Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

Tiểu luận xã hội học kinh tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (162.25 KB, 25 trang )

ĐỀ TÀI
 Phân tích và so sánh quan điểm về hành động kinh tế của ba nhà xã
hội học Max Weber, Vilfredo Pareto, Joseph Schumpeter.
 Từ những quan niệm của các nhà xã hội học anh/chị hãy vận dụng vào
nền kinh tế thị trường tại Việt Nam hiện nay. Trong nền kinh tế vĩ mô
với công thức Tổng cầu Y = C + I +G + T + X, - M, thì yếu tố nào tạo
điều kiện cho cá nhân và xã hội phát triển? Vì sao?


MỤC LỤC


MỞ ĐẦU
1. Dẫn nhập
Trước khi đi vào phân tích và so sánh quan niệm về hành động kinh tế của
các nhà xã hội học Max Weber, Vilfredo Pareto, Joseph Schumpeter khác nhau
như thế nào, thì trước hết chúng ta phải biết xã hội học kinh tế là gì? Xã hội học
kinh tế nghiên cứu vấn đề gì? Có như vậy thì chúng ta mới có thể hiểu hết được
hành động kinh tế được các nhà xã hội học nhìn nhận như thế nào. Có rất nhiều
khái niệm về kinh tế được nhìn nhận ở nhiều góc độ khác nhau như kinh tế là
tổng thể các yếu tố sản xuất, các điều kiện sống của con người, các mối quan hệ
trong quá trình sản xuất và tái sản xuất xã hội. Nói đến kinh tế suy cho cùng là
nói đến vấn đề sở hữu và lợi ích. Dưới góc độ xã hội học thì kinh tế được xem là
một hiện tượng xã hội, nó đóng vai trị vừa là cơ sở, nền tảng, cơ chế, điều kiện
để thơng qua đó mối quan hệ giữa con người và xã hội được hình thành và biến
đổi. Các nhà xã hội học đặc biệt quan tâm đến vấn đề kinh tế - xã hội nên cho
rằng con người kinh tế cũng chính là con người xã hội.
Kinh tế có ảnh hưởng rất lớn đối với mỗi cá nhân, gia đình, cộng đồng và
xã hội vì vậy nó cũng có tác động rất lớn đến hành vi của con người. Kinh tế và
hành vi con người có mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau, không thể tách rời
được. Các nghiên cứu xã hội học trước đây đã cho thấy phong tục, tập quán,


truyền thống, văn hóa đóng vai trị là nhân tố kích thích biến đổi hành động kinh
tế. Nhưng nhiều nghiên cứu khác đã cho thấy các thiết chế từ phía gia đình, nhà
trường cũng có tác động khơng nhỏ đến ý thức, thái độ hoạt động kinh tế của
con người. Kinh tế tạo điều kiện thúc đẩy sự phát triển của xã hội và nó cũng
thúc đẩy sự phát triển của con người về mọi mặt của đời sống. Từ những quan
điểm về hành động kinh tế của các nhà xã hội học, chúng ta có thể vận dụng như
thế nào vào nền kinh tế thị trường Việt Nam hiện nay và trong nền kinh tế vĩ mơ
thì yếu tố nào tạo điều kiện cho cá nhân và xã hội phát triển đó cũng chính là
vấn đề nghiên cứu của đề tài.
3


2. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
2.1. Cơ sở lý luận.
Trong đề tài này, tác giả vận dụng một số lý thuyết tiêu biểu như lý thuyết
hành động xã hội, hành động kinh tế, hành động duy lý (hợp lý), lý thuyết về sự
phân tầng xã hội và phân chia giai cấp trong xã hội, tất cả những lý thuyết trên
góp phần làm sáng tỏ những quan điểm về hành động kinh tế của các nhà xã hội
học.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp phân tích tài liệu thứ cấp: Nghiên cứu này sử dụng tài liệu
sẵn có trong các tài liệu xã hội học. Chủ yếu dựa trên các tài liệu liên quan đến
vấn đề được đăng tải trên sách, báo điện tử,… để làm rõ cơ sở lý luận của đề tài,
góp phần bổ sung luận điểm trong đề tài nghiên cứu.
CHƯƠNG I: ĐỐI TƯỢNG, NHIỆM VỤ VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN
CỨU CỦA XÃ HỘI HỌC KINH TẾ
1. Khái niệm xã hội học kinh tế
Xã hội học kinh tế là một chuyên ngành của xã hội học, nằm giữa xã hội
học và kinh tế học, chúng có mối liên hệ quan hệ chặt chẽ với nhau. Mối quan
hệ chặt chẽ này thể hiện ở chỗ nhiều khái niệm, lý thuyết của cả hai ngành khoa

học cùng được sử dụng trong q trình phân tích, lý giải những vấn đề, sự kiện
hiện tượng kinh tế.
Mặt khác, xã hội học kinh tế là lĩnh vực xã hội học chuyên nghiên cứu về
quy luật, tính quy luật, thuộc tính và các đặc điểm nảy sinh, vận động và phát
triển mối quan hệ giữa con người xã hội và kinh tế. Quan hệ giữa cá nhân với cá
nhân trong (sản xuất kinh doanh). Quan hệ giữa con người với tư cách ( cá nhân,
nhóm, tổ) với hoạt động nghề nghiệp, tổ chức và những thiết chế kinh tế.
2. Đối tượng nghiên cứu của xã hội học kinh tế
Xã hội học kinh tế tập trung nghiên cứu phương diện, tác động xã hội của
các sự kiện, hiện tượng kinh tế ( nói cách khác là nghiên cứu các hiện tượng xã
4


hội, sự kiện xã hội do các sự kiện, hiện tượng kinh tế gây ra) để giải thích những
biến đổi trong đời sống xã hội; Nghiên cứu những yếu tố phi kinh tế như xã hội,
văn hóa, chính trị,…với tư cách là những yếu tố xuất phát, yếu tố tác động, ảnh
hưởng đến hành động kinh tế, hành vi kinh tế. Ngoài ra, xã hội học kinh tế xem
xét các yếu tố xã hội ảnh hưởng tới việc con người sản xuất, phân phối, tiêu
dùng, các sản phẩm vật chất, tinh thần đáp ứng nhu cầu phát triển của con người
và xã hội.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu của xã hội học kinh tế
Xã hội học kinh tế nghiên cứu từ lý luận đến thực tiễn góp phần trong q
trình phát triển kinh tế cụ thể như sau:
1) Đặc điểm và tính chất tác động qua lại giữa cá nhân với cá nhân trong

