Tải bản đầy đủ (.doc) (118 trang)

TỔNG ôn tác PHẨM văn học HKII

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (469.87 KB, 118 trang )

1. MÙA XUÂN NHO NHỎ – THANH HẢI
Mọc giữa dòng sơng xanh
Một bơng hoa tím biếc
Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng.
Mùa xuân người cầm súng
Lộc giắt đầy quanh lưng
Mùa xuân người ra đồng
Lộc trải dài nương mạ
Tất cả như hối hả
Tất cả như xơn xao
Ðất nước bốn nghìn năm
Vất vả và gian lao
Ðất nước như vì sao
Cứ đi lên phía trước.
Ta làm con chim hót
Ta làm một cành hoa
Ta nhập vào hoà ca
Một nốt trầm xao xuyến.
Một mùa xuân nho nhỏ
Lặng lẽ dâng cho đời
Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc.
Mùa xuân ta xin hát
Câu Nam ai, Nam bình
Nước non ngàn dặm mình
Nước non ngàn dặm tình
Nhịp phách tiền đất Huế...
11-1980


Bài thơ này được tác giả viết trên giường bệnh trước khi mất không lâu, thể hiện
1


niềm yêu mến thiết tha cuộc sống, đất nước và ước nguyện của tác giả. Bài thơ được in
trong tập thơ Huế mùa xuân. Bài thơ đã được nhạc sĩ Trần Hồn phổ nhạc thành bài hát
cùng tên.
I. Tìm hiểu chung
1. Tác giả:
– Thanh Hải (1930-1980) tên khai sinh là Phạm bá Ngoãn, quê ở huyện Phong Điền,
tỉnh Thừa Thiên Huế.
– Ông hoạt động văn nghệ từ cuối những năm kháng chiến chống Pháp. Trong thời kỳ
chống Mỹ cứu nước, Thanh Hải ở lại quê hương hoạt động và là một trong những cây
bút có cơng xây dựng nền văn học Cách mạng ở miền Nam từ những ngày đầu.
2. Tác phẩm:
- Bài thơ được viết vào tháng 11/1980, không bao lâu trước khi nhà thơ qua đời, thể hiện
niềm yêu mến cuộc sống đất nước thiết tha và ước nguyện của tác giả.
– Bài thơ là tiếng lòng tha thiết yêu mến và gắn bó với đất nước, với cuộc đời, thể hiện
ước nguyện chân thành của nhà thơ được cống hiến cho đất nước, góp một “mùa xuân
nho nhỏ” của mình vào mùa xuân lớn của dân tộc.
– Nghệ thuật: bài thơ theo thể năm tiếng, có nhạc điệu trong sáng, tha thiết, gần gũi với
dân ca, nhiều hình ảnh đẹp, giản dị gợi cảm, so sánh ẩn dụ và sáng tạo.
* Mạch cảm xúc: được khơi nguồn, nảy nở từ sức sống, vẻ đẹp của mùa xuân thiên
nhiên, mở rộng ra với mùa xuân đất nước, cách mạng. Cảm xúc lắng đọng dần vào suy
tư và ước nguyện: nhà thơ muốn nhập vào bản hoà ca vĩ đại của cuộc đời bằng một nốt
trầm xao xuyến của riêng mình, góp vào mùa xn chung lớn lao “một mùa xuân nho
nhỏ”. Bài thơ khép lại với những cảm xúc thiết tha, tự hào về quê hương, đất nước qua
điệu dân ca xứ Huế.
* Bố cục: Gồm 4 phần:
– Khổ 1: Cảm xúc trước mùa xuân thiên nhiên, đất trời

– Khổ 2+3: Cảm xúc về mùa xuân của đất nước
– Khổ 4+5: Suy nghĩ và ước nguyện của tác giả trước mùa xuân đất nước.
– Khổ cuối: Lời ngợi ca quê hương, đất nước qua điệu dân ca xứ Huế.
d. Tên bài thơ:
– “Mùa xuân nho nhỏ” là một sáng tác độc đáo, một phát hiện mới mẻ của nhà thơ.
– Hình ảnh “Mùa xuân nho nhỏ” là biểu tượng cho những gì tinh tuý, đẹp đẽ nhất của sự
sống và cuộc đời mỗi con người.
2


– Thể hiện quan điểm về sự thống nhất giữa cái riêng với cái chung, giữa cá nân và cộng
đồng.
– Thể hiện nguyện ước của nhà thơ muốn làm một mùa xuân, nghĩa là sống đẹp, sống
với tất cả sức sống tươi trẻ của mình nhưng rất khiêm nhường là một mùa xuân nhỏ góp
vào mùa xuân lớn của thiên nhiên, đất nước, của cuộc đời chung và khát vọng sống chân
thành, cao đẹp của nhà thơ. Đó cũng chính là chủ đề của bài thơ mà nhà thơ muốn gửi
gắm.
II. Tìm hiểu chi tiết
K1. Cảm xúc của nhà thơ trước mùa xuân của thiên nhiên– Bức tranh mùa xuân thiên
nhiên trong 6 câu thơ đầu được vẽ bằng vài nét phác hoạ nhưng rất đặc sắc.
Mọc giữa dịng sơng xanh
Một bơng hoa tím biếc
Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời.
-Không gian cao rộng của bầu trời, rộng dài của dịng sơng, màu sắc hài hồ của bơng
hoa tím biếc và dịng sơng xanh – đặc trưng của xứ Huế.
– Rộn rã, tươi vui với âm thanh tiếng chim chiền chiện hót vang trời, tiếng chim trong
anh sáng xuân lan toả khắp bầu trời như đọng thành “từng giọt long lanh rơi”.
– Cảm xúc của tác giả trước mùa xuân đất trời thể hiện qua cái nhìn trìu mến với cảnh
vật, trong những lời bộc lộ trực tiếp như lời trị chuyện với thiên nhiên “ơi, hót chi…

mà…”. Đặc biệt cảm xúc của nhà thơ được thể hiện trong một động tác trữ tình đón trân
trọng vừa tha thiết trìu mến với mùa xuân: đưa tay hứng lấy từng giọt long lanh của
tiếng chim chiền chiện.
“Từng giọt long lanh rơi
Tơi đưa tay tơi hứng”.
– Có thể hiểu câu thơ theo nhiều cách khác nhau. Trước hết, “giọt long lanh” là những
giọt mưa mùa xuân, giọt sương mùa xuân, trong sáng, rơi xuống từng nhành cây, kẽ lá
như những hạt ngọc.
– Ở đây, giọt long lanh cũng có thể được hiểu theo nghĩa ẩn dụng chuyển đổi cảm giác.
Tiếng chim từ chỗ là âm thanh (cảm nhận bằng thính giác) chuyển thành từng giọt (hình
và khối, cảm nhận bằng thị giác), từng giọt ấy lại long lanh ánh sáng và màu sắc, có thể
cảm nhận bằng xúc giác “Tơi đưa tay tơi hứng”. Dù hiểu theo cách nào thì hai câu thơ
vẫn thể hiện cảm xúc say sưa, ngây ngất của tác giả trước cảnh đất trời xứ Huế vào xuân,
3


