Tải bản đầy đủ (.pdf) (126 trang)

Phát triển đội ngũ trí thức trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh bến tre

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.92 MB, 126 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

HUỲNH THỊ YẾN TUYẾT

PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC TRONG
THỜI KỲ CƠNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI
HÓA Ở TỈNH BẾN TRE

Chuyên ngành: Triết học
Mã số: 60.22.80

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2012


ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

HUỲNH THỊ YẾN TUYẾT

PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC TRONG
THỜI KỲ CƠNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI
HÓA Ở TỈNH BẾN TRE

Chuyên ngành: Triết học
Mã số: 60.22.80

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC


Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. VŨ VĂN GẦU

TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2012


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan nội dung trong luận văn này là cơng trình nghiên cứu
độc lập, trung thực của bản thân và không trùng với luận văn khác. Các số
liệu, kết quả trong luận văn có nguồn gốc xuất sứ rõ ràng. Bản thân xin hoàn
toàn chịu trách nhiệm về những nội dung mình trình bày.
TP. Hồ Chí Minh, ngày tháng

năm 2012

Huỳnh Thị Yến Tuyết


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU……………………………………………………………1
PHẦN NỘI DUNG…………………………………………………………10
Chương 1. LÝ LUẬN VỀ CƠNG NGHIỆP HỐ, HIỆN ĐẠI HĨA VÀ PHÁT
TRIỂN ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC Ở TỈNH BẾN TRE……………………………………10
1.1. CƠNG NGHIỆP HĨA, HIỆN ĐẠI HĨA VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA CƠNG NGHIỆP
HĨA, HIỆN ĐẠI HĨA Ở TỈNH BẾN TRE……………..………………………...10

1.1.1. Khái niệm cơng nghiệp, hóa hiện đại hóa .…………………………………10
1.1.2. Tính tất yếu, đặc điểm cơng nghiệp hoá, hiện đại hoá ở tỉnh Bến Tre hiện nay
………………………………………………………………..…………………...22
1.2. ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC VÀ PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC Ở TỈNH BẾN
TRE……………………………………………………..………………………………..38


1.2.1. Khái niệm đội ngũ trí thức và phát triển đội ngũ trí thức…………………..38
1.2.2. Đặc điểm của đội ngũ trí thức ở tỉnh Bến Tre trong thời kỳ cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước hiện nay…………………………………………………...44
Chương 2. PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC PHỤC VỤ CƠNG NGHIỆP
HĨA, HIỆN ĐẠI HĨA Ở TỈNH BẾN TRE…………………………………...52
2.1. THỰC TRẠNG ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC VÀ NHU CẦU PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ
TRÍ THỨC Ở TỈNH BẾN TRE………………………………………………………..52

2.1.1. Thực trạng đội ngũ trí thức ở tỉnh Bến Tre hiện nay ……………………...52
2.1.2. Nhu cầu phát triển đội ngũ trí thức ở tỉnh Bến Tre hiện nay..……………...74
2.2. QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC PHỤC VỤ
CƠNG NGHIỆP HĨA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở TỈNH BẾN TRE…………….…………79

2.2.1. Quan điểm phát triển đội ngũ trí thức ở tỉnh Bến Tre……….. ..…………..79
2.2.2. Một số giải pháp nhằm phát triển đội ngũ trí thức phục vụ sự nghiệp cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Bến Tre…………………………………………..88

PHẦN KẾT LUẬN………………………………………………………..113
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………115


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
“Hiền tài là ngun khí quốc gia. Ngun khí thịnh thì thế nước mạnh
mà hưng thịnh. Ngun khí suy thì thế nước yếu mà thấp hèn. Vì thế các bậc
đế vương thánh minh chẳng ai không coi việc kén chọn kẻ sỹ, bồi dưỡng nhân
tài, vun trồng nguyên khí là việc cần kíp”. Mọi thời đại xã hội đều cần nhân

tài, trí thức để phát triển bền vững kinh tế - xã hội đất nước.
Thế giới đã và đang trải qua quá trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa. Sự
phát triển kinh tế tri thức nhân loại là nguyên nhân chủ yếu của mọi biến đổi
trong đời sống xã hội, là một yếu tố đóng vai trị quyết định nhất đối với tăng
trưởng, phát triển kinh tế, văn minh và tiến bộ xã hội. Chính ý nghĩa đó khẳng
định, trí thức trở thành lực lượng sản xuất hàng đầu mà mọi người, mọi lĩnh
vực, mọi quốc gia đều phải dựa vào nó để phát triển.
C.Mác cho rằng, con người là nhân tố cách mạng nhất, năng động nhất
trong lực lượng sản xuất. Con người ở đây không phải là con người trừu
tượng, mà là những con người có tri thức khoa học, có kinh nghiệm lao động
sản xuất và kỹ năng nghề nghiệp nhất định, trong đó trí thức là một bộ phận
giàu tính sáng tạo nhất, ưu tú nhất trong số những người lao động. Khơng có
đội ngũ trí thức, khơng có nhân tài thì sẽ khơng có sự phát triển. Bất kỳ thời
đại nào, trí thức bên cạnh các lực lượng khác cũng là nguồn lực trí tuệ quan
trọng nhất cho sự phát triển trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội ở từng quốc
gia cũng như toàn thế giới. Nhờ có tri thức và trình độ học vấn cao, đội ngũ trí
thức có thể nắm được bản chất và quy luật vận động khách quan của tự nhiên,
xã hội nhằm tuân thủ, vận dụng chúng phục vụ tốt hơn cho nhu cầu cuộc sống
con người.
Ngày nay cuộc cách mạng khoa học và cơng nghệ đang có những bước
tiến mạnh mẽ làm thay đổi cơ bản tận gốc mọi lĩnh vực của đời sống xã hội,


