Tải bản đầy đủ (.doc) (47 trang)

TU LIEU VAN HOC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (499.86 KB, 47 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

Tư liệu Văn học lớp 7



Nam quốc sơn hà:



“Nam quốc sơn hà” là một bài thơ thất ngôn tứ tuyệt nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam,
được coi là bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của Việt Nam.


Nguồn gốc:


Từ trước, bài thơ được cho là sáng tác của Lý Thường Kiệt trong lần chống quân xâm lược
Tống tại sông Cầu năm 1077. Tuy nhiên mới đây, trong cuốn sách <i>Bối cảnh định đô Thăng</i>
<i>Long và sự nghiệp của Lê Hoàn</i> do Nhà xuất bản Hà Nội xuất bản năm 2006, nhiều nhà
nghiên cứu khẳng định bài thơ này ra đời từ thời Tiền Lê và cũng được sử dụng trong trận
đánh chống quân Tống, nhưng là lần đầu vào năm 981.


Các tác giả cho rằng: Sử sách (<i>Đại Việt sử ký toàn thư</i>, <i>Lịch triều hiến chương loại chí</i>,


<i>Việt điện u linh</i>...), đều chép Lý Thường Kiệt sai người vào đền thờ anh em Trương Hống,
Trương Hát (tướng của Triệu Việt Vương) ngâm bài thơ này nhưng khơng nói rõ ông là tác
giả. Như vậy, các tác giả kết luận: Lý Thường Kiệt chỉ là người vận dụng bài thơ này để
đuổi quân Tống.


Bằng nhiều dẫn chứng[1][2]<sub> các tác giả khẳng định bài thơ được sáng tác thời Tiền Lê và </sub>
cũng được Lê Hồn vận dụng, trong đó bài thơ có một vài chữ sai khác với văn bản mọi
người thường biết.


Trên thực tế, tư liệu để lại xác đáng hơn cả viết bài thơ này được Lê Hồn sử dụng là sách


<i>Lĩnh Nam trích qi</i>, khoảng trang 72-74 có ghi: “Đêm ấy Đại Hành mộng thấy hai thần
nhân cùng xông vào trại giặc mà đánh. Canh ba đêm ba mươi tháng mười, trời tối đen, mưa
to, gió lớn đùng đùng. Qn Tống kinh hồng. Thần nhân tàng hình ở trên khơng, lớn tiếng


ngâm rằng: “Nam quốc sơn hà Nam đế cư…”. Quân Tống nghe thơ, xéo đạp vào nhau mà
chạy tan… Lê Đại Hành trở về ăn mừng, phong thưởng công thần, truy phong cho hai vị
thần nhân… sai dân phụng thờ… nay vẫn còn là phúc thần”.


<b>Bản chuẩn:</b>


Bản phiên âm Hán-Việt:
<b>Nam quốc sơn hà</b>


Nam quốc sơn hà Nam đế cư,
Tiệt nhiên định phận tại Thiên thư.
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm,
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.
Bản dịch thơ:


<b>Sông núi nước Nam</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

Rành rành định phận tại sách Trời.
Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm,
Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời.
<b>Dị bản khác:</b>


Phiên âm Hán - Việt:
<b>Nam quốc sơn hà</b>


Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Hoàng Thiên dĩ định tại Thiên thư
Như hà Bắc lỗ lai xâm phạm
Bạch nhận Thiên hành phá trúc dư
Bản dịch thơ:



<b>Sông núi nước Nam</b>


Sông núi nước Nam,vua Nam ngự
Sách Trời định phận rõ non sông
Cớ sao giặc Bắc sang xâm phạm
Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời.


Thượng tướngTrần Quang Khải:



<b>Trần Quang Khải (1241–1294), con thứ ba của Trần Thái Tông, là đại tướng đời nhà </b>
Trần, làm đến chức Tướng quốc đời Trần Thánh Tông, coi cả mọi việc trong nước. Sang
đời Trần Nhân Tông, năm Thiệu Bảo tứ tư, khi quân Nguyên xâm lăng bờ cõi nước Nam,
ông được phong chức Thượng tướng Thái sư, lãnh binh trấn giữ mặt Nam đất Nghệ An, lập
công lớn tại Chương Dương Độ. Khi dẹp tan qn Ngun, triều đình xét cơng, ông đứng
vào bậc nhất.[2]


Trần Quang Khải được người dân Việt Nam lập đền thờ ở một số nơi; như tại đình làng
Phương Bơng, ngoại thành thành phố Nam Định. Tại Phương Bông cũng lưu lại điệu múa
"bài bông" được người dân ở đây cho là khởi xướng bởi Trần Quang Khải trong tiệc "thái
bình diên yến" do Trần Nhân Tông tổ chức sau khi chiến thắng quân Nguyên.[3]


<b>Tiểu sử:</b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

<i><b>Trận Nghệ An</b></i>



Năm Ất Dậu 1285 Toa Đô từ Chiêm Thành theo đường bộ kéo ra Nghệ An tấn cơng qn
Nam, có Ơ Mã Nhi dẫn quân đi đường biển tiếp ứng. Được tin, Hưng Đạo Vương tâu vua
xin cho Thượng tướng Trần Quang Khải đưa binh vào đóng mặt Nghệ An, và cho Trần
<b>Bình Trọng giữ Thiên Trường, rồi rước xa giá ra Hải Dương. Trần Quang Khải vào đến </b>


<b>Nghệ An, chia qn phịng giữ. Thấy thế giặc q mạnh, ơng cho lui quân ra mặt biển và </b>
giữ các nơi hiểm yếu. Quân của Toa Đô đánh mãi không được, cạn lương, bèn cùng với Ô
Mã Nhi dẫn quân xuống thuyền trở ra Bắc. Trần Quang Khải hay tin cho người về Thanh
Hóa cấp báo. Vua cho Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật cùng Trần Quốc Toản và
<b>Nguyễn Khối đem 5 vạn qn ra đón đánh tại Hàm Tử Quan thuộc huyện Đông An, </b>
tỉnh Hưng Yên. Quân Nguyên thua to chết hại rất nhiều.


<i><b>Trận Chương Dương Độ, khôi phục Thăng Long</b></i>



Lúc bấy giờ đại binh của Thốt Hoan đóng tại Thăng Long, cịn chiến thuyền thì đóng ở
bến Chương Dương, thuộc địa phận huyện Thượng Phúc. Trần Quang Khải được lệnh vua,
cùng Trần Quốc Toản và Phạm Ngũ Lão đem quân từ Thanh Hóa đi thuyền vòng đường
biển ra đến bến Chương Dương tấn công chiến thuyền của quân Nguyên. Quân Nguyên
địch không nổi phải bỏ thuyền lên bờ chạy. Trần Quang Khải đem quân lên bờ đuổi đánh
về đến chân thành Thăng Long, nhưng ông lập mưu cho phục binh đóng sẵn ngồi thành.
Thốt Hoan đem qn ra đánh, bị phục binh đánh úp, quân Nguyên đại bại phải bỏ thành
Thăng Long vượt sông Hồng giữ mặt Kinh Bắc (Bắc Ninh ngày nay).Trần Quang Khải cho
quân vào thành chiếm lại Thăng Long, và cho quân về Thanh Hóa báo tin. Trong vòng hai
tháng, đại phá quân Nguyên hai lần tại Hàm Tử và Chương Dương, nên khí thế quân nhà
Trần trở nên rất mạnh, sau đó thắng nhiều trận liên tiếp và đuổi được Thoát Hoan về Trung
Quốc.


<i><b>Tác phẩm</b></i>



Trần Quang Khải, cũng như một số đại tướng đời Trần, là người học rộng và có viết văn,
làm thơ. Ông viết Lạc đạo tập, và tác phẩm của ơng nay cịn lại một số bài thơ, liệt kê dưới
đây:


 Tịng giá hồn kinh
 Phúc hưng viên


 Lưu gia độ
 Dã thự


 Xuân nhật hữu cảm


<b>Cảm nghĩ khi đọc Phò giá về kinh của Trần Quang Khải </b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

<b>đầu bạc trắng” (Đồng cổ thanh trung bạch phát sinh). Đó là sức mạnh tồn diện của </b>
<b>dân tộc dưới thời nhà Trần trên cơ sở ý thức tự cường, tự chủ.</b>


<b>Khí phách hào hùng ấy đã vang động thành cảm hứng yêu nước được biểu hiện một </b>
<b>cách tập trung, đa dạng trong thơ văn. Từ một lời hịch thiết tha trước khi lâm trận, </b>
<b>bài phú hào sảng, hồi quang mấy chục năm sau đến những tứ tuyệt, những ngũ ngôn </b>
<b>4 câu, 20 chữ ngay trong cuộc chiến. Phò giá về kinh của Trần Quang Khải là một </b>
<b>trong những bài như thế.</b>


<b> Cuối năm 1284 đầu năm 1285, quân Nguyên- Mông ào ạt tấn công nước ta lần thứ</b>
<b>hai. Tình thế đất nước hiểm nghèo, các vua Trần phải dời kinh đơ tìm phương kế </b>
<b>chống đỡ. Nhưng chỉ qua mùa xuân năm 1285, quân ta đã chuyển thế tấn công. Tháng</b>
<b>tư, trong trận đánh tại Hàm Tử, một địa điểm trên sông Hồng tại huyện Khoái Châu </b>
<b>(tỉnh Hưng Yên ngày nay) tướng Trần Nhật Duật đã phá tan đạo quân Thát Đát, bắt </b>
<b>sống giặc Ơ Mã Nhi. (Trong Đại cáo bình Ngơ sau này Nguyễn Trãi nhầm sự việc nên </b>
<b>viết “Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô, sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã”). Tháng 6, Trần</b>
<b>Quang Khải thắng tiếp trận Chương Dương, đuổi đạo quân chủ lực của Thoát Hoan </b>
<b>chạy dài lên phía bắc, giải phóng Thăng Long, rước vua Trần trở lại kinh thành. </b>
<b>Trong khơng khí ấy, ơng ngẫu hứng cao độ làm nên Tụng giá hoàn kinh sư (Phị xa </b>
<b>giá nhà vua về lại kinh đơ) danh bất hư truyền. Cùng khoảng thời gian này, vua Trần </b>
<b>khi đến tế ở nhà Thái miếu cũng ứng khẩu hai câu : "Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã / </b>
<b>Sơn hà thiên cổ điện kim âu". Nghĩa là "Đất nước hai phen bon ngựa đá /Non sông </b>
<b>nghìn thủa vững âu vàng", cùng một mạch cảm hứng yêu nước, tự hào dân tộc.</b>


<b> Bài thơ chỉ bốn câu, theo lối năm chữ mạch lạc, gọn gàng. Hai câu đầu kể lại hai </b>
<b>chiến cơng hiển hách vừa mới đó, đang cịn tươi ngun khơng khí chiến thắng. Có </b>
<b>nét đặc biệt là trình tự các chiến công không được nêu theo diễn biến thời gian trước </b>
<b>sau. Chiến thắng Chương Dương trước, Hàm Tử sau. Cách trình bày như thế là theo </b>
<b>cái lơ-gíc của cảm hứng. Trận sau mới hơn và cũng vang dội hơn. Chính nhờ chiến </b>
<b>thắng Chương Dương mà Thốt Hoan phải bỏ chạy, Thăng Long được giải phóng. </b>
<b>Chính nhờ chiến tháng Chương Dương mà có cái khơng khí rạo rực phấn chấn trong </b>
<b>ngày “về lại thủ đô” này. Lời thơ rất cô đúc, vẻn vẹn mười chữ, nêu hai sự việc là </b>
<b>“cướp giáo giặc” và “bắt quân thù”. Song qua hai hình ảnh này người đọc cảm nhận </b>
<b>được niềm phấn chấn, hân hoan. Đúng là câu thơ đăng đối bên ngoài đanh chắc, bên </b>
<b>trong chứa chan xúc cảm. Cảm xúc theo kiểu cô lại. Sự cô đúc này tạo ra một thế </b>
<b>năng, khả năng khơi gợi người đọc suy ngẫm. Một trong những đặc trưng thẩm mĩ </b>
<b>của thi pháp cổ là gợi, ít chú trọng kể, tả.</b>


<b> Hai câu thơ sau là lời động viên, quyết tâm xây dựng,bảo vệ nền thái bình của giang</b>
<b>sơn, đất nước.</b>


<b>Nguyên văn :</b>
<b>Thái bình tu trí lực</b>
<b>Vạn cổ thử giang san</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

<b>tập trung là “tu trí lực”. “Tu” là học tập, bồiđắp, “trí lực” là trí tuệ, khả năng. Ý thơ </b>
<b>vẫn tiếp tục gợi cho người đọc hiểu thêm rằng, đất nước vẫn đang đòi hỏi, còn yêu cầu</b>
<b>những con người chiến thắng này nhiều cống hiến hơn nữa. Có như vậy mới có sự n</b>
<b>bình, vững chãi mn năm. Một ý thơ đầy tinh thần trách nhiệm.</b>


<b> Bài thơ có cái hồ hởi, phấn chấn tột cùng trước những chiến thắng, những chiến </b>
<b>công. Niềm tự hào, niềm say mê, tinh thần lạc quan thật bay bổng phù hợp với hào </b>
<b>khí Đơng A thủa ấy. Nhưng đây cũng là một niềm vui rất lí trí, rất tỉnh táo sáng suốt </b>
<b>của con người ý thức được giá trị trọn vẹn của niềm vinh quang. Mặt khác phù hợp </b>


<b>với phong cách ngôn ngữ, uy thế của vị tướng quốc đầu triều. </b>


<b> Kết cấu chặt chẽ, có sức khái qt cao, cảm xúc cơ đọng lại vừa có khả năng gợi </b>
<b>mở ý tưởng đã tạo ra một sự thống nhất nội dung và hình thức theo kiểu tuyên ngơn </b>
<b>riêng biệt. Đấy chính là nét đặc sắc của Phò giá về kinh.</b>


<b> Cho đến hôm nay bài thơ vẫn sống trong niềm tự hào dân tộc, vẫn giữ nguyên giá </b>
<b>trị thời sự nóng hổi, vẫn là một bài học. Bài học về ý thức, trách nhiệm xây dựng đất </b>
<b>nước vững mạnh sau chiển tranh.</b>


<b> </b><i>Nguồn: Lưu Đức Hạnh, Sách Những bài văn chọn lọc lớp 10</i>


Nguyễn Trãi:



<b> Nguyễn Trãi, hiệu là Ức Trai, 1380–1442, là đại thần nhà Hậu Lê, một nhân vật vĩ </b>
đại về nhiều mặt, rất hiếm có trong lịch sử. Cơng lao sự nghiệp của ơng rất lớn. Đạo đức
phong cách của ông rất cao đẹp. Ông là một anh hùng dân tộc vĩ đại, là nhà chính trị lỗi lạc,
nhà chiến lược thiên tài, nhà ngoại giao kiệt xuất, đồng thời là một nhà văn lớn, nhà thơ
lớn, nhà sử học, nhà địa lý học, nhà làm luật pháp và âm nhạc xuất sắc. Năm 1980, ông
được UNESCO công nhận là danh nhân văn hóa thế giới nhân dịp kỉ niệm 600 năm ngày
sinh của ơng.


Ngay từ khi cịn sống, Nguyễn Trãi đã được những người đương thời khen ngợi là:
<b>Kinh bang hoa quốc, cổ vô tiền </b>


Nghĩa là:


<i>Dựng nước và làm vẻ vang tổ quốc, từ xưa chưa ai được như ông.</i>


<i><b>Thân thế:</b></i>




</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

làng Ngọc Ổi (sau đổi tên thành Nhị Khê) huyện Thượng Phúc (nay là huyện Thường Tín
Hà Tây cũ).


Lúc cịn là thư sinh, Nguyễn Ứng Long vì nổi tiếng hay chữ cho nên được Trần Nguyên
Đán, tể tướng và là tông thất nhà Trần gả con gái cho. Năm 1374, Nguyễn Ứng Long đi thi,
đậu Bảng Nhãn. Nhưng vì là con nhà thứ dân mà dám lấy con gái nhà hoàng tộc cho nên
không được Trần Nghệ Tông cho làm quan và đành trở về quê dạy học.


<i><b>Thời trẻ:</b></i>



Lúc ông lên 5 tuổi mẹ ông mất.Nguyễn Trãi lúc nhỏ ở với cha là Trần Nguyên Đán. Năm
1385, Trần Ngun Đán về trí sĩ ở Cơn Sơn, đem theo cả Nguyễn Trãi về đấy. Cơn Sơn lại
chính là nơi quê tổ của họ Nguyễn vì cả dãy núi này thuộc vào địa phận xã Chi Ngại, huyện
Phượng Nhãn. Từ năm 1390, sau khi ông ngoại mất, Nguyễn Trãi về Nhị Khê ở với cha.


<i><b>Thời Hồ:</b></i>



Năm 1400, Hồ Q Ly cướp ngơi nhà Trần. Năm đó cũng là năm mở khoa thi đầu tiên
của nhà Hồ. Nguyễn Trãi đi thi và đậu thái học sinh. Năm 1401, Nguyễn Ứng Long đổi tên
là Nguyễn Phi Khanh và được nhà Hồ vời ra làm quan, lĩnh chức Quốc tử giám tư nghiệp.
Cịn Nguyễn Trãi thì sau khi thi đỗ được nhà Hồ cử giữ chức Ngự sử đài chính chưởng.
Như vậy là hai cha con Nguyễn Trãi thuộc số những người ra làm quan với nhà Hồ ngay từ
đầu.


Năm 1407, nhà Minh đánh Đại Ngu. Cha con Hồ Quý Ly bị bắt đưa về Kim Lăng. Một
số triều thần trong đó có Nguyễn Phi Khanh cũng bị bắt đi cùng với Hồ Quý Ly. Nguyễn
Trãi muốn trọn đạo hiếu bèn đi theo cha, nhưng Nguyễn Phi Khanh khuyên con nên trở về


<i>Tìm cách rửa nhục cho nước, trả thù cho cha thì mới là đạo hiếu</i>. [2]



Trên đường trở về Nguyễn Trãi bị người Minh bắt và đem giam lỏng ở thành Đông Quan
(Hà Nội) và mặc dù bị đe dọa, mua chuộc, ông cũng không chịu ra làm quan với nhà Minh.
Năm 1417, ơng trốn khỏi Đơng Quan, rồi sau đó tìm đường vào giúp Lê Lợi, Nguyễn Trãi
đã dâng lên Lê Lợi tập <i>Bình Ngơ sách</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

<i><b> Tướng văn trong khởi nghĩa Lam Sơn</b></i>



Từ xa, Nguyễn Trãi đã nhận thấy ở Lê Lợi một người anh hùng lỗi lạc có thể đưa sự
nghiệp giải phóng dân tộc đến thành cơng, nên Nguyễn Trãi đã bỏ qua nhiều phong trào
khởi nghĩa ở các địa phương gần, để lặn lội vào miền núi rừng Thanh Hoa, tìm gặp Lê Lợi
và gia nhập hàng ngũ nghĩa quân Lam Sơn. Đó là những ngày ở Lỗi Giang, nhưng tên tuổi,
sự nghiệp của ông ghi lại trong lịch sử của dân tộc, chỉ là từ sau khi nghĩa quân Lam Sơn
rút về núi Chí Linh lần thứ ba, tức là từ năm 1423.