thể hiện mong muốn hoá vào thiên nhiên đất trời trong tâm tưởng giữa mùa đông giá
lạnh khiến ta vô cùng khâm phục.
K2,3 . Cảm xúc của nhà thơ trước mùa xuân của đất nước (10 câu tiếp)
– Hình ảnh lộc xuân theo người ra tràn theo người ra đồng làm đẹp ý thơ với cuộc sống
lao động và chiến đấu, xây dựng và bảo vệ, 2 nhiệm vụ không thể tách rời. Họ đã đem
mùa xuân đến mọi nơi trên đất nước.
“Mùa xuân người cầm súng
Lộc giắt đầy quanh lưng
Mùa xuân người ra đồng
Lộc trải dài nương mạ”
+ “Mùa xuân người cầm súng. Lộc giắt đầy trên lưng”: liên tưởng đến những người
chiến sỹ ra trận mà trên vai, trên lưng họ có cành lá nguỵ trang. Những cành lá ấy mang
lộc biếc, chồi non, mang theo mùa xuân của thiên nhiên, cây cỏ. Từ “lộc” còn làm cho
người ta liên tưởng đến hình ảnh người lính khi ra trận, mang theo sức sống của cả dân

tộc. Chính màu xanh sức sống đó đã tiếp cho người lính có thêm sức mạnh, ý chí để họ
vươn xa ra phía trước tiêu diệt quân thù.
+ “Mùa xuân người ra đồng. Lộc trải dài nương mạ”: nói về những người lao động,
những người ươm mầm cho sự sống, ươm những hạt mầm non trên những cánh đồng
quê hương, từ “lộc” cho ta nghĩ tới những cánh đồng trải dài mênh mông với những chồi
non mới nhú lên xanh mướt từ những hạt thóc giống đầu mùa xn. Từ “lộc” cịn mang
sức sống, sức mạnh của con người. Có thể nói, chính con người đã tạo nên sức sống của
mùa xuân thiên nhiên, đất nước.
+ “Tất cả như hối hả. Tất cả như xôn xao”. Nhà thơ Thanh Hải đã cảm nhận mùa xuân
đất nước bằng hai từ láy gợi cảm “hối hả” là vội vã, khẩn trương, liên tục không dừng
lại. “Xôn xao” khiến ta nghĩ tới những âm thanh liên tiếp vọng về, hồ lẫn với nhau xao
động. Đây chính là tâm trạng tác giả, là cái náo nức trong tâm hồn. Tiếng lòng của tác
giả như reo vui náo nức trước tinh thần lao động khẩn trương của con người. Mùa xuân
đất nước được làm nên từ cái hối hả ấy. Sức sống của đất nước, của dân tộc, cũng được
tạo nên từ sự hối hả, náo nức của người cầm súng, người ra đồng. Như vậy, hình ảnh
mùa xuân đất nước đã đươcn mở rộng dần. Đầu tiên, nó chỉ gói gọn trên đơi vai, tấm
lưng của người ra trận, đã được mở rộng thành một cánh đồng bao la.
– Nhà thơ tin tưởng, tự hào về tương lai tươi sáng của đất nước cho dù trước mắt cịn
nhiều vất vả, khó khăn. Và đất nước được hình dung bằng một hình ảnh so sánh thật đẹp
mang nhiều ý nghĩa :
“Đất nước bốn nghìn năm
4


Vất vả và gian lao
Đất nước như vì sao
Cứ đi lên phía trước”.
- Sao là một nguồn sáng lấp lánh, là vẻ đẹp vĩnh hằng vượt qua mọi không gian và thời
gian. Sao cũng là hình ảnh rạng ngời trên lá cờ Tổ quốc. Qua đó, tác giả Thanh Hải bộc
lộ niềm tự hào về một đất nước Việt Nam anh hùng và giàu đẹp. Đất nước mãi trường

tồn, vĩnh cửu cùng vũ trụ, không bao giờ mất đi và không một thế lực nào ngăn cản
được, nhất định đất nước cũng sẽ toả sáng như những vì sao trong hành trình đi đến
tương lai rực rỡ, đi đến bến bờ hạnh phúc. Đó là chí quyết tâm, niềm tin sắt đá, niềm tự
hào lạc quan của cả dân tộc. Ở câu thơ thứ hai, phụ từ “cứ” kết hợp với động từ “đi lên”
thể hiện quyết tâm cao độ, hiên ngang tiến lên phía trước, vượt qua mọi khó khăn, cảm
xúc của nhà thơ là cảm xúc lạc quan, tin tưởng, ngợi ca sức sống của quê hương đất
nước, của dân tộc khi mùa xuân về.
K4,5. Ước nguyện của nhà thơ (8 câu tiếp)
– Muốn làm những việc hữu ích dâng hiến cho đời bày tỏ qua những hình ảnh tự nhiên,
giản dị và đẹp. Đẹp và tự nhiên và giàu ý nghĩa vì nhà thơ đã lấy cái đẹp tinh tuý của
thiên nhiên để diễn tả vẻ đẹp của tâm hồn:
“Ta làm con chim hót
Ta làm một nhành hoa
Ta nhập vào hoà ca
Một nốt trầm xao xuyến”.
– Làm “con chim hót” giữa mn ngàn tiếng chim vơ tư cống hiến tiếng hót vui, làm
“một cành hoa” giữa vườn hoa xuân rực rỡ vô tư cống hiến hương sắc cho đời, làm “một
nốt trầm” giữa bản hồ tấu mn điệu, làm “một mùa xuân nho nhỏ” góp vào mùa xuân
lớn của đất nước, của cuộc đời chung. Ở phần đầu bài thơ, tác giả đã phác hoạ hình ảnh
mùa xuân bằng các chi tiết bông hoa và tiếng chim hót. Cấu tứ lặp đi lặp lại như vậy tạo
ra sự đối ứng chặt chẽ. Hình ảnh chọn lọc ấy trở lại đã mang một ý nghĩa mới: niềm
mong muốn được sống có ích, cống hiến cho đời là một lẽ tự nhiên.
– Điệp từ “ta” như một lời khẳng định. Nó khơng chỉ là lời tâm niệm thiết tha, chân
thành của nhà thơ mà nó cịn đề cập đến một vấn đề lớn là khát vọng chung của nhiều
người.
“Một mùa xuân nho nhỏ
Lặng lẽ dâng cho đời
5



Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc”
– Ước nguyện hố thân đso vơ cùng cháy bỏng, nhưng được tác giả âm thầm “lặng lẽ
dâng cho đời”. “Nho nhỏ”, “lặng lẽ” là cách nói khiêm tốn, chân thành mà giản dị, là
cách sống cao đẹp. Tác giả muốn mỗi người là một mùa xuân nhỏ hoà vào cuộc sống, là
ước nguyện sống có ích, được cống hiến cho đời như Tố Hữu đã viết trong “Một khúc ca
xuân”.
“Nếu là con chim, chiếc lá
Thì con chim phải hót, chiếc lá phải xanh
Lẽ nào vay mà khơng có trả
Sống là cho, đâu chỉ nhận riêng mình”
– “Mùa xuân nho nhỏ” là một ẩn dụ đầy sáng tạo, cũng là cách thể hiện thiết tha, cảm
động. Nó đã khắc sâu ý tưởng: “Mỗi cuộc đời đã hố núi sơng ta” (Nguyễn Khoa Điềm).
Đó khơng phải mong muốn trong một lúc mà là cả một cuộc đời “Dù là tuổi hai mươi.
Dù là khi tóc bạc”.
– Điệp từ “Dù là” khiến âm điệu câu thơ tha thiết, sâu lắng, ý thơ được nhấn mạnh làm
cho người đọc không chỉ xúc động trước một giọng thơ ấm áp, mà còn xúc động trước
lời tâm sự thiết tha của một con người đã từng trải qua 2 cuộc kháng chiến, đã cống hiến
trọn cuộc đời và sự nghiệp cho cách mạng vẫn tha thiết được sống đẹp, sống có ích với
tất cả sức sống tươi trẻ của mình cho cuộc đời chung.
– Bài thơ được viết một tháng trước khi nhà thơ trở về với cát bụi nhưng không gợi chút
băn khoăn về bệnh tật, những suy nghĩ riêng tư cho bản thân mà chỉ “lặng lẽ cháy bỏng
một khát khao được dâng hiến”.
K6. Lời ngợi ca quê hương, đất nước qua điệu dân ca xứ Huế
Như một nhịp láy lại của khúc dân ca dịu dàng, đằm thắm tăng giá trị biểu hiện của các
khổ thơ trên đem lại thi vị Huế trìu mến tha thiết.
“Mùa xuân – ta xin hát
Câu Nam ai, Nam bình
Nước non ngàn dặm mình
Nước non ngàn dặm tình