2

làm cho dự báo “khoa học sẽ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp” đang
thành hiện thực thì vai trị của trí thức hơn bao giờ hết càng trở nên quan
trọng và quyết định đối với sự phát triển kinh tế - xã hội. Cùng với đà phát
triển của khoa học và cơng nghệ, lao động trí óc cũng tất yếu chiếm vị trí chủ
đạo trong q trình sản xuất. Người lao động hiện nay đang từng bước được

trí thức hóa và trở thành chủ thể đích thực của xã hội. Vai trò của tri thức
trong sự phát triển kinh tế - xã hội ngày càng chiếm một vị thế cao hơn, tức là
không chỉ nhấn mạnh vào kỹ năng, kỹ thuật mà còn chú trọng đến việc giáo
dục một tri thức toàn diện nhằm bồi dưỡng và tạo ra sức sáng tạo mới của
người lao động.
Là một tỉnh thuần nông, lại chịu hậu quả nặng nề của hai cuộc chiến
tranh chống Pháp và Mỹ. Bến Tre đi lên cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa trong
điều kiện nền kinh tế cịn gặp nhiều khó khăn và thách thức. Lực lượng sản
xuất chưa phát triển, cơ sở hạ tầng còn yếu kém, nguồn nhân lực đặc biệt là
lao động có trình độ, chun mơn nghiệp vụ cao cịn ít về số lượng, yếu kém
về chất lượng và thiếu khả năng sáng tạo, đời sống nhân dân gặp nhiều khó
khăn. Trong những năm qua, với những thành tựu đạt được về kinh tế - xã hội
trong q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, Bến Tre đã từng bước vươn lên
khẳng định vị trí của mình trong khu vực Đồng bằng sơng Cửu Long và cả
nước.
Do đó, ngồi việc khẳng định vai trị cực kỳ quan trọng của đội ngũ trí
thức thì việc phát triển đội ngũ này sẽ tạo ra được một lực đẩy vô cùng to lớn
làm chuyển biến mọi mặt của xã hội theo hướng tích cực, tiến bộ. Vì lẽ đó,
việc xác định đúng quan điểm, chính sách xây dựng và phát triển đội ngũ trí
thức cũng như có những giải pháp thu hút nhân tài tham gia vào cơng cuộc
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Bến Tre là tất yếu. Vì vậy, việc nghiên cứu
vấn đề “Phát triển đội ngũ trí thức trong thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại


3

hóa ở tỉnh Bến Tre” càng trở nên cấp bách và có ý nghĩa thiết thực đối với
tiến trình phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Bến Tre trong thời gian tới.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài
Là một bộ phận quan trọng của nguồn lực con người, đội ngũ trí thức

đã được khơng ít các nhà khoa học, triết học nghiên cứu theo nhiều hướng
khác nhau. Đồng thời, phát triển đội ngũ trí thức trong giai đoạn đẩy mạnh
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện nay là vô cùng cần thiết và quan
trọng. Vì thế, chủ đề cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và trí thức cũng được
nhiều tác giả nghiên cứu ở những góc độ khác nhau.
Dưới góc độ sách tham khảo, “Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt
Nam và các nước trong khu vực” của Phạm Khiên Ích, Nxb. Thống kê, Hà
Nội, 1994; “Hiện đại hóa ở Việt Nam” Nxb. Giáo dục, Hà Nội 1997 và “Triết
học với sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa”, Nxb Khoa học xã hội, Hà
Nội, 1997) của PGS.TS Nguyễn Thế Nghĩa hay “Một số vấn đề về cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam” của tác giả Đỗ Hoài Nam đã khái qt
lý luận về cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam cũng như kinh nghiệm
của một số quốc gia trong q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Từ đó các tác giả đi đến khẳng định một số quan điểm và giải pháp cần thiết
giúp Việt Nam thành cơng trên con đường cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước.
Tác giả Ngơ Đình và tập thể viết “Suy nghĩ về cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa ở nước ta – lý luận và thực tiễn” cũng đã đưa ra nhiều vấn đề lý luận
xoay quanh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa trên cơ sở các mơ hình cơng nghiệp
hóa mà các nước phát triển đã trải qua. Từ đó đi đến lựa chọn con đường cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa phù hợp đối với Việt Nam hiện nay.
Tác giả Thẩm Vinh Hoa và Ngơ Quốc Diêu: “Tơn trọng trí thức, tôn
trọng nhân tài, kế lớn trăm năm chấn hưng đất nước”, Nxb. Chính trị quốc


4

gia, Hà Nội, 2008. Trong giáo trình này, các tác giả nhấn mạnh tầm quan
trọng của trí thức trong cơng cuộc hiện đại hóa đất nước, đồng thời cũng đã
giới thiệu một cách tổng quát tư tưởng đường lối của Đảng Trung Quốc về trí

thức, về nhân tài trên cơ sở kế thừa và phát triển tư tưởng của Chủ nghĩa Mác,
Mao Trạch Đơng, từ đó nêu ra một số giải pháp cơ bản để phát huy vai trị của
trí thức trong thời kỳ đổi mới.
“Kinh nghiệm của một số nước về phát triển giáo dục và đào tạo, khoa
học và cơng nghệ gắn với xây dựng đội ngũ trí thức” của Viện Khoa học
Giáo Dục Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010. Tác phẩm đã nêu
lên quan niệm về đội ngũ trí thức; những kinh nghiệm của các nước đã và
đang phát triển trên thế giới như Hoa Kỳ, Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc,
Singapo,…trong việc xây dựng đội ngũ trí thức ở các nước. Từ đó, bài viết đi
đến khẳng định, mặc dù các nước đều coi trọng việc phát triển đội ngũ trí
thức, nhưng nhiều nước (trừ Trung Quốc) không đưa ra các chiến lược, chính
sách riêng trong xây dựng đội ngũ trí thức. Tuy nhiên, khi xem xét kỹ, chúng
ta thấy tất cả các chính sách phát triển từng ngành, từng lĩnh vực kinh tế, khoa
học và công nghệ đều tập trung tạo dựng môi trường tự do tư duy, tự do sáng
tạo, khuyến khích và thu hút trí thức tài năng trong nước và ngồi nước và
đương nhiên đội ngũ trí thức tài năng sẽ có tác động mạnh mẽ đến sự phát
triển của đất nước.
Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XV của Đảng cộng sản
Trung Quốc, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998 cũng khẳng định, trí thức
là một bộ phận của giai cấp cơng nhân, có vai trị quan trọng trong cơng cuộc
xây dựng hiện đại hóa.
Trong những năm gần đây, vấn đề trí thức được quan tâm nghiên cứu
tương đối hệ thống, qua một số cơng trình nghiên cứu độc lâp, chương trình