quá trình sản xuất, giữa con người và kinh tế trong xã hội.
2) Đặc điểm và tính chất của các mối quan hệ xã hội và kinh tế.
3) Các yếu tố xã hội quy định nội dung, hình thức tổ chức hoạt động lao
động sản xuất và cơ cấu kinh tế trong xã hội.
4) Nguyên nhân và điều kiện xã hội tác động đến quá trình hoạt động

kinh tế.
5) Quy luật và xu hướng vận động của hệ thống kinh tế với tư cách là
một hệ thống xã hội.
6) Vai trò và chức năng xã hội của tổ chức kinh tế, thiết chế kinh tế đối
với sự ổn định và phát triển đất nước.
7) Tác động xã hội của biến đổi kinh tế đối với sự biến đổi xã hội, đối
với phân tầng xã hội, bất bình đẳng xã hội, bình đẳng giới,.v..v..
Tóm lại, xã hội học kinh tế có nhiệm vụ góp phần giải quyết các vấn đề xã
hội trong từng bước tăng trưởng kinh tế theo chủ trương cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước và phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành
theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước.
4. Phương pháp nghiên cứu của xã hội học kinh tế
4.1. Phương pháp quan sát
Phương pháp quan sát: là phương pháp nghiên cứu sử dụng các giác quan
để thu thập thông tin một cách hệ thống và khoa học. Phương pháp quan sát
5


được dùng để thu thập thông tin về các biểu hiện, đặc điểm của hiện tượng kinh
tế, sự kiện xã hội. Có hai loại quan sát: quan sát tham dự, quan sát không tham
dự ( với tư cách là người ngồi cuộc, có thể cơng khai hay kín đáo quan sát).
Quan sát tham dự: là người trực tiếp quan sát như người trong cuộc, đóng
vai là thành viên của nhóm lao động hay thành viên của nhóm cùng tham gia
hoạt động kinh tế. Quan sát theo kiểu bí mật. Mặc dù phương pháp này cho biết
thông tin sinh động về những biểu hiện của người bị quan sát, nhưng nó đòi hỏi
người nghiên cứu phải hiểu biết nhiều lĩnh vực ( lao động nghề nghiệp, lao động
nông thôn,…).
4.2. Phương pháp nghiên cứu tình huống
Nghiên cứu tình huống cịn gọi là nghiên cứu trường hợp để xem xét và
phân tích thực trạng của công ty, doanh nghiệp hay một đơn vị kinh tế trong một

khoảng thời gian nhất định. Các thông tin được thu thập qua nhiều kênh, từ
nhiều nguồn và bằng nhiều kỹ thuật khác nhau.
Nghiên cứu tình huống hay trường hợp là một trong những phương pháp
định tính trong xã hội học, giúp ta nắm bắt các khuôn mẫu hành vi, các mối
quan hệ và mạng lưới xã hội. Một số chuyên gia định lượng đề cao vai trò quyết
định của quy mô mẫu, cho rằng; mẫu càng lớn thơng tin càng chính xác, đầy đủ
và khoa học. Trên thực tế quy mô mẫu lớn không phải là yếu tố quyết định chất
lượng và khả năng khái quát của kết quả nghiên cứu. Các phương pháp tiếp cận,
chọn mẫu, phương pháp thu thập thông tin, xử lý và phân tích thơng tin mới
đóng vai trị quyết định chất lượng tri thức mà cuộc nghiên cứu phát hiện.

6


CHƯƠNG II: PHÂN TÍCH VÀ SO SÁNH QUAN NIỆM VỀ HÀNH ĐỘNG
KINH TẾ CỦA CÁC NHÀ XÃ HỘI HỌC
1. Lý luận chung về xã hội học kinh tế của các nhà xã hội học
1.1. Max Weber
Max Weber (1864 – 1920) là nhà kinh tế chính trị học và xã hội học người
Đức, ơng được nhìn nhận là một trong bốn người sáng lập ngành xã hội học (
Max Weber, Emile Durkheim, Karl Marx, Herbert Spencer ) và quản trị công
đương đại. Ơng cũng được coi là người đặt nền móng cho xã hội học hiện đại.
Các cơng trình nghiên cứu chính của Weber tập trung vào việc hợp lí hóa ngành
xã hội học tơn giáo và chính quyền học, nhưng ông cũng đóng góp đáng kể cho
ngành kinh tế học. Tác phẩm nổi tiếng của ông là “Nền đạo đức Tin Lành và
tinh thần của chủ nghĩa tư bản” đánh dấu sự khởi đầu của một loạt khảo cứu
của ông về ngành xã hội học tơn giáo.
Ơng là người đầu tiên mơ phỏng xã hội học dưới dạng mơ hình gồm các
loại tác nhân trong điều kiện có tác động qua lại lẫn nhau. Chính vì vậy, khơng
thể chỉ lấy những yếu tố kinh tế mà cần phải lấy cả những yếu tố xã hội, văn

hóa, chính trị có liên quan làm khung quy chiếu khi giải thích những sự kiện,
hiện tượng kinh tế. Ông quan niệm xã hội học kinh tế là một bộ phận của bộ
môn khoa học kinh tế xã hội – một khoa học liên ngành gồm lý thuyết kinh tế,
lịch sử kinh tế và xã hội học kinh tế. Bản thân xã hội học kinh tế tập trung
nghiên cứu cả kinh tế và mối quan hệ giữa kinh tế với bộ phận khác của xã hội
như luật pháp, chính trị, tơn giáo. Cần phải có sự kết hợp một cách hệ thống,
khoa học giữa ba bộ phận trong nghiên cứu bất kì một sự kiện, hiện tượng, hành
động kinh tế nào đó.
Lý thuyết hành động xã hội: Theo Max Weber, hành động xã hội là hành
vi mà chủ thể gắn cho ý nghĩa chủ quan nhất định, một hành động xã hội là một
hành động của một cá nhân mà có gắn một ý nghĩa vào hành động ấy, và cá nhân
đó tính đến hành vi của người khác, bằng cách như vậy mà định hướng vào
7