Nhịp phác tiền đất Huế”.
6


– Bài thơ khép lại trong âm điệu khúc Nam ai, Nam bình xứ Huế. Đoạn thơ kết thúc như
một khúc hát ca ngợi mùa xuân, để lại dư vị sâu lắng. Nhà thơ muốn hát lên điệu Nam
ai, Nam bình, điệu dân ca tha thiết xứ Huế để đón mừng mùa xuân. Câu ca nghe như một
lời từ biệt để hồ vào vĩnh viễn. Nhưng đây khơng phải là lời ca buồn thủa trước “nhịp
phác tiền đất Huế” nghe giịn giã, vang xa.
– “Nước non ngàn dặm mình. Nước non ngàn dặm tình” cịn ngân nga mãi mãi. Phải yêu
đời lắm, phải lạc quan lắm mới có thể hát lên trong hồn cảnh nhà thơ lúc đó (đang ốm
nặng và sắp qua đời). Điều đó làm ta càng yêu quý tiếng hát và tấm lòng nhà thơ. Như
vậy, xuyên suốt bài thơ khơng chỉ là hình tượng mùa xn. Từ tiếng chim chiền chiện
tượng trưng cho khúc hát của đất trời đến làm một nốt nhạc trầm nhập vào bản hoà ca
đất nước, và đến đây là khúc hát tạo ấn tượng một bài ca không dứt. Một bài ca yêu cuộc
sống. Bài thơ được nhạc sỹ Trần Hoàn phổ nhạc thành bài hát và trở thành một khúc ca
xuân quen thuộc, xúc động, còn mãi với đời.
Nghệ thuật đặc sắc:
– Thể thơ 5 chữ gần với điệu dân ca, âm hưởng trong sáng, nhẹ nhàng, tha thiết, điệu thơ
như điệu của tâm hồn, cách gieo vần liền tạo sự liền mạch của dịng cảm xúc.
– Hình ảnh tự nhiên, giản dị, những hình ảnh giàu ý nghĩa biểu tượng, đặc biệt một số
hình ảnh cành hoa, con chim, mùa xuân được lặp đi lặp lại và nâng cao, gây ấn tượng
đậm đà.
– Cấu tứ bài thơ chặt chẽ, chủ yếu dựa trên sự phát triển của hình tượng mùa xuân: từ
mùa xuân đất trời -> đất nước -> con người.
– Giọng điệu bài thơ phù hợp với cảm xúc của tác giả: Ở đoạn đầu vui, say sưa với vẻ
đẹp của mùa xuân thiên nhiên, rồi phấn chấn, hối hả trước khí thế lao động của đất nước.
Và cuối cùng là trầm lắng, hơi trang nghiêm mà thiết tha bộc bạch, tâm niệm.

7



Đề bài 1: Phân tích bài thơ Mùa xuân nho nhỏ
Cứ mỗi dịp tết đến xuân về chúng ta không thể nào quên Thanh Hải với "Mùa
xuân nho nhỏ" đã góp vào thơ ca truyền thống dân tộc một bài thơ xuân đẹp, đậm đà tình
nghĩa. Bài thơ được viết năm 1980 khi tác giả đang trên giường bệnh, được xem là lời
tâm niệm đáng trân trọng trước lúc ra đi. " Mùa xn nho nhỏ" của ơng đã nói lên lẽ
sống, ý nghĩa của đời sống con người bằng cảm xúc thật, là điều tâm niệm chân thành,
thiết tha với giọng thơ nhỏ nhẹ tâm tình.
Bài thơ bắt đầu bằng cảm xúc trực tiếp, hồn nhiên trong trẻo trước vẻ đẹp và sức
sống của mùa xuân thiên nhiên. Từ đó mở ra thành hình ảnh mùa xn của đất nước. Từ
mạch cảm xúc ấy nhà thơ bộc lộ suy nghĩ và ước nguyện làm một mùa xuân nho nhỏ
góp vào mùa xuân lớn và kết thúc bài thơ là niềm tự hào về quê hương đất nước qua điệu
dân ca xứ Huế.
Bằng những hình ảnh chọn lọc đặc sắc nhà thơ đã vẽ nên một bức tranh thiên
nhiên mùa xn với dịng sơng xanh, một bơng hoa tím biếc và tiếng chim chiền
chiện:
Mọc giữa dịng sơng xanh
Một bơng hoa tím biếc
Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng.

Chỉ với sáu câu thơ, với vài nét phác vẽ đơn sơ mà đặc sắc, bằng những hình ảnh
nho nhỏ, thân quen, bình dị, nhà thơ đã gợi lên một bức tranh xuân tươi tắn, thơ mộng,
đậm phong vị xứ Huế – quê hương tác giả: dịng song xanh, bơng hoa tím biếc, chim
chiền chiện hót vang trời. Khơng gian được mở ra cao vời, thống đãng (với dịng song
mặt đất, bầu trời bao la). Sắc màu thì tươi tắn, hài hịa, đầy xuân sắc, hoa tím biếc nổi bật
8