5

khoa học cấp nhà nước, luận văn, luận án khoa học và một số bài viết, tạp chí,
chuyên khảo... như:
"Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng

khóa X” đã nhấn mạnh: “Xây dựng đội ngũ trí thức vững mạnh là trực tiếp
nâng tầm trí tuệ của dân tộc, sức mạnh của đất nước, nâng cao năng lực lãnh
đạo của Đảng và chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị. Đầu tư xây
dựng đội ngũ trí thức là đầu tư cho phát triển bền vững”.
“Trí thức Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới và xây dựng đất nước” của
đồng chí Đỗ Mười, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995. Trong cuốn sách
này, tác giả đã nghiên cứu, đánh giá tổng quát vai trò của đội ngũ trí thức Việt
Nam – một lực lượng quan trọng trong sự nghiệp đổi mới và xây dựng đất
nước; đề ra yêu cầu tiếp tục phát triển đội ngũ này trong khối liên minh cơng
– nơng – trí dưới sự lãnh đạo của Đảng tạo nền tảng cho cách mạng Việt
Nam.
Tác phẩm “Trí thức Việt Nam thực tiễn và triển vọng” Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 1995 và “Định hướng phát triển đội ngũ trí thức Việt Nam
trong cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001,
của GS.TS Phạm Tất Dong, đã nghiên cứu một cách cơ bản đội ngũ trí thức
Việt Nam, đồng thời đi sâu đánh giá thực trạng về cơ cấu và chất lượng đội
ngũ trí thức của nước ta từ khi thực hiện cơng cuộc đổi mới, phân tích q
trình thay đổi cơ cấu đội ngũ trí thức gắn liền với q trình đào tạo. Trên cơ
sở đó tác giả đề xuất một số giải pháp để phát triển đội ngũ trí thức Việt Nam.
“Một số vấn đề về trí thức Việt Nam” của TS Nguyễn Thanh Tuấn, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998. Trong đó ngồi việc nghiên cứu quan điểm
của các học giả ở các nước về trí thức, trí thức Việt Nam qua các chặng
đường lịch sử, đặc điểm và xu hướng phát triển của đội ngũ trí thức nước ta
hiện nay, tác giả khẳng định phẩm chất trí tuệ là một trong những phẩm chất


6

thể hiện bản chất xã hội của người trí thức, nó góp phần quyết định khả năng
tư duy sáng tạo cùng các phẩm chất và thuộc tính khác của trí thức. Từ đó, tác

giả nêu lên phương hướng đổi mới cơng tác quản lý và chính sách kinh tế - xã
hội đối với đội ngũ trí thức hiện nay.
Cơng trình nghiên cứu cấp Nhà nước của PGS, TS Đức Vượng về “Xây
dựng đội ngũ trí thức Việt Nam giai đoạn 2011 – 2020” (KX.04.16/06-10)
năm 2010 đã khẳng định tất yếu cần xây dựng đội ngũ trí thức Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay nhằm đưa nước ta lên một nước công nghiệp theo
hướng hiện đại vào năm 2020.
Bên cạnh những đề tài nghiên cứu trên, trong khoảng 10 năm trở lại đây
nhiều luận văn, luận án nghiên cứu dưới góc độ chính trị xã hội về vai trị, vị
trí của trí thức trong q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước ở một
số ngành, lĩnh vực cụ thể như:
Luận văn ThS của Mạch Ngọc Thủy về “Vai trò của đội ngũ trí thức
trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” năm 2006, Luận án
TS của Nguyễn An Ninh về “Phát huy tiềm năng của trí thức khoa học xã hội
trong công cuộc đổi mới đất nước” năm 1999, luận án TS của Nguyễn Xuân
Phương về “Vai trị của trí thức thủ đơ trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước” năm 2004,…Các luận văn, luận án trên đã đề cập đến vị trí,
vai trò, động lực cùng những giải pháp phát huy vai trị của đội ngũ trí thức
nói chung và trí thức một số ngành, lĩnh vực cụ thể nói riêng.
Ngồi những cơng trình và đề tài nêu trên, cịn có nhiều bài viết trên các
tạp chí đề cập đến vấn đề trí thức như “Quan điểm và chính sách của V.I. Lê
nin đối với trí thức trong cách mạng xã hội chủ nghĩa” của GS. TS Trịnh
Quốc Tuấn, Tạp chí nghiên cứu lý luận số 4, 1995, “Mấy vấn đề về đổi mới,
tạo động lực và điều kiện để trí thức nước ta phát huy tài năng trí tuệ” của
PGS.TS Nguyễn Đức Bách, Thông tin Khoa giáo số 4, 1995….


7

Tất cả các tác phẩm, cơng trình nói trên đã có những giá trị lý luận và

thực tiễn khi đề cập đến những khía cạnh khác nhau của cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa và đội ngũ trí thức. Tuy nhiên vẫn chưa có cơng trình nào nghiên
cứu về “Phát triển đội ngũ trí thức trong thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa ở tỉnh Bến Tre”.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận văn
a) Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở kiến giải một cách có hệ thống lý luận cơ bản về cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa và phát triển đội ngũ trí thức, luận văn làm rõ thực trạng đội
ngũ trí thức ở tỉnh Bến Tre. Từ đó trình bày các quan điểm và một số giải
pháp nhằm phát triển đội ngũ trí thức trong thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa ở tỉnh Bến Tre hiện nay.
b) Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục mục đích đó, luận văn đặt ra và thực hiện các nhiệm vụ
sau:
Thứ nhất, khái quát lý luận về công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đặc điểm
của cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Bến Tre.
Thứ hai, làm rõ khái niệm trí thức và phát triển đội ngũ trí thức; nêu và
phân tích tính tất yếu, đặc điểm của đội ngũ trí thức ở tỉnh Bến Tre trong thời
kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện nay.
Thứ ba, phân tích thực trạng và nhu cầu phát triển đội ngũ trí thức ở tỉnh
Bến Tre hiện nay. Từ đó nêu lên quan điểm chỉ đạo và những giải pháp thiết
thực nhằm phát triển đội ngũ trí thức ở tỉnh Bến Tre đáp ứng yêu cầu phát
triển kinh tế - xã hội của tỉnh trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa hiện nay.
c) Phạm vi nghiên cứu