Từ sau cuộc gặp gỡ ở Lỗi Giang, thì theo Trần Khắc Kiệm chép trong {(lời tựa Ức Trai
thi tập) <i>Ức Trai di tập</i> quyển 5} <i>Phàm những việc quân, việc nước quan trọng đều trao cho</i>
<i>ơng cả</i>. Nguyễn Trãi đã vận dụng <i>Bình Ngơ sách</i> của ơng để trù tính giải quyết mọi việc
qn, việc nước quan trọng. Ơng đã thành cơng trong việc mở rộng phong trào Lam Sơn từ
một cuộc khởi nghĩa địa phương, bó hẹp trong vùng rừng núi phủ Thanh Hoa thành chiến
tranh cả nước đánh giặc và đưa phong trào, từ sau khi về núi Chí Linh lần thứ ba, sang một
giai đoạn phát triển mới, giai đoạn tiến công liên tục, mãnh liệt <i>càng đánh càng được, đi </i>
<i>đến đâu đánh tan đến đấy, như phá vật nát, như bẻ cành khô</i>


Đặc biệt trong giai đoạn từ 1425, khi quân Lam Sơn trên đà thắng lợi, vây hãm nhiều
thành trì của quân Minh, Nguyễn Trãi thường viết thư gửi cho tướng giặc trong thành để dụ
hàng hoặc làm nản ý chí chiến đấu của tướng giặc.


Năm 1427, ông được liệt vào hàng Đại phu, coi sóc các việc chính trị và quản cơng việc
ở Viện Khu mật. Quân Lam Sơn giải phóng vùng Bắc Bộ, đánh tan viện binh của Vương


Thông. Thông rút vào cố thủ trong thành Đông Quan. Vua Minh sai Liễu Thăng và Mộc
Thạnh chia làm 2 đường, cầm hơn 10 vạn quân sang cứu viện. Lúc đó quân Lam Sơn đứng
trước hai chọn lựa vì sắp phải đối phó với địch bên ngoài vào và địch đánh ở trong thành
ra. Lực lượng của Vương Thông hợp với quân Minh sang từ trước đã có khoảng 10 vạn
người, quân Lam Sơn vây hãm có chút lơi lỏng đã bị địch ra đánh úp, phải trả giá cao bằng
việc mất 4 tướng giỏi: Lê Triện, Đinh Lễ bị tử trận, Đỗ Bí và Nguyễn Xí bị bắt. Chỉ có
Nguyễn Xí sau đó nhờ mưu trí và nhanh nhẹn đã trốn thốt về.


Số đơng các tướng nóng lịng muốn hạ gấp thành Đơng Quan để hết lực lượng làm nội
ứng cho Liễu Thăng và Mộc Thạnh. Riêng Nguyễn Trãi khơng đồng tình với quan điểm đó.
Ơng kiến nghị với Lê Lợi ý kiến của mình và được chấp thuận. Và Lê Lợi đã theo kế của
ơng nói với các tướng rằng:


<i>"Đánh Đơng Quan là hạ sách. Nếu ta đánh thành kiên cố đó, phải mất mấy tháng hoặc </i>
<i>hàng năm, chưa chắc đã hạ nổi, binh sĩ ta phải mệt mỏi chán nản. Đang khi đó, viện binh </i>
<i>của địch kéo dến, thế là ta bị địch đánh cả đằng trước, đằng sau, đó là rất nguy. Chi bằng </i>
<i>ta hãy ni sức khoẻ, chứa dũng khí chờ đánh viện binh. Khi viện binh đã bị phá, tất nhiên </i>
<i>quân trong thành phải hàng, thế là ta chỉ khó nhọc một phen mà thu lợi gấp hai."</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

thực hiện "hội thề Đông Quan", xin rút quân về nước và cam kết không sang xâm phạm
nữa.


<i>Bài chi tiết: Khởi nghĩa Lam Sơn</i>


Theo lệnh của Lê Lợi, Nguyễn Trãi thảo bài Bình Ngơ đại cáo để bá cáo cho thiên hạ biết
về việc đánh giặc Minh, được coi là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của Việt Nam (sau bài
thơ Nam quốc sơn hà).


Lê Lợi lên ngơi hồng đế, ban thưởng cho 227 công thần, Nguyễn Trãi được phong là
Triều đại phu, Nhập nội hành khiển, Lại bộ thượng thư, tước Quan phục hầu. Trong công


cuộc xây dựng đất nước vừa được giải phóng, Nguyễn Trãi đã có nhiều đóng góp lớn, tuy
chức vụ của ông chưa phải là chức vụ chủ chốt nhất trong triều để có thể làm cho ơng thi
thố hết tài năng. Ơng đã khun Lê Lợi kêu gọi những người "hiền tài" ra giúp nước, và
năm 1429 thay nhà vua viết tờ <i>Chiếu cầu hiền</i>. Năm 1430, ông thay nhà vua viết <i>Chiếu </i>
<i>cấm các đại thần, tổng quản cùng các quan ở viện, sảnh, cục tham lam lười biếng</i>. Năm
1431, ông thay nhà vua viết tờ <i>Chiếu cho Tư Tề quyền nhiếp quốc chính</i>. Năm 1433, Tư Tề
vì cuồng dại, ngớ ngẩn không đương nổi việc nước, bị giáng xuống làm quận vương, ông
thay nhà vua viết tờ <i>Chiếu giáng Tư Tề làm quận vương, đặt con thứ là Nguyên Long nối </i>
<i>nghiệp</i>. Ông cũng lại thay nhà vua làm tờ <i>Chiếu về việc làm bài Hậu tự huấn để răn bảo </i>
<i>thái tử</i> và <i>Chiếu bàn về phép tiền tệ</i>, v.v...


<b>Vụ án Lệ Chi Viên</b>


Năm 1433, Thái Tổ mất, thái tử Nguyên Long lên nối ngôi, tức là Lê Thái Tông.
Những năm đầu, Tư đồ Lê Sát làm phụ chính điều hành triều chính. Nguyễn Trãi tham gia
giúp vua mới. Nhân bàn về soạn lễ nhạc, Nguyễn Trãi khuyên nhà vua:


<i>"Nguyện xin bệ hạ yêu thương và nuôi dưỡng dân chúng để nơi thơn cùng xóm vắng </i>
<i>khơng có tiếng ốn hận sầu than"</i>.


Năm 1435, ông soạn sách <i>Dư địa chí</i> để vua xem nhằm nâng cao sự hiểu biết, niềm tự
hào và ý thức trách nhiệm của nhà vua đối với non sông đất nước.


Bị các quyền thần đứng đầu là Lê Sát chèn ép, Nguyễn Trãi cáo quan về ở ẩn tại Cơn
Sơn, Chí Linh, thuộc tỉnh Hải Dương ngày nay.


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

Vua Thái Tơng ham sắc, có nhiều vợ, chỉ trong 2 năm sinh liền 4 hoàng tử. Các bà vợ
tranh chấp ngơi thái tử cho con mình nên trong triều xảy ra xung đột. Vua truất hoàng hậu
Dương Thị Bí và ngơi thái tử của con bà là Lê Nghi Dân lên 2 tuổi, lập Nguyễn Thị Anh
làm hoàng hậu và cho con của bà này là Lê Bang Cơ chưa đầy 1 tuổi làm thái tử. Cùng lúc


đó một bà vợ khác của vua là Ngơ Thị Ngọc Dao lại sắp sinh, hồng hậu Nguyễn Thị Anh
sợ đến lượt mẹ con mình bị phế nên tìm cách hại bà Ngọc Dao. Nguyễn Trãi cùng một
người vợ thứ là Nguyễn Thị Lộ tìm cách cứu bà Ngọc Dao đem nuôi giấu, sau bà sinh được
hồng tử Tư Thành (tức vua Lê Thánh Tơng sau này).


Tháng 7 năm 1442, vua Lê Thái Tông về qua nhà Nguyễn Trãi tại Cơn Sơn (Chí Linh,
Hải Dương ngày nay), vợ Nguyễn Trãi là bà Nguyễn Thị Lộ theo "hầu" vua. Trên đường về
kinh Vua đột ngột qua đời tại vườn hoa Lệ Chi Viên nay thuộc Gia Bình, Bắc Ninh.


Nguyễn Trãi bị triều đình do hồng hậu Nguyễn Thị Anh cầm đầu khép tội giết vua và bị
giết cả 3 họ (tru di tam tộc) ngày 16 tháng 8 năm 1442. "Tru di tam tộc" là giết người trong
họ của người bị tội, họ bên vợ và họ bên mẹ của người đó. Theo gia phả họ Nguyễn, ngoài
những người họ Nguyễn cùng họ với ơng, cịn có những người họ Trần cùng họ với bà
Trần Thị Thái mẹ ông, người trong họ bà Nhữ thị vợ thứ của Nguyễn Phi Khanh, những
người trong họ của các bà vợ Nguyễn Trãi (kể cả vợ lẽ), tất cả đều bị xử tử.


Thái tử Bang Cơ mới 1 tuổi, con trai Nguyễn Thị Anh được lập làm vua, tức là Lê
Nhân Tông.


<b> Gia quyến lưu tán</b>


Theo gia phả họ Nguyễn, Nguyễn Trãi có năm người vợ:


 Bà họ Trần: Sinh ra Nguyễn Khuê, Nguyễn Ứng, Nguyễn Phù.
 Bà họ Phùng: Sinh ra Thị Trà, Nguyễn Bảng, Nguyễn Tích.
 Bà Thị Lộ: Khơng có con.


 Bà Phạm Thị Mẫn: Sinh ra Nguyễn Anh Vũ (sau vụ án Lệ Chi Viên).


 Bà họ Lê: Sinh ra con cháu ở chi Quế Lĩnh, Phương Quất - huyện Kim Môn, Hải



Dương.


Sau vụ án Lệ Chi Viên, dòng họ Nguyễn Trãi ở Chi Ngại, Nhị Khê gần như bị thảm sát hết.
Trong các phả hệ ghi lại số ít thốt nạn là:


 Nguyễn Phi Hùng , em thứ ba của Nguyễn Trãi chạy về Phù Khê, Từ Sơn, Bắc


Ninh;


 Nguyễn Phù con Nguyễn Trãi chạy lên Cao Bằng, đổi họ sang họ Bế Nguyễn.
 Bà họ Lê vợ thứ năm của Nguyễn Trãi mang thai chạy về Phương Quất, huyện Kim


Môn, Hải Dương.


 Bà Phạm Thị Mẫn vợ thứ tư của Nguyễn Trãi có mang ba tháng, được người học trị


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

<i><b> Được minh oan</b></i>



Theo một số nghiên cứu gần đây, thủ phạm gây ra cái chết của vua Thái Tơng chính là
hoàng hậu Nguyễn Thị Anh và bà đã đổ tội cho Nguyễn Trãi.


Tuy nhiên, ngay đương thời đã có nhiều người biết việc oan khuất của Nguyễn Trãi.
Hơn 10 năm sau, mẹ con vua Nhân Tông bị người con cả Thái Tông là Nghi Dân giết chết
để giành lại ngôi vua. Nhưng rồi Nghi Dân nhanh chóng bị lật đổ. Người con thứ của Thái
Tông là Khắc Xương từ chối ngôi báu nên người con út là Tư Thành được vợ chồng
Nguyễn Trãi cứu thoát trước kia, nay được Nguyễn Xí rước lên ngơi, tức là Lê Thánh
Tơng.


Năm 1464, Lê Thánh Tông xuống chiếu giải oan cho Nguyễn Trãi. Con cháu ông được


tìm lại và bổ dụng. Người con út sinh ra sau khi ông qua đời là Nguyễn Anh Vũ được Lê
Thánh Tông phong cho chức Đồng Tri Phủ huyện Tĩnh Gia (Thanh Hóa), cấp cho 100 mẫu
ruộng gọi là "Miễn hồn điền" (ruộng khơng phải trả lại) con cháu đời đời được hưởng.
Nguyễn Anh Vũ xây dựng mộ chí của Nguyễn Trãi tại xứ đồng Tai Hà, làng Dự Quần, lấy
sọ dừa, cành dâu táng làm cốt; lấy ngày mất của Nguyễn Trãi - 16 tháng 8 là ngày giỗ họ [6]
Năm 1464, Lê Thánh Tơng đã chính thức minh oan cho Nguyễn Trãi. Ông ca ngợi
Nguyễn Trãi là <i>Ức Trai tâm thượng quang Khuê tảo</i>, truy tặng tước Tán Trù Bá, ban cho
con là Anh Vũ chức huyện quan. Năm 1467, Lê Thánh Tông ra lệnh sưu tầm di cảo thơ văn
Nguyễn Trãi. Việc làm này có thể đã góp phần bảo tồn một phần quan trọng các di sản văn
hóa mà Nguyễn Trãi đã để lại.


Nhiều người hiểu sai khi dịch nghĩa <i><b>"</b><b>Ức Trai tâm thượng quang khuê tảo"</b></i> là <i><b>"</b><b>Lòng Ức </b></i>
<i><b>Trai sáng tựa sao khuê"</b></i>, dịch chính xác phải là <i><b>"</b><b>Ức Trai lịng soi sáng văn chương"</b></i>


Nguyên ăn bài thơ


<b>“</b>

Cao Đế anh hùng cái thế danh
Văn Hồng trí dũng phủ doanh thành
Ức Trai tâm thượng quang khuê tảo
Vũ Mục hung trung liệt giáp binh
Thập Trịnh đệ huynh liên quý hiển
Nhị Thân phụ tử bội ân vinh
Hiếu tôn Hồng Đức thừa phi tự


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

Dịch nghĩa


<b>“</b>

<i>Đức Cao Đế (Lê Thái Tổ) là bậc anh hùng đệ nhất thiên hạ</i>
<i>Đức Văn Hoàng (Lê Thái Tơng) trí dũng kế thừa cơ nghiệp</i>
<i>Ức Trai (Nguyễn Trãi) lịng soi sáng văn chương</i>



<i>Vũ Mục (Lê Khơi) bụng chứa đầy binh giáp</i>


<i>Mười anh em họ Trịnh (con thái uý Trịnh Khả) tất thảy đều vẻ vang phú quý</i>
<i>Hai cha con họ Thân (Thân Nhân Trung và Thân Nhân Tín) đều hưởng ân vinh</i>
<i>lớn</i>


<i>Cháu hiếu là Hồng Đức (Lê Thánh Tơng) nay kế thừa nghiệp lớn</i>


<i>Vui hưởng thái bình như nhà Chu tám trăm năm</i>

<b>”</b>



Dù vậy, các nhà nghiên cứu vẫn băn khoăn chưa rõ vì sao một vị vua được coi là anh
minh và quyết đốn như Lê Thánh Tơng, đã minh oan cho Nguyễn Trãi, một đại công thần
sáng lập vương triều Lê, người đã cùng với vợ là Nguyễn Thị Lộ ra sức che chở cho mẹ
con nhà vua lúc gian nan, mà chỉ truy tặng tước <i>bá</i>, thấp hơn cả tước <i>hầu</i> vốn được Lê Thái
Tổ ban phong khi ơng cịn sống. Các cơng thần khác của nhà Hậu Lê thường được các vua
đời sau truy tặng tước cao hơn, như <i>công</i> và sau nữa lên <i>vương</i>.


Năm 1512, vua Lê Tương Dực sai làm chế văn truy tặng ông tước Tế Văn hầu, trong
đó có câu


<i>"Long hổ phong vân chi hội, do tưởng tiền duyên;</i>
<i>"Văn chương sự nghiệp chi truyền, vĩnh thùy hậu thế"</i>


Dịch là:


<i>"Gặp gỡ long hổ phong vân, còn ghi duyên cũ"</i>
<i>"Truyền tụng văn chương sự nghiệp, để mãi đời sau"</i>


Năm 1980 nhân kỷ niệm 600 năm ngày sinh của Nguyễn Trãi, UNESCO đã cơng nhận
ơng là danh nhân văn hóa thế giới.



<i><b> Những đánh giá</b></i>



 Lê Thánh Tông trong bài Minh lương viết trong <i>Quỳnh uyển cửu ca</i> có câu: <i>Ức </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

 Người thế Kỉ 16, như Hà Nhậm Đại, đã nói về cơng lao sự nghiệp của ông:


<i>Công giúp hồng đồ cao nữa (tựa) núi</i>
<i>Danh ghi thanh sử sáng bằng gương</i>[8]


 Người thế kỉ 17 cịn đánh giá ơng cao hơn nữa. Đỗ Nghi cũng là người triều Lê,


nhưng ơng đã nói thẳng: <i>Nhà Lê sở dĩ lấy được thiên hạ đều do sức ông cả</i> và Đỗ
Nghi tiếc rằng: <i>Tiếc thay trời chưa muốn bình trị thiên hạ, cho nên cuối cùng ông </i>
<i>vẫn chỉ làm chức hành khiển Đông đạo, không được giở hết hồi bão của mình; </i>
<i>việc đó khơng phải là khơng may cho ơng, mà chính là khơng may cho sinh dân đời</i>
<i>Lê vậy</i>. [9]


 Sang thế kỉ 18 Dương Bá Cung cũng phải thừa nhận <i>công lao của ông trùm khắp </i>


<i>trên đời</i>[10]


 Lê Quý Đôn trong <i>Kiến Văn tiểu lục</i> nhận định về ông: <i>"đứng vào bậc nhất một đời, </i>


<i>chức vị Thượng thư, cấp bậc cơng thần. Cứ xem ơng giúp chính trị hai triều vua hết</i>
<i>lòng trung thành, tuy dâng lời khuyên răn thường bị đè nén mà không từng chịu </i>
<i>khuất... nhưng vì tối nghĩa về "chỉ, túc" thành ra cuối cùng khơng giữ được tốt lành, </i>
<i>thật đáng thương xót!... Người có cơng lao đứng đầu về việc giúp rập vua, thì ngàn </i>
<i>năm cũng khơng thể mai một được"</i>[11]<sub>.</sub>



 Cho tới 400 năm sau khi Nguyễn Trãi chết, người Việt Nam ở thế kỷ 19 vẫn rất


mực tôn quý ông và khẳng định: <i>Nước Việt ta, từ Đinh, Lê, Lý, Trần, đời nào sáng </i>
<i>lập cơ nghiệp đế vương, tất cũng đều phải có các tướng tá giúp sức, nhưng tìm </i>
<i>được người tồn tài tồn đức như Ức Trai tiên sinh, thật là ít lắm</i>[12]


 Ở thế kỉ 20, thủ tướng Phạm Văn Đồng đã đánh giá: <i>Nguyễn Trãi, người anh hùng </i>


<i>của dân tộc, văn võ song tồn; văn là chính trị: chính trị cứu nước, cứu dân, nội trị</i>
<i>ngoại giao "mở nền thái bình mn thủa, rửa nỗi thẹn nghìn thu"; võ là quân sự: </i>
<i>chiến lược và chiến thuật, "yếu đánh mạnh ít địch nhiều ... thắng hung tàn bằng đại </i>
<i>nghĩa"; văn và võ đều là võ khí, mạnh như vũ bão, sắc như gươm đao: "viết thư thảo </i>
<i>hịch tài giỏi hơn hết một thời" (Lê Quý Đôn), "văn chương mưu lược gắn liền với sự </i>
<i>nghiệp kinh bang tế thế" (Phan Huy Chú). Thật là một con người vĩ đại về nhiều mặt</i>
<i>trong lịch sử nước ta</i>


 Công lao, sự nghiệp của Nguyễn Trãi rõ ràng là huy hoàng, vĩ đại, Nguyễn Trãi quả


thật là anh hùng, là khí phách, là tinh hoa của dân tộc. Công lao quý giá nhất và sự
nghiệp vĩ đại nhất của Nguyễn Trãi là tấm lòng yêu nước yêu dân tha thiết và sự
nghiệp đánh giặc cứu nước vô cùng vẻ vang của ông. Ông đã đem hết tâm hồn, trí
tuệ, tài năng phục vụ lợi ích của dân tộc trong phong trào khởi nghĩa Lam Sơn. Tư
tưởng chính trị quân sự ưu tú và tài ngoại giao kiệt xuất của ông đã dẫn đường cho
phong trào khởi nghĩa Lam Sơn đi tới thắng lợi. [14]<sub>Thiên tài của Nguyễn Trãi là sản </sub>
phẩm của phong trào đấu tranh anh dũng của dân tộc trong một cao điểm của lịch
sử. Thiên tài ấy đã để lại một sự nghiệp lớn về nhiều mặt mà chúng ta cịn phải tiếp
tục tìm hiểu thêm mới có thể đánh giá đầy đủ và chính xác được. Dầu sao, nếu chỉ
xét về mặt văn hóa thì cũng có thể khẳng định rằng Nguyễn Trãi đã cắm một cột
mốc quan trọng trên con đường tiến lên của dân tộc Việt Nam, đặc biệt là lĩnh vực
văn học.