giữa dòng song xanh lung linh ngời sáng. Âm thanh thì rộn rã, tươi vui (chim chiền
chiện hót vang trời). Cách nói đảo ngữ (vị ngữ đứng trước): “Mọc giữ dịng song xanh –
Một bơng hoa tím biếc” gợi ấn tượng đậm nét về vẻ đẹp và sức sống của bơng hoa xn.
Bơng hoa ở giữa trái tim của dịng song, trung tâm của bức tranh, như đang dần vươn
lên, xịe nở, phơ màu. Cịn tiếng chim chiền chiện – sơn ca xứ Huế, sứ giả của mùa xuân
thì vang ngân, xáo động cả bầu trời, xao xuyến hồn thi nhân. Nỗi xúc động khơng nén
nổi, thốt lên lời trị chuyện, trách yêu thiên nhiên (Ơi con chim chiền chiện – Hót chi mà
vang trời). Chim và hoa vốn tiêu biểu cho vẻ đẹp và sức sống sinh giới, vẻ đẹp của mùa
xuân, dưới cái nhìn của thi sĩ vẫn mang nét riêng không thể lẫn. Đặc biệt, bức tranh xn
cịn được hồn thiện bởi chi tiết rất tạo hình, có hồn này:
Từng giọt long lanh rơi
Tơi đưa tay tơi hứng
Có thể hiểu “giọt long lanh” là những giọt mưa xuân đang long lanh dưới ánh
sáng của trời xuân. Cũng có thể hiểu hai câu này gắn với hai câu trước – nhà thơ đưa tay
hứng từng giọt âm thanh tiếng chim. Tiếng chim ngân lên từng tiếng một, thật trong, thật
tròn, thật vang và trong ánh sáng tươi rạng rỡ của ngày xn, nó khơng tan đi mất đi mà
dọng lại thành từng giọt hữu hình, long lanh như ngọc, rơi xuống thành chuỗi và nhà thơ
đưa tay hứng với tất cả sự đắm say, trân trọng. Hiểu như vậy thì ở đây có sự chuyển đổi
cảm giác: từ âm thanh tiếng chim (cảm nhận bằng thính giác) đến giọt nước long lanh
(cảm nhận bằng thị giác) và đưa tay hứng (cảm nhận bằng xúc giác). Thi sĩ đã chủ quan
hóa mọi cảm nhận của mình. Hình ảnh thơ trở nên lunh linh, đa nghĩa, vừa là thơ, vừa là
nhạc, vừa là họa. “Giọt long lanh” là giọt mưa hay giọt âm thanh, hay giọt mùa xuân,
giọt hạnh phúc của đời, của trời cao rơi xuống mà thi nhân nâng miu đón nhận. Nhưng
có lẽ, sự cảm nhận vẫn nghiêng về phía âm thanh, đó là những nốt nhạc trong trẻo, vang
ngân của bản hòa ca đất trời, cuộc sống vào xuân. Nhà thơ vui say trước vẻ đẹp của đất
trời, thấy sâu hơn cái kì diệu của đất nước quê hương trong thời đại mới, Từ đó làm cơ
sở cho việc xác địng lẽ sống của mình. Điều đáng chú ý là khi Thanh Hải viết những
dòng này, mùa xuân chưa đến với cõi đất này (tháng 11), nhưng lời thơ vẫn tràn đầy

xuân sắc. Phải yêu đời thiết tha và lạc quan lắm mới mở long với mùa xuân như vậy để
viết nên những câu thơ dạt dào cảm hứng xuân áy.

9


Từ mùa xuân thiên nhiên, đất trời tươi tắn, nhà thơ chuyển sang cảm nhận
về mùa xuân đất nước, con người. Tác giả hướng tình cảm tới những con người cụ
thể, những con người làm nên lịch sử, làm nên mùa xuân:
Mùa xuân người cầm súng
Lộc giắt đầy quanh lưng
Mùa xuân người ra đồng
Lộc trải dài mương mạ
Cái điệp từ “mùa xuân”, “lộc”, “người” như trải rộng khung cảnh hiện thực khi
gắn với cuộc sống chiến đấu và lao động của nhân dân. Thanh Hải đã sáng tạo ra cặp
hình ảnh song đôi, đẹp như hai vế của một câu đối mừng xuân để nói về hai lớp người
chủ yếu của cách mạng, hai nhiệm vụ cơ bản của đất nước: người chiến sĩ và người lao
động – bảo vệ và xây dựng đất nước. Điệp từ “lộc” được dung với hai lớp nghĩa: nhành
non, lá nõn và nghĩa ẩn dụ là sức sống, thế vươn lên, sức phát triển mới, là vẻ đẹp, là
những giá trị của thành quả tốt đẹp. Các từ “giắt đầy”, “trải dài” gợi một màu xanh bất
tận, một sức xuân dâng tràn trên khắp mọi nẻo đường đất nước và rạo rực long người.
Lộc trên cành lá ngụy trang theo bước chân người cầm sung ra trận, lộc trải dài trên
những nương mạ theo bàn tay người ra đồng, hay chính họ đã đem mùa xuân đến, gieo
mùa xuân trên khắp mọi miền đất nước. Họ trở thành người làm ra mùa xuân và bảo vệ
mùa xuân. Và họ đã làm nên giai điệu của chính bản hợp xướng mùa xuân – mùa xuân
lớn của đất nước, cách mạng, tạo nên nhịp điệu mùa xuân hối hả, hào hùng:
Tất cả như hối hả Tất cả như xôn xao Lặp lại cấu trúc “tất cả như” (điệp ngữ) và
lối so xánh trực tiếp diễn tả được khơng khí lên đường, sự khẩn trương, rộn ràng, náo
nức trong những năm tháng gian lao mà hào hung đó của đất nước.
Tất cả như hối hả

Tất cả như xôn xao
Từ những con người cụ thể, nhà thơ nghĩ về đất nước trong cảm nhận khái quát
cùng cái nhìn suốt chiều dài lịch sử, với tình cảm vừa thương xót vừa tự hào: Đất nước
bốn ngàn năm Vất vả và gian lao Đất nước như vì sao Cứ đi lên phía trước Đất nước
10


được nhân hóa, mang sự sống như con người. Đất nước vất vả và gian lao nhưng với sức
sống bền bỉ, kiên định, vững vàng, vẫn cứ đi lên không gì cưỡng nổi và mỗi mừa xuân
như lại được tiếp thêm sức sống mới. Lúc đó đất nước ta vừa trải qua chiến tranh kéo
dài, hết chống Pháp rồi chống Mĩ, rồi chiến tranh biên giới phía Bắc, phía Tây Nam, nền
kinh tế cịn trong thời kì bao cấp rất khó khan nhưng vẫn khẩn trương, hăm hở xây dựng
lại cơ đồ và nhà thơ vững tin vào dân tộc. Đất nước được ví với ngơi sao tỏa sáng, cứ đi
lên phía trước, hợp với quy luật của tạo hóa, của lịch sử. Hình ảnh đó cũng nho nhỏ,
khiêm nhường, bình dị thơi nhưng ánh sáng và vẻ đẹp của nó cũng vĩnh hằng, bất diệt.
Ngơi sao đất nước ấy như định hướng cho mỗi cuộc đời, vẫy gọi, giục giã cho mọi người
cống hiến.
Tâm nguyện của nhà thơ Trước mùa xuân của đất trời, đất nước, nhà thơ
tâm niệm về mùa xuân riêng của mỗi cuộc đời và dạt dào một khát vọng hòa nhập
và dâng hiến cho mùa xuân chung:
Ta làm con chim hót
Ta làm một cành hoa
Ta nhập vào hòa ca
Một nốt trầm xao xuyến
Lời bộc bạch chân thành, tha thiết. Nhà thơ nguyện ước làm con chim hót trong
giọng nói của mn chim dâng cho đời tiếng ca vui, làm bông hoa trong hương sắc của
muôn hoa, làm nốt trầm xao xuyến cho bản hòa tấu muôn điệu, muôn lời ca, làm một
“mùa xuân nho nhỏ” góp vào mùa xuân lớn của đất nước, dân tộc. Đó là khát vọng sống
hịa nhập vào cuộc sống của đất nước, cống hiến phần tốt đẹp dù nhỏ bé của mình cho
cuộc đời chung – một quan niệm sống đẹp, đầy trách nhiệm và rất nhân văn. Điều tâm

niệm ấy lại được thể hiện một cách chân thành trong những hình ảnh đẹp của tự nhiên và
đến một cách tự nhiên trong mạch cảm xúc của bài thơ. Trước mùa xuân đẹp, nhà thơ
muốn biến cuộc đời mình thành hương sắc, tiếng ca để hịa góp cùng mùa xn. Những
hình ảnh đẹp của thiên nhiên, của mùa xuân (hoa, chim) được lập lại nhưng đã chuyển
nghĩa để nói về mùa xuân lí tưởng, khát vọng vừa tạo ra sự đối ứng chặt chẽ, gây ấn
tượng mạnh mẽ vừa mang ý nghĩa: Niềm mong muốn được sống có ích, cống hiến cho
đời là một lẽ tự nhiên như con chim cho tiếng hót, bơng hoa dâng sắc hương, như nhà
thơ Tố Hữu đã viết:
11