8

Luận văn nghiên cứu về phát triển đội ngũ trí thức trong thời kỳ cơng

nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Bến Tre là một trong những nhu cầu về sự phát
triển nguồn nhân lực chất lượng cao.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài chủ yếu đề cập khái quát đặc điểm của
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và đặc điểm của đội ngũ trí thức tỉnh Bến Tre;
thực trạng và một số giải pháp phát triển đội ngũ trí thức giới hạn trong thời
kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Bến Tre hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu đề tài
a) Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận và phương pháp luận chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác –
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam, quan
điểm cơ bản của Đảng và Nhà nước về cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, về phát
triển đội ngũ trí thức. Đồng thời, tham khảo các chủ trương, chính sách của
Tỉnh ủy và Ủy ban nhân dân tỉnh Bến Tre trong việc chỉ đạo thực hiện cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và phát triển đội ngũ trí thức ở các lĩnh
vực, ngành nghề của tỉnh.
b) Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện luận văn, ngoài phương pháp chung nhất là
phương pháp biện chứng duy vật, học viên còn sử dụng một số phương pháp
cụ thể như phân tích - tổng hợp, logic – lịch sử, loại suy, khảo sát thống kê, so
sánh, đối chiếu và tổng hợp cùng một số phương pháp khác.
5. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của luận văn
Bến Tre đang trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
bước đầu quá độ lên chủ nghĩa xã hội địi hỏi phải nhanh chóng tiếp cận,
chuyển giao và ứng dụng những thành tựu tiên tiến của khoa học và công
nghệ vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Sự nghiệp này muốn hoàn thành


9


địi hỏi sự góp sức của tồn Đảng, tồn dân trong đó đội ngũ trí thức giữ vai
trị quan trọng và quyết định nhất. Vì thế, việc nghiên cứu tìm hiểu đặc điểm
và đề xuất một số giải pháp phát triển đội ngũ trí thức ở Bến Tre phục vụ cho
sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa của tỉnh hiện nay có ý nghĩa giúp
chúng ta có cái nhìn đúng đắn hơn, tin tưởng đối với nhu cầu phát triển đội
ngũ trí thức của tỉnh hiện tại và tương lai.
Những quan điểm, giải pháp đề xuất tích cực của luận văn có thể góp
phần làm tài liệu tham khảo cho các cấp ủy đảng, chính quyền, các ngành của
tỉnh Bến Tre trong việc hoạch định những chủ trương, chính sách phát triển
đội ngũ trí thức tỉnh đáp ứng thực tiễn cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa cũng
như phát triển bền vững kinh tế - xã hội Bến Tre thời gian tới. Luận văn có ý
nghĩa thiết thực đối với những ai quan tâm nghiên cứu về cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa ở Bến Tre nói chung và Việt Nam nói riêng.
6. Kết cấu của luận văn
Ngồi phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn gồm hai chương, bốn mục và tám tiểu mục.


10

Chương 1
LÝ LUẬN VỀ CƠNG NGHIỆP HĨA, HIỆN ĐẠI HĨA VÀ PHÁT
TRIỂN ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC Ở TỈNH BẾN TRE
1.1. LÝ LUẬN VỀ CƠNG NGHIỆP HĨA, HIỆN ĐẠI HĨA VÀ ĐẶC
ĐIỂM CƠNG NGHIỆP HĨA, HIỆN ĐẠI HĨA Ở TỈNH BẾN TRE
1.1. 1. Khái niệm cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
Nửa sau thế kỷ XVIII, cơng nghiệp hóa với tư cách là một phương thức
phát triển bắt đầu xuất hiện trên thế giới và ngày càng được phổ biến, nhất là
vào những năm giữa thập niên 90. Lịch sử quá trình cơng nghiệp hóa trên thế
giới mở ra bằng cuộc cách mạng công nghiệp ở Anh, vào những năm 30 của

thế kỷ XVIII và 25 năm đầu thế kỷ XIX, sau đó lan sang các nước khác trong
suốt thế kỷ XIX. Đây là một quá trình chuyển biến từ một quốc gia nông
nghiệp lên công nghiệp và là một nấc thang tất yếu mà bất cứ một quốc gia
nào muốn giàu có và hùng mạnh đều phải trải qua. Nói cách khác, cơng
nghiệp hóa là biện pháp cốt lõi để biến một nền kinh tế lạc hậu thành một nền
kinh tế hiện đại. Vai trị của cơng nghiệp hóa quan trọng đối với mỗi quốc gia
là thế, nhưng cho đến nay khái niệm “cơng nghiệp hóa” vẫn chưa có sự thống
nhất vì ở các nước khác nhau thì xuất phát điểm, hoàn cảnh lịch sử, điều kiện
kinh tế - xã hội, trình độ và nhịp độ cũng như chính sách tiến hành cơng
nghiệp hóa, trong những giai đoạn khác nhau lại khơng hồn tồn giống nhau.
Nhiều học giả quan niệm rằng, cơng nghiệp hóa đồng nghĩa với phát
triển cơng nghiệp, tách biệt hoặc thậm chí đối lập nó với sự phát triển nông
nghiệp và các ngành kinh tế khác. Theo họ, cơng nghiệp hóa là q trình làm
cho tỷ trọng cơng nghiệp áp đảo trong nền kinh tế, còn cơ cấu nơng nghiệp
hay loại hình cơng nghiệp hóa như thế nào thì chưa phải là vấn đề hàng đầu.
Một số khác thì sử dụng khái niệm cơng nghiệp hóa với ý nghĩa cơ bản là xây
dựng và mở rộng lĩnh vực các ngành công nghiệp chế biến.


11

Cơng nghiệp hóa trước hết gắn liền với sự xuất hiện của máy móc và sự
thay thế lao động thủ cơng bằng lao động cơ khí nhờ q trình thực hiện cuộc
cách mạng cơng nghiệp. Theo nghĩa đó, vấn đề trung tâm của công nghiệp là
sự chuyển giao công nghệ. Nhờ tiếp thu công nghệ mới mà những nước đi
sau, kém phát triển có thể bỏ qua con đường cơng nghiệp hóa dài dằng dặc
hàng trăm năm mà các nước cơng nghiệp hóa đi trước đã trải qua. Một thời
gian dài, nhất là ở các nước Xã hội chủ nghĩa đã phổ biến quan niệm cho rằng
nội dung chủ yếu của cơng nghiệp hóa là phát triển cơng nghiệp nặng.
Sở dĩ có nhiều quan điểm khác nhau về cơng nghiệp hóa như vậy là vì

trên thực tế, đây là một q trình có nội dung phức tạp, bao gồm rất nhiều
mặt, nhiều mối liên hệ. Tùy theo góc độ xem xét mà người ta có thể nhấn
mạnh mặt này hay mặt kia để đưa ra những định nghĩa khác nhau về cơng
nghiệp hóa. Nhưng xét cho cùng, về cơ bản, các ý kiến đều thống nhất những
đặc trưng chủ yếu là coi cơng nghiệp hóa là thời kỳ nhất định trong q trình
phát triển kinh tế.
Có thể tóm lược một số quan niệm chính về cơng nghiệp hóa như sau:
Thứ nhất, quan niệm dựa vào mục đích, phương pháp và phương thức
thực hiện cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và phân chúng ra thành ba loại: một
là, cơng nghiệp hóa tư bản chủ nghĩa (có mục đích là mang lại nhiều lợi
nhuận cho nhà tư bản, được tiến hành một cách tự phát bằng phương pháp
tước đoạt, sử dụng nguồn vốn do bóc lột, v.v); hai là, cơng nghiệp hóa dân tộc
chủ nghĩa (có đặc điểm là cải tạo nền kinh tế, nâng dần tỷ trọng công nghiệp
trong nền kinh tế, xây dựng và bảo vệ đất nước); ba là, cơng nghiệp hóa xã
hội chủ nghĩa (có mục đích đáp ứng lợi ích của những người lao động, được
thực hiện một cách tự giác, có kế hoạch, dựa trên nguồn vốn do tích lũy và
tiết kiệm, tiến hành với tiến độ cao, tạo ra nền sản xuất đại công nghiệp cơ
khí, v.v).