chuỗi hành động đó. Weber đã nhấn mạnh đến động cơ bên trong chủ thể như
nguyên nhân của hành động - Một hành động mà một cá nhân không nghĩ về nó
thì khơng thể là một hành động xã hội. Mọi hành động khơng tính đến sự tồn tại
và những phản ứng có thể có từ những người khác thì không phải là hành động
xã hội. Hành động không phải là kết quả của q trình suy nghĩ có ý thức thì
khơng phải là hành động xã hội.
1.2. Vilfredo Pareto
Vilfredo Pareto (1848 – 1923) là một nhà công nghiệp, nhà kinh tế
học, xã hội học và triết học người Ý. Ông đã có vài đóng góp quan trọng trong
kinh tế học, đặc biệt là trong nghiên cứu về phân phối thu nhập và những phân
tích về sự lựa chọn cá nhân. Ông giới thiệu khái niệm về Hiệu quả
Pareto, Nguyên lý Pareto và đóng góp cho sự phát triển của kinh tế học vĩ mơ.
Ơng cũng có những đóng góp cho xã hội học và toán học. Đối với xã hội học,
Pareto đề cao học thuyết “hành động xã hội” các tác phẩm của ông “Khái luận
về xã hội học đại cương” (1935). Ông cũng là một trong những tác giả đề cao

học thuyết tinh hoa (Elite) nói về thiểu số người nhỏ nhưng có khả năng lãnh
đạo đa số người trong xã hội.
Theo Pareto, xã hội học là tổng hợp nhiều khoa học như luật, kinh tế học
chính trị, lịch sử tơn giáo, lịch sử chính trị,…và những khoa học này đều có
nhiệm vụ nghiên cứu xã hội. Nhưng xã hội học kinh tế chỉ nghiên cứu hành
động phi logic của con người trong sản xuất. Hệ thống kinh tế và biến đổi kinh
tế liên quan đến hành động xã hội. Pareto chia hành động xã hội bao gồm hai
loại là hành động logic và hành động phi logic.Ông cho rằng đối tượng nghiên
cứu của kinh tế học là hành động logic, còn của xã hội học là hành động phi
logic. Pareto cho rằng phần lớn hành động của con người là hành động phi
logic.

8


1.3. Joseph Schumpeter
Joseph Schumpeter (1883 – 1950), là nhà kinh tế học người Áo, đại diện
tiêu biểu của xã hội học kinh tế hiện đại. Các tác phẩm tiêu biểu của ông như
“Lý thuyết phát triển kinh tế” (1912), “Chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa xã hội và
dân chủ” (1943). Khác với Durkhiem và Weber, ông xem đối tượng của xã hội
học kinh tế là khía cạnh thiết chế của nền kinh tế, không phải là bản thân của
hiện tượng kinh tế.
Theo Schumpeter, xã hội học kinh tế có nhiệm vụ miêu tả và lý giải các
thiết chế tương ứng với kinh tế, bao gồm các thói quen và tất cả các hình thức,
hành vi ứng xử nói chung như chính phủ, doanh nghiệp tư nhân, các hành vi
theo thói quen còn gọi là hành vi “duy lý”. Trong khi đó, kinh tế học có nhiệm
vụ miêu tả, lý giải về các cơ chế kinh tế của thiết chế đó. Ví dụ: cơ chế thị
trường
2. So sánh quan niệm về hành động kinh tế của ba nhà xã hội học
Max Weber, Vilfredo Pareto, Joseph Schumpeter.

2.1. Max Weber và Vilfredo Pareto
 Giống nhau:
Max Weber và Pareto đều cho rằng xã hội học kinh tế tập trung nghiên
cứu cả kinh tế và mối quan hệ giữa các bộ phận khác của xã hội như luật pháp,
chính trị, lịch sử tơn giáo,…Đồng thời xã hội học kinh tế của Max Weber và
Pareto cũng đều xem xét sự tác động qua lại giữa kinh tế và xã hội.
Theo hai ông, sự phân biệt giữa kinh tế học và xã hội học cũng được xác
định trên tính chất của hai loại hành vi của con người mà về mặt lý thuyết luôn
đối lập với nhau, còn trong thực tế, sự khác biệt của chúng chỉ mang tính xu
hướng. Đó là sự phân biệt giữa hành vi hợp lý và hành vi không hợp lý. Loại
9


hành vi thứ nhất là đối tượng nghiên cứu của kinh tế học, còn loại hành vi thứ
hai thuộc đối tượng nghiên cứu của xã hội học. Điều quan trọng là họ đều dựa
trên tính chất của hành vi kinh tế đã được mơ hình hóa trong hành vi hợp lý để
phân loại và loại hình hóa các dạng hành vi xã hội cịn lại. Mơ hình đó dựa trên
đặc trưng tính tốn hợp lý.
Trong lý thuyết về hành vi xã hội của hai tác giả này, vấn đề chính là phải
dành cho khái niệm tính tốn hợp lý một vai trị quyết định đối với tồn bộ cấu
trúc hệ thống của chúng, như biến nó thành cơng cụ, để hình thức hóa sự tính
tốn kinh tế, những khái niệm phụ thuộc như tối ưu hóa, giá cả, lợi ích, sự thăng
bằng hay sự tương tác. Vì thế cả hai ơng đều có điểm chung là sự tính tốn hợp
lý thực hiện tồn bộ vai trị lịch sử của nó, chứ khơng phải chỉ một vai trị chuẩn
mực (mang tính triết học, tâm lý học hay xã hội).
 Khác nhau:
• Max Weber coi hành động kinh tế là hành động xã hội 1 gồm các hành
động sản xuất, phân phối và tiêu dùng, ln có ý nghĩa xã hội và gắn liền với
quyền lực. Ơng giải thích rằng hành động của mỗi cá nhân, nhóm đều bị quy
định bởi các lợi ích vật chất và lợi ích tinh thần với tư cách là động cơ của hành

động. Quyền lực cũng có vai trị quan trọng trong hành động kinh tế, khi các tác
nhân hoàn toàn xa lạ lần đầu tương tác với nhau thì quan hệ đó chưa có quan hệ
quyền lực, khi quan hệ quyền lực giữa các cá nhân này xác lập thì nó mới xuất
hiện. Theo quan niệm Mác – xit thì nguồn gốc của sự bất bình đẳng xã hội chính
là việc sở hữu hay khơng sở hữu tư liệu sản xuất. Chế độ sở hữu tư liệu sản xuất,
chế độ sở hữu tư nhân là nguồn gốc tạo ra sự phân chia quyền lực trong xã hội
mà ở đó người chiếm hữu tư liệu sản xuất là người có quyền lực điều chỉnh hành
vi và cơ hội của người không sở hữu tư liệu sản xuất. Ơng cho rằng quyền lực
khơng chỉ có nguồn gốc là kinh tế mà có từ nhiều yếu tố phi kinh tế khác nữa
1 Xem trang 9,10.