Nếu là con chim, chiếc lá
Thì con chim phải hót, chiếc lá phải xanh
Lẽ nào vay mà khơng có trả
Sống là cho, đâu chỉ nhận riêng mình?
(Một khúc ca xn)

Đó là sự gặp gỡ trong tình cảm, lẽ sống của hai nhà thơ xứ Huế. Thanh Hải ý thức
được vai trò, ý thức được cá nhân trong xã hội. Sự đóng góp của mỗi người chỉ là một
nét nhỏ, một chi tiết nhỏ giữa cuộc đời lớn lao. Nhưng đó là những gì cao đẹp, tinh túy
nhất của mình cho cuộc đời. Nhà thơ ví đất nước như một bản hịa ca, đó là ẩn dụ đẹp và
cịn đẹp hơn nữa là làm “một nốt trầm xao xuyến” trong hòa ca. Một nốt trầm thơi khơng
nổi trội, lảnh lót mà “xao xuyến” long người và khơng thể thiếu trong hịa ca. Tư tưởng
của nhà thơ kết đọng nhất trong hình ảnh “Một mùa xuân nho nhỏ – Lặng lẽ dâng cho
đời”. Nhiều người đã gắn mùa xuân với những định ngữ khác nhau như: Mùa xuân chin
(Hàn Mặc Tử), Mùa xuân xanh (Nguyễn Bính), Xuân hồng (Xuân Diệu), Xuân ý, Xuân
long, Xuân nhân loại …
Nhưng “mùa xuân nho nhỏ” là một phát hiện mới mẻ và sáng tạo, bất ngờ, độc
đáo mà rất hợp lý, tự nhiên của Thanh Hải. “Mùa xuân” vốn là khái niệm thời gian lại
“nho nhỏ”. Nó gợi một mùa xuân cụ thể, chỉ nho nhỏ thơi trong hình ảnh bơng hoa, tiếng

chim nhưng chủ yếu là một ẩn dụ, nói về một khát vọng, một lẽ sống cao đẹp, một ý
thức khiêm nhường. Làm “mùa xuân” nghĩa là sống cao đẹp, giữ mãi sức xuân, bầu
nhiệt huyết để cống hiến, cống hiến khi ở tuổi thanh xn – tuổi hai mươi và khi khơng
cịn tuổi thanh xuân nữa – khi tóc bạc, bất chấp thời gian, tuổi tác: “Dù là tuổi hai mươi
– Dù là khi tóc bạc”. Nhưng mỗi người chỉ là “mùa xuân nho nhỏ” thôi, mùa xuân lớn
thuộc về đất trời, đất nước. Đây cũng không chỉ là khát vọng của mỗi con người mà là
khát vọng của mọi lớp người, mọi lứa tuổi, tất cả đều phấn đấu không mệt mỏi, bền bỉ
cống hiến cho đất nước. Điệp ngữ “dù là” khẳng định mạnh mẽ khát vọng ấy. Và cống
hiến tất cả sự khiêm tốn, thiết tha, trân trọng “Lặng lẽ dâng”. Chủ thể trữ tình từ chỗ
“hứng” từng rọt long lanh (đón nhận) đến “nhập” vào hịa ca (hịa nhập) rồi đến “dâng”
cho đời (cống hiến). Đó là sự phát triển tự nhiên, hợp lí của cảm xúc chủ thế trữ tình. Từ
chỗ xưng “tơi” khi bộc lộ cảm hứng trữ tình của mình trước mùa xuân giờ tác giả chuyển
12


sang xưng “ta” và ẩn đi trong hình ảnh thơ, chỉ còn “Một mùa xuân nho nhỏ” cũng là
phù hợp để nói lên ước nguyện cao đẹp chung của nhiều người – mọi người – những con
người chân chính. Hơn nữa, chữ “ta” còn mang được sắc thái trang trọng, thiêng liêng
của một lời nguyện ước. Các điệp từ, điệp ngữ, điệp cấu trúc, tạo nhịp thơ liền mạch, sôi
nổi, trẻ trung diễn tả những tình cảm, khát vọng dâng trào mãnh liệt.
Những câu thơ này không chỉ là lời tự dặn mình, lời tâm niệm chân thành mà cịn
như một sự tổng kết, đánh giá của tác giả về cuộc đời mình – một cuộc đời đã hiến dâng
trọn vẹn cho đất nước. Trong những năm tháng chiến tranh ác liệt, Thanh Hải bám trụ ở
quê hương, cầm sung, cầm bút, trọn đời cống hiến cho cách mạng và thơ ca. Đến khi kề
bên cái chết, ông vẫn khát khao cống hiến và chỉ nói đến cống hiến. Vượt lên sự đau đớn
của bệnh tật, Thanh Hải vẫn sáng lên một bản lĩnh, một tình yêu cuộc sống mãnh liệt,
một khát vọng đẹp đẽ được cống hiến cả cuộc đời mình, được hóa thân vào mùa xn
đất nước. Đây là những câu thơ giản dị và dạt dào xúc động, những câu thơ hay nhất của
bài, vừa chứa chan cảm xúc, vừa đậm đà ý vị triết lí, gợi bao lien tướng sâu xa, đem đến
những bài học nhân sinh sâu sắc. Lời nhắn nhủ của bài thơ không cao đạo bởi rất nhỏ

nhẹ, khiêm nhường và thi sĩ đã tự nguyện đứng vào nhân loại vô danh. Lời ngợi ca quê
hương, đất nước Dòng cảm xúc dạt dào, mãnh liệt đã cất lên lời ca. Nhà thơ bộc lộ niềm
yêu mến, tự hào với cuộc đời trong tiếng hát tự nguyện – muốn hát lên điệu hát của quê
hương xứ Huế – Câu Nam ai Nam bình để đón mừng mùa xn. Lời ca thiết tha “ngàn
dặm tình” nhưng không phải lời ca buồn thuở trước, nhịp phách tiền nghe giòn giã, vang
xa. Phải yêu đời, lạc quan lắm mới có thể hát lên trong hồn cảnh nhà thơ lúc đó – đang
ốm nặng sắp qua đời. Ta càng yêu quý, trân trọng tiếng hát – tấm long nhà thơ. Từ tiếng
hót của con chim chiền chiện tượng trưng cho khúc ca của đất trời đến nốt trầm xao
xuyến trong hòa ca và đến tiếng hát tự nguyện của nhà thơ tạo ấn tượng một bài ca
không dứt. Thanh Hải hát mãi bài ca yêu cuộc sống – Bài ca mùa xuân. Bài thơ đã được
nhạc sĩ Trần Hoàn phổ nhạc thành bài hát và trở thành một khúc ca xuân xúc động còn
mãi với đời.
Lời ngợi ca quê hương, đất nước
Dòng cảm xúc dạt dào, mãnh liệt đã cất lên lời ca. Nhà thơ bộc lộ niềm yêu
mến, tự hào với cuộc đời trong tiếng hát tự nguyện – muốn hát lên điệu hát của quê
hương xứ Huế – Câu Nam ai Nam bình để đón mừng mùa xn. Lời ca thiết tha “ngàn
dặm tình” nhưng khơng phải lời ca buồn thuở trước, nhịp phách tiền nghe giòn giã, vang
xa. Phải yêu đời, lạc quan lắm mới có thể hát lên trong hồn cảnh nhà thơ lúc đó – đang
13