12

Thứ hai, quan niệm nhấn mạnh đến đặc tính cơng nghiệp và đặc tính kỹ
thuật của cơng nghiệp hóa. Nghĩa là cơng nghiệp hóa được coi là q trình
xây dựng đại công nghiệp và trước hết là những ngành sản xuất công cụ và tư
liệu sản xuất (công nghiệp nặng)[90,546].
Thứ ba, quan niệm nhấn mạnh rằng: “Cơng nghiệp hóa là một quá
trình phát triển kinh tế, trong quá trình này một bộ phận ngày càng tăng các
nguồn của cải quốc dân được động viên để phát triển cơ cấu kinh tế nhiều
ngành ở trong nước với kỹ thuật hiện đại. Đặc điểm của cơ cấu kinh tế này là

có một bộ phận chế biến luôn thay đổi để sản xuất ra những tư liệu sản xuất
và hàng tiêu dùng, có khả năng bảo đảm cho toàn bộ nền kinh tế phát triển
với nhịp độ cao, bảo đảm đạt tới sự tiến bộ về kinh tế - xã hội”[100,12].
Theo quan điểm của Liên hợp quốc thì cơng nghiệp hóa là q trình
trang bị máy móc và cơng nghệ hiện đại cũng như phương pháp quản lý tiên
tiến vào mọi hoạt động sản xuất, dù là sản xuất vật chất hay dịch vụ nhằm
nâng cao hiệu quả sản xuất, đưa đến tốc độ phát triển nhanh và bền vững về
giá trị tăng thêm (GDP). Con đường cơng nghiệp hóa của một nước tùy thuộc
vào đặc thù về nguồn lao động và tài nguyên của nước đó. Tuy vậy đối với
các quốc gia có dân số đơng, cái cần trung gian thường là từ phát triển cơng
nghiệp chế biến hàng hóa tiêu dùng, dùng sức lao động cơ bắp tiến dần lên lao
động chuyên môn, rồi lên công nghiệp cao cấp và kinh tế dịch vụ tiên tiến.
Như vậy, từ trước đến nay trên thế giới cịn nhiều quan niệm khác nhau
về cơng nghiệp hóa. Trong mỗi một quan niệm đều chứa đựng những yếu tố
hợp lý và chưa hợp lý. Do đó, nó chưa đạt tới định nghĩa khoa học, mà chủ
yếu là chỉ ra phương hướng của cơng nghiệp hóa. Tổng hợp nhiều quan điểm,
tác giả khái qt, cơng nghiệp hóa là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, xã
hội theo hướng phát triển mạnh công nghiệp, tạo ra sự vượt trội của công
nghiệp trong cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động, áp dụng rộng rãi những tiến


13

bộ khoa học công nghệ mới làm nền tảng cho sự tăng trưởng và phát triển
nhanh, vững chắc của toàn bộ nền kinh tế - xã hội.
Theo ý nghĩa trên, lịch sử cơng nghiệp hóa đã từng biết đến một số mơ
hình cơng nghiệp hóa cơ bản là: (1) cơng nghiệp hóa kiểu “cổ điển” với q
trình kéo dài hàng trăm năm bằng các cuộc cách mạng cơng nghiệp. Tiến
trình cơng nghiệp hóa kiểu “cổ điển” đã diễn ra “như một quá trình lịch sử tự
nhiên” và để lại một hình mẫu “chuẩn mực” cho những nền kinh tế đi sau

trong q trình cơng nghiệp hóa. Từ đó về sau, khi mà điều kiện trong nước
và quốc tế đã thay đổi, các quốc gia đi sau không nhất thiết phải lặp lại y hệt
con đường mà các quốc gia tiến hành cơng nghiệp hóa kiểu “cổ điển” đã đi,
nhưng mơ hình cơng nghiệp hóa kiểu cổ điển đã như một gợi ý thực tế cho
những quốc gia đi sau về nhiều phương diện, nhất là những khả năng thực
hiện những giải pháp rút ngắn quãng thời gian thực hiện quá trình cơng
nghiệp hóa. Tuy nhiên, mơ hình này cũng có những hệ quả tất yếu mà trong
nhiều thế kỷ nhân loại đã phải chứng kiến mà không thể khắc phục được; (2)
mơ hình cơng nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa trong cơ chế kế hoạch hóa tập
trung với chủ trương ưu tiên cao độ cho phát triển công nghiệp nặng trong
khn khổ cơ chế kế hoạch hóa tập trung nhưng mơ hình này cũng khơng
chịu nổi thử thách của thời gian do tính khơng hiệu quả và nó đã đi vào lịch
sử cùng với sự sụp đỗ của hệ thống kinh tế Xã hội chủ nghĩa được xây dựng
trên nền tảng của cơ chế kế hoạch hóa tập trung; (3) mơ hình cơng nghiệp hóa
thay thế nhập khẩu với tư tưởng chủ đạo là phát triển một nền công nghiệp
dân tộc độc lập, không bị phụ thuộc vào các nước tư bản phát triển. Mơ hình
này đã từng là một xu hướng phổ biến trong những năm 1950 –1960 nhưng
do hạn chế về nhiều mặt như: nguồn nhân lực kinh tế, khoa học – công nghệ,
thị trường, v.v, nên sau thời kỳ ngắn ngủi phát triển tương đối thành công ban
đầu, cơng nghiệp hóa thay thế nhập khẩu dần dần bộc lộ những mặt yếu kém