10


như: gia đình, học vấn, tơn giáo, uy tín,…Trong các dạng quyền lực xã hội thì
quyền lực chính trị là quan trọng nhất. Quyền lực chính trị thường được các cơ
quan chính phủ thực hiện.
• Cịn Pareto coi hệ thống kinh tế và biến đổi kinh tế liên quan đến hành
động xã hội. Hành động xã hội theo Pareto chia thành hai loại là hành động
logic và hành động phi logic.
+ Hành động logic: Hành động có mục đích, ý thức rõ ràng.
+ Hành động phi logic: Hành động bản năng, không được ý thức.
Mọi hành động đều dựa trên hành động logic hoặc hành động phi logic.
Nếu các hành động dựa trên logic và thử nghiệm và nếu phương tiện và kết thúc
được kết nối với nhau, những hành động đó được gọi là hành động logic. Hành
vi mà Pareto tin là hợp lý cả chủ quan và khách quan. Pareto định nghĩa các
hành động logic là những hành động nếu kết thúc có thể đạt được một cách
khách quan và nếu các phương tiện được sử dụng và kết hợp khách quan với kết
thúc trong khuôn khổ kiến thức tốt nhất hiện có. Để một hành động hợp lý, mối
liên hệ logic giữa phương tiện và mục đích phải tồn tại cả trong tâm trí của

người thực hiện hành động và trong thực tế khách quan.
Còn hành động phi logic có nghĩa đơn giản là tất cả các hành động của
con người không nằm trong phạm vi của các hành động logic. Đây khơng phải là
logic
- điều đó khơng có nghĩa là chúng phi logic. Hành động phi logic là hành động
được dẫn dắt bởi tình cảm và các yếu tố phi logic khác. Hành động phi logic của
con người bị thúc đẩy bởi:
1) Bản năng sáng tạo: Đó là trí tưởng tượng, sự kết hợp tạo ra những cái

mới, mối liên hệ mới.
11


2) Bản năng thỏa hiệp: Thường nhất trí với nhóm, trung thành với nhóm

và làm theo truyền thống.
3) Bản năng hoạt động: Nhu cầu hành động, luôn biến đổi sự vật và biểu

đạt ý tưởng suy nghĩ ( thay đổi sản phẩm).
4) Bản năng phối hợp: Phối hợp các lợi ích vật chất và tinh thần.
5) Bản năng giao tiếp xã hội: Giao lưu và kết bạn.

• Max Weber cho rằng sự phân tầng xã hội và bất bình đẳng xã hội bắt
nguồn từ hai nhóm yếu tố cơ bản:
+ Các yếu tố kinh tế (vốn, tư liệu sản xuất, thị trường…).
+ Các yếu tố phi kinh tế (vị thế xã hội, năng lực, cơ may, quyền lực…)
trong quá trình hình thành và biến đổi cấu trúc xã hội và sự phân tầng xã hội.
Weber quan niệm giai cấp là một tập hợp người có chung các cơ hội sống
trong điều kiện kinh tế thị trường. Trong đó, Weber phân tích rõ cơ hội sống và
kinh tế thị trường là gì và vai trị quan trọng của hai yếu tố này trong việc hình

thành, biến đổi giai cấp. Cơ hội sống ở đây được hiểu là các cơ may nảy sinh từ
việc sản xuất, nắm giữ, sử dụng và mua bán hàng hóa, dịch vụ trên thị trường.
Thị trường là lĩnh vực mà ở đó hàng hóa, lao động hàng hóa và dịch vụ được sản
xuất ra và được trao đổi. Hoạt động trao đổi trao đổi thể hiện tính duy lý của
hành động xã hội và sự tính tốn kinh tế của các bên tham gia. Thị trường cũng
là nơi thể hiện các lợi ích kinh tế và thu nhập. Vì vậy nó có vai trị quan trọng
trong việc hình thành và biến đổi tình huống giai cấp.
Ơng phân biệt hai tình huống giai cấp chính: một là tình huống của những
người sở hữu tài sản và sử dụng tài sản đó để thu lợi nhuận; hai là tình huống
của những người khơng có tài sản phải bán sức lao động, tay nghề, dịch vụ lấy
12


tiền cơng hoặc tiền lương. Từ đó ơng xem xã hội cấu thành từ hai nhóm giai cấp
tương ứng với hai tình huống giai cấp trên, mỗi giai cấp có nhiều giai tầng khác
nhau.
• Pareto đề ra nguyên lý về phúc lợi kinh tế và ơng cho rằng, có thể tạo ra
những thay đổi trên thị trường để một nhóm xã hội này có thu nhập nhiều hơn
nhóm khác, mà khơng phương hại đến lợi ích của các nhóm. Theo ông, để xã hội
công bằng và bình đẳng hơn về thu nhập, thì cách tốt nhất là làm cho tất cả các
nhóm xã hội đều khá lên.
• Dựa vào q trình kinh tế cơ bản, hành động kinh tế chính trị là một
hành động xã hội gồm các hành động sản xuất, phân phối và tiêu dùng. Theo
Weber, chủ nghĩa duy lý là nhân tố phát triển nền kinh tế tư bản chủ nghĩa. Giải
thích của Weber có tính duy lý mang ý nghĩa là tính hợp lý, tức là sự tính tốn,
sự lựa chọn phương tiện sao cho phù hợp với mục đích theo nguyên tắc chi phí
thấp nhất, nhưng đem lại lợi ích nhiều nhất. Hành động duy lý (hợp lý) cịn có
nghĩa là hành động vì lợi ích trước mắt. Bản thân thị trường không đơn thuần là
mua, bán hay cung – cầu, mà đó là sự cạnh tranh, tức người này chống kẻ khác,
“ người được, kẻ thua”. Khái niệm thị trường theo Max Weber “thị trường hồn

hảo” là một “loại hình lý tưởng” (ideal type) với ba đặc trưng cơ bản như sau:
1) Những người sản xuất và người bán (dịch vụ trung gian) phải cạnh

tranh với nhau để bán cho được hàng và để mua nguyên vật liệu và
huy động vốn cần thiết để sản xuất.
2) Người mua cạnh tranh với nhau.
3) Sự cạnh tranh giữa người mua và người bán.