ốm nặng sắp qua đời. Ta càng yêu quý, trân trọng tiếng hát – tấm long nhà thơ. Từ tiếng
hót của con chim chiền chiện tượng trưng cho khúc ca của đất trời đến nốt trầm xao
xuyến trong hòa ca và đến tiếng hát tự nguyện của nhà thơ tạo ấn tượng một bài ca
không dứt. Thanh Hải hát mãi bài ca yêu cuộc sống – Bài ca mùa xuân. Bài thơ đã được
nhạc sĩ Trần Hoàn phổ nhạc thành bài hát và trở thành một khúc ca xuân xúc động còn
mãi với đời.

14



Đề bài 2: Cảm nhận của em về niềm khát khao dâng hiến cuộc đời của nhà thơ Thanh
Hải trong bài "Mùa xuân nho nhỏ".
=> Gợi ý:
Khi trình bày cảm nhận của cá nhân về niềm khát khao dâng hiến cuộc đời của nhà thơ
trong bài “Mùa xuân nho nhỏ”, cần nêu được các ý sau:
- Niềm khát khao dâng hiến cuộc đời được khơi gợi từ những cảm nhận về một mùa
xuân mới, mùa xuân của thiên nhiên đất trời, mùa xuân của cuộc sống lao động và chiến
đấu của dân tộc.
- Niềm khát khao dâng hiến cuộc đời được thể hiện một cách khiêm nhường nhưng rất
đỗi chân thành, đó là ước nguyện được hịa nhập, được là một con chim hót, một nhành
hoa tỏa ngát hương, một nốt trầm xao xuyến, một mùa xuân nho nhỏ… bất chấp thời
gian, bất chấp tuổi tác.
- Niềm khát khao ấy càng có ý nghĩa và xúc động khi là ước nguyện của một người đang
nằm trên giường bệnh.
=> BÀI VĂN:
Thời xưa, ở thời Lý, người ta còn nhớ Thiền sư Mãn Giác đến lúc bệnh nặng sắp
qua đời vẫn có những vần thơ tràn đầy niềm lạc quan, yêu đời, vui sống: “Đừng tưởng
xuân tàn hoa rụng hết - Đêm qua sân trước một nhành mai”. Thời nay, có Thanh Hải, khi
từng giờ từng phút chống chọi với bệnh tật, ơng vẫn có những vần thơ như thế! Đó chính
là bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ”.Thi phẩm thể hiện tiếng lòng của tác giả về mùa xuân
thiên nhiên, mùa xuân đất nước và ước nguyện được sống có ích. Đặc biệt, ước nguyện
ấy, lẽ sống ấy được thể hiện chân thành, sâu sắc qua những dòng thơ:

Ta làm con chim hót
Ta làm một cành hoa
Ta nhập vào hồ ca
Một nốt trầm xao xuyến.
Một mùa xuân nho nhỏ
Lặng lẽ dâng cho đời

Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc.
Đọc bài thơ, ta cảm nhận được những cảm xúc hồn nhiên,trong trẻo của thi nhân
trước vẻ đẹp và sức sống của mùa xuân thiên nhiên để rồi từ đó, cảm xúc được mở rộng
ra với hình ảnh mùa xuân đất nước, mùa xuân cách mạng cùng những suy ngẫm, tâm
niệm về lẽ sống, về ý nghĩa giá trị của cuộc đời mỗi con người. Đó là ước nguyện, là
khát vọng cống hiến cho cuộc đời, cho Tổ quốc, quê hương.
15


Để bày tỏ lẽ sống của mình, ngay từ những câu thơ mở đầu của đoạn, Thanh Hải
đã đem đến cho người đọc cái giai điệu ngọt ngào, êm ái của những thanh bằng liên tiếp
“ta”-“hoa”-“ca”. Điệp từ “ta” được điệp lại 3 lần thể hiện một ước nguyện chân thành,
thiết tha:

Ta làm con chim hót
Ta làm một cành hoa
Ta nhập vào hòa ca
Một nốt trầm xao xuyến.
Động từ “làm”-“nhập” ở vai trị vị ngữ biểu lộ sự hố thân đến diệu kỳ - hố thân để
sống đẹp, sống có ích. Nhà thơ đã lựa chọn những hình ảnh đẹp của thiên nhiên,của cuộc
sống để bày tỏ ước nguyện: “con chim”, “một cành hoa”,”một nốt trầm”. Cịn gì đẹp hơn
khi làm một cành hoa đem sắc hương tô điểm cho mùa xn đất mẹ!Cịn gì vui hơn khi
được làm con chim nhỏ cất tiếng hót rộn rã làm vui cho đời!Các hình ảnh bơng hoa,
tiếng chim đã xuất hiện trong cảm xúc của thi nhân về mùa xuân thiên nhiên tươi đẹp,
giờ lại được sử dụng để thể hiện lẽ sống của mình. Một ý nghĩa mới đã mở ra, đó là
mong muốn được sống có ích, sống làm đẹp cho đời là lẽ thường tình. Hình ảnh “nốt
trầm” và lặp lại số từ “một” tác giả cho thấy ước muốn tha thiết, chân thành của mình.
Khơng ồn ào, cao giọng, nhà thơ chỉ muốn làm “một nốt trầm” nhưng phải là“một nốt
trầm xao xuyến” để góp vào bản hồ ca chung. Nghĩa là nhà thơ muốn đem phần nhỏ bé

của riêng mình để góp vào cơng cuộc đổi mới và đi lên của đất nước. Sự chuyển đổi đại
từ nhân xưng “tơi” sang “ta” cũng có ý nghĩa sâu sắc. Đó là sự chuyển đổi từ cái “tơi”
tác giả ở khổ thơ đầu mang sắc thái nhỏ nhẹ, riêng tư sang đại từ nhân xưng “ta” mang
sắc thái trang trọng. Ở đây, cái “tôi” tác giả không chỉ cất tiếng nói của cá nhân mình mà
cịn nói lên tiếng lòng của mỗi người trong một mùa xuân mới, thể hiện sự hòa quyện,
thống nhất giữa cái riêng và cái chung, giữa cá nhân và cộng đồng. Nhạc điệu thơ chậm
rãi, đi vào chiều sâu trầm lắng, thiết tha. Đọc đoạn thơ, ta xúc động trước ước nguyện
của nhà thơ xứ Huế và cũng là ước nguyện của nhiều người.
Lẽ sống của Thanh Hải còn được thể hiện trong những vần thơ sâu lắng:
Một mùa xuân nhỏ
Lặng lẽ dâng cho đời
Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc.