14

và khơng hiệu quả; (4) mơ hình cơng nghiệp hóa hướng về xuất khẩu với chủ
trương thay đổi nguồn động lực lấy thị trường nước ngoài thay cho thị trường
trong nước; xuất khẩu những thứ mà thị trường thế giới có nhu cầu thay cho
việc xuất khẩu những thứ mà mình sẵn có; và lấy lợi thế so sánh của đất nước
làm cơ sở thay cho nhu cầu phải có những loại sản phẩm nào đó. Tuy là mơ
hình tận dụng có hiệu quả nhất nguồn ngoại lực, phát huy tốt nội lực, đặc biệt

là nguồn lực con người, giúp các nước kém phát triển có khả năng rút ngắn
đáng kể q trình cơng nghiệp hóa từ vài trăm năm trước kia xuống cịn vài
chục năm hiện nay nhưng mơ hình cơng nghiệp hóa hướng về xuất khẩu cũng
bộc lộ một số hạn chế trong khi nhu cầu phát triển của từng quốc gia đang
phát triển và những xu thế thời đại đặt ra đòi hỏi và khả năng về một mơ hình
cơng nghiệp hóa phù hợp hơn, kết hợp hài hòa định hướng xuất khẩu và định
hướng thay thế nhập khẩu trong hội nhập quốc tế; (5) mơ hình cơng nghiệp
hóa hỗn hợp theo hướng hội nhập quốc tế là mơ hình kết hợp cả xuất khẩu và
nhập khẩu. Mơ hình cơng nghiệp hóa hỗn hợp theo hướng hội nhập quốc tế
tạo ra những điều kiện mở rộng, thuận lợi cho việc khai thác tốt các nguồn
lực, trong đó có việc khai thác và sử dụng hợp lý, có hiệu quả nguồn nhân lực
nhất là nguồn nhân lực có trình độ cao. Tuy nhiên, nó cũng địi hỏi phải có
một lực lượng lao động có chất lượng cao, có số lượng và cơ cấu hợp lý, thích
ứng được yêu cầu hội nhập. Nếu thiếu một đội ngũ lao động có năng lực sáng
tạo tốt, khả năng thích nghi cao, kỹ năng lao động giỏi, có bản lĩnh, năng
động, có khả năng khai thác tốt các lợi thế so sánh, kết hợp được nguồn nhân
lực bên trong với nguồn lực bên ngồi thì sẽ khơng thể hội nhập được hoặc
thất bại trong hội nhập.
Trong những năm vừa qua, mơ hình cơng nghiệp hóa hỗn hợp theo
hướng hội nhập quốc tế gặp một số khó khăn, nhưng nó vẫn tỏ ra là sự lựa
chọn chiến lược có triển vọng hơn cả trong kỷ ngun tồn cầu hóa đương


15

đại. Do vậy, vấn đề đặt ra cho mỗi quốc gia trên con đường cơng nghiệp hóa
là phải nắm bắt kịp thời xu thế khách quan, khai thác tối đa những thời cơ,
thuận lợi và hạn chế đến mức thấp nhất những bất lợi, khó khăn.
Ở Việt Nam đường lối cơng nghiệp hóa có thể chia ra làm hai giai đoạn
chính, trước và sau thời kỳ đổi mới mà dấu mốc là Đại hội Đảng toàn quốc

lần thứ VI (12-1986).
Trước thời kỳ đổi mới (từ năm 1960 đến 1975 ở miền Bắc và từ năm
1975 đến 1985 trên phạm vi cả nước), cơng nghiệp hóa được quan niệm một
cách khá thống nhất là cơng nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, nó được thực hiện
một cách tự giác và có kế hoạch nhằm xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của
chủ nghĩa xã hội; cơng nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa ở nước ta là “quá trình
cách mạng, thực hiện sự phân công mới về lao động xã hội và là q trình
tích lũy xã hội chủ nghĩa để không ngừng thực hiện tái sản xuất mở rộng”;
[23,182]; với phương thức thực hiện cơng nghiệp hố thời kỳ này là “ưu tiên
phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý trên cơ sở phát triển nông
nghiệp và công nghiệp nhẹ”. Ở đây, “Cơng nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa có
nhiệm vụ đưa nền kinh tế nước ta từ nền sản xuất nhỏ tiến lên sản xuất lớn xã
hội…làm cho nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa có cơ cấu kinh tế
cơng – nơng nghiệp hiện đại, văn hóa và khoa học kỹ thuật tiên tiến, quốc
phịng vững mạnh, cuộc sống văn minh và hạnh phúc”.[23, 182]
Mặc dù chủ trương đề ra là đúng, nhưng trên thực tế lại tập trung phát
triển công nghiệp nặng với trọng tâm là ngành cơ khí chế tạo và được coi là
tiền đề thiết yếu nhất của cơng nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa. Với đường lối
cơng nghiệp hóa này, chúng ta đã mắc sai lầm cả về mục tiêu, nội dung và
cách thức tiến hành. Điều này bắt nguồn từ nhận thức giáo điều về mơ hình
cơng nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa của Liên Xô. Chúng ta đã không xuất phát
từ thực trạng, đặc điểm kinh tế - xã hội của đất nước cũng như bối cảnh quốc


16

tế, dẫn đến tình trạng hiệu quả mà cơng nghiệp hóa đem lại rất thấp, kéo theo
đó là trên mặt trận công nghiệp nhẹ và nông nghiệp cũng không phát triển,
không đáp ứng đủ nhu cầu hàng tiêu dùng thiết yếu của nhân dân, đời sống
người lao động gặp rất nhiều khó khăn. Nghiêm trọng hơn, nền kinh tế nước