Với những đặc trưng đó, thị trường hồn hảo là một tình huống thị trường
có sự tham gia khá đơng của người mua và người bán nhưng khơng có một cá
13


nhân nào có khả năng và quyền lực ảnh hưởng tới quá trình định giá trên thị
trường. Đồng thời cạnh tranh hoàn hảo đảm bảo cho giá cả tăng hay giảm hoàn
toàn lệ thuộc vào xu hướng tăng – giảm của cung – cầu mà khơng phụ thuộc vào
bất kì một cá nhân nào hay yếu tố riêng nào khác. Trong tình huống đó, các bên
đều được thỏa mãn tối đa các nhu cầu, mong muốn, lợi ích kinh tế trong q
trình trao đổi trên thị trường.
• Pareto vận dụng khái niệm “cân bằng” để nghiên cứu các chức năng
kinh tế cơ bản của q trính sản xuất, sự hình thành vốn và chu kỳ kinh tế. Theo
khái niệm Hiệu quả Pareto của ơng hay cịn gọi là tối ưu Pareto là một trong
những lý thuyết trung tâm của kinh tế học với nhiều ứng dụng rộng rãi trong các
ngành kỹ thuật, cũng như khoa học xã hội. Hiệu quả Pareto được hiểu là sự
phân bổ nguồn lực đạt hiệu quả Pareto nếu như khơng có cách nào phân bổ lại
các nguồn lực để làm ít nhất một người được lợi hơn mà không phải làm thiệt
hại đến bất kỳ ai khác. Ông đã sử dụng khái niệm này trong các nghiên cứu của
ông về hiệu quả kinh tế và phân phối thu nhập. Quan điểm “cân bằng” được vận
dụng để giải thích các quyết định kinh tế. Mọi sự lựa chọn, mọi quyết định và
hành động kinh tế đều là kết quả của trạng thái cân bằng giữa trạng thái và cơ

hội kinh tế (nhu cầu, động cơ, nguyện vọng) và những trở ngại (những yếu tố
cản trở). Con người ln tính tốn hợp lý để thỏa mãn nhu cầu hoạt động kinh tế
của mình một cách tốt nhất trong hồn cảnh cho phép. Pareto cho rằng có hai
loại cân bằng:
+ Cân bằng tĩnh: Trạng thái cân bằng được thiết lập và duy trì nhờ những
thay đổi nhỏ bên trong hệ thống. (Ví dụ: Khi giá xăng dầu tăng cao, nhưng giá
cước xe taxi vẫn ở mức ổn định khơng được tăng dưới sự kiểm sốt của Bộ Giao
thơng vận tải).
+ Cân bằng động: Khi có sự thay đổi, thì bộ phận này sẽ kéo theo sự thay
đổi của bộ phận khác để cân bằng lại. Kết quả là tạo thành quá trình biến đổi
14


toàn bộ hệ thống từ trạng thái cân bằng này sang trạng thái cân bằng khác.
(Cũng với vấn đề tăng giá xăng như ví dụ trên thì giá xăng tăng, xe ơm cũng
theo đó mà tăng giá. Đó cũng là điều dễ hiểu vì với nghề xe ơm họ dùng xăng
làm lãi, họ cho rằng việc tăng giá là chuyện bình thường).
2.2. Max Weber và Joseph Schumpeter
 Giống nhau:
Cùng quan điểm với Max Weber, Schumpeter coi xã hội học là một bộ
phận chuyên ngành của kinh tế học gồm: (1) Lý thuyết kinh tế, (2) Lịch sử kinh
tế và nhân học, (3) Xã hội học kinh tế, (4) Thống kê học kinh tế.
 Khác nhau:
• Khác với Weber, Schumpeter xem đối tượng của xã hội học kinh tế là
khía cạnh thiết chế của nền kinh tế, không phải là bản thân của hiện tượng kinh
tế. Theo ông định nghĩa xã hội học kinh tế có nhiệm vụ miêu tả và lý giải các
thiết chế tương ứng với kinh tế, bao gồm các thói quen và tất cả các hình thức,
hành vi ứng xử nói chung như chính phủ, doanh nghiệp tư nhân, các hành vi
theo thói quen cịn gọi là hành vi “duy lý”, trong khi đó kinh tế học có nhiệm vụ
miêu tả, lý giải về các cơ chế kinh tế của các thiết chế đó.

• Theo Weber, chủ nghĩa duy lý là nhân tố phát triển nền kinh tế tư bản
chủ nghĩa. Giải thích của Weber có tính duy lý mang ý nghĩa là tính hợp lý, tức
là sự tính tốn, sự lựa chọn phương tiện sao cho phù hợp với mục đích theo
nguyên tắc chi phí thấp nhất, nhưng đem lại lợi ích nhiều nhất. Hành động duy
lý (hợp lý) cịn có nghĩa là hành động vì lợi ích trước mắt.
• Schumpeter cho rằng quan niệm như vậy chưa đầy đủ. Phát triển kinh tế
cần sự đổi mới và tính năng động của chủ thể kinh tế, đặc biệt là cần một đội
15


ngũ doanh nhân dám mạo hiểm trong kinh doanh, đi đầu trong việc đưa ra các
sản phẩm mới và nhanh chóng áp dụng các kỹ thuật, cơng nghệ tiên tiến.
Schumpeter đưa ra khái niệm doanh nghiệp và phân tích mối quan hệ của
nó với kinh tế. Nhà doanh nghiệp là người dám vượt qua những trở ngại và ràng
buộc của hàng rào truyền thống, bảo thủ trì trệ để lập doanh nghiệp, đổi mới mở
mang sản xuất kinh doanh; là thủ lĩnh kinh tế, là nhân tố không thể thiếu của nền
kinh tế đặc trưng bởi sự cạnh tranh, sự vận động và biến đổi không ngừng. Chức
năng đổi mới của nhà doanh nghiệp là nhân tố của sự biến đổi và phát triển kinh
tế và xã hội. Ông nghiên cứu về sự phát triển của doanh nghiệp và chỉ ra vai trò
xã hội của nhà doanh nhân trong việc tạo ra động cơ thúc đẩy sự biến đổi kinh tế
và biến đổi xã hội thông qua việc liên tục đổi mới sản phẩm và công nghệ sản
xuất kinh doanh các doanh nhân góp phần trực tiếp vào việc đáp ứng các nhu
cầu hiện có và mở rộng, nâng cao tạo ra những nhu cầu mới của xã hội.
Vai trò động cơ của doanh nhân, doanh nghiệp trong sự biến đổi xã hội
gồm các yếu tố: Sự khởi nghiệp – sản phẩm mới – công nghệ mới – nhu cầu mới
– biến đổi xã hội– doanh nghiệp mới – sản phẩm mới. Để trở thành doanh nhân
họ cần có trách nhiệm cá nhân đối với đồng vốn đầu tư mà họ đã bỏ ra cần có
sáng kiến và tinh thần mới để làm ra lợi nhuận. Người bn bán có thể trở thành
doanh nhân khi họ sáng lập ra doanh nghiệp và làm chủ tư liệu sản xuất để tạo ra
những sản phẩm nhất định. (Ví dụ: Để có thể trở thành một chủ doanh nghiệp