16


Cách sử dụng ngôn từ của nhà thơ Thanh Hải rất chính xác,tinh tế và gợi cảm.
Làm cành hoa,làm con chim,làm nốt trầm và làm một mùa xuân nho nhỏ để lặng lẽ dâng
hiến cho cuộc đời. “Mùa xuân nho nhỏ” là một ẩn dụ đầy sáng tạo, biểu lộ một cuộc đời
đáng yêu, một khát vọng sống cao đẹp.Mỗi người hãy làm một mùa xuân, hãy đem tất cả
những gì tốt đẹp, tinh t của mình, dẫu có nhỏ bé để góp vào làm đẹp cho mùa xuân đất
nước. Cặp từ láy “nho nhỏ”, “lặng lẽ” cho thấy một thái độ chân thành,khiêm nhường.
Không khoe khoang, cao điệu mà chỉ lặng lẽ âm thầm dâng hiến.Ý thơ thể hiện một ước
nguyện, một khát vọng, một mục đích sống.Biết lặng lẽ dâng đời, biết sống vì mọi người
cũng là cách sống mà nhà thơ Tố Hữu đã viết:

“Nếu là con chim chiếc lá
Thì con chim phải hót, chiếc là phải xanh,
Lẽ nào vay mà không trả

Sống là cho, đâu chỉ nhận riêng mình”.
Nhớ khi xưa, Ức Trai tiên sinh đã từng tâm niệm:
“Bui một tấc lòng trung lẫn hiếu
Mài chăng khuyết,nhuộm chăng đen”.
Còn bây giờ,Thanh Hải – nhà thơ xứ Huế trước khi về với thế giới “người hiền”
cũng đã ước nguyện: “Lặng lẽ dâng cho đời/Dù là tuổi hai mươi/Dù là khi tóc bạc”.Lời
ước nguyện thật thuỷ chung, son sắt. Sử dụng điệp ngữ “dù là” nhắc lại hai lần như tiếng
lịng tự dặn mình đinh ninh: dẫu có ở giai đoạn nào của cuộc đời, tuổi hai mươi tràn đầy
sức trẻ, hay khi đã già, bệnh tật thì vẫn phải sống có ích cho đời, sống làm đẹp cho đất
nước. Đây là một vấn đề nhân sinh quan nhưng đã được chuyển tải bằng những hình ảnh
thơ sáng đẹp, bằng giọng thơ nhẹ nhàng, thủ thỉ,thiết tha. Vì vậy, mà sức lan tỏa của nó
thật lớn!

Bài thơ được viết vào thời gian cuối đời,trước khi nhà thơ đi vào cõi vĩnh hằng,
nhưng trong bài thơ, cũng như đoạn thơ khơng hề có chút băn khoăn về bệnh tật, về
những suy nghĩ riêng tư cho bản thân. Chỉ “lặng lẽ” mà cháy bỏng một nỗi khát khao
được dâng những gì đẹp đẽ nhất của cuộc đời mình cho đất nước. Đây không phải là câu
khẩu hiệu của một thanh niên vào đời, mà là lời tâm niệm của một con người đã từng trải
qua hai cuộc chiến tranh, đã cống hiến trọn vẹn cuộc đời và sự nghiệp của mình cho
Cách mạng.
Đoạn thơ, bài thơ với những hình ảnh đơn sơ, gần gũi mà chứa đựng nhiều cảm xúc,
17


nhiều nghĩ suy. Bằng thể thơ năm chữ, giọng điệu chân thành, tha thiết phù hợp với tâm
trạng cảm xúc, cùng với hình ảnh ẩn dụ… Thanh Hải đã gửi đến cho chúng ta một thông
điệp đáng quý: mỗi người hãy sống có khát vọng, sống có cống hiến, dù chỉ là phần nhỏ
bé của mình vào cơng cuộc bảo vệ, giữ gìn và dựng xây đất nước. Đọc đoạn thơ, bài thơ
ta càng yêu hơn, trân trọng hơn lẽ sống mà Thanh Hải để lại, ta càng phải tự nhủ: Hãy
sống đẹp – sống như Thanh Hải đã sống.


18


VIẾNG LĂNG BÁC – VIỄN PHƯƠNG
Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa, đứng thẳng hàng.
Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân...
Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim.
Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đoá hoa toả hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này...
4-1976
Năm 1976, sau khi cuộc kháng chiến chống Mĩ kết thúc thắng lợi, đất nước thống
nhất, lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng vừa khánh thành, Viễn Phương ra thăm miền Bắc,
vào lăng viếng Bác Hồ. Bài thơ này được sáng tác trong dịp đó và in trong tập thơ Như
mây mùa xuân (1978).

Bài thơ này đã được nhạc sĩ Hoàng Hiệp phổ nhạc thành bài hát cùng tên.
1. Tác giả:
– Viễn Phương (1928 – 2005), tên khai sinh là Phan Thanh Viễn, quê ở tỉnh An Giang.

– Trong kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ, ông hoạt động ở Nam Bộ , là một trong
những cây bút có mặt sớm nhất của lực lượng văn nghệ giải phóng ở miền Nam thời kì
chống Mĩ cứu nước.

19


– Thơ ơng thường nhỏ nhẹ, giàu tình cảm, giàu chất mộng mơngay trong hoàn cảnh khốc
liệt của chiến trường.– Tác phẩm tiêu biểu: Mắt sáng học trò (1970); Như mây mùa xuân
(1978); Phù sa quê mẹ(1991);…
2.Tác phẩm:
a. Hoàn cảnh sáng tác:
– Bài thơ được viết vào tháng 4 năm 1976, một năm sau ngày giải phóng miền Nam, đất
nước vừa được thống nhất. Đó cũng là khi lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh vừa được khánh
thành, đáp ứng nguyện vọng tha thiết của nhân dân cả nước là được đến viếng lăng Bác.
Tác giả là một người con của miền Nam, suốt ba mươi năm hoạt động và chiến đấu ở
chiến trường Nam Bộ xa xôi. Cũng như đồng bào và chiến sĩ miền Nam, nhà thơ mong
mỏi được ra thăm Bác và chỉ đến lúc này, khi đất nước đã thốngnhất, ơng mới có thể
thực hiện được ước nguyện ấy. Tình cảm đối với Bác trở thành nguồn cảm hứng để ông
sáng tác bài thơ này.
– In trong tập thơ “Như mây mùa xuân” (1978)
b. Bố cục: 4 phần, tương ứng với bốn khổ thơ.
– Khổ 1: Cảm xúc của nhà thơ khi đến lăng Bác
– Khổ 2: Cảm xúc của nhà thơ khi đứng trước lăng Bác
– Khổ 3: Cảm xúc của nhà thơ khi vào trong lăng
– Khổ 4: Tâm trạng lưu luyến của nhà thơ khi rời xa lăng Bác.
=> Mạch vận động của cảm xúc trong bài theo trình tự của một cuộc viếng thăm, thời
gian kết hợp với không gian.
c. Cảm xúc bao trùm: Niềm xúc động thiêng liêng, thành kính, niềm tự hào, đau xót
của nhà thơ từ miền Nam vừa được giải phóng ra thăm lăng Bác.