ta lâm vào thiếu hụt trầm trọng, mất cân đối một cách căn bản, hầu như khơng
có tích lũy và nhanh chóng rơi vào cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội.
Từ tháng 12 năm 1986, với tinh thần “nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự
thật” đã nghiêm khắc chỉ ra những sai lầm trong nhận thức và chủ trương
công nghiệp hóa thời kỳ 1960 – 1985, mà trực tiếp là 10 năm từ 1975 đến
1985. Từ việc chỉ ra những sai lầm, khuyết điểm đó, Đại hội VI đã cụ thể hóa
nội dung chính của cơng nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa trong những năm còn
lại của chặng đường đầu tiên trong thời kỳ quá độ là thực hiện cho bằng được
3 chương trình có liên hệ chặt chẽ nhau: lương thực, thực phẩm; hàng tiên
dùng và hàng xuất khẩu. Nhờ đó, đã phát huy sức mạnh nội lực và tranh thủ
sức mạnh từ bên ngoài để phát triển kinh tế xã hội. Thực chất, đây là sự thay
đổi trong lựa chọn mơ hình chiến lược cơng nghiệp hóa, chuyển từ mơ hình
hướng nội (thay thế nhập khẩu) trước đây bằng mơ hình hỗn hợp (hướng về
xuất khẩu đồng thời thay thế nhập khẩu) đang được áp dụng phổ biến và khá
thành công tại các nước Châu Á lúc bấy giờ.
Rõ ràng, việc thực hiện đường lối công nghiệp hóa đó vào thực tiễn
Việt Nam trước thời kỳ đổi mới đã mang lại những kết quả nhất định. Bước
đầu chúng ta đã xây dựng được một số cơng trình tương đối lớn, tạo ra tiền đề
vật chất - kỹ thuật cho những bước phát triển tiếp theo. Thành tựu quan trọng
nhất của cơng nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa ở nước ta là góp phần quan trọng
vào sự nghiệp bảo vệ tổ quốc, đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất
nước. Tuy nhiên, do phải chịu hậu quả nặng nề của hai cuộc kháng chiến
chống Pháp và chống Mỹ, cùng với tư tưởng chủ quan, nóng vội và do một số


17

sai lầm trong việc tổ chức thực hiện, cho nên hiệu quả thực hiện cơng nghiệp
hóa chưa cao.
Tóm lại, quan niệm về cơng nghiệp hóa như vậy, một mặt, phản ánh

được quy luật phát triển từ nền kinh tế tiểu nông lên nền sản xuất công nghiệp
hiện đại, mặt khác nó thể hiện được vai trị của cơng nghiệp và khoa học cơng nghệ trong đời sống xã hội nói chung và q trình cơng nghiệp hóa nói
riêng; đồng thời, nó đã gắn cơng nghiệp hóa với q trình hiện đại hóa.
Cùng với cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đã và đang thu hút sự quan tâm
đặc biệt của nhiều nhà khoa học, nghiên cứu trong và ngoài nước từ những
thập kỷ cuối của thế kỷ XX khi hàng loạt nước châu Á cất cánh hóa rồng. Vấn
đề này lại được nở rộ hơn vào những năm đầu của thế kỷ XXI, khi xu thế tồn
cầu hóa với sự tác động to lớn và phức tạp của nền kinh tế tri thức và của
cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đã, đang và sẽ đưa nhân loại
vào một sân chơi chung mang tính tồn cầu. Tuy vậy, vẫn cịn rất nhiều ý kiến
khác nhau thậm chí đối lập nhau xoay quanh vấn đề này.
Trước hết, theo các bộ từ điển thơng dụng bằng tiếng Việt, hiện đại
hóa, xét theo ngun nghĩa của nó chính là làm cho một cái gì đó mang tính
chất hiện đại, tiên tiến của thời đại ngày nay. Trong sách Từ điển tiếng Việt,
hiện đại hóa cũng được giải thích với nghĩa tương tự [92,384].
Theo nghĩa hẹp, hiện đại hóa được hiểu là q trình chuyển biến xã hội
nơng nghiệp thành xã hội cơng nghiệp. Tương ứng với tiến trình đó là sự biến
đổi từ phương thức sản xuất chủ yếu bằng thủ công nặng về cơ bắp sang
phương thức sản xuất bằng máy móc, cơ khí giải phóng bớt sức lao động
nặng nhọc của người lao động.
Theo nghĩa rộng, hiện đại hóa là quá trình tất yếu dành chung cho tất cả
các quốc gia lạc hậu, chậm tiến nhằm tìm cách phát triển nhanh chóng và
đuổi kịp các nước phát triển. Đó là sự tổng hợp nhiều mặt, nhiều mối quan hệ


18

xoắn xít, qua lại với nhau rất phong phú, đa dạng nhưng cũng hết sức phức
tạp. Với các nước phát triển đã đạt được trình độ hiện đại, tiên tiến, khơng có
nghĩa là tiến trình này bị dừng lại mà nó vẫn tiếp tục phát triển, tạo ra và sử

dụng những thành tựu khoa học – công nghệ mới hơn để thúc đẩy xã hội tiến
lên một trình độ cao hơn, hiện đại hơn, tiên tiến hơn nữa.
Xét theo kinh nghiệm của một số quốc gia ta thấy, hiện đại hóa một hệ
thống nào đó (kinh tế, chính trị, quốc phịng…) có nghĩa là sử dụng những
thành tựu khoa học – công nghệ hiện đại để cải biến làm cho nó phát triển trở
thành hệ thống hiện đại, tiên tiến. Ví dụ: hiện đại hóa nền kinh tế là q trình
đổi mới cơng nghệ hiện có, sử dụng những thành tựu khoa học – công nghệ
hiện đại vào sản xuất, lưu thơng, phân phối…làm cho tồn bộ nền kinh tế phát
triển lên trình độ hiện đại, tiên tiến. Điều này thể hiện ở mức độ tăng trưởng,
phát triển một cách ổn định và bền vững của toàn bộ nền kinh tế. Có thể
khẳng định, hiện đại hóa chính là q trình sử dụng những thành tựu khoa
học – cơng nghệ hiện đại để đổi mới tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội,
làm cho nó phát triển thành xã hội hiện đại, tiên tiến.
Trên cơ sở đó, chúng ta có thể tóm tắt hiện đại hóa theo ba quan niệm
chính sau đây:
Quan niệm thứ nhất, hiện đại hóa theo khn mẫu phương Tây tức
hiện đại hóa là q trình cải biến xã hội “phương Đơng” truyền thống thành
xã hội phương Tây hiện đại, vốn được giàu có. Những người theo quan niệm
này khẳng định rằng, nền văn minh phương Tây khơng chỉ giàu có về vật
chất, mà cịn giàu có về tinh thần, và đây chính là “khn mẫu” cho các nước
“ngồi phương Tây” học tập. “Chính ở phương Tây và chỉ có ở đây, mới phát
sinh những hiện tượng của văn hóa, được phát triển theo những khuynh
hướng đã mang ý nghĩa phổ quát”[69, 42-43].