</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

<b>CÔN SƠN CA </b>



<b>KHÚC CA HÀI HỊA GIỮA MINH TRIẾT VÀ NHÂN ÁI</b>



<b>Đồn Thị Thu Vân </b>


Cũng thật lạ khi trong con người suốt đời tự nguyện dấn thân tích cực ấy lại vẫn
ln mang niềm khao khát "trở về". Trở về với núi cũ Côn Sơn – không gian xanh của
thời thơ ấu – là hoài vọng thường xuyên trong tâm khảm, khi Nguyễn Trãi đang còn
trên bước đường lưu lạc cũng như khi đã lập công danh. Tuy nhiên sẽ không là mâu
thuẫn nếu nhận ra rằng "dấn thân" và "trở về" thuộc hai bình diện khác nhau, một là
nhu cầu của con người xã hội, con người công dân và một là nhu cầu của con người cá
nhân cùng hiện diện trong nhân cách đặc biệt ấy. Điều đó đã tạo cho Nguyễn Trãi một
phong thái xưa nay ít thấy – một ơng quan mà giống một "ông tiên" (theo lời nhận xét
của Nguyễn Mộng Tuân, người cùng thời).


Bài ca Côn Sơn mở ra một khoảng không xanh tươi, trong trẻo, mát mẻ. Núi rừng
hùng vĩ nhưng khơng bí ẩn, xa cách. Thiên nhiên mang vẻ đẹp hoang sơ, nguyên thủy
mà thật ấm áp, thân tình. Con người đến đó khơng lắng nghe, nhìn ngắm bằng tai
thường, mắt thường mà bằng cái tâm đã lọc sạch bụi bẩn và rộng mở. Nhờ trống
không và rộng mở nên đã tiếp nhận được toàn bộ cái "chân" của tạo vật. Thiên nhiên
là một thế giới riêng có tâm hồn. Đem cái tâm của mình hịa đồng cùng vạn vật,
Nguyễn Trãi đã vận dụng được nguyên lý "vạn vật đồng nhất thể" của triết học phương
Đông để vui niềm vui khám phá và phát hiện. Côn Sơn thực sự trở thành ngôi nhà thân
thuộc khi nhà thơ nghe được tiếng nói của suối, đá, thơng, trúc, có thể cùng nhau trị
chuyện, cảm thơng, có thể lấy nó làm đàn cầm, làm đệm chiếu êm mượt, làm lọng
biếc che mát để nằm nghỉ ngơi, làm tấm bình phong xanh để ngồi bên ngâm vịnh.
Thiên nhiên ln hào phóng dành sẵn những hương sắc, thanh âm, xúc cảm giản dị
mà diệu kỳ đối với ai biết mở rộng giác quan của tâm hồn trước nó. Khi con người mở


cửa tâm hồn, thiên nhiên cũng mở cửa kho tàng vô tận. Giọng thơ thật hào hứng khi
nói "Cơn Sơn có suối", "Cơn Sơn có đá", "trong núi có thơng", "trong rừng có trúc".
Giàu có biết bao! Ta là một phần trong tất cả, và tất cả cũng chính là ta! Thực hiện
được sự hội nhập lớn lao này, con người đã mang được cái hồn vũ trụ, sự phong phú
và vĩnh cửu của vũ trụ. Cũng từ đó giải phóng khỏi mọi loại tù ngục của qui ước, giáo
điều, thiên kiến trong cách nhìn, cách nghĩ thơng thường để dùng con mắt nhìn của trẻ
thơ ghi nhận cảnh vật và tái hiện lại trong một thế giới thơ trong trẻo mà quyến rũ lạ
thường.


</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

phút mà ta đang sống, biết sống vui để khơng lãng phí cuộc đời. Nhân văn còn ở thái
độ đối với bản thân mình, khơng dày vị lao nhọc tâm trí và thân xác để đi tìm những
vật ngồi thân như "vàng đầy thành", "hồ tiêu tám trăm hộc", kể cả cái danh "tôi
trung không thờ hai chúa" mà Bá Di, Thúc Tề theo đuổi. Xét về mặt dưỡng sinh, sống
gần gũi thiên nhiên, trí ít lo âu toan tính, lịng trong sáng cởi mở, ăn uống thanh đạm
những gì sức mình lao động kiếm được là cách sống đem lại sức khỏe, tuổi thọ và sự
u đời. Đó cũng là khía cạnh thiết thực nhất của quan niệm sống giàu chất nhân văn
này.


Khi nghe qua ví dụ về Đổng Trác, Nguyên Tải rồi tiếp đến là Bá Di, Thúc Tề, dễ có
cảm tưởng như một bên đưa ra là để phê phán, còn một bên là để ngợi ca. Thực ra,
theo Nguyễn Trãi, "hiền ngu hai đàng không so sánh được với nhau", nhưng "mỗi đàng
đều tự tìm theo ý muốn riêng của mình". Kẻ "ngu" dĩ nhiên không hiểu được chân lý
của cuộc sống, nhưng người thường được gọi là "hiền" kia cũng chưa hẳn đã là biết
sống. Chẳng phải họ đều chạy theo cái lợi hão hoặc bị trói buộc bởi cái danh hão để
phải làm tổn thương đến hình hài và chân tính của mình sao? Trong khi "đời người chỉ
trong khoảng trăm năm, rốt cục đều nát cùng cây cỏ". Ở chỗ này, cũng như khi nói
"mừng, buồn, lo, vui, cái nọ đi, cái kia đến; tốt tươi rồi khô héo cứ nối tiếp nhau",
Nguyễn Trãi gợi nhớ đến câu thơ của Vạn Hạnh đời Lý: "Thân như điện ảnh hữu hồn
vơ; Vạn mộc xuân vinh, thu hựu khô". Quan niệm này vừa ảnh hưởng từ Phật giáo –
con người cùng vạn vật do "tứ đại" duyên hợp mà thành, duyên hết lại trở về với


những yếu tố vật chất ban đầu ấy; mọi sự tuần hoàn, chuyển biến liên tục – mà cũng
là từ triết học phương Đơng nói chung, trong đó có Dịch lý uyên áo. Do vậy mà "núi gò
hoang sơ" hay "cửa nhà lộng lẫy" đều là "ngẫu nhiên", khơng có gì bền chắc; sau khi
chết, sang và hèn đều trở thành vô nghĩa. Sự vận dụng quan niệm này sẽ trở nên
phiến diện, thậm chí có phần tiêu cực nếu phát xuất từ một người vốn thích an nhàn
cho riêng thân, khơng quan tâm đến xã hội, khơng có chí giúp đời hay vì bất đắc chí
mà trở thành yếm thế, bi quan. Với Nguyễn Trãi, khi ngẫm suy những điều này, ông đã
đứng trên tất cả những thất bại và thành cơng vinh quang nhất mình đã trải qua trong
đời. "Đời người trăm năm", nửa đời đã từng "mặn lạt no mùi thế tình" (Tự thán X)
nhưng vẫn kiên định một "tấc lòng ưu ái cũ" (Thuật hứng V), con người ấy khi triết lý
về cuộc sống, chắc không phải chỉ là những lời rỗng suông hay bắt chước. Chiều sâu
của tri thức, bề dày của kinh nghiệm, độ chín của trí tuệ và sự linh mẫn của tâm hồn
đã làm nên chất minh triết cho quan niệm ấy.


</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15>

nhân sinh lên đến mức bức xúc nhất, để rồi giản ra sâu lắng thâm trầm sau lời lý giải
giản dị và điềm đạm.


Đàng sau Côn Sơn ca là cái nền của triết học và mỹ học phương Đông được tổng
hợp một cách linh hoạt từ cả Nho, Phật và Đạo. Dung hòa được những nguồn tư tưởng
này đã là sáng tạo. Nhưng nếu chỉ có thế thì chưa đủ để bài ca Cơn Sơn có sức hấp
dẫn bền lâu đến thế. Điều đáng nói chính là cốt cách Việt Nam tốt ra từ đó. Đó cũng
là cốt cách của Nguyễn Trãi: luôn quan tâm đến hạnh phúc của con người. "Cần gì phải
mn chung chín đỉnh; uống nước lã, ăn cơm rau, tùy theo phận mình cũng cảm thấy
đủ". Trong một bài thơ khác, Nguyễn Trãi từng khuyên: "Nằm có chiếu chăn cho ấm
áp; Ăn thì canh cá chớ khơ khan. Phúc dầu hay đến trăm tuổi; Mình thác thì nên mọi
của tan" (Bảo kính cảnh giới VII). Hai lời khuyên tuy có khác nhau nhưng cùng một ý
tứ: Nên biết quý và vui hưởng những gì mình có, khơng nên bỏ phí đời sống thực tại
để chạy theo những cái ngoài tầm tay. Hạnh phúc đích thực của đời người là điều nhà
thơ luôn muốn nhủ khuyên, cảnh tỉnh mọi người.



Tầm cao của Côn Sơn ca khơng chỉ ở sự thâm un về cái nhìn triết học, sự thực
hiện đại hòa điệu giữa "ta" và "vật" hồn nhiên đầy minh triết. Đàng sau bài ca Cơn Sơn
cịn là vơ hạn một tấm lịng. Nét riêng của dân tộc, của Nguyễn Trãi trong cái chung
của phong cách phương Đơng là ở đó.


Hồ Xn Hương:



<b> Hồ Xuân Hương là nhà thơ Nôm nổi tiếng sống vào cuối thế kỷ 18, đầu thế kỷ 19.</b>
Bà đã để lại nhiều bài thơ độc đáo với phong cách thơ vừa thanh vừa tục và được mệnh
danh là Bà chúa thơ Nôm. Hồ Xuân Hương được coi là một trong những nhà thơ tiêu biểu
của văn học Việt Nam..


<i><b>Tiểu sử:</b></i>



Tiểu sử của Hồ Xuân Hương đến nay vẫn cịn nhiều điểm gây tranh cãi. Thậm chí có
một vài ý kiến cịn cho rằng những bài thơ được xem là của Hồ Xuân Hương hiện nay do
nhiều người sáng tác, nghĩa là khơng có ai thực sự là Hồ Xuân Hương. Dựa vào một số tài
liệu lưu truyền, những bài thơ được khẳng định là của Hồ Xuân Hương, các nhà nghiên cứu
đã tạm thừa nhận một số kết luận bước đầu về tiểu sử của nữ sĩ:


 Hồ Xuân Hương thuộc dòng dõi họ Hồ ở làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh


Nghệ An. Đây là một dịng họ lớn có nhiều người đỗ đạt và làm quan nhưng đến
đời Hồ Phi Diễn - thân sinh của bà - thì dịng họ này đã suy tàn.'


 Theo các nhà nghiên cứu đầu tiên về Hồ Xuân Hương như Nguyễn Hữu Tiến,


</div>
<span class='text_page_counter'>(16)</span><div class='page_container' data-page=16>

 Bà sống vào thời kỳ cuối nhà Lê, đầu nhà Nguyễn, tức cuối thế kỷ 18, đầu thế kỷ


19. Do đó bà có điều kiện tiếp thu ảnh hưởng của phong trào đấu tranh của quần


chúng và chứng kiến tận mắt sự đổ nát của nhà nước phong kiến.


 Bà xuất thân trong một gia đình phong kiến suy tàn, song hồn cảnh cuộc sống đã


giúp nữ sĩ có điều kiện sống gần gũi với quần chúng lao động nghèo, lăn lộn và tiếp
xúc nhiều với những người phụ nữ bị áp bức trong xã hội.


 Hồ Xuân Hương ít chịu ảnh hưởng của Nho giáo, vậy tại sao lại có chuyện "cổ


nguyệt đình"?. Bà khơng dùng chữ nho cũng đâu thể cho rằng bà ít chịu ảnh hưởng
của nho giáo, mà phải xem lại xã hội thời đó, bà là một nhà thơ nên cũng là một
minh chứng cho xã hội thời đó về mặt nhân sinh quan cũng như về phương diện văn
chương.


 Bà là một phụ nữ thơng minh, có học nhưng học hành cũng khơng được nhiều lắm,


bà giao du rộng rãi với bạn bè nhất là đối với những bạn bè ở làng thơ văn, các nhà
nho. Nữ sĩ còn là người từng đi du lãm nhiều danh lam thắng cảnh của đất nước.


 Là một phụ nữ tài hoa có cá tính mạnh mẽ nhưng đời tư lại có nhiều bất hạnh. Hồ


Xuân Hương lấy chồng muộn mà đến hai lần đi lấy chồng, hai lần đều làm lẽ, cả hai
đều ngắn ngủi và khơng có hạnh phúc. (Nhưng theo tài liệu của GS Hồng Xn
Hãn và ơng Lê Xn Giáo thì nữ sĩ có tới 3 đời chồng chứ khơng phải hai: Tổng
Cóc, Ơng Phủ Vĩnh – tường, và cuối cùng là quan Tham hiệp trấn Yên Quảng Trần
Phúc Hiến).


Có thể thấy Hồ Xuân Hương không phải là một phụ nữ bình thường của thời phong
kiến mà bà đã có một cuộc sống đầy sóng gió.



<b>Các tác phẩm:</b>



Các tác phẩm của bà đã bị mất nhiều, đến nay còn lưu truyền chủ yếu là những bài thơ
chữ Nôm truyền miệng.


Năm 1962, ông Trần Văn Giáp đã công bố 5 bài thơ chữ Hán của Hồ Xuân Hương trên báo


<i>Văn nghệ</i> viết về vịnh Hạ Long. Đến năm 1983, giáo sư Hoàng Xuân Hãn đã dịch và đặt
tên cho 5 bài thơ này (bao gồm: <i>Độ Hoa Phong</i>, <i>Hải ốc trù</i>, <i>Nhãn phóng thanh</i>, <i>Trạo ca </i>
<i>thanh</i>, <i>Thuỷ vân hương</i>) và cơng bố trong bài <i>Hồ Xuân Hương với vịnh Hạ Long</i>, đăng trên
tập san <i>Khoa học xã hội</i>, tại Paris vào năm 1984.


Năm 1964, nhà nghiên cứu Trần Thanh Mại phát hiện một tập thơ nữa tên là <i>Lưu </i>
<i>hương ký</i> , theo những nghiên cứu đến nay nhiều người tán thành rằng những bài thơ trong
đó là của Hồ Xn Hương. Lưu Hương Kí là tập thơ có nội dung tình u gia đình, đất
nước, nó khơng thể hiện rõ cá tính mạnh mẽ của Hồ Xuân Hương, cho nên, việc nghiên
cứu giá trị thơ Hồ Xuân Hương chủ yếu được thực hiện trên những bài thơ Nôm truyền
tụng của bà.


</div>
<span class='text_page_counter'>(17)</span><div class='page_container' data-page=17>

Bà Huyện Thanh Quan (? -?), tên thật: Nguyễn Thị Hinh, là một trong những nhà thơ
nữ nổi tiếng trong thời cận đại của lịch sử văn học Việt Nam


<i><b>Tiểu sử:</b></i>



<b> Nguyễn Thị Hinh người phường Nghi Tàm, huyện Vĩnh Thuận, gần Hồ Tây, Hà Nội</b>
Cha bà là Nguyễn Lý (1755-1837), đỗ thủ khoa năm 1783, đời vua Lê Hiển Tơng. Bà là
học trị của danh sĩ Phạm Quý Thích (1760-1825), và là vợ Lưu Nghị(1804 -1847), người
làng Nguyệt Áng, huyện Thanh Trì, tỉnh Hà Đơng (nay thuộc Hà Nội). Ông đỗ cử nhân
năm 1821 (Minh Mệnh thứ 2), từng làm tri huyện Thanh Quan (nay là huyện Thái Ninh,
tỉnh Thái Bình), nên người ta thường gọi bà là <i>Bà Huyện Thanh Quan</i>. Chồng bà làm quan


trải đến chức Bát phẩm Thư lại bộ Hình, nhưng mất sớm (43 tuổi).


Dưới thời vua Minh Mạng, bà được vời vào kinh giữ chức Cung Trung Giáo Tập để
dạy học cho các công chúa và cung phi.


Khoảng một tháng sau khi chồng mất, bà lấy cớ sức yếu xin thôi việc, rồi dẫn bốn con
về lại Nghi Tàm và ở vậy cho đến hết đời.


Năm 1870, ở Nghi Tàm nổ ra cuộc đấu tranh chống lệ nộp chim sâm cầm, một đặc sản
của vùng này. Theo Ngọc phả (ghi nhận cơng đức của những người có cơng với dân làng),
thì chính Bà Huyện Thanh Quan đã thảo đơn cho dân gửi lên vua, nhưng vì phục tài đức
của bà nên quan huyện Hoàn Long đã phớt lờ đi.


<b>Tác phẩm:</b>



Bà Huyện Thanh Quan sáng tác không nhiều, hầu hết viết bằng chữ Nôm, theo thể Đường
luật. Hiện gồm những bài sau:


1. Thăng Long thành hoài cổ
2. Qua chùa Trấn Bắc


3. Qua Đèo Ngang
4. Chiều hôm nhớ nhà
5. Nhớ nhà


</div>
<span class='text_page_counter'>(18)</span><div class='page_container' data-page=18>

Nhưng theo nhà nghiên cứu Đỗ Lai Thúy thì 4 bài đầu là hồn tồn chính xác của Bà
Huyện Thanh Quan bởi có sự thống nhất từ tư tưởng đến phong cách nghệ thuật. Bài thứ 5
(Nhớ nhà), như là một dị bản của Chiều hôm nhớ nhà. Hai bài 6, 7, xét từ phong cách thì
khơng giống phong cách Bà Huyện Thanh Quan mà giống phong cách Hồ Xuân Hương
nên ông cho là của Bà Chúa Thơ Nôm (xem thêm chuyên luận <i>Hồ Xuân Hương hoài niệm </i>


<i>phồn thực</i> của ông). Cuối cùng bài 8 cũng không giống với tư tưởng và phong cách Bà
Huyện Thanh Quan.