sản xuất hàng may mặc thì họ phải đầu tư vốn và xây dựng doanh nghiệp, từ đó
họ trở thành một doanh nhân. Họ phải có trách nhiệm với những gì họ bỏ ra
nhằm hướng đến tạo lợi nhuận cho doanh nghiệp và sự biến đổi kinh tế).
Thông qua nhu cầu về sản phẩm mới của người tiêu dùng mà doanh
nghiệp cũng như nhà doanh nhân luôn phải thay đổi mẫu mã sản phẩm sao cho
đa dạng, phong phú, phù hợp với xu thế hiện đại, cũng như nhu cầu của người
tiêu dùng và của sự tiến bộ xã hội. Việc liên tục đổi mới sản phẩm, mẫu mã hàng
16


hóa nhằm kích thích nhu cầu của người tiêu dùng và đó là cơ sở để đánh giá vai
trị của doanh nghiệp cũng như tạo ra một nguồn thu lớn.
• Khái niệm về giai cấp xã hội của Schumpeter rất đặc biệt so với khái
niệm giai cấp của Weber. Weber quan niệm giai cấp là một tập hợp người có
chung các cơ hội trong điều kiện kinh tế thị trường 2. Theo Schumpeter, trước hết
giai cấp phải gắn với gia đình, gia đình là một thiết chế cơ bản của xã hội. Thứ
hai, sự phân chia giai cấp không chỉ gắn với bản thân quá trình sản xuất (sở hữu
tư liệu sản xuất) mà gắn với một chức năng quan trọng về mặt xã hội, đó là chức
năng lãnh đạo kinh tế và đổi mới nền kinh tế. Vấn đề thứ ba, mối quan hệ đồn
kết, gắn bó giữa các thành viên cùng giai cấp trong việc nắm giữ và chuyển giao
tài sản, quyền lực, và vị thế từ thế hệ này sang thế hệ khác.
• Quan điểm về cạnh tranh của Joseph Schumpeter, cạnh tranh là phải
thay đổi liên tục, trong đó có sự xuất hiện của nhiều sản phẩm mới, cách tiếp thị
mới, những quy trình sản xuất mới và tồn bộ những phân đoạn thị trường mới
thì cạnh tranh khơng thể ở trạng thái cân bằng. Cịn Weber thì cho rằng chính
mơi trường xã hội của nó sẽ giải quyết được mâu thuẫn về lợi ích bằng cạnh
tranh với sự can thiệp và hỗ trợ của chính phủ.
2.3. Vilfredo Pareto và Joseph Schumpeter
 Giống nhau:
Pareto và Schumpeter đều cho rằng xã hội học kinh tế tập trung nghiên

cứu cả kinh tế và mối quan hệ giữa các bộ phận khác của xã hội như luật pháp,
chính trị, lịch sử tôn giáo,…sự tác động qua lại của kinh tế và xã hội.
 Khác nhau:

2 Xem trang 13,14.

17


• Theo Pareto, xã hội học kinh tế tiếp cận với bản chất của hiện tượng
kinh tế qua sự can thiệp nhiều chiều của đời sống xã hội (tôn giáo, chính trị,
quân sự,…). Nhưng Schumpeter lại cho rằng xã hội học kinh tế có nhiệm vụ
miêu tả và lý giải các thiết chế tương ứng với kinh tế, đối tượng mà xã hội học
cần phải nghiên cứu là khía cạnh thiết chế của nền kinh tế chứ không phải là bản
thân của hiện tượng kinh tế.
• Mặc khác, theo thuyết của Pareto, hành động xã hội bao gồm hai loại là
hành động logic và hành động phi logic3. Quan điểm của Pareto về hành động
logic và phi logic được vận dụng trong trường phái quản lý quan hệ người (chủ
và thợ). Hành vi cá nhân dường như bị “bàn tay vơ hình” (Adam Smith) sắp đặt,
bàn tay vơ hình này là cơ chế thị trường có khả năng chi phối hành vi tiêu dùng
của khách hàng và quy định hành vi kinh doanh của nhà sản xuất. Hành động cá
nhân diễn ra rất tinh và phức tạp. Sự tinh vi và phức tạp này không chỉ là do mỗi
cá nhân cụ thể đều có những hành động rất khác nhau mà sự tinh vi còn thể hiện
ở chỗ, mặc dù biết rõ đặc điểm của từng cá nhân cụ thể đó, ta cũng gặp rất nhiều
khó khăn và khó khăn và khó có thể đốn được khi họ hoạt độnh hành vi nhóm
hay cá nhân. Điều đó cho thấy mỗi hành vi của con người đều là kết quả của sự
tác động nhiều chiều. Hành vi kinh tế chỉ có thể giải thích được khơng chỉ qua
nhiều khía cạnh kinh tế mà cả những chiều cạnh xã hội, văn hóa,…khác nhau.
• Schumpeter khơng tán thành với hành động duy lý của Max Weber đưa
ra trước đó, ơng cho rằng doanh nhân khơng chỉ hướng đến việc tìm kiếm lợi

nhuận cho riêng mình mà qua hoạt động kinh tế và tối đa hóa lợi nhuận ( năng
động và sáng tạo đổi mới cơng nghệ, mở rộng sản xuất,…) họ đóng góp và sự
phát triển kinh tế và biến đổi xã hội. Chính vì vậy, doanh nhân có những phẩm
chất nhân cách và hành vi khác với “con người kinh tế” hành động duy lý. Khái
niệm nhà doanh nghiệp của Schumpeter thực chất là doanh nhân, để trở thành
nhà doanh nhân, họ cần có trách nhiệm cá nhân đối với đồng vốn đầu tư mà họ
3 Xem trang 12,13.

