuyên ngành đều có sự liên quan đến văn hóa và nghệ thuật như


khoa thư viện, viết báo, âm nhạc, phát hành xuất bản phẩm, bảo tàng … việc tiếp
thu lĩnh hội các nguồn thông tin tri thức qua những tài liệu sách, báo, tạp chí…sẽ
giúp cho sinh viên mở rộng sự hiểu biết phát huy năng lực, năng khiếu cá nhân
đồng thời giúp các bạn có thể bộc lộ sự sáng tạo trong học tập.
Vai trị văn hóa đọc trong sự biến đổi phương pháp đào tạo.
Trước đây trường ĐHVH HN đào tạo sinh viên theo hình thức niên chế với
lượng số tiết học trên lớp rất lớn, hình thức chủ yếu là thầy giảng và trò nghe nên
sinh viên rất thụ động trong việc học tập. Hòa nhịp cùng phong trào đổi mới giáo
dục của cả nước, nhà trường đã quyết định thay đổi sang hình thức đào tạo tín chỉ
nhằm nâng cao chất lượng đào tạo. Theo hình thức đào tạo này thì số tiết học rất ít
phần lớn sinh viên sẽ phải chủ động tìm hiểu kiến thức giảng viên chỉ là người
hướng dẫn và giải thích. Sinh viên có rất nhiều thời gian rảnh rỗi các bạn sẽ phải

chủ động đăng ký trên internet để sắp xếp lịch học của mình. Chính vì sự thay đổi
này nên văn hóa đọc lại càng đóng vai trị quan trọng hơn nữa. Các bạn sinh viên
phải tự tìm cho mình một phương pháp học tập sao cho hiệu quả trong đó văn hóa
đọc đóng vai trị rất cần thiết và quan trọng. Nhưng các bạn sinh viên lại đang đứng
trước quá nhiều sự lựa chọn quá nhiều thông tin cũng như cách thức tiếp cận, lĩnh
hội tri thức. Các bạn cần phải có kỹ năng và sự định hướng để có thể tiếp nhận giá
trị tri thức áp dụng trong học tập. Đây vừa là một cơ hội vừa là thách thức đối với
cán bộ thư viện trường ĐHVHHN làm sao để lôi cuốn bạn đọc đến với thư viện.


×