<i><b>Nhận xét</b></i>



Trích:


 Dương Quảng Hàm :


<i>Những bài thơ Nơm của bà phần nhiều là tả cảnh, tả tình, nhưng bài nào cũng hay </i>
<i>và tỏ ra bà là một người có tính tình đoan chính, thanh tao, một người có học thức </i>
<i>thường nghĩ ngợi đến nhà, đến nước. Lời văn rất trang nhã, điêu luyện.</i>[8]


 Thanh Lãng :


<i>Thơ Bà Huyện Thanh Quan đầy chất thơ. Lời thơ của bà điêu luyện, gọt giũa, đẹp </i>
<i>như một bức tranh cổ</i>


 Phạm Thế Ngũ :


<i>Nhiều nhà phê bình đã đưa ra thuyết Bà Huyện Thanh Quan mang nặng tấm lòng </i>
<i>thương tiếc nhà Lê, thuyết ấy không phải là vô căn cứ. Cái tâm trạng hoài Lê ấy, </i>
<i>cũng là tâm trạng chung của nhiều nho sĩ Bắc Hà sau ngày thống nhất...Nhưng nói </i>
<i>là nhớ tiếc cái chính trị của mấy ông vua thời Lê mạt thì không đúng. Bà hướng về </i>
<i>một q khứ mà có lẽ bà cũng khơng tường tận lắm, và bà cũng chưa thọ hưởng </i>
<i>được ân huệ gì; nhưng đó là q khứ của tiền bối, của gia đình...Vì thế thái độ hồi</i>
<i>Lê của bà cũng như nhiều nho sĩ đồng thời khơng có tính cách chính trị, mà chỉ có </i>
<i>tính cách tâm tình...</i>


<i>Về mặt nghệ thuật: chữ dùng khéo, chọn lọc, thích đáng, đối rất chỉnh, rất thần </i>


<i>tình, ý hàm súc, lời trau chuốt, gọn, đẹp...Cho nên thơ bà rất được các nho gia xưa </i>
<i>yêu chuộng, ngâm nga...</i>


<i>Thơ luật đời Nguyễn Sơ, ở tác phẩm của hai nữ sĩ là Hồ Xuân Hương và Bà Huyện </i>
<i>Thanh Quan, như vậy quả đã tiến đến cao độ mỹ diệu. Thơ Hồ Xuân Hương thiên </i>
<i>về Nơm mà bóng bẩy, dun dáng. Thơ Bà Huyện Thanh Quan thiên về Hán mà </i>
<i>thanh thoát, nhẹ nhàng. Hồ Xuân Hương đại biểu cho cái tinh thần trào phúng bình</i>
<i>dân vươn lên thể hiện một hình thức bác học. Bà Huyện Thanh Quan đại biểu cho </i>
<i>cái tinh thần tao nhã nho sĩ kết tinh lại, cùng với tinh túy của Đường thi...</i>


 Từ điển Văn học (bộ mới):


</div>
<span class='text_page_counter'>(19)</span><div class='page_container' data-page=19>

<i>da diết đối với quá khứ vàng son đã một đi không trở lại. Do vậy, người ta gọi bà là</i>
<i>nhà thơ hoài cổ. Thơ bà cịn được chú ý vì một lẽ nữa, đó là nghệ thuật hết sức điêu</i>
<i>luyện. Ở đó, niêm luật đều luật đều chặt chẽ mà không gây cảm giác gị bó, xếp đặt.</i>
<i>Câu thơ của bà trang nhã, từ ngữ chải chuốt và chọn lọc công phu</i>


<b>Thơ Đường</b>



Thơ Đường hay Đường thi là toàn bộ thơ ca đời Đường được các nhà thơ người
<b>Trung Quốc sáng tác trong khoảng từ thế kỉ 7 - 10 (618 - 907). Các sáng tác của hàng </b>
<b>nghìn nhà thơ đời Đường được bảo tồn trong cuốn Toàn Đường thi gồm 48.900 bài. </b>
<b>Đời Thanh chọn 300 bài do Hành Đường và Trần Uyển Tuấn bổ chú thành "Đường </b>
<b>thi tam bách thủ" được phổ biến rộng rãi ở Trung Quốc, Việt Nam...</b>


<i><b>Các giai đoạn:</b></i>



Thơ Đường có thể chia ra làm 4 giai đoạn: Sơ Đường (618 - 713), Thịnh Đường (713
- 766), Trung Đường (766 - 835), Vãn Đường (835 - 907).



Thời Sơ Đường, các nhà thơ mệnh danh là "Tứ kiệt" gồm Dương Quýnh, Lư Chiếu
Lân, Lạc Tân Vương và Vương Bột đã đổi được phần nào phong khí uỷ mị của thơ các
triều đại trước. Tới Trần Tử Ngang thì có phong trào đổi mới thi ca theo tinh thần phong
nhã của "Kinh thi" và "phong cốt Hán Nguỵ", chủ trương làm thơ phải có "kí thác", nghĩa
là nói lên tâm tình của mình, ghi lại cảm xúc thật sự của mình trước hiện thực đời sống, bỏ
hẳn thơ sắc tình đời Lục triều, và thơ ca công tụng đức, thơ ứng chế của một số nhà thơ đầu
đời Đường như Thẩm Thuyên Kỳ, Tống Chi Vấn. Các nhà thơ sau Trần Tử Ngang làm thơ
"kí thác" đều theo 2 khuynh hướng chính là trữ tình, lãng mạn, hoặc hiện thực xã hội. Ba
đại biểu lớn là Lý Bạch, Đỗ Phủ và Bạch Cư Dị.


Màu sắc phong cách của các nhà thơ đời Đường rất khác nhau, tuỳ người sáng tác theo
đạo Nho, đạo Phật hoặc theo Lão Trang.


Thơ Đường có loại thơ như sau: "biên tái" (Cao Thích, Sầm Tham sáng tác), thơ "điền
viên" (Vương Duy, Mạnh Hạo Nhiên sáng tác), thơ "tân nhạc phủ" (Bạch Cư Dị, Nguyên
Chẩn sáng tác), thơ "chính nhạc phủ" đời Vãn Đường (sáng tác Bì Nhật Hưu, Đỗ Tuấn
Hạc) và theo khuynh hướng hiện thực (Đỗ Phủ và Bạch Cư Dị sáng tác).


<b>Các thể loại chính:</b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(20)</span><div class='page_container' data-page=20>

khi làm thơ; đó là một cách làm cho người đọc cùng tham gia với nhà thơ trong việc
thưởng thức bài thơ. Đời Đường được xem là thời đại hoàng kim của thơ ca Trung Quốc
thời phong kiến. Và người nước ngoài thường chỉ biết ba nhà thơ lớn đời Đường là Lý
Bạch, Đỗ Phủ và Bạch Cư Dị.


Lý Bạch



<b> Lý Bạch bính âm: </b><i>Lǐ Bái</i> / <i>Lǐ Bó</i>; 701- 762) là nhà thơ danh tiếng nhất thời thịnh Đường
nói riêng và Trung Hoa nói chung, được hậu bối tôn làm Thi Tiên.



<i><b>Thân thế:</b></i>



<i><b> </b>Theo lời Lý Bạch kể lại, thì ơng là hậu duệ của tướng qn <b>Lý Quảng</b><b>nhà Hán</b>, là </i>
<i>cháu chín đời của <b>Vũ Chiêu Vương</b> Lý Cao nước <b>Tây Lương</b> thời <b>Ngũ Hồ thập lục quốc</b>. </i>
<i>Có sách ghi ơng là con cháu đời sau tơng thất <b>nhà Đường</b>. Tương truyền lúc ông sắp sinh,</i>
<i>bà thân mẫu nằm mộng thấy <b>sao Tràng Canh</b> (hay Trường Canh), vi sao này có tên là </i>
<i>Thái Bạch nên đặt tên con là Bạch. Sau này ông tự đặt hiệu là Thái Bạch, rồi Tràng Canh; </i>
<i>ngoài ra do sinh ở làng Thanh Liên nên cũng lấy hiệu là Thanh Liên cư sĩ. Giới thi nhân </i>
<i>bấy giờ thì rất kính nể tài uống rượu làm thơ bẩm sinh, nên gọi Lý Bạch là: Tửu trung tiên,</i>
<i>Lý Trích Tiên.Về sau này, <b>Đỗ Phủ</b>, thua ông 11 tuổi, được tôn làm Thi Thánh (Thơ Thánh) </i>
<i>thì Lý Bạch được tơn làm Thi Tiên (Thơ Tiên).</i>


<i><b>Tiểu sử:</b></i>


Vào cuối đời nhà Tùy, một người họ Lý do thiếu nợ phải trốn ra Tây Vực, kết duyên
cùng một Man bà (phụ nữ Tây Vực), đến năm Trường An nguyên niên sinh ra Lý Bạch (lúc
này nhà Đường đang có sự biến do Võ Tắc Thiên gây ra).


<b> Niên thiếu</b>



Lý Bạch ở Lũng Tây, Cam Túc suốt thời thơ ấu, được mẹ dạy cho chữ Tây Vực, cha
dạy cho Kinh Thi, Kinh Thư, đến 10 tuổi đã thông thạo và thích làm thơ.


Gia đình giàu có, nên từ nhỏ Lý Bạch đã tha hồ đi đây đi đó cùng cha. Ơng tỏ ra rất
thích, chí hướng của ơng sau này khơng phải quan trường, mà là thơ túi rượu bầu, thong
dong tiêu sái. Đến năm 10 tuổi gia đình chuyển về huyện Chương Minh, Tứ Xuyên. Tại
đây Lý Bạch say mê học kiếm thuật, trong một thời gian ngắn, tài múa kiếm và tài thơ của
ông được bộc lộ rõ rệt. 15 tuổi ơng đã có bài phú ngạo Tư Mã Tương Như, bài thơ gửi Hàn
Kinh Châu, khá nổi tiếng. Lúc 16 tuổi danh tiếng đã nổi khắp Tứ Xun, thì ơng lại phát
chán, bèn lên núi Đái Thiên Sơn học đạo, bắt đầu cuộc đời ẩn sĩ.



<b> Ngao du sơn thủy</b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(21)</span><div class='page_container' data-page=21>

Nham Tử, nhưng chỉ đi chung được 1 năm. Đến năm 20 tuổi Lý Bạch đã đi khắp nước
Thục, ông lại về Tứ Xuyên với gia đình, chuẩn bị tiền đi đường và tiền mua rượu cho cuộc
hành trình sắp tới. Ông đến làm dưới trướng của thứ sử Ích Châu Tô Dĩnh, được ông này
khen là thiên tài, "có thể sánh với Tư Mã Tương Như".


Năm 723, Lý Bạch mặc áo trắng, đeo một bầu rượu lớn, chống kiếm lên đường viễn du.
Trong khoảng ba năm, ông đã tham quan hầu hết cảnh đẹp Trung Hoa, như là hồ Động
Đình, sông Tương, Kim Lăng, Dương Châu, Ngô Việt, Giang Hạ...Đến năm 726, ông đến
Vân Mộng kết duyên cùng cháu gái của Hứa tướng công. Thời gian này tài năng thơ bắt
đầu nở rộ. Đến 30 tuổi thì tiếng tăm đã vang đến triều đình. Được mời đi làm quan, nhưng
ông không nhận.


Năm Khai Nguyên thứ 23 (735), ông đi chơi ở Thái Nguyên, gặp Quách Tử Nghi đang
ở tù, ông xin giúp, Quách liền được thả. Ông lại dẫn vợ rong chơi qua nước Tề, Lỗ, rồi định
cư ở Nhiệm Thành. Đến đây Lý Bạch lại được Khổng Sào Phủ, Hàn Chuẩn, Bùi Chính,
Đào Cái, Trương Thúc Minh - những ẩn sĩ đương thời - rủ lên núi Tồ Lai thưởng ngoạn, rồi
say sưa ở Trúc Khê. Nhóm này được người ta gọi là "Trúc Khê lục dật".


<b>Vào cung và bị gièm pha</b>


Năm 741, Lý Bạch lại một phen từ bỏ gia đình, vợ con, ông đến Hồ Nam rồi Giang Tô,
Sơn Đông... đi đến đâu danh tiếng lan ra đến đó.


Năm đầu niên hiệu Thiên Bảo (742), ông đến Cối Kê, cùng đạo sĩ Ngô Quân ở ẩn tại
Thiểm Trung. Sau đó cùng bạn về Trường An, ở đây ông gặp thái tử tân khách Hạ Tri
Chương, trở nên đơi bạn rượu-thơ thân thiết. Ơng được Hạ Tri Chương tiến cử lên vua
Đường Minh Hồng, vua Đường nghe danh đã lâu nên rất thích, vời vào điện Kim Loan


giao việc thảo thư từ, sau được phong làm Hàn Lâm, chuyên giữ việc mật. Được vua
Đường và Dương Quý Phi yêu thích. Tại đây, cùng với Hạ Tri Chương, Thôi Tông Chi,
Vương Tiến, Tơ Tần, Trương Húc, Tiêu Toại, Lý Thích Chi hợp thành nhóm "Tửu trung
bát tiên".


Đến năm 745, do lối sống của ông gàn dở bê bối, say xỉn suốt ngày, lại bị Dương
Quốc Trung gièm pha nên Dương Quý Phi cũng phát ghét, chỉ trích ln ln làm Đường
Minh Hồng khó xử.


Một bài thơ của Lý Bạch


</div>
<span class='text_page_counter'>(22)</span><div class='page_container' data-page=22>

<b>Rời cung, bị đày ải và qua đời</b>



Trong 10 năm kể từ lúc rời cung, Lý Bạch tha hồ uống rượu và đi chơi, ông từng qua
Triệu, Nguỵ, Tề, Tần, Lương, Tống, các vùng Bân, Kỳ, Thương, Ư, Lạc Dương, các sơng
Hồi, sơng Tứ... Do đi q nhiều nên ơng cũng quen biết và thân thiết với rất nhiều, trong
đó có Đỗ Phủ, Sầm Tham, Mạnh Hạo Nhiên, Cao Thích...


Năm Thiên Bảo thứ 13 (755), ông quen với Nguỵ Hạo ở Quảng Lăng, hai người cùng
xỗ tóc đi thuyền vào sơng Tần Hồi. Sau đó đến Tun Thành. Tháng 11 năm này có loạn
An Lộc Sơn, Lý Bạch liền về Lư Sơn, ở ẩn tại Bình phong điệp. Năm (56 tuổi), tiết độ sứ
Vĩnh Vương Lân đến tận núi mời ông về phủ. Lý Bạch đành phải đi theo. Đến khi Lân làm
phản bị bắt, Lý Bạch chạy trốn nhưng khơng thốt, lúc sắp bị tử hình có Tun đại sứ
Thơi Chi Hốn với ngự sử trung thừa Tống Nhược Tư đem giấu đi. Sang năm 757 bị triều
đình bắt lại, lúc này người từng được Lý Bạch cứu khi xưa là Vương Chi Hoán ra sức giải
oan, ông được giảm xuống tội đi đày.


Năm 758, trên đường đi đày ba vùng Dạ Lang, Động Đình, Tam Giáp, Lý Bạch được
tha, liền đi xuống phía đơng đến Hán Dương, tiếp tục cuộc ngao du đây đó, tuy nhiên tuổi
già, sức yếu, ông đành đến Đang Đồ, ở nhờ anh họ là Lý Dương Băng. Đến năm 762, vua


Đường Đại Tông lên ngôi, cho người mời Lý Bạch nhưng trên đường đi thì nghe tin ơng đã
qua đời rồi.


<b> Chuyện thi cử</b>



Năm Thiên Bảo đời Đường Huyền Tông (742), Lý Bạch đến Tràng An ứng thí, tình cờ
gặp Hạ Tri Chương (đang giữ chức Hàn Lâm), cả hai đều mê rượu, mê thơ nên trở thành
thân thiết.


Đề thi năm ấy là: "<i>Không mong văn chương hơn thiên hạ, chỉ cần văn chương đúng ý </i>
<i>quan chấm thi</i>". Khoa thi vừa xong, Hạ Tri Chương sợ Lý Bạch khơng có tiền đút lót sẽ bị
đánh rớt, liền gửi mộ lá thư giới thiệu cho giám khảo. Thư đến hai quan giám khảo là Cao
Lực Sĩ và Dương Quốc Trung, hai người này vốn khơng thích Hạ Tri Chương, nên càng
ghét Lý Bạch. Lúc chấm thi, thấy hai chữ Lý Bạch, Dương Quốc Trung liền phê: "Người
này dốt quá chỉ đáng mài mực cho bọn sĩ tử thôi". Cao Lực Sĩ phê hùa theo: "Có lẽ chưa
đáng mài mực, chỉ đáng cởi giày cho họ thôi". Rồi đánh hỏng vào bài thi của ông.


<b> Chuyện trong cung</b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(23)</span><div class='page_container' data-page=23>

Đến khi Vua sai viết thư trả lời bằng tiếng Phiên, Lý Bạch mặt đỏ, liểng xiểng đi đến
Cao Lực Sĩ, đưa chân cho y tháo giày, rồi ngoắc Dương Quốc Trung lại mài mực ông mới
chịu viết. Hai người này đành phải lúi húi làm theo.


Thời gian trong cung của Lý Bạch cũng có nhiều chuyện được chép lại, đại loại là về tài
thơ của Lý Bạch. Như việc Lý Bạch say rượu làm thơ thần tốc thì có rất nhiều. Ngoài ra
giai thoại sau đây rất nổi tiếng:


Thời Khai Nguyên, lúc hoa nở đẹp, vua Đường Minh Hoàng cùng Dương Quý Phi ra
ngắm hoa, sai nhạc đội ca hát. Lần này vua muốn có lời ca ngợi sắc đẹp của Dương Quý
Phi, liền vời Lý Bạch đương say rượu vào đặt cho. Lý Bạch đang say viết liền 3 bài Thanh


Bình điệu. Vua và Q Phi rất thích. Sau này Dương Quốc Trung, Cao Lực Sĩ, những
người từng bị Lý Bạch làm nhục gièm pha ông với Dương Quý Phi (em gái của Dương
Quốc Trung) về bài Thanh Bình Điệu, bài này có đoạn:


<i>Khả liên Phi Yến ỷ tân trang</i>


Hai người cho là Lý Bạch sánh ngang Quý Phi với Triệu Phi Yến, một hoàng hậu bị
thất sủng. Dương Quý Phi từ đó khơng ưa Lý Bạch, lại thêm Trương Ký ganh ghét gièm
pha, Lý Bạch phải cuốn gói khỏi triều đình.


<b> Cái chết</b>



Thời kỳ sau của Lý Bạch ít được chú ý, đến khi Đường Đại Tông - một người yêu thơ
Lý Bạch - lên ngơi thì ơng đã khơng cịn nữa rồi. Có người bảo ơng chết do bệnh, nhưng
trong dân gian còn lưu truyền một chuyện đẹp đẽ về cái chết của Lý Bạch:


Tại sông Thái Trạch, huyện Đang Đồ, trong một đêm rằm, Lý Bạch đang say xỉn trên
bờ sông, thấy trăng in đáy nước đẹp quá, liền nhảy xuống với bắt mà chết đuối. Nơi đó có
một cái đài, người sau đặt tên là Tróc nguyệt đài (Đài bắt trăng). Chuyện này được Đỗ Phủ,
Vương Định Bảo, Hồng Dung Trai ghi lại.


Có nhiều bằng chứng lịch sử nêu rằng Lý Bạch đã tự tử (bài thơ tuyệt mệnh của ông).


<b>Tác phẩm:</b>



Nhà thơ Bì Nhật Hưu thời vãn Đường nói rằng: "Từ khi nhà Đường dựng nghiệp đến
giờ, ngữ ngôn ra ngoài trời đất, tư tưởng vượt xa quỷ thần, đọc xong thì thần ruổi tám cực,
lường rồi thì lịng ơm bốn bể, lỗi lạc dị thường, khơng phải lời của thế gian, thì có thơ Lý
Bạch".



</div>
<span class='text_page_counter'>(24)</span><div class='page_container' data-page=24>

mất năm 762 thì người anh họ Lý Dương Lân thu thập lại, thấy chỉ cịn khơng tới 1/10 so
với người ta truyền tụng. Sang năm 1080, Sung Minh Chiu người Hàn Quốc mới gom góp
lại tập thơ Lý Bạch, gồm 1800 bài. Đến nay thì thơ Lý Bạch còn trên dưới 1000 bài, bài
nào cũng được đánh giá rất cao, nhưng nổi tiếng trong dân gian thì có: <i>Tương Tiến Tửu, </i>
<i>Hiệp khách hành, Thanh Bình Điệu, Hành lộ nan</i>...