19

Về thực chất, quan niệm này đã đồng nhất hiện đại hóa với “phương
Tây hóa”. Ở đây, q trình hiện đại hóa được thực hiện chủ yếu bằng những
nhân tố ngoại sinh và theo kiểu “bắt chước”. Do đó, trong sự phát triển của

mình, các nước phát triển phương Tây đã đạt tới sự giàu có nhất định về của
cải vật chất và tinh thần. Song, khẳng định hiện đại hóa chính là “phương Tây
hóa” lại là một lầm lẫn đáng tiếc. Bởi lẽ, lịch sử phát triển của xã hội đã
chứng tỏ rằng, một nước giàu có chưa hẳn là một nước có trình độ văn hóa,
văn minh cao. (Chẳng hạn, vào cuối thế kỷ XIX, nước Pháp, nước Anh có chế
độ kinh tế phát triển cao hơn nước Đức nhiều nhưng lại kém về mặt khoa học,
lý luận…).
Quan niệm thứ hai, hiện đại hóa cũng chính là q trình cơng nghiệp
hóa. “Về thực chất q trình hiện đại hóa đất nước trong thời đại ngày nay là
q trình phát triển công nghệ nhằm làm thay đổi cơ cấu các ngành sản xuất,
cơ cấu lao động và cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu, không ngừng nâng cao
hiệu quả cũng như khả năng cạnh tranh của nền kinh tế”[2, 17].
Rõ ràng, chúng ta cần thấy rằng, hiện nay ở các quốc gia đang phát
triển hiện đại hóa được triển khai gắn liền với q trình cơng nghiệp hóa và
giữa chúng có một số nội dung giống nhau, nhưng hai q trình này khơng
phải là một. Bởi lẽ, đúng như Đảng ta đã xác định: ở Việt Nam “cơng nghiệp
hóa thực chất là xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã
hội”[27,27]. Như vậy, q trình cơng nghiệp hóa kết thúc, về cơ bản chúng ta
đã có cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội và còn cả kiến trúc
thượng tầng với những bộ phận đa dạng của nó.
Có thể hiểu, hiện đại hóa xã hội khơng chỉ xây dựng cơ sở vật chất – kỹ
thuật của xã hội mà còn xây dựng cơ sở “tư tưởng - tinh thần” và tất cả những
mặt khác nhau của đời sống xã hội. Đồng thời, xét về mặt lịch sử quá trình ra
đời và phát triển của cơng nghiệp hóa và hiện đại hóa thì hai quá trình này


20

khơng trùng khích nhau; cơng nghiệp hóa ra đời và được thực hiện bởi cuộc
cách mạng công nghiệp cuối thế kỷ XVIII. Cịn hiện đại hóa ra đời và được

thực hiện gắn liền với cuộc cách mạng khoa học – cơng nghệ từ giữa thế kỷ
XX đến nay [81,21-23,28]. Vì thế, khơng được quy cơng nghiệp hóa vào hiện
đại hóa, càng không được đồng nhất chúng với nhau.
Quan niệm thứ ba cho rằng, hiện đại hóa là “một q trình, nhờ đó các
nước đang phát triển tìm cách đạt được sự tăng trưởng và phát triển kinh tế,
tiến hành cải cách chính trị và củng cố cơ cấu xã hội của họ, nhằm tiến tới
một hệ thống kinh tế, xã hội và chính trị giống hệ thống của những nước phát
triển”[47,4].
Quan điểm này đã thể hiện được một số mặt cụ thể nhất định của q
trình hiện đại hóa ở các nước đang phát triển. Tuy nhiên, nó chưa phản ánh
được thực chất của q trình hiện đại hóa và đồng thời chưa bao quát được
quá trình này đang diễn ra ở các nước phát triển.
Thực tế, còn rất nhiều ý kiến khác nhau về hiện đại hóa. Bởi lẽ, nó là
q trình phức tạp tác động đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Nó được
triển khai vào những thời điểm khác nhau ở những nước khác nhau với những
hình thức và mức độ khơng giống nhau. Vì vậy, trong một thời gian ngắn khó
có thể đưa ra một định nghĩa về hiện đại hóa một cách đầy đủ, hoàn chỉnh và
thống nhất mọi ý kiến.
Như vậy, theo tác giả, ở các nước đang phát triển nói chung và Việt
Nam nói riêng, hiện đại hóa là q trình sử dụng những thành tựu khoa học –
công nghệ hiện đại, thích hợp và những kinh nghiệm lịch sử để đổi mới một
cách toàn diện, triệt để mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, thúc đẩy xã hội phát
triển lên một trạng thái mới về chất. Đối với Việt Nam, hiện đại hóa cũng có
nghĩa là biến một xã hội cổ truyền thành một xã hội hiện đại theo mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng và văn minh.


21

Về đại thể, nội dung cơ bản của hiện đại hóa ở Việt Nam thể hiện ở tất

cả các lĩnh vực của xã hội trong đó hiện đại hóa về kinh tế chính là địn bẫy
vật chất, làm cơ sở nền tảng cho tất cả mọi quá trình biến đổi xã hội tiếp theo.
Do vậy, hiện đại hóa ở nước ta phải thực hiện đồng thời với cơng nghiệp hóa
và phải tiến hành hiện đại hóa một cách đồng bộ trên tất cả các lĩnh vực của
đời sống kinh tế - xã hội, có như vậy chúng ta mới có thể đạt được mục tiêu
phát triển bền vững đất nước mà Đảng đã đề ra.
Trên cơ sở đổi mới của Đại hội VI, trong bối cảnh lịch sử cụ thể ở nước
ta hiện nay, báo cáo Hội nghị trung ương 7 (khóa VII) đã đưa ra một định
nghĩa có ý nghĩa tương đối bao quát và phù hợp về công nghiệp hóa, hiện đại
hóa mà theo tác giả được dùng phổ biến ở nước ta hiện nay như sau: “Công
nghiệp hóa, hiện đại hóa là q trình chuyển đổi căn bản toàn diện các hoạt
động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao
động thủ cơng là chính, sang sử dụng phổ biến sức lao động cùng với công
nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển
của công nghiệp và tiến bộ khoa học – công nghệ, tạo ra năng suất lao động
xã hội cao”[26,42].
Đến Đại hội lần thứ VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã tiếp tục
khẳng định: “Từ nay đến năm 2020 chúng ta phải phấn đấu đưa nước ta cơ
bản trở thành nước công nghiệp hiện đại” và “Mục tiêu của công nghiệp hóa,
hiện đại hóa là xây dựng nước ta thành một nước cơng nghiệp có cơ sở vật
chất kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù
hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh
thần cao, quốc phòng, an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng văn minh, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội”[28,80]. Như vậy, theo
tinh thần Nghị quyết lần này, Đảng ta xác định cơng nghiệp hóa không chỉ là
phát triển nền công nghiệp mà là phát triển mọi lĩnh vực từ sản xuất vật chất


×