18


đã bỏ ra, cần có sáng kiến, chiến lược kinh doanh và tinh thần đổi mới để tạo ra
lợi nhuận.
Quan điểm về doanh nghiệp của Schumpeter cũng giống như lý thuyết
“Bàn tay vơ hình” của Adam Smith. Ơng cho rằng trong nền kinh tế thị trường,
các cá nhân tham gia muốn tối ưu hóa lợi nhuận cho mình, cho nên vơ hình
chung đã đẩy sự phát triển và củng cố lợi ích cho cả cộng đồng. Theo ơng quan
hệ giữa người và người là quan hệ phụ thuộc về kinh tế nó được xây dựng
trên cơ sở các quy luật tự nhiên. Từ đó ơng cho rằng nhà nước khơng
nên can thiệp vào kinh tế, nhà nước chỉ có chức năng bảo vệ quyền sở hữu tư
bản, đấu tranh chống kẻ thù bên ngoài, chống tội phạm trong nước. Nhà
nước chỉ nên can thiệp vào các chức năng kinh tế khi nó vượt ra ngồi khả
năng của các chủ doanh nghiệp. Ơng cho rằng chính sách kinh tế tốt nhất của
nhà nước là tự do kinh tế.
• Pareto vận dụng khái niệm cân bằng để nghiên cứu chức năng kinh tế cơ
bản của quá trình sản xuất, các quyết định kinh tế. Nhưng Schumpeter cho rằng
thị trường cần phải có sự cạnh tranh thì mới phát triển được. Cạnh tranh là phải
thay đổi liên tục, trong đó có sự xuất hiện của nhiều sản phẩm mới, cách tiếp thị
mới, những quy trình sản xuất mới và tồn bộ những phân đoạn thị trường mới
thì cạnh tranh khơng thể ở trạng thái cân bằng được.

CHƯƠNG III: VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM VÀ HÀNH ĐỘNG KINH TẾ
CỦA CÁC NHÀ XÃ HỘI HỌC
* Áp dụng quan điểm về quyền lực của Max Weber vào kinh tế.
Theo Weber thì bất kì tổ chức xã hội nào cũng phải lấy quyền lực ở một
hình thức nào đó làm cơ sở tồn tại. Xã hội và các bộ phận tạo thành của nó, phần
lớn thơng qua việc thực hiện quyền lực. Nếu khơng có quyền lực dưới một hình
thức nào đó thì tất cả các tổ chức xã hội khơng thể hoạt động bình thường được,
19


và các doanh nghiệp của Việt Nam cũng thế. Chỉ có quyền lực mới làm cho bộ
máy tổ chức của các doanh nghiệp Việt Nam đi theo đúng mục tiêu mà doanh
nghiệp đề ra. Sự sắp xếp các vị trí trong tổ chức theo một hệ thống quyền lực, có
một tuyến chỉ huy rõ ràng đã mang lại những kết quả tốt, tác phong cơng nghiệp
cao song bên cạnh đó vẫn mang tính hình thức, sự lạm dụng chức quyền dẫn đến
tính áp đặt khơng dân chủ, lấy quyền lực của mình ra để uy hiếp, áp đặt người
khác làm theo ý mình tạo ra một mâu thuẫn lớn trong bộ máy làm việc.
* Tối ưu Pareto được vận dụng vào kinh tế
Tối ưu Pareto (Pareto optimum) hay hiệu quả Pareto (Pareto efficiency)
có nghĩa tương đồng nhau, trong đó tối ưu Pareto mang đúng tính thuật ngữ
chuyên ngành. Khi các nguồn lực và sản lượng của một nền kinh tế được phân
chia mà khơng có sự phân chia lại làm cho bất cứ ai khá lên mà cũng không làm
cho ít nhất là bất cứ một người nào khác kém đi thì lúc đó là có sự hiện hữu của
một tối ưu Pareto. Một sự phân chia lại các nguồn lợi mà làm cho ít nhất một
người khá lên trong khi khơng làm cho bất cứ ai kém đi thì được gọi là sự cải
thiện Pareto.
Nghĩa là, sự dịch chuyển thu nhập hoặc của cải từ một cá nhân này sang
cá nhân khác làm tăng độ thỏa dụng hoặc sự thỏa mãn của cả người cho lẫn
người nhận, là một sự cải thiện Pareto. (Ví dụ: tặng quà cho hội từ thiện) Trong
thực tế, tối ưu Pareto rất khó đạt được. Hầu hết bất cứ chính sách kinh tế nào

cũng giúp cho một nhóm người kiếm được lợi trong khi gây hại cho một nhóm
khác, đây là một sự hạn chế lớn.
* Vận dụng quan điểm hành động kinh tế của các nhà xã hội học, trong nền
kinh tế vĩ mơ với cơng thức tổng cầu
Tổng cầu (Y): là tồn bộ lượng hàng hóa và dịch vụ mà mọi người muốn
mua. Hay nói cách khác tổng cầu là tổng khối lượng hàng hóa và dịch vụ mà các
20
Cơng thức tổng cầu Y = C + I + G + T + X – M


thành phần kinh tế (dân cư, doanh nghiệp, chính phủ và nước ngoài) muốn mua
ở mỗi mức giá chung trong một khoảng thời gian nhất định và trong những điều
kiện nhất định.

Trong đó,

Y : Tổng cầu
C : Tiêu dùng cá nhân
I : Đầu tư tư nhân
G : Đầu tư công cộng
T : Thuế
X : Xuất khẩu
M : Nhập khẩu

Tổng cầu, trong kinh tế học, là lượng nhu cầu có khả năng tài chính của
tồn bộ nền kinh tế đối với các hàng hóa cuối cùng. Tổng cầu bao gồm nhu cầu
trong nước và nhu cầu nước ngoài. Nhu cầu trong nước lại bao gồm đầu tư của
xí nghiệp, tiêu dùng của cá nhân (C), chi tiêu rịng của chính phủ (chênh lệch
giữa chi tiêu chính phủ và thu của chính phủ từ thuế). Nhu cầu nước ngồi chính
là xuất khẩu ròng (chênh lệch giữa xuất khẩu và nhập khẩu). Chủ nghĩa

Keynes cho rằng nếu quản lý được tổng cầu thì sẽ giữ được ổn định kinh tế vĩ
mô và đạt được tăng trưởng kinh tế tối ưu. Hoạt động này gọi là chính sách
quản lý tổng cầu hay chính sách Keynes, với hai phương tiện chính là chính sách
tài chính và chính sách tiền tệ.