Khác với Đỗ Phủ, thơ Lý Bạch thích viển vơng, phóng túng, ít đụng chạm đến thế sự
mà thường vấn vương hoài cổ (<i>Phù phong hào sĩ ca, Hiệp khách hành, Việt trung lãm </i>
<i>cổ</i>...), tả cảnh thiên nhiên tươi đẹp (<i>Cổ phong, Quan san nguyệt</i>...), cảm thông cho người
chinh phụ (<i>Trường can hành, Khuê tình, Tử dạ thu ca</i>...), về tình bạn hữu (<i>Tống hữu nhân, </i>
<i>Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng, Văn Vương Xương Linh thiên </i>
<i>Long Tiêu</i>...), tình trai gái (<i>Oán tình, Xuân tứ</i>...), nhớ quê hương (<i>Tĩnh dạ tứ, Ức Đông </i>
<i>Sơn</i>...). Nhưng nhiều nhất vẫn là về rượu (<i>Tương Tiến tửu, Bả tửu vấn nguyệt, 4 bài nguyệt </i>
<i>hạ độc chước, Xuân nhật độc chước, Đối tửu</i>...).


Lý Bạch làm thơ lối Cổ Phong rất được u thích, ngồi ra cịn có thơ tứ cú, bát cú.
Sau đây là những bài được truyền tụng:


<b>“Thi Thánh” Đỗ Phủ và bài thơ của ông</b>

<b> </b>



Trong lịch sử văn học Tung Quốc, mọi người thường nói đến “Lý Đỗ” là đại diện cao nhất về
thành tựu của thơ ca đời Đường (618-907). Trong đó “Lý” chỉ “Thi Tiên” Lý Bách nổi tiếng khắp
thế giới, “Đỗ” chỉ “Thi Thánh” Đỗ Phủ.


Đỗ Phủ sinh vào năm 712 công nguyên, là cháu của nhà thơ nổi tiếng Đỗ Thẩm Ngôn. Từ thuở
nhỏ Đỗ Phủ đã rất thơng minh, và chịu khó học tập, hơn nữa gia đình có bầu khơng khí văn hóa
nồng nàn, lúc 7 tuổi, ông đã biết viết thơ, sau khi trưởng thành ông thông thạo thư pháp, hội họa,
âm nhạc, cưỡi ngựa và chơi gươm. Lúc thanh niên, Đỗ Phủ cho rằng mình có tài ba lỗi lạc và chí
hướng to lớn, năm 19 tuổi, ơng bắt đầu vân du thiên hạ, sống cuộc sống lãng mạn, ăn chơi lơng
bơng. Qng thời gian đó chính là thời kỳ phồn vinh nhất của đời Đường, Đỗ Phủ thăm nhiều danh


lam thắng cảnh, kiến thức ngày càng rộng lớn, viết ra câu thơ nổi tiếng hàng nghìn năm là “Hội
đương lăng tuyệt đỉnh, nhất lãm chúng sơn tiểu”.


Giống như nhiều nhà văn khác, Đỗ Phủ cũng mong đi lên con đường làm quan, ông không
ngừng làm thơ tham gia hoạt động xã giao với quyền quý, tham gia thi khoa cử, nhưng bị thất bại
nhiều lần. Lúc trung niên, Đỗ Phủ sống cuộc sống nghèo khó ở Trường An, thủ đơ nhà Đường, ơng
tận mắt nhìn thấy tình hình kẻ quyền quý ăn chơi xa xỉ và cảnh thê thảm người nghèo chịu rét chết
đói trên đường phố, ông viết ra lời răn “Chu môn tửu nhục xú, lộ hữu đống tử cốt”. Trải qua sự ngã
lòng trầm luân trên con đường làm quan và cuộc sống đói rét khổ cực, Đỗ Phủ nhận thức sự hủ bại
của kẻ thống trị và nỗi đau khổ của nhân dân, khiến ông dần dần trở thành một nhà thơ lo việc nước
lo việc dân.


</div>
<span class='text_page_counter'>(25)</span><div class='page_container' data-page=25>

Năm 759 công nguyên, Đỗ Phủ thất vọng triệt để đối với chính trị, từ quan về vườn. Lúc bấy
giờ, Trường An đang bị hạn hán, Đỗ Phủ nghèo đến nỗi không thể sống nổi, bèn dẫn người nhà lưu
vong đến Thành Đô ở miền tây nam Trung Quốc. Được sự cứu tế của bạn bè, Đỗ Phủ sống cuộc
sống ở ẩn 4 năm. Trong tình hình nghèo khó, Đỗ Phủ viết ra bài thơ “Lều tranh bị cơn gió mùa thu
phá hoại”, miêu tả hoàn cảnh khốn khổ của cả gia đình, và từ từng trải thiết thân của mình nghĩ đến
cảnh ngộ của người khác, khát khao có hàng chục triệu căn nhà để giúp mọi người nghèo chịu rét
chịu đói trong thiên hạ được thốt khỏi nỗi đau khổ, thậm chí ơng muốn hy sinh cá nhân để đổi lấy
nụ cười của mọi người nghèo trong thiên hạ. Bài thơ có tình cảm sâu thẳm, thể hiện tinh thần cao cả
của nhà thơ.


Năm 770 công nguyên, Đỗ Phủ 59 tuổi mất trên đường lưu vong bởi bần cùng và bệnh tật. Đỗ
Phủ để lại hơn 1400 bài thơ, phản ánh sâu sắc, toàn diện diện mạo xã hội nhà Đường trong hơn 20
năm phiến loạn chiến tranh, từ thời kỳ phồn vinh đến thời kỳ suy sụp, áng văn hoành tráng như sử
thi. Thơ của Đỗ Phủ có kết cấu đa dạng, ơng học tập ưu điểm của người khác, dung hợp hình thức
kể chuyện, ký sự, trữ tình và bình luận, thơ có nội dung sâu rộng, tình cảm chân thành nồng nàn; về
mặt nghệ thuật, ơng khơng những thu góp lại cái hay của thơ ca cổ điển, mà còn sáng tạo và phát
triển, đã mở rộng lĩnh vực thơ ca về mặt nội dung và hình thức, ảnh hưởng sâu rộng tới đời sau.



<i>Bài thơ "Cảnh khuya" của Hồ Chí Minh</i>



Sau Nhật kí trong tù, những năm lãnh đạo cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp ở chiến
khu Việt Bắc là thời kì Hồ Chí Minh làm nhiều thơ hơn cả. Từ những bài thơ kháng chiến
của Người tốt lên tình cảm thiết tha đối với thiên nhiên đất nước mình, tinh thần trách
nhiệm lớn lao của vị lãnh tụ đang chèo chống con thuyền kháng chiến, toát lên phong thái
ung dung, lạc quan của một con người luôn vững tin ở tương lai.


<i>Tiếng suối trong như tiếng hát xa</i>
<i>Trăng lồng cổ thụ, bóng lồng hoa</i>
<i>Cảnh khuya như vẽ, người chưa ngủ</i>
<i>Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà</i>


(1947)


<i><b>Cảnh khuya</b></i> được sáng tác vào năm 1947 – năm đầu tiên Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Bộ
chỉ huy kháng chiến đóng ở chiến khu Việt Bắc. Như nơi hội tụ của nhiều vẻ đẹp khác
nhau, <i><b>Cảnh khuya</b></i> thể hiện sinh động quan điểm thẩm mĩ, nhân sinh cao đẹp, phong cách
nghệ thuật độc đáo của một chiến sĩ cách mạng vĩ đại đồng thời là một nhà thơ lớn.


<i>Tiếng suối trong như tiếng hát xa</i>
<i>Trăng lồng cổ thụ, bóng lồng hoa</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(26)</span><div class='page_container' data-page=26>

Việt Bắc vắng vẻ, huyền ảo bởi ánh trăng lồng cổ thụ, tiếng suối thanh trong như điệu nhạc
êm, hát mãi không ngừng. Câu thơ của Bác Hồ khiến ta nhớ lại <i><b>Côn Sơn ca</b></i> của Nguyễn
Trãi:


<i>Cơn Sơn có suối nước trong</i>


<i>Ta nghe suối chảy như cung đàn cầm</i>



Nguyễn Trãi ví tiếng suối như tiếng đàn, Bác ví tiếng suối với tiếng hát. Nguyễn Trãi tả
nước suối trong, còn Bác nghe <i><b>tiếng suối trong</b></i>. Người cảm nhận âm thanh chứ không tả
cảnh vật, tả màu sắc. Trong đêm khuya thanh vắng giữa chốn núi rừng, dễ nghe tiếng hát
trong trẻo của tiếng suối xa. Ngay câu mở đầu, <i><b>Cảnh khuya</b></i> đã đưa người đọc vào thế giới
thiên nhiên hiền hòa với cảm giác gắn bó.


Câu thứ hai của bài thơ thật giàu giá trị tạo hình, như một bức tranh phong cảnh đẹp, có
tầng lớp. Nhìn lên: vầng trăng cao lồng cổ thụ – nét họa có tính trang nghiêm, cổ điển.
Nhìn thấp xuống: bóng trăng và bóng cây cổ thụ lại in lồng trong hoa, trong những cây lá ở
dưới – nét bút nhỏ, tinh tế. Câu thơ vẽ ra một không gian ba tầng với những mảng màu đen
trắng lồng gắn lẫn nhau. Bởi tâm hồn Bác tinh tế, giàu chất thơ, mắt Bác quen nhìn các sự
vật, các hiện tượng trong mối quan hệ tự nhiên, biện chứng của chúng nên Người phát hiện
ra những vẻ đẹp độc đáo của thiên nhiên. Trong thơ, Bác không hay tả nhiều nhưng cảnh
vật hiện lên rất cụ thể, sinh động và phong phú. Đặc biệt, khơng chỉ riêng trong trường hợp
này, có nhiều khi một câu thơ của Người lại bao gồm nhiều sự vật trong mối quan hệ chặt
chẽ. Chẳng hạn, quan hệ quấn quýt, lồng gắn vào nhau:


<i>Vân ủng trùng sơn, sơn ủng vân</i>
<i>(Núi ấp ôm mây, mây ấp núi)</i>


<i>(<b>Mới ra tù, tập leo núi</b></i>)


<i>Tử hà, bạch tuyết bão thanh san</i>
<i> (Ráng đào, tuyết trắng ấp non lam)</i>


(<i><b>Trông Thiên Sơn</b></i><b>)</b>


Chẳng hạn, quan hệ tiếp nối theo thế chuyển động:



<i>Xuân giang xuân thủy tiếp xuân thiên</i>
<i>(Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân</i>)
(<i><b>Rằm tháng giêng</b></i>)


</div>
<span class='text_page_counter'>(27)</span><div class='page_container' data-page=27>

<i>(<b>Đi thuyền trên sông Đáy</b></i>)


Trở lại với <i><b>Cảnh khuya</b></i>. Hai câu đầu đã dẫn người đọc vào một thế giới thiên nhiên huyền
ảo, trong trẻo. Truyền thống “thi trung hữu họa”, “thi trung hữu nhạc” của phương Đông,
vẻ cô đúc cổ điển của thơ Đường được phát huy qua một tâm hồn nghệ sĩ lớn.


Sau hai câu dựng cảnh, tạo âm, câu thứ ba vừa như khắc đậm, gói lại phần trên, vừa như
mở chuyển cho phần kết:


<i>Cảnh khuya như vẽ, người chưa ngủ</i>


Cảnh đẹp tựa tranh vẽ thế kia, người làm sao nhắm mắt được! Người thao thức vì cảnh
chăng, vì sao người chưa ngủ được? Thật bất ngờ, Cảnh khuya kết thúc:


<i>Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà</i>


Thì ra cái nguyên nhân chủ yếu khiến “người chưa ngủ” không phải là “cảnh khuya như
vẽ” – câu thứ ba chưa phải chứa đựng mối quan hệ nhân quả chính – mà là “nỗi nước nhà”.
Câu chuyển này được chia thành hai vế: “Cảnh khuya như vẽ” là lời tổng kết cho phần trên,
còn “người chưa ngủ” là bản lề giữa hai phần của bài thơ, là kết quả từ hai phía ngun
nhân. Ba chữ đó nêu lên cái thực tế nhìn được để mở sâu vào cái hiện thực tâm trạng:


<i>Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(28)</span><div class='page_container' data-page=28>

Với Bác, yêu thiên nhiên cũng là yêu nước vì vầng trăng sáng, cây cỏ ấy, núi sông này là
một phần u q của thiên nhiên đất nước. Tình u nước bao la, ý chí chiến đấu vì nhân


dân, Tổ quốc khiến Người nhìn thiên nhiên đất nước thêm giàu thêm đẹp và ngược lại, lòng
yêu mến cảnh vật thiên nhiên đất nước là một động cơ thúc đẩy Người thêm lo “nỗi nước
nhà”. Từ đó, dẫn đến sự thống nhất một cách tất yếu giữa tình cảm đối với thiên nhiên và
trách nhiệm lịch sử – xã hội, một vẻ đẹp độc đáo của con người cách mạng ở thời đại mới.
Bài thơ tên đề <i><b>Cảnh khuya</b></i> nhưng lại nặng “nỗi nước nhà”, rất đậm tình. Chính cái tình đó
tăng thêm khơng khí thâm trầm, man mác của cảnh và làm nên sức ngân vang dẫu lời thơ
đã tận. Chúng ta càng hiểu vì sao ngay lúc mở đầu <i><b>Cảnh khuya</b></i> không họa vật, vẽ cảnh mà
tạo âm – “Tiếng suối trong như tiếng hát xa” ngân lên như khúc dạo đầu. Trong đêm khuya
thanh vắng chốn núi rừng Việt Bắc, cái dễ khiến “người chưa ngủ” cảm nhận và rung động
trước tiên là tiếng suối - âm thanh duy nhất trong không gian huyền ảo. Tiếng gọi của “nỗi
nước nhà” ln thao thức ở lịng Người đã bắt gặp tiếng suối trong như tiếng hát của rừng
núi thiên nhiên và hai âm thanh đó hịa hợp, ngân dài, vang sâu suốt cả bài thơ.


Rõ ràng là nhân sinh quan cách mạng đã làm đẹp tình yêu của người chiến sĩ. <i><b>Cảnh khuya</b></i>


đâu chỉ có chuyện cảnh mà chính là chuyện người. Bài thơ giúp ta khẳng định thêm đặc
điểm thiên nhiên trong thơ Hồ Chí Minh. Thiên nhiên ấy là biểu hiện đặc biệt của một tầm
nhìn, một quan niệm triết lí, nhân sinh tiến bộ và những cảm xúc thẩm mĩ cao đẹp.


<b>Lê Quang Hưng. </b><i>Đến với tác phẩm văn chương.</i> Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội - 2007


PGS.TS LêQuangHưng


<b>Xuân Quỳnh</b>



<b> Xuân Quỳnh (1942-1988), là một nhà thơ nữ Việt Nam. Bà được xem là nữ thi sĩ nổi </b>
tiếng với nhiều bài thơ tình được nhiều người biết đến như <i>Thuyền và Biển</i>, <i>Sóng</i>, <i>Thơ tình </i>
<i>cuối mùa thu</i>...


<b>Tiểu sử:</b>




Bà tên thật là Nguyễn Thị Xuân Quỳnh, sinh ngày 6 tháng 10 năm 1942 tại làng La
Khê, xã Văn Khê, thị xã Hà Đông, tỉnh Hà Đông (nay thuộc quận Hà Đông, Hà Nội). Nhà
thơ xuất thân trong một gia đình cơng chức, mồ cơi mẹ từ nhỏ, ở với bà nội. Tháng 2 năm
1955, Xuân Quỳnh được tuyển vào <i>Đồn Văn cơng nhân dân Trung ương</i> và được đào tạo
thành diễn viên múa.


</div>
<span class='text_page_counter'>(29)</span><div class='page_container' data-page=29>

làm việc tại báo <i>Văn nghệ</i>, báo <i>Phụ nữ Việt nam</i>. Xuân Quỳnh là hội viên từ năm 1967, ủy
viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam khoá III. Năm 1973, Xuân Quỳnh kết hôn với
nhà viết kịch, nhà thơ Lưu Quang Vũ, trước đó, Xuân Quỳnh kết hơn lần đầu tiên với một
nhạc cơng của <i>Đồn Văn công nhân dân Trung ương</i> và đã ly hôn. Từ năm 1978 đến lúc
mất Xuân Quỳnh làm biên tập viên Nhà xuất bản <i>Tác phẩm mới</i>.


Xuân Quỳnh mất ngày 29 tháng 8 năm 1988 trong một tai nạn giao thông tại đầu cầu
Phú Lương, thị xã Hải Dương (nay là thành phố), tỉnh Hải Dương cùng với chồng Lưu
Quang Vũ và con trai Lưu Quỳnh Thơ mới 13 tuổi.


Xuân Quỳnh được truy tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật năm 2001.


<b>Tác phẩm</b>



 <i>Tơ tằm - chồi biếc</i> (thơ, in chung)
 <i>Hoa dọc chiến hào</i> (thơ, in chung)
 <i>Gió Lào, cát trắng</i> (thơ, 1974)
 <i>Lời ru trên mặt đất</i> (thơ, 1978)
 <i>Sân ga chiều em đi</i> (thơ, 1984)
 <i>Tự hát</i> (thơ, 1984)


 <i>Hoa cỏ may</i> (thơ, 1989)



 <i>Thơ Xuân Quỳnh</i> (1992 , 1994)


 <i>Thơ tình Xuân Quỳnh - Lưu Quang Vũ</i> (1994)
 <i>Cây trong phố - Chờ trăng</i> (thơ, in chung)
 <i>Bầu trời trong quả trứng</i> (thơ thiếu nhi, 1982)
 <i>Truyện Lưu Nguyễn</i> (truyện thơ, 1985)


 <i>Mùa xuân trên cánh đồng</i> (truyện thiếu nhi - 1981)
 <i>Bến tàu trong thành phố</i> (truyện thiếu nhi, 1984)
 <i>Vẫn có ơng trăng khác</i> (truyện thiếu nhi, 1986)
 <i>Tuyển tập truyện thiếu nhi</i> (1995).


<i><b> Thành tựu nghệ thuật</b></i>



</div>
<span class='text_page_counter'>(30)</span><div class='page_container' data-page=30>

<i><b> Sự nghiệp văn chương của Thạch Lam</b></i>



Là thành viên của Tự Lực văn đoàn, nhưng khác với Nhất Linh, Hồng Đạo, Khái
Hưng...ngịi bút của Thạch Lam có khuynh hướng đi gần với cuộc sống của những người
dân bình thường nghèo khổ.


Nhận xét khái quát về sự nghiệp văn chương của ơng, <i>Từ điển bách khoa tồn thư </i>
<i>Việt Nam</i> có đoạn viết:


<i> Thạch Lam là một cây bút thiên về tình cảm, hay ghi lại cảm xúc của mình </i>
<i>trước số phận hẩm hiu của những người nghèo, nhất là những người phụ nữ trong </i>
<i>xã hội cũ, sống vất vả, thầm lặng, chịu đựng, giàu lịng hi sinh ("Cơ hàng xén"). Có </i>
<i>truyện miêu tả với lịng cảm thơng sâu sắc một gia đình đơng con, sống cơ cực </i>
<i>trong xóm chợ ("Nhà mẹ Lê"). Có truyện phân tích tỉ mỉ tâm lí phức tạp của con </i>
<i>người ("Sợi tóc"). "Ngày mới" đi sâu vào nội tâm của một cặp vợ chồng trí thức nghèo. </i>
<i>Chưa có truyện nào có ý nghĩa xã hội rõ nét như các tác phẩm của các nhà văn </i>


<i>hiện thực phê phán. "Theo giòng" là một thiên tiểu luận viết kiểu tuỳ bút, ghi lại suy </i>
<i>nghĩ của ông về nghệ thuật tiểu thuyết, có những ý kiến hay, nhưng chưa đi sâu vào</i>
<i>khía cạnh nào. Cuốn "Hà Nội ba sáu phố phường" có phong vị đậm đà của quê </i>
<i>hương xứ sở, lại rất gợi cảm. Văn Thạch Lam nhẹ nhàng, giàu chất thơ, sâu sắc, </i>
<i>thâm trầm, thường để lại một ấn tượng ngậm ngùi, thương xót.</i>


Trong "Lời nhà xuất bản Văn học" (khi in lại tác phẩm "Gió đầu mùa" năm 1982)
cũng có đoạn viết như sau:


<i> Giới thiệu tập truyện ngắn "Gió đầu mùa" xuất bản trước Cách mạng tháng </i>
<i>Tám, Thạch Lam viết: "Đối với tôi văn chương không phải là một cách đem đến cho </i>
<i>người đọc sự thoát ly trong sự quên, trái lại văn chương là một thứ khí giới thanh </i>
<i>cao và đắc lực mà chúng ta có, để vừa tố cáo và thay đổi một cái thế giới giả dối và</i>
<i>tàn ác, làm cho lòng người được thêm trong sạch và phong phú hơn".</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(31)</span><div class='page_container' data-page=31>

<i>quen thuộc trong buổi hồng hơn...Tất cả những cảnh, những người ấy đều được </i>
<i>mô tả bằng một số đường nét đơn sơ, thưa thoáng nhưng vẫn hết sức chân thực...</i>
<i>Tác phẩm của Thạch Lam vì thế có nhiều yếu tố hiện thực tuy nhân vật khơng dữ </i>
<i>dội như Chí Phèo, lão Hạc của Nam Cao, hay bị đày đọa như chị Dậu của Ngô Tất </i>
<i>Tố...Cái riêng, cái độc đáo, cái mạnh của Thạch Lam, chính là ở lịng nhân ái, và </i>
<i>vẻ đẹp tâm hồn quán xuyến trong mọi tác phẩm của ông. Nhân vật Thạch Lam, bất </i>
<i>luận ở hoàn cảnh nào, vẫn ánh lên trong tâm hồn cái chất nhân ái Việt Nam...Đọc </i>
<i>truyện ngắn Thạch Lam rõ ràng ta thấy yêu con người, quý trọng con người hơn. </i>
<i>Và cũng từ đó ta thương cảm, nâng niu, chắt gạn từng chút tốt đẹp trong mỗi một </i>
<i>con người.</i>


Trích thêm nhận xét của:


 Nhà văn Nguyễn Tn:



<i>Lời văn Thạch Lam nhiều hình ảnh, nhiều tìm tịi, có một cách điệu thanh thản, </i>
<i>bình dị và sâu sắc…Văn Thạch Lam đọng nhiều suy nghiệm, nó là cái kết tinh của </i>
<i>một tâm hồn nhạy cảm và tầng trải về sự đời. Thạch Lam có những nhận xét tinh tế </i>
<i>về cuộc sống hàng ngày. Xúc cảm của Thạch lam thường bắt nguồn và nảy nở lên </i>
<i>từ những chân cảm đối với tầng lớp dân nghèo thành thị và thôn quê. Thạch Lam là</i>
<i>nhà văn quý mến cuộc sống, trang trọng trước cuộc sống của mọi người chung </i>
<i>quanh. Ngày nay đọc lại Thạch lam, vẫn thấy đầy đủ cáo dư vị và cái nhã thú của </i>
<i>những tác phẩm có cốt cách và phẩm chất văn học...[10]</i>


 Nhà văn Vũ Ngọc Phan:


<i>Ngay trong tác phẩm đầu tay (Gió đầu mùa), người ta đã thấy Thạch Lam đứng </i>
<i>vào một phái riêng...Ơng có một ngịi bút lặng lẽ, điềm tĩnh vơ cùng, ngịi bút </i>
<i>chun tả tỷ mỷ những cái rất nhỏ và rất đẹp... Phải là người giàu tình cảm lắm </i>
<i>mới viết được như vậy....</i>


 GS. Phạm Thế Ngũ:


<i>Thạch Lam là một nhà văn có khuynh hướng xã hội...Đối với ông, nhân vật thường </i>
<i>là những người tầm thường trong xã hội: mẹ Lê trong xóm nghèo, cơ hàng xén ở </i>
<i>phố huyện, cậu học trị đi ở trọ, hai cơ gái giang hồ trơ trọi…Và ơng thường để ý </i>
<i>vạch vẽ cuộc đời, tình cảm cùng ý nghĩ của họ, chớ không bận tâm lắm đến việc </i>
<i>tuyên truyền tư tưởng cách mạng xã hội như trong các tác phẩm của Nhất Linh hay</i>
<i>Hoàng Đạo…Ta thấy Thạch Lam, ln hịa đồng trong cái xã hội nhỏ bé mà ơng </i>
<i>thương xót với tất cả tâm hồn đa cảm của ông..</i>


 GS. Phong Lê:


</div>
<span class='text_page_counter'>(32)</span><div class='page_container' data-page=32>

<i>Có lẽ cả hai phương diện, vừa tố cáo, vừa xây dựng, đều được Thạch Lam chú ý; </i>
<i>và trong phần thành cơng của nó, các dấu ấn hiện thực và lãng mạn trong văn </i>


<i>Thạch Lam đều tìm được sự gắn nối ở chính quan niệm này.</i>


<i>Ở tư cách nhà văn, Thạch Lam đòi hỏi rất cao phẩm chất trung thực của người </i>
<i>nghệ sĩ. Ông viết: "Sự thành thực chưa đủ cho nghệ thuật. Có thể, nhưng một nhà </i>
<i>văn không thành thực không bao giờ trở nên một nhà văn giá trị. Không phải cứ </i>
<i>thành thực là trở nên một nghệ sĩ. Nhưng một nghệ sĩ không thành thực chỉ là một </i>
<i>người thợ khéo tay thơi"</i>.*PGS. Nguyễn Hồnh Khung:


...<i>Tình cảm của Thạch Lam chân thành, tuy nhiên, ông chỉ mới băn khoăn, thương </i>
<i>cảm đối với số phận người nghèo qua những câu chuyện mang một dư vị ngậm </i>
<i>ngùi, tội nghiệp.</i>


<i>Về bút pháp, có thể nói Thạch Lam là nhà văn mở đầu cho một giọng điệu riêng: </i>
<i>trữ tình hướng nội trong truyện ngắn. Ngồi bút của ơng thường khơi sâu vào thế </i>
<i>giới bên trong của cái “tôi”, với sự phân tích cảm giác tinh tế.</i>


<i>Sáng tác của Thạch Lam giàu chất thơ, và đọc ơng, đời sống bên trong có phong </i>
<i>phú hơn, tế nhị hơn; chúng “đem đến cho người đọc một cái gì nhẹ nhõm, thơm tho</i>
<i>và mát dịu” (Nguyễn Tn).</i>


<i>Ơng là cây bút có biệt tài về truyện ngắn. Nhiều truyện ngắn của ông dường như </i>
<i>không có cốt truyện, song vẫn có sức lơi cuốn riêng. Truyện dài "Ngày mới" của ơng </i>
<i>khơng có gì đặc sắc về tư tưởng và nghệ thuật</i>


 Khúc Hà Linh (Hiệu trưởng Trường Văn hóa nghệ thuật Hải Dương):


<i>Thạch Lam có những tháng năm sống nơi thơn dã, nên trong tác phẩm ơng chất </i>
<i>chứa nhiều hình bóng con người và đời sống làng quê...Ông tả nội tâm nhân vật tài</i>
<i>tình, nhuần nhị, tinh tế. Văn ơng hài hịa giữa lãng mạn và chân thực, mà vẫn nồng </i>
<i>nàn tình q, nặng lịng với dân tộc.</i>



<i>Thạch Lam khơng chỉ nổi tiếng về truyện ngắn, ơng cịn thành cơng trong thể loại </i>
<i>bút ký. "Hà Nội băm mươi sáu phố phường" gồm nhiều mẩu văn ngắn mà sinh động, </i>
<i>thể hiện vốn sống phong phú và tài hoa của ông...</i>


Năm 1996, ở Cẩm Giàng có một con đường mang tên Thạch Lam. Đây là một việc làm
mạnh dạn, là cách trân trọng văn chương hiếm thấy tại thời điểm lịch sử lúc bấy giờ Hiện
nay, truyện ngắn "Hai đứa trẻ" (in trong tập truyện "Nắng trong vườn") của ông đang được
giảng dạy tại lớp 11 trong hệ thống giáo dục Việt Nam.


Tư liệu Văn học lớp 8



</div>
<span class='text_page_counter'>(33)</span><div class='page_container' data-page=33>

<i><b> “Hàng năm, cứ vào cuối thu, lá ngồi đường rụng nhiều và trên khơng có những </b></i>
<i><b>đám mây bàng bạc, lịng tơi lại nao nức những kỷ niệm mơn man của buổi tựu </b></i>
<i><b>trường…</b></i><b>”, những câu văn ấy của Thanh Tịnh đã xuất hiện trên văn đàn Việt Nam </b>
<b>hơn sáu mươi năm rồi! Thế nhưng “Tôi đi học” vẫn là một trong những áng văn gợi </b>
<b>cảm, trong trẻo đầy chất thơ của văn xuôi quốc ngữ Việt Nam. Không những thế, tác </b>
<b>phẩm còn in đậm dấu ấn của Thanh Tịnh – một phong cách trữ tình nhẹ nhàng, nhiều</b>
<b>mơ mộng và trong sáng. Dịng cảm xúc của nhân vật tơi trong truyện vẫn ắp đầy </b>
<b>trong tâm trí ta những nét thơ dại đáng yêu của trẻ thơ trong buổi đầu đến lớp. Trong</b>
<b>chúng ta ai cũng đã từng trải qua ngày tháng đầu tiên của tuổi học trò. </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(34)</span><div class='page_container' data-page=34>

<b>trọng, khiến tim như ngừng đập, quên cả sự hiện diện của người thân và “tự nhiên </b>
<b>giật mình và lúng túng” khi được gọi đến tên. Dẫu cho ơng đốc trường Mỹ Lí đã đón </b>
<b>các cậu bằng lời nói sẽ, bằng cặp mắt hiền từ và cảm động thì cũng khơng đủ giúp các </b>
<b>cậu vượt qua phút hồi hộp và căng thẳng. Đoạn văn tái hiện khơng khí ấy của Thanh </b>
<b>Tịnh cũng khơng giấu được nụ cười hóm hỉnh với kỷ niệm đầu đời đáng nhớ, sau lời </b>
<b>dặn của thầy đốc “các em đều nghe nhưng không em nào dám trả lời. Cũng may đã có</b>
<b>một tiếng dạ ran của phụ huynh đáp lại”. Những dịng cảm xúc khó diễn tả đã được </b>
<b>nhà văn thuật lại một cách sinh động khiến cho mỗi một ai khi đã lớn khôn hơn đọc </b>


<b>lại không khỏi bật cười trước những tiếng khóc của các cậu bé lần đầu tiên chính thức</b>
<b>khơng cịn được ở bên cạnh người thân, bước vào một nơi lạ lùng mới mẻ như trường </b>
<b>học: “Không giữ được chéo áo hay cánh tay người thân, vài ba cậu đã từ từ buớc lên </b>
<b>đứng dưới hiên lớp […]Một cậu đứng đầu ôm mặt khóc. Tôi bất giác quay lưng lại rồi</b>
<b>dúi đầu vào lịng mẹ tơi nức nở khóc theo. Tơi nghe sau lưng tơi, trong đám học trị </b>
<b>mới, vài tiếng thút thít đang ngập ngừng trong cổ”. Nhưng cũng rất nhanh chóng, nỡi </b>
<b>sợ hãi ban đầu qua đi khi cậu bé được chính thức bước vào trong lớp học. Cặp mắt tò </b>
<b>mò cảm nhận một thế giới mới mà cậu bé bây giờ thấy lạ lạ và hay hay, để rồi sau đó </b>
<b>tự nhiên lạm nhận là vật của riêng mình. Hố ra đi học cũng khơng đáng sợ để cho </b>
<b>cậu bé nhanh chóng ngi ngoai cảm giác chưa bao giờ tôi thấy xa mẹ tơi như lần này.</b>
<b>Trường làng Mỹ Lí cũng giống như đồng làng Lê Xá mà thơi, cũng có những người </b>
<b>bạn tí hon. Cảm giác rất tự nhiên ấy chính là vì cậu bé lại được hồ vào thế giới của </b>
<b>riêng những cậu học trị, vẫn được có những phút ước ao riêng tư với niềm vui thơ bé.</b>
<b>Đoạn văn kết lại tác phẩm thật đẹp trong hình ảnh liên tưởng : “</b><i><b>Một con chim con </b></i>
<i><b>liệng đến đứng bên bờ cửa sổ, hót mấy tiếng rụt rè rồi vỗ cánh bay cao</b></i><b>”. Cánh chim của</b>
<b>đồng nội đã đến với lớp học để làm sống lại kỷ niệm những hôm đi chơi suốt cả ngày, </b>
<b>để lại trở về bao hình ảnh quen thuộc của cánh đồng lúa hay</b> <b>bên bờ sơng Viêm. Con </b>
<b>chim con ấy cũng chính là hình ảnh cậu bé buổi đầu đến lớp rụt rè để một mai sẽ </b>
<b>được bay cao vào khung trời cao rộng. Nhưng trước mắt cậu bé giờ đây là phấn </b>
<b>trắng, bảng đen và nét chữ của thầy, để cậu lại nghiêm chỉnh lần đầu trong đời, thể </b>
<b>hiện tư cách cậu học trị ngoan: “Tơi vịng tay lên bàn chăm chỉ nhìn thầy viết và lẩm</b>
<b>nhẩm đánh vần đọc: Bài viết tập: Tôi đi học”. Một trang vở mới sẽ in những nét chữ </b>
<b>đầu tiên đầy hứa hẹn cho một tương lai đang mở ra với những bé thơ. Ta nhận ra </b>
<b>trong mỗi lời văn của Thanh Tịnh một sự trìu mến đặc biệt dành cho những suy nghĩ </b>
<b>và cảm xúc của nhân vật “tơi”. Bởi lẽ, đó chính là kỷ niệm đầu đời của nhà văn ,gắn </b>
<b>với thế giới học trò mở ra bao ước vọng. Giọng văn nhẹ nhàng, hình ảnh khắc họa cịn</b>
<b>tươi rói bao nhiêu ký ức đầu đời đã làm nên chất thơ lan tỏa trong toàn bộ truyện </b>
<b>ngắn. </b>


<b> Truyện ngắn Tơi đi học của Thanh Tịnh cịn đọng mãi trong ta kỷ niệm đầu đời </b>


<b>trong sáng hồn nhiên, ghi lại khoảnh khắc thật đẹp trong tâm hồn tuổi thơ. Những </b>
<b>trang văn tinh tế, giàu sức biểu cảm sẽ còn làm biết bao thế hệ học sinh xúc </b>


<b>động.T.H.N </b>


VĂN HÓA VĂN NGHỆ


</div>
<span class='text_page_counter'>(35)</span><div class='page_container' data-page=35>

Nguyên Hồng sinh ngày 5-11-1918, đến nay vừa tròn 90 mùa thu. Nguyên
Hồng là một nhà văn xuất sắc của dòng văn học hiện thực giai đoạn 1930 – 1945.
Ông là nhà văn của thợ thuyền lao khổ, ông đã thể hiện phẩm chất tốt đẹp, sức
sống, khát vọng của người lao động nước ta trong cuộc đời cũ, và sau Cách mạng
Tháng 8 Nguyên Hồng lại đi tiếp cuộc đời mới với nhiều tác phẩm có giá trị về đề
tài cơng nhân. Ơng được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh năm 1996.


Ngòi bút của Nguyên Hồng bênh vực người nghèo, những thân phận bất hạnh,
cô đơn, những con người yếu thế nhưng bao giờ cũng cố vươn lên đấu tranh để
bảo vệ nhân phẩm của mình. Như tự sự của nhà văn: “Năm ấy tôi 16 tuổi, hết hạn
tù, được tha. Mẹ tơi lên tận nhà giam đón tôi. Chúng tôi không về Nam Định – quê
hương – mà dắt nhau ra Hải Phòng… Ra Hải Phòng, chúng tôi càng khổ sở, trông
vào vài hào làm vốn buôn trầu cau, mẹ con tôi được bữa sớm mất bữa tối. Lắm
phen, luôn mấy hôm chỉ được bữa cháo lót lịng”.


Và thật cảm động, khi hoàn thành cuốn Bỉ vỏ, ông đã viết: “Thưa mẹ, người
mẹ hiền từ của con, con xin dâng Bỉ vỏ cho mẹ với tất cả tấm lịng kính mến trong
sạch của con và xin tặng nó cho bạn đọc với tất cả tình đằm thắm tươi sáng của
tôi”. Năm 1978, trong bài tựa cho Tuyển tập Nguyên Hồng xuất bản ở Nga,


Nguyễn Tuân viết: “Nguyên Hồng diễn tả người thành phố rất tài, nhất là các tầng
lớp dân nghèo, nhưng lại là người khơng thích chen vào chốn



phức tạp của phố phường. Ba chục năm nay, anh vẫn đóng ở quả
đồi vùng Đề Thám Bắc Giang, vừa viết vừa làm vườn, đánh gộc
rừng, bổ củi, quảy nước từ suối lên, quần quật cả ngày như
người nông dân”.


Lần nọ, nhà văn Pháp Pierre Abraham, chủ biên tờ tạp chí
văn học Châu Âu sang Hà Nội, nghỉ tại khách sạn Métropole
(khách sạn Thống Nhất). Nguyên Hồng đã tới phòng riêng để gặp
Pierre Abraham và trong cuộc nói chuyện đã đề cập đến nhà văn
Romain Rolland. Nhà văn Pháp khi về nước đã nói rằng ơng rất
q, rất thích Ngun Hồng, nhà văn đã đưa vào khách sạn “tất
cả phù sa quý giá của đồng ruộng ven sông Hồng”.


Trong những ngày Mỹ leo thang chiến tranh Hải Phịng lúc nào cũng có tàu
bè nhiều nước đến viện trợ cho ta. Nguyễn Tuân rủ tôi xuống Hải Phịng xem
khơng khí “bốn phương vơ sản” đến với ta để viết bài cho một tờ báo Mátxcơva.
Tơi đưa bác Nguyễn đến Hội Văn nghệ Hải Phịng gặp “thổ địa” Nguyên Hồng.
Nguyên Hồng bỏ hết công việc đưa chúng tôi xuống tàu Nga vừa từ Vladivostok
đến.


Bộ ba tiểu thuyết Núi rừng Yên Thế viết về cuộc khởi nghĩa của Hoàng Hoa
Thám vừa in xong tập 1 (1981), thì cái chết đến với Nguyên Hồng rất đột ngột năm
1982 – ông bị tai biến mạch máu não, không kịp trăn trối. Bản thảo tập 2 mãi đến
1993 mới ra mắt độc giả.