21


Đầu tư, trong kinh tế học vĩ mô, chỉ việc gia tăng tư bản nhằm tăng cường
năng lực sản xuất tương lai. Đầu tư, vì thế, cịn được gọi là hình thành tư
bản hoặc tích lũy tư bản. Tuy nhiên, chỉ có tăng tư bản làm tăng năng lực sản
xuất vật chất mới được tính. Cịn tăng tư bản trong lĩnh vực tài chính tiền tệ và
kinh doanh bất động sản bị loại trừ. Việc gia tăng tư bản tư nhân (tăng thiết bị
sản xuất) được gọi là đầu tư tư nhân. Việc gia tăng tư bản xã hội được gọi là đầu
tư công. Mặc dù đầu tư làm tăng năng lực sản xuất (phía cung của nền kinh tế),
song việc xuất tư bản để đầu tư lại được tính vào tổng cầu. Đầu tư tư nhân I và
đầu tư cơng G là các nhân tố quan trọng hình thành tổng cầu (Y). Trong kinh tế
học vĩ mô, đầu tư tư nhân được coi là hàm số của thu nhập và lãi suất thực tế.
Đầu tư công cộng (G) là một thành phần quan trọng của tổng cầu có tác
dụng thúc đẩy tổng cầu thơng qua số nhân tài chính, nhưng khi đầu tư cơng cộng
(G) tăng thì dẫn đến đầu tư tư nhân (I) sẽ giảm, làm thay đổi tổng cầu. Giảm đầu
tư tư nhân (I), thuế đánh vào sản xuất tăng lên thì chi phí sản suất tăng dẫn đến
giảm đầu tư. Khi vừa có số nhân tài chính, vừa có số nhân đầu tư điều này dẫn
đến hiện tượng đặc biệt, gọi là hiệu ứng hất ra. Cơ chế của hiệu ứng này như
sau:
Tăng chi tiêu dẫn tới thâm hụt ngân sách, thì chính phủ ắt phải phát
hành công trái bù đắp thâm hụt ngân sách. Để có thể huy động được người mua
cơng trái, chính phủ sẽ đưa ra mức lãi suất công trái cao. Lãi suất thị trường vì
thế tăng lên đồng thời chứng khốn công ty (cổ phiếu và trái phiếu công ty) trở
nên kém hấp dẫn và giảm giá. Cả hai tác động này dẫn tới việc khu vực tư nhân

sẽ giảm đầu tư. Như vậy, tăng chi tiêu chính phủ qua số nhân tài chính làm tăng
tổng cầu, nhưng lại làm giảm đầu tư tư nhân và qua số nhân đầu tư lại làm giảm
tổng cầu.
Trong công thức Tổng cầu Y = C + I + G + T + X – M, vận dụng vào nền
kinh tế thi trường tại Việt Nam thì yếu tố đầu tư tư nhân sẽ tạo điều kiện cho cá
22


nhân và xã hội phát triển. Vì đầu tư tư nhân thức đẩy q trình sản xuất hàng hóa
và mở cửa thị trường, làm thay đổi cơ cấu lao động - nghề nghiệp ở cả nông
thôn và đô thị. Từ sau khi Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư nước ngoài ra đời, họ
được tự do sản xuất – kinh doanh trong khuôn khổ của pháp luật và khu vực
kinh tế này đã có những đóng góp đáng kể. Số lượng doanh nghiệp và tổng vốn
đầu tư tăng nhanh trong hầu hết các lĩnh vực của nền kinh tế, từ đó tạo ra được
nhiều việc làm cải thiện thu nhập, nâng cao đời sống cho người dân , giảm tỷ lệ
thất nghiệp cho xã hội.
CHƯƠNG IV: KẾT LUẬN
Đề tài đã làm sáng tỏ được quan điểm về hành động kinh tế của các nhà
xã hội học. Từ đó cho thấy các lý thuyết của các nhà xã hội học được chọn lọc
và áp dụng vào kinh tế Việt Nam hiện nay. Nền kinh tế thị trường nói chung
(hay cịn gọi là nền kinh tế thị trường truyền thống, cổ điển, hoang dã tùy theo
quan niệm của mỗi nhà kinh tế học) chỉ tn theo sự điều khiển của “bàn tay vơ
hình”, cung - cầu, giá cả (cơ chế thị trường) thì sự vận động của nền kinh tế thị
trường có sự quản lý (điều khiển, điều tiết) của nhà nước tuân theo sự điều khiển
song hành, tức là sự tác động cùng một lúc của hai yếu tố: yếu tố tự vận động
bởi quan hệ cung - cầu và yếu tố nhà nước - chỉ huy (quản lý, điều tiết) nền kinh
tế.
Sự can thiệp của nhà nước nhằm sửa chữa, khắc phục những khuyết tật
vốn có của kinh tế thị trường, tạo ra những công cụ quan trọng điều tiết thị
trường ở tầm vĩ mô. Đồng thời, việc đầu tư tư nhân cũng có vai trị rất lớn trong

việc điều tiết nền kinh tế với tất cả tiềm năng kích thích của nó đối với sản xuất
thơng qua trao đổi hàng hóa - tiền tệ được thực hiện một cách tự do. Việt Nam
đã tiến những bước dài trên con đường đổi mới, với mục tiêu phát triển kinh tế
toàn diện.

23


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1)

Nguyễn Tất Thành (2017), Giáo trình xã hội học kinh tế.

2)

Trần Thị Kim Xuyến (2005), Nhập môn xã hội học. NXB ĐHQGHCM.

3)

Bùi Thế Cường (2008), Các lý thuyết về hành động xã hội. Tạp chí
khoa học xã hội.

4)

Vũ Hào Quang (2017), Các lý thuyết xã hội học. NXB ĐHQGHN.

5)

Bùi Thế Cường, Đặng Thị Việt Hương, Trịnh Huy Hóa (2010), Từ điển
xã hội học Oxford. NXB ĐHQGHN.


6)
7)

Lê Thị Mai (2008), Xã hội học kinh tế. NXB Chính trị Quốc gia.
Lê Ngọc Hùng, Tổng tích hợp lý thuyết kinh tế học và xã hội học trong
nghiên cứu phân tầng xã hội. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí
Minh.

24


25


×