</div>
<span class='text_page_counter'>(36)</span><div class='page_container' data-page=36>

<i>Bến Nghé tháng 10-2008 </i>


<b>Ngô Tất Tố</b>



Ngô Tất Tố (1894 - 1954) là một nhà văn, nhà báo, nhà Nho học và nghiên cứu có


<b>ảnh hưởng ở Việt Nam giai đoạn trước 1954.</b>


<b>Xuất thân</b>


Ngô Tất Tố sinh năm 1893 ở làng Lộc Hà, tổng Hội Phụ, phủ Từ Sơn, Bắc Ninh (nay
là thôn Lộc Hà, xã Mai Lâm, huyện Đơng Anh, Hà Nội). Ơng là con thứ hai, nhưng là
trưởng nam trong một gia đình có bảy anh chị em, ba trai, bốn gái. Lúc còn nhỏ Ngô Tất
Tố được thụ hưởng một nền giáo dục Nho học. Từ năm 1898, Ngô Tất Tố được ông nội
dạy vỡ lòng chữ Hán ở quê, sau đó ơng theo học ở nhiều làng q trong vùng. Năm 1912,
Ngô Tất Tố học tư chữ Pháp một thời gian ngắn và bắt đầu tham dự các kỳ thi truyền thống
lúc bấy giờ vẫn cịn được triều đình nhà Nguyễn tổ chức. Ông đỗ kỳ sát hạch, nhưng thi
hương bị hỏng ở kỳ đệ nhất. Đến năm 1915, ơng đỗ đầu kỳ khảo hạch tồn tỉnh Bắc Ninh,
nên được gọi là đầu xứ Tố, rồi thi hương lần thứ hai, khoa Ất Mão, cũng là khoa thi hương
cuối cùng ở Bắc Kì. Ơng qua được kỳ đệ nhất, nhưng bị hỏng ở kỳ đệ nhị.3


<b> Viết văn, làm báo</b>


Năm 1926, Ngô Tất Tố ra Hà Nội làm báo. Ơng viết cho tờ <i>An Nam tạp chí</i>. Nhưng
vì thiếu tiền, tờ báo này phải tự đình bản, Ngô Tất Tố cùng với Tản Đà đã vào Sài Gịn.
Mặc dù khơng thật sự thành cơng trong cuộc thử sức ở Nam Kì, nhưng tại đây, Ngơ Tất Tố
đã có cơ hội tiếp cận với tri thức và văn hóa thế giới ở vùng đất khi đó là thuộc địa chính
thức của Pháp cũng như theo đuổi nghề báo để chuẩn bị sau này trở thành một nhà báo
chuyên nghiệp. Trong thời kỳ này, ông viết với các bút danh Bắc Hà, Thiết Khẩu Nhi, Lộc
Hà, Tân Thôn Dân


Sau gần ba năm ở Sài Gịn, Ngơ Tất Tố trở ra Hà Nội. Ông tiếp tục sinh sống bằng
cách viết bài cho các báo: <i>An Nam tạp chí</i>, <i>Thần chung</i>, <i>Phổ thơng</i>, <i>Đơng Dương</i>, <i>Hải </i>
<i>Phịng tuần báo</i>, <i>Thực nghiệp</i>, <i>Con ong</i>, <i>Việt nữ</i>, <i>Tiểu thuyết thứ ba</i>, <i>Tương lai</i>, <i>Công dân</i>,


</div>
<span class='text_page_counter'>(37)</span><div class='page_container' data-page=37>

<b> Sau Cách mạng tháng Tám</b>



Năm 1945, khi Cách mạng tháng Tám nổ ra, Ngô Tất Tố tham gia vào ủy ban giải
phóng ở xã Lộc Hà quê ông. Ngô Tất Tố là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, nhưng
chưa rõ ông gia nhập đảng năm nào. Năm 1946, Ông gia nhập Hội văn hóa cứu quốc và lên
Việt Bắc tham gia kháng chiến chống Pháp. Thời gian này, Ngô Tất Tố đảm nhiệm cương
vị Chi hội trưởng chi hội văn nghệ Việt Bắc, hoạt động ở Sở thông tin khu XII, tham gia
viết các báo <i>Cứu quốc khu XII</i>, <i>Thơng tin khu XII</i>, tạp chí <i>Văn nghệ</i>, báo <i>Cứu quốc trung </i>
<i>ương</i>... Ngồi ra, ơng cịn viết văn. Ngơ Tất Tố được bầu vào vị trí ủy viên Ban chấp hành
Hội văn nghệ Việt Nam tại đại hội Văn nghệ toàn quốc lần thứ nhất (1948).


Ông qua đời ngày 20 tháng 4 năm 1954 tại Yên Thế, Bắc Giang. Không rõ Ngô Tất Tố
có bao nhiêu người con, nhưng ơng có bốn con trai đã trưởng thành là Ngô Mạnh Duẩn,
Ngơ Thúc Liêu (liệt sĩ), Ngơ Hồnh Trù (kĩ sư chế tạo máy), Ngô Hải Cao (liệt sĩ) và ba
ngươi con gái là Ngô Thị Khiết, Ngô Thị Miễn và Ngô Thanh Lịch (đại biểu quốc hội).
Chồng bà Lịch, tiến sĩ Cao Đắc Điểm là một nhà nghiên cứu khá tích cực về Ngơ Tất Tố. [2]

<i><b>Văn nghiệp</b></i>



<b>Nhà văn</b>
<b> Nhà báo</b>


Ngô Tất Tố khơng chỉ là nhà văn mà cịn là một nhà báo nổi tiếng. Các tác giả nghiên
cứu <i>Di sản báo chí Ngơ Tất Tố - ý nghĩa lý luận và thực tiễn đối với sự nghiệp phát triển </i>
<i>báo chí thủ đơ</i> do Hội nhà báo thành phố Hà Nội thực hiện năm 2004 với người đứng đầu
là giáo sư, nhà phê bình văn học Phan Cự Đệ cho biết họ tìm thấy 1.350 tác phẩm (gần
4.500 trang) đã đăng báo của Ngô Tất Tố với 26 bút danh khác nhau. Năm 2005, tại hội
thảo <i>Những phát hiện mới về thân thế và tư cách nhà văn hóa của Ngơ Tất Tố</i>, một thống
kê khác được công bố cho biết trong 28 năm làm báo, Ngô Tất Tố đã viết gần 1.500 bài
(mới tìm thấy 1.360 bài) cho 27 tờ báo và tạp chí với 29 bút danh.


Ngơ Tất Tố viết nhiều thể loại báo chí, trong đó tiểu phẩm và phóng sự là hai thể loại


đã giúp ơng thành danh. Ơng cịn phụ trách nhiều chuyên mục của nhiều tờ báo hàng ngày
và hàng tuần. Nhà văn, nhà báo kỳ cựu Vũ Bằng, trong <i>Mười bốn gương mặt nhà văn đồng</i>
<i>nghiệp</i> (Nhà xuất bản Hội nhà văn, Hà Nội, 2004), từng khẳng định "Ngô Tất Tố là một
huấn luyện viên của tôi trong nghề báo". Di sản báo chí của Ngơ Tất Tố trở thành những tư
liệu phong phú, chi tiết, phản ánh toán diện và trung thực xã hội Việt Nam nửa đầu thế kỷ
XX.


</div>
<span class='text_page_counter'>(38)</span><div class='page_container' data-page=38>

<b> Nhà nghiên cứu</b>


<i><b> Phong cách</b></i>



<b> Chủ nghĩa hiện thực về người nông dân</b>


Ngô Tất Tố được coi là nhà văn hàng đầu của trào lưu hiện thực phê phán ở Việt Nam
trước 1945 với các tác phẩm tiêu biểu như <i>Tắt đèn</i>, <i>Việc làng</i>, <i>Tập án cái đình</i>.


Nhà văn Vũ Trọng Phụng (1912-1939) từng khen ngợi <i>Tắt đèn</i> là "một tiểu thuyết có
luận đề xã hội hồn tồn phụng sự dân q, một áng văn có thể gọi là kiệt tác, tùng lai chưa
từng thấy". Phong Lê, trên <i>Tạp chí Sơng Hương</i> tháng 12 năm 2003, gọi những tác phẩm
viết về nông thôn của Ngô Tất Tố là "một nhận thức toàn diện và sâu sắc, đầy trăn trở và
xúc động về cảnh ngộ và số phận người nông dân Việt Nam" đạt đến "sự xúc động sâu xa
và bền vững"


Ấn tượng bao trùm về <i>Tắt đèn</i> là một bức tranh đời sống sắc sảo, góc cạnh và chi tiết
trên tất cả mọi chân dung và đối thoại, không trừ ai, trong số mấy chục nhân vật có tên
hoặc khơng tên, xoay quanh một hình tượng trung tâm là chị Dậu. Nhịp điệu của <i>Tắt đèn</i> là
một hơi văn mạnh mẽ và rắn rỏi từ đầu đến cuối.


Từ một góc nhìn khác, nhà phê bình văn học Vương Trí Nhàn, trong bài <i>Ngơ Tất Tố </i>
<i>và một cách thích ứng trước thời cuộc</i> trích từ cuốn <i>Nhà văn tiền chiến và q trình hiện </i>


<i>đại hóa</i> (Nhà xuất bản Đại học quốc gia Hà Nội, 2005), viết <i>Tắt đèn</i> là một thiên tiểu
thuyết "rất xúc động" khiến người đọc có thể "nhiều phen ứa nước mắt".


Cịn thiên phóng sự <i>Việc làng</i> được coi là một trong những tác phẩm báo chí tồn diện
và chi tiết nhất về bộ mặt nông thôn Việt Nam trước năm 1945. Phong Lê, trong bài đã dẫn,
cho rằng <i>Việc làng</i> phản ánh "tận chiều sâu những cội rễ của cả hai mặt phong tục và hủ
tục, nó tồn tại dai dẳng đến thế, không chỉ đến thời Ngô Tất Tố viết <i>Việc làng</i>, mà cả cho
đến hôm nay


<b> Nhà văn giao thời</b>


Ngô Tất Tố là một nhà nho lão thành, thấm sâu nền văn hóa cũ, từng mang lều chõng đi
thi, từng đỗ đạt. Trong hồi ký <i>Bốn mươi năm nói láo</i>, nhà văn Vũ Bằng (1913-1984), có
thời gian cùng làm việc với Ngơ Tất Tố, từng kể lại là ở ơng có chất thầy đồ cổ lỗ đến như
thế nào. Tuy nhiên, Ngơ Tất Tố khơng hồn tồn là một người lạc hậu, nhất là trong những
tác phẩm của ông. Nhà phê bình Vương Trí Nhàn nhận xét: "Trong khi về mặt tính cách,
người ta thấy Ngơ Tất Tố gắn liền với lớp người trưởng thành từ đầu thế kỷ (thế kỷ 20)
(những Phan Kế Bính, Nguyễn Trọng Thuật, Phạm Duy Tốn...) thì tác phẩm của ơng lại
thường được xếp cạnh tác phẩm Nguyễn Công Hoan, Thạch Lam, Vũ Trọng Phụng nghĩa
là thuộc về một giai đoạn chín đẹp của thế kỷ này, những năm 30 huy hoàng".[6]


</div>
<span class='text_page_counter'>(39)</span><div class='page_container' data-page=39>

xuất bản thành sách năm 1941. <i>Lều chõng</i> ra đời trong bối cảnh đang dấy lên phong trào
phục cổ, kêu gọi trở lại với nền văn hóa giáo dục cũ, những giá trị tinh thần và tôn ti trật tự
của giáo lý Khổng Mạnh, những tập tục cũ ở nông thôn, trên quan trường và ở các gia đình
phong kiến.


<i> Lều chõng</i> ghi lại một thiên phóng sự tiểu thuyết về chế độ giáo dục và khoa cử phong
kiến trong những ngày cuối cùng, dưới triều Nguyễn, miêu tả tấn bi kịch của những nhà
nho có tài trong xã hội phong kiến và được coi là lời chỉ trích sâu sắc những tồn tại của nền
văn hóa cũ. Trong lời giới thiệu <i>Lều chõng</i> (nhà xuất bản Văn học, 2002), có đoạn: "Tác


phẩm của Ngơ tất Tố như một lời cải chính, hơn thế, một bản tố cáo chế độ khoa cử lỗi thời
và thấp thoáng sau mỗi chương, mỗi hàng chữ là một nụ cười chế giễu, có khi là tiếng cười
ra nước mắt".


Tuy nhiên, <i>Lều chõng</i> không chỉ mang ý nghĩa phê phán. Vương Trí Nhàn nhận xét:
"Mặc dù sự khn phép trong thi cử được miêu tả trong <i>Lều chõng</i> như một cái gì cực kỳ
vơ lý, song trong cái khung tưởng rất chật hẹp đó, nhân vật Đào Vân Hạc... vẫn thanh thoát
tự do trong cách sống", cho thấy "cái nhìn lưu luyến với q khứ" của chính Ngơ Tất Tố.
Hơn thế, đó khơng phải chì là sự tiếc thương xồng xĩnh, nó cho thấy "sự cắt đứt của Ngô
Tất Tố, mà cũng là của nhiều người đương thời, với q khứ, sự thích ứng với hồn cảnh
mới, nền văn hoá mới, là quyết liệt, song cũng là có tình có lý đến như thế nào".[7]


Sự thích ứng của Ngô Tất Tố đã mang đến những kết quả rõ rệt trên con đường văn
nghiệp của ông. Nhà phê bình Vũ Ngọc Phan nhận xét về sự thay đổi ở Ngô Tất Tố: "ông
vào số những nhà Hán học đã chịu ảnh hưởng văn học Âu Tây và được người ta kể vào
hạng nhà nho có óc phê bình, có trí xét đốn có tư tưởng mới" (<i>Nhà văn hiện đại</i>). Tóm lại,
qua những trang viết của mình, Ngơ Tất Tố cho thấy ơng là đại diện tiêu biểu cho những
thay đổi của một lớp người trí thức trong giai đoạn giao thời, sự dung hịa tương thích giữa
nền văn hóa mới và cũ.


<b>Nam Cao</b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(40)</span><div class='page_container' data-page=40>

<b>đã vượt qua được những thử thách khắc nghiệt của thời gian, càng thử thách lại càng </b>
<b>ngời sáng. Thời gian càng lùi xa, tác phẩm của </b><i><b>Nam Cao</b></i><b> càng bộc lộ ý nghĩa hiện thực</b>
<b>sâu sắc, tư tưởng nhân đạo cao cả và vẻ đẹp nghệ thuật điêu luyện, độc đáo. Ơng có </b>
<b>nhiều đóng góp quan trọng đối với việc hoàn thiện truyện ngắn và tiểu thuyết Việt </b>
<b>Nam ở nửa đầu thế kỷ 20.</b>


<b>Tiểu sử</b>




<b> Thời niên thiếu</b>



<b>Nam Cao tên thật Trần Hữu Tri giấy khai sinh ghi ngày 29 tháng 10 năm 1917, nhưng </b>
theo người em ruột của ông là Trần Hữu Đạt thì ơng sinh năm 1915[<i>cần dẫn nguồn</i>]<sub>. Q ơng tại </sub>
làng Đại Hoàng, tổng Cao Đà, huyện Nam Sang, tỉnh Hà Nam - nay là xã Hòa Hậu, huyện
Lý Nhân, Hà Nam. Ông đã ghép hai chữ của tên tổng và huyện làm bút danh: Nam Cao.[1]
Xuất thân từ một gia đình bậc trung Cơng giáo, cha Nam Cao là ông Trần Hữu Huệ, thợ
mộc, làm thuốc, mẹ là bà Trần Thị Minh làm vườn, làm ruộng và dệt vải. Nam Cao học sơ
học ở trường làng. Đến cấp tiểu học và bậc trung học, gia đình gửi ơng xuống Nam Định
học ở trường Cửa Bắc rồi trường Thành Chung. Nhưng vì thể chất yếu, chưa kịp thi Thành
Chung ông đã phải về nhà chữa bệnh, rồi cưới vợ năm 18 tuổi.


Nam Cao từng làm nhiều nghề, chật vật kiếm sống và đến với văn chương đầu tiên vì mục
đích mưu sinh. Năm 18 tuổi vào Sài Gịn, ơng nhận làm thư ký cho một hiệu may, bắt đầu
viết các truyện ngắn <i>Cảnh cuối cùng</i>, <i>Hai cái xác</i>. Ông gửi in trên <i>Tiểu thuyết thứ bảy</i>, trên
báo <i>Ích Hữu</i> các truyện ngắn <i>Nghèo</i>, <i>Đui mù</i>, <i>Những cánh hoa tàn</i>, <i>Một bà hào hiệp</i> với
bút danh Thúy Rư. Có thể nói, các sáng tác "tìm đường" của Nam Cao thời kỳ đầu còn
chịu ảnh hưởng của trào lưu văn học lãng mạn đương thời.


Trở ra Bắc, sau khi tự học lại để thi lấy bằng Thành chung, Nam Cao dạy học ở Trường tư
thục Công Thành, trên đường Thụy Khuê, Hà Nội. Ông đưa in truyện ngắn <i>Cái chết của </i>
<i>con Mực</i> trên báo <i>Hà Nội tân văn</i> và in thơ cùng trên báo này với các bút danh Xuân Du,
<b>Nguyệt.</b>


<b> Đến với con đường văn học</b>



Năm 1941, tập truyện đầu tay <i>Đôi lứa xứng đôi</i>, tên trong bản thảo là <i>Cái lò gạch cũ</i>, với
bút danh Nam Cao do NXB Đời mới Hà Nội ấn hành được đón nhận như là một hiện tượng
văn học thời đó. Sau này khi in lại, Nam Cao đã đổi tên là <i>Chí Phèo</i>. Phát xít Nhật vào
Đơng Dương, trường bị trưng dụng, Nam Cao thôi dạy học.



</div>
<span class='text_page_counter'>(41)</span><div class='page_container' data-page=41>

Năm 1945, Cách mạng tháng Tám thành công. Nam Cao tham gia cướp chính quyền ở phủ
Lý Nhân, rồi ơng được cử làm Chủ tịch xã của chính quyền mới ở địa phương[<i>cần dẫn nguồn</i>]<sub>. </sub>
Ông cho in truyện ngắn <i>Mị sâm banh</i> trên tạp chí <i>Tiên Phong</i>.


Năm 1946, Nam Cao ra Hà Nội hoạt động trong Hội Văn hóa Cứu quốc. Tiếp đó, ơng vào
miền Nam với tư cách phóng viên. Tại Nam Bộ, Nam Cao viết và gửi in truyện ngắn <i>Nỗi </i>
<i>truân chuyên của khách má hồng</i> trên tạp chí <i>Tiên Phong</i>, in tập truyện ngắn <i>Cười</i> ở NXB
Minh Đức, in lại tập truyện ngắn <i>Chí Phèo</i>. Ra Bắc, Nam Cao nhận cơng tác ở Ty Văn hóa
Hà Nam, làm báo <i>Giữ nước</i> và <i>Cờ chiến thắng</i> của tỉnh này. Mùa thu năm 1947, Nam Cao
lên Việt Bắc. Ông là thư ký tòa soạn báo <i>Cứu quốc</i> Việt Bắc, viết <i>Nhật ký ở rừng</i>. Tại chiến
khu, năm 1948 Nam Cao gia nhập Đảng cộng sản Việt Nam.


Năm 1950 Nam Cao chuyển sang làm việc ở Hội Văn nghệ Việt Nam, làm việc trong tồ
soạn tạp chí <i>Văn nghệ</i>. Tháng 6, ông thuyết trình về vấn đề ruộng đất trong hội nghị học tập
của văn nghệ sỹ, sau đó ơng được cử làm Ủy viên tiểu ban văn nghệ của Trung ương Đảng.
Trong năm đó, ơng tham gia chiến dịch biên giới.


Tháng 5 1951, Nam Cao và Nguyễn Huy Tưởng về dự Hội nghị văn nghệ Liên khu 3, sau
đó hai nhà văn cùng vào công tác khu 4. Nam Cao trở ra tham gia đồn cơng tác thuế nơng
nghiệp, vào vùng địch hậu khu 3. Ơng có ý định kết hợp lấy thêm tài liệu cho cuốn tiểu
thuyết sẽ hoàn thành.


Hy sinh ngày 30 tháng 11 năm 1951, tại Hồng Đan (Ninh Bình) do bị qn Pháp xử bắn.
Năm 1956, tiểu thuyết <i>Sống mòn</i> của ơng được xuất bản lần đầu


Ơng có một vợ và năm người con, trong đó một người đã mất trong nạn đói năm 1945.
Đầu năm 1996, một chương trình mang tên "Tìm lại Nam Cao" được Hiệp hội Câu lạc bộ
UNESSCO Việt Nam tổ chức với quy mô chưa từng có gồm 35 đơn vị tham gia như Bộ
Lao động Thương binh - Xã hội, Hội Nhà văn Việt Nam, Báo Nhân dân... Điều đặc biệt là


trong đó có sự góp mặt của 7 nhà ngoại cảm mà Liên hiệp khoa học công nghệ tin học ứng
dụng (UIA) đã đứng ra mời họ tham gia chương trình "Tìm lại Nam Cao". Kết quả sau gần
nửa thế kỷ nằm hiu quạnh trong nấm mồ vô danh, cuối cùng Nam Cao đã về yên nghỉ vĩnh
hằng nơi quê nhà (xã Hoà Hậu, Lý Nhân, Hà Nam)


Một <i>Nhà tưởng niệm Nam Cao</i> cũng đã được thành lập từ ngày 30 tháng 11 năm 2004 tại
Hà Nam, để tưởng niệm nhà văn


<i><b>Quan điểm nghệ thuật</b></i>



 Trong cuộc đời cầm bút, Nam Cao luôn suy nghĩ về vấn đề <i>Sống và Viết</i>, rất có ý


thức về quan điểm nghệ thuật của mình. Có thể nói,nhắc đến Nam Cao là nhắc đến
chủ nghĩa hiện thực trong Văn học Việt Nam từ 1930 đến 1945,đấy mới thực sự tự
giác đầy đủ về những nguyên tắc sáng tác của ông.


 Thời gian đầu lúc mới cầm bút, chịu ảnh hưởng của văn học lãng mạn đương thời.


</div>
<span class='text_page_counter'>(42)</span><div class='page_container' data-page=42>

động; chính vì vậy, Ơng đã đoạn tuyệt với nó và tìm đến con đường nghệ thuật hiện
thực chủ nghĩa. Tác phẩm <i>Giăng sáng</i> (1942); phê phán thứ văn chương thi vị hóa
cuộc sống đen tối, bất cơng – Đó là thứ "<i>Ánh trăng lừa dối</i>". Nam Cao nhận thức
nghệ thuật phải gắn bó với đời sống, nhìn thẳng vào sự thật "<i>tàn nhẫn</i>", phải nói lên
nỗi khốn khổ, cùng quẫn của nhân dân và vì họ mà lên tiếng.


 <i>Đời thừa</i> (1943); khẳng định phải vượt lên trên tất cả các bờ cõi và giới hạn, phải là


một tác phẩm chung cho cả lồi người. Nó phải chứa đựng được một cái gì lớn lao,
mạnh mẽ, vừa đau đớn, lại vừa phấn khởi; ca tụng tình u , bác ái, cơng bằng. Và
"<i>Văn chương không cần đến sự khéo tay, làm theo một cái khuôn mẫu. Văn chương</i>
<i>chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tịi, khơi những nguồn chưa ai </i>


<i>khơi và sáng tạo ra cái gì chưa có</i>". Ơng địi hỏi nhà văn phải có lương tâm, có
nhân cách xứng với nghề; và cho rằng sự cẩu thả trong văn chương chẳng những là


<i>bất lương</i> mà còn là <i>đê tiện</i>.


 Sau 1945, tham gia kháng chiến chống Pháp, sẵn sàng hy sinh thứ <i>nghệ thuật cao </i>


<i>siêu</i> với ý nghĩ: lợi ích dân tộc là trên hết. Nhật ký <i>Ở rừng</i> (1948) - là tác phẩm có
giá trị của văn xi thời kỳ đầu kháng chiến chống Pháp, thể hiện quan niệm "<i>sống </i>
<i>đã rồi hãy viết</i>" và "<i>góp sức vào cơng việc khơng nghệ thuật lúc này là chính để </i>
<i>sửa soạn cho tơi một nghệ thuật cao hơn</i>".


<i><b>Các đề tài chính</b></i>



<b>trước cách mạng tháng 8</b>


1. <b>Người Trí thức nghèo; </b><i>Nam Cao</i> miêu tả sâu sắc tấn bi kịch tinh thần của người trí
thức nghèo trong xã hội đương thời trước 1945, những "<i>giáo khổ trường tư</i>", những
nhà văn nghèo, viên chức nhỏ - Đó là những trí thức có ý thức sâu sắc về giá trị sự
sống và nhân phẩm, có hồi bão, tâm huyết và tài năng, muốn xây dựng một sự
nghiệp tinh thần cao quý; nhưng lại bị gánh nặng áo cơm và hoàn cảnh xã hội ngột
ngạt làm cho "<i>chết mòn</i>", phải sống như "<i>một kẻ vơ ích, một người thừa</i>". Phê phán
sâu sắc xã hội ngột ngạt, phi nhân đạo bóp ngẹt sự sống, tàn phá tâm hồn con người,
đồng thời nói lên khao khát một lẽ sống lớn, có ích, có ý nghĩa, xứng đáng là cuộc
sống con người.


2. <b>Người nông dân nghèo; Nhà văn dựng lên một bức tranh chân thực về nơng thơn </b>
Việt Nam trước 1945 nghèo đói, xơ xác trên con đường phá sản, bần cùng, hết sức
thê thảm; càng hiền lành, càng nhẫn nhục thì càng bị chà đạp, hắt hủi, bất công,
lăng nhục tàn nhẫn; người nông dân bị đẩy vào con đường tha hóa, lưu manh hóa.



<i>Nam Cao</i> khơng hề bơi nhọ người nông dân, trái lại, đã đi sâu vào nội tâm nhân vật
để khẳng định nhân phẩm và bản chất lương thiện ngay cả khi bị vùi dập, cướp mất
cà nhân hình, nhân tính của người nơng dân; Kết án đanh thép cái xã hội tàn bạo đó
trước 1945.


<b>sau cách mạng tháng 8</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(43)</span><div class='page_container' data-page=43>

2. sau cách mạng tháng 8 nhà văn tích cực tham gia vào kháng chiến có sự thay đổi
trong quan niệm nghệ thuật và nhìn nhận hướng đi mới cho nhân vật[<i>cần dẫn nguồn</i>]
3. những tác phẩm văn chương của Nam Cao đã trở thành những tuyên ngôn nghệ


thuật cho giới nghệ sĩ đương thời [<i>cần dẫn nguồn</i>]


4. "Trăng sáng" là một tuyên ngôn nghệ thuật của Nam Cao " Chao ôi! Chao ôi! Nghệ
thuật không cần là ánh là ánh trăng lừa dối,nghệ thuật không nên là ánh trăng lừa
dối, nghệ thuật có thế chỉ là tiếng đau khổ kia, thoát ra từ những kiếp lầm than.


<i><b>Phong cách nghệ thuật</b></i>



 Đề cao con người tư tưởng, đặc biệt chú ý tới hoạt động bên trong của con người,


coi đó là nguyên nhân của những hoạt động bên ngoài – Đây là phong cách rất độc
đáo của <i>Nam Cao</i>. Quan tâm tới đời sống tinh thần của con người, luôn hứng thú
khám phá "<i>con người trong con người</i>".


 Tâm lý nhân vật trở thành trung tâm của sự chú ý, là đối tượng trực tiếp của ngòi


bút <i>Nam Cao</i>.



 Thường viết về những cái nhỏ nhặt, xoàng xĩnh. Từ cái sự tầm thường quen thuộc


trong đời sống hàng ngày của "<i>Những truyện không muốn viết</i>", tác phẩm của <i>Nam </i>
<i>Cao</i> làm nổi bật vấn đề xã hội có ý nghĩa to lớn triết lý sâu sắc về <i>con người</i>, <i>cuộc </i>
<i>sống</i> và <i>nghệ thuật</i>.


 Giọng điệu riêng, <i>buồn thương</i>, <i>chua chát</i>, <i>dửng dưng lạnh lùng</i> mà đầy <i>thương </i>


<i>cảm</i>, <i>nhân bản</i> đằm thắm <i>tình thương yêu</i>.


<b>Hans Christian Andersen</b>



Hans Christian Andersen (2 tháng 4, 1805 – 4 tháng 8, 1875; tiếng Việt thường viết
<b>là </b><i><b>Hen Crít-tan Anđécxen</b></i><b>) là nhà văn người Đan Mạch chuyên viết truyện cổ tích cho </b>
<b>thiếu nhi. Trong tiếng Đan Mạch, tên ông thường được viết là H.C. Andersen.</b>


<i><b>Tiểu sử</b></i>



<b>Thời niên thiếu và con đường đến với văn</b>


Andersen sinh ra ở Odense, Đan Mạch vào ngày 2 tháng 4 năm 1805.


</div>
<span class='text_page_counter'>(44)</span><div class='page_container' data-page=44>

Andersen đã biểu lộ trí thơng minh và óc tưởng tượng tuyệt vời của mình khi cịn là
một cậu bé, tính cách đó được nuôi dưỡng bởi sự nuông chiều của cha mẹ và sự mê tín của
mẹ ơng. Ơng thường tự làm cho mình các món đồ chơi, may áo cho các con rối và đọc tất
cả các vở kịch, hầu hết là những vở kịch của William Shakespeare và của Ludvig Holberg.
Trong suốt thời thơ ấu, ơng có một tình u nồng nhiệt đối với văn học. Ơng được biết đến
vì thuộc làu các vở kịch của Shakespeare và tự trình diễn các vở kịch bằng những con rối
gỗ. Ơng cũng có hứng thú với nghệ thuật nói đùa, và hỗ trợ trong việc đề xướng ra hội
những người thích đùa giữa những người bạn của ông .



Năm 1816, cha ông qua đời và cậu bé phải tự đi kiếm sống. Ông làm thợ học dệt vải và
cả thợ may, sau đó thì vào làm trong nhà máy thuốc lá. Tại nơi này, một gã đồng nghiệp đã
hạ nhục ông bằng cách cá rằng ông thực sự là con gái và buộc ông cởi quần ra để kiểm tra.
Năm 14 tuổi, Andersen chuyển tới Copenhagen (tiếng Đan Mạch: <i>København</i>) tìm việc làm
diễn viên trong các nhà hát. Ơng có chất giọng cao và đã được kết nạp vào Nhà hát Hoàng
gia Đan Mạch. Sự nghiệp này kết thúc nhanh chóng khi ơng vỡ giọng. Một người bạn đã
khun ơng làm thơ. Từ đó, Andersen chuyển hẳn sang viết văn.


May mắn ơng đã vơ tình gặp được vua Frederick VI của Đan Mạch. Nhà vua rất thích
cậu bé kỳ lạ này và đã gửi ông vào một trường học La tinh ở Slagelse. Trước khi được nhận
vào trường học, Andersen đã thành công trong việc xuất bản câu chuyện đầu tiên của ông -
The Ghost at Palnatoke's Grave (Bóng ma ở ngơi mộ Palnatoke) vào năm 1822 . Mặc dù là
một học sinh chậm tiến (có lẽ là khơng học được) và khơng thích thú với việc học,


Andersen học ở cả Slagelse và ở một trường ở Helsingør cho tới năm 1827. Andersen sau
này đã tả những năm tại Slagelse và Helsingør là những năm đen tối nhất trong cuộc đời vì
bị hành hạ khi sống trọ tại nhà người thầy và vì các bạn cùng lớp lớn tuổi hơn.


<b>Sự nghiệp văn học</b>


Năm 1829, nhà hát kịch hoàng gia đã diễn vở nhạc kịch <i>Kjỉrlighed paa Nicolai </i>
<i>Taarn eller Hvad siger Parterret</i> (Tình u ở tháp nhà thờ thánh Nicolas) của Andersen.
Những năm tiếp theo, ông lại tiếp tục thành công với các vở diễn và câu chuyện của mình.
Ơng đã đi chu du khắp châu Âu, qua Đức, Thụy Sĩ, Pháp, Ý... nhưng vẫn giữ được niềm
đam mê văn học trong suốt cuộc đời mình. Năm 1831, nhiều tác phẩm tiểu thuyết của ông
đã được phát hành. Khi đi chu du, Andersen đã gặp được rất nhiều người nổi tiếng đương
thời như Victor Hugo, Heinrich Heine, Honoré de Balzac, Alexandre Dumas cha và cả nhà
văn Charles Dickens.



Cảm giác khác biệt, thường kết thúc trong nỗi đau, là một chủ đề quán xuyến thường
tái diễn trong công việc của ông. Chuyện này được cho là do cuộc sống nghèo khổ trước
kia, tính giản dị và đặc biệt là trong sự thiếu thốn về đời sống tình dục và lãng mạn. Giới
tính của ơng gây ít nhiều tranh cãi và được bao gồm trong phần sau.


</div>
<span class='text_page_counter'>(45)</span><div class='page_container' data-page=45>

năm 1837, đã mang đến nhiều tác phẩm cổ tích nổi tiếng nhất của ông như "<i>Nàng tiên cá</i>",
"<i>Bộ quần áo mới của hồng đế</i>", "<i>Vịt con xấu xí</i>" ...


Vào mùa xuân năm 1872, Andersen ngã khỏi giường và bị thương nghiêm trọng. Ơng
khơng bao giờ bình phục được nhưng đã sống tới 4 tháng 8 năm 1875, chết dần trong n
lặng ở một ngơi nhà tên là Rolighed (có nghĩa là sự yên tĩnh), gần Copenhagen. Thi thể của
ông được mai táng ở Assistens Kirkegård ở khu Norrebro thuộc Copenhagen. Vào thời
điểm ông chết, ông đã là một nghệ sĩ quốc tế nổi tiếng.


Năm 2005, khắp thế giới kỉ niệm 200 năm ngày sinh và những cống hiến của ơng.


<b>Tác phẩm</b>



Hình minh hoạ truyện cổ Andersen


<b>Truyện thiếu nhi</b>


Sau đây là một số tác phẩm truyện thiếu nhi tiêu biểu của Andersen:


 <i>Bà chúa tuyết</i> (<i>Sneedronningen</i>)


 <i>Bộ quần áo mới của hồng đế</i> (<i>Keiserens nye Klỉder</i>)
 <i>Cái bóng</i> (<i>Skyggen</i>)


 <i>Cái chuông</i> (<i>Klokken</i>)



 <i>Câu chuyện của một người mẹ</i> (<i>Historien om en Moder</i>)
 <i>Chú chim họa mi</i> (<i>Nattergalen</i>)


 <i>Chú lính chì dũng cảm</i> (<i>Den standhaftige Tinsoldat</i>)
 <i>Con ngỗng hoang</i> (<i>De vilde Svaner</i>)


</div>
<span class='text_page_counter'>(46)</span><div class='page_container' data-page=46>

 <i>Cu nhớn và cu con</i> (<i>Lille Claus og store Claus</i>)
 <i>Đôi giầy đỏ</i> (<i>De røde Skoe</i>)


 <i>Gia đình hạnh phúc</i> (<i>Den lykkelige Familie</i>)
 <i>Nàng tiên cá</i> (<i>Den lille Havfrue</i>)


 <i>Nàng công chúa và hạt đậu</i> (<i>Prindsessen paa Ỉrten</i>)
 <i>Ngơi nhà cổ</i> (<i>Det gamle Huus</i>)


 <i>Thiên thần</i> (<i>Engelen</i>)


 <i>Vịt con xấu xí</i> (<i>Den grimme Ỉlling</i>)


<b>O.Hen-ri</b>


<b>Tác phẩm</b>



Có lẽ nhờ cuộc đời phong phú của tác giả nên các truyện ngắn của O. Henry (tổng
cộng gần 400 truyện cộng thêm vài bài thơ) cũng thể hiện các nét đa dạng của xã hội Mỹ
đương thời. Người ta có thể tìm thấy những nhân vật làm các nghề mà chính tác giả đã trải
qua, và cịn nữa: chủ cửa hiệu, nhân viên bán hàng, ký giả, họa sĩ, bác sĩ, diễn viên sân
khấu, thợ cắt tóc, cảnh sát, thanh tra, dân đi tìm vàng, cũng có những người vô nghề nghiệp
vô gia cư, và kể cả kẻ tội phạm và tù nhân.



Những bối cảnh trong các truyện ngắn cũng phong phú, với nhiều truyện lấy Thành
phố New York - nơi O. Henry sống tám năm cuối đời ông - làm bối cảnh, cộng thêm những
mẩu chuyện phiêu lưu trong vùng Trung và Tây-Nam nước Mỹ. Tất cả đều biểu hiện khung
cảnh xã hội kinh tế nước Mỹ vào thời khoảng cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, lúc đường
Thành phố New York còn được thắp sáng bằng đèn ga, người còn dùng xe ngựa để di
chuyển, nhiều dân chăn bò (<i>cowboy</i>, hay "cao bồi") vẫn còn sống bờ sống bụi và xem pháp
luật bằng nửa con mắt, dân đi tìm vàng tự lập nên những thị trấn mới rồi "tự cai tự quản",
v.v.


Điểm đặc sắc trong truyện ngắn của O. Henry là những tình tiết ngẫu nhiên, có lúc
khắc nghiệt hoặc ối oăm hoặc mỉa mai, nhiều lúc khôi hài hoặc dở khóc dở cười, để rồi
kết thúc trong bất ngờ làm người đọc hoặc thích thú nhưng khơng q sướng thỏa, hoặc
bâng khuâng nhưng không quá nặng nề. Những dư hương nhẹ nhàng như thế đọng trong
tâm tư người đọc khá lâu. Có lẽ do vậy mà vài truyện của O. Henry đã được chuyển thể qua
sân khấu, sau này là điện ảnh và truyền hình, kể cả sân khấu kịch ở Việt Nam. Riêng truyện


<i>A retrieved reform</i>, rút tư liệu từ thời gian tác giả ngồi tù (có ý kiến cho là dựa trên chuyện
có thật), được chuyển thành kịch sân khấu rất thành công.


</div>
<span class='text_page_counter'>(47)</span><div class='page_container' data-page=47>

<b> XÉC - VAN - TÉT (1547 - 1616)</b>



Xéc-van-tét (Miguel de Cervantes Saavedra) là nhà văn người Tây Ban Nha. Ông
sinh tháng 10 năm 1547 tại Ancala đơ Hênarex, một thị trấn gần Thủ đơ Madrid, trong
một gia đình q tộc nghèo, bố làm nghề thầy thuốc. Thuở nhỏ, Xéc-van-tét học ở
Valađôlit, sau lớn lên chuyển đến học ở Thủ đơ, tốt nghiệp Đại học. Ơng từng làm thư
kí cho Hồng y giáo chủ Accavita, từng theo Hồng y về nước Ytalia, từng tham gia quân
đội Tây Ban Nha đóng trên đất Ytalia.


Năm 1571, trong một trận thuỷ chiến ông bị thương, cụt cánh tay trái. Năm năm
sau ông giải ngũ. Trên đường về Tây Ban Nha, ông bị bọn cướp biển bắt làm tù binh,


giam giữ ở Angiê (Châu Phi).


Năm 1580, ơng được trả tự do. VÌ gia đình khánh kiệt, ơng phải trở lại đời lính.
Năm 1584, ơng giải ngũ và lập gia đình. Ơng phải viết kịch bản để kiếm sống.
Năm 1587, ông xin được làm nhân viên môi giớ cho việc thu mua quân lương quân
nhu.


Năm 1897 phải ngồi tù vì để thiếu tiền quỹ. Ra tù ơng được giao việc thu thuế, có
điều kiện đi nhiều nơi. Vì khơng thanh tốn được khoản thiếu tiền thuế, năm 1652 ông
lại phải ngồi tù. Vợ ông vì hồn cảnh nghèo túng phải vào tu viện. Ơng từ trần ngày 23
tháng 4 năm 1616.


Các tác phẩm chính: <b>Galatêa, Cuộc du ngoạn lên đỉnh núi Pacnanxơ, </b>
<b>Truyện làm gương, Đôn ki hô tê.</b>


</div>

<!--links-->


<a href=' />




<a href=' /><a href=' /><a href=' />



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×