K1. Cảm xúc của nhà thơ khi đến lăng Bác:
“Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp Mưa sa đứng thẳng hàng”
– Nhà thơ kể: “Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác”. Câu thơ mở đầu như một lời thông
báo ngắn gọn, lời lẽ giản dị nhưng chứa đựng trong nó biết bao điều sâu xa, Nhà thơ nói
mình ở miền Nam, ở tuyến đầu của Tổ quốc, ở nơi máu đổ suốt mấy chục năm trời để ra
thăm lăng Bác

20


– Nhà thơ xưng “con” và chữ “con” ở đầu dịng thơ, đầu bài thơ. Trong ngơn từ của nhân
loại khơng có một chữ nào lại xúc động và sâu nặng bằng tiếng “con”. Cách xưng hô này
thật gần gũi, thật thân thiết, ấm áp tình thân thương mà vẫn rất mực thành kính, thiêng
liêng. Đồng thời, cũng diễn tả tâm trạng xúc động của người con ra thăm cha sau bao
nhiêu năm xa cách.
– Nhà thơ sử dụng từ “thăm” thay cho từ “viếng”: + “Viếng”: là đến chia buồn với thân
nhân người chết. + “Thăm”: là gặp gỡ, trị chuyện với người đang sống.
-> Cách nói giảm, nói tránh -> giảm nhẹ nỗi đau thương mất mát -> khẳng định Bác vẫn
còn mãi trong trái tim nhân dân miền Nam, trong lòng dân tộc. Đồng thời gợi sự thân
mật, gần gũi: Con về thăm cha – thăm người thân ruột thịt, thăm chỗ Bác nằm, thăm nơi
Bác ở để thỏa lòng khát khao mong nhớ bấy lâu.
=> Câu thơ khơng có một dụng cơng nghệ thuật nào nhưng lại vô cùng gợi cảm, dồn nén
biết bao cảm xúc. Cách xưng hôvà cách dùng từ của Viễn Phương giúp cho người đọc
cảm nhận được tình cảm xúc động, nhớ thương của một người con đối với cha. Đó
khơng chỉ là tình cảm riêng của nhà thơ mà cịn là tình cảm chung của dân tộc Việt Nam.
Thế hệ này tiếp nối thế hệ khác song tất cả đều có chung một tình cảm như thế với Bác
Hồ kính u.

– Đến lăng Bác, hình ảnh đầu tiên mà tác giả quan sát được,cảm nhận được, và có ấn
tượng đậm nét là hình ảnh hàng tre. Khi xây dựng lăng Bác, các nhà thiết kế đã đưa về từ
mọi miền đất nước các loài cây, loài hoa, tiêu biểu cho mọi miền quê hương đất nước để
trồng ở lăng Bác bởi Bác là một tâm hồn rộng mở trước thiên nhiên và Bác cũng là biểu
tượng cho tinh hoa, cho đất nước, cho dân tộc Việt Nam. Và ai đã từng đến lăng Bác đều
có thể nhận thấy hình ảnh đầu tiên về cảnh vật hai bên lăng là những hàng tre đằng ngà
bát ngát. Nhà thơ Viễn Phương cũng vậy!
+ Sự xuất hiện của hàng tre trong thơ Viễn Phương khơng chỉ có ý tả thực, nhà thơ đã
viết hình ảnh hàng tre với bút pháp tượng trưng, biểu tượng (gợi ra một điều gì đó từ một
hình ảnh ẩn dụ lớn).
+ Hình ảnh thực: Trước hết, hàng tre là hình ảnh hết sức thân thuộc và gần gũi của làng
quê, đất nước Việt Nam.
+ Hình ảnh ẩn dụ: Hình ảnh hàng tre còn là một biểu tượng con người, dân tộc Việt
Nam.
_ Thành ngữ “bão táp mưa sa” nhằm chỉ những khó khăn, gian khổ, những vinh quang
và cay đắng mà nhân dân ta đã vượt qua trong trường kì dựng nước và giữ nước, đặc biệt
là trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ vừa qua.

21


_ “Đứng thẳng hàng” là tinh thần đoàn kết đấu tranh, chiến đấu anh hùng, không bao giờ
khuất phục, tất cả vì độc lập tự do của nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng và
Bác Hồ.
-> Từ hình ảnh hàng tre bát ngát trong sương quanh lăng Bác, nhà thơ đã suy nghĩ, liên
tưởng và mở rộng khái quát thành một hình ảnhhàng tre mang ý nghĩa ẩn dụ, biểu tượng
cho sức sống bền bỉ, kiên cường, bất khuất của con người Việt Nam, dân tộc Việt Nam.
Dù gặp bão táp mưa sa – gặp những thăng trầm trong cuộc kháng chiến cứu nước và giữ
nước, vẫn “đứng thẳng hàng”, vẫn đoàn kết đấu tranh, chiến đấu anh hùng, không bao
giờ khuất phục. Niềm xúc động và tự hào về đất nước, về dân tộc, về những con người

Nam Bộ đã được nhà thơ bộc lộ trực tiếp qua từ cảm thán “Ôi” đứng ở đầu câu.
-> Hàng tre ấy như những đội quân danh dự đại diện cho những con người ở mọi miền
quê trên đất nước Việt Nam tụ họp về đây xum vầy với Bác, trò chuyện và bảo vệ giấc
ngủ cho Người. Nơi Bác nghỉ vẫn ln xanh mát bóng tre xanh.
=> Chỉ một khổ thơ ngắn thôi nhưng cũng đủ để thể hiện những cảm xúc chân thành,
thiêng liêng của nhà thơ và cũng là của nhân dân đối với Bác kính yêu.
2. Cảm xúc của nhà thơ khi đứng trước lăng Bác: Nhà thơ đã sử dụng một ẩn dụ nghệ
thuật tuyệt đẹp để nói lên cảm nhận của mình khi đứng trước lăng Bác:
Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ.
+ Hình ảnh “mặt trời đi qua trên lăng” là hình ảnh thực. Đó là mặt trời thiên tạo, là
hành tinh quan trọng nhất của vũ trụ, nó gợi ra sự kì vĩ, sự bất tử, vĩnh hằng. Mặt trời là
nguồn cội của sự sống, ánh sáng.
+ Hình ảnh “mặt trời trong lăng” là một ẩn dụ đầy sáng tạo, độc đáo – đó là hình ảnh của
Bác Hồ. Giống như “mặt trời”, Bác Hồ cũng là nguồn ánh sáng, nguồn sức mạnh. “Mặt
trời” – Bác Hồ soi đường dẫn lối cho sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, giành độc
lập tự do, thống nhất đất nước. Bác đã cùng nhân dân vượt qua trăm ngàn gian khổ, hi
sinh để đi tới chiến thắng quanh vinh, trọn vẹn.
Cách ví đó một mặt ca ngợi sự vĩ đại, công lao trời biển của Người đối với các thế hệ
con người Việt Nam. Mặt khác bộc lộ rõ niềm tự hào của dân tộc Việt Nam khi có Bác
Hồ.
Người rực rỡ một mặt trời cách mạng
Mà đế quốc là loài dơi hốt hoảng
Đêm tàn bay chập chạng dưới chân người.
(Tố Hữu – “Sáng tháng năm”)
22


- Từ láy “ngày ngày” đứng ở đầu câu vừa diễn tả sự liên tục bất biến của tự nhiên vừa
góp phần vĩnh viễn hóa, bất tử hóa hình ảnh Bác Hồ trong lòng mọi người và giữa thiên

nhiên vũ trụ.
– Hình ảnh dịng người vào thăm lăng Bác đã được nhà thơ miêu tả một cách độc đáo và
để lại nhiều ấn tượng:
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân.
+ Từ láy “ngày ngày” có nghĩa tương tự như câu thơ cầu đầu trong khổ thơ -> diễn tả
cảnh tượng có thực đang diễn ra hàng ngày, đều đặn trong cuộc sống của con người Việt
Nam: Những dòng người nặng trĩu nhớ thương từ khắp mọi miền đất nước đã về đây xếp
hàng, lặng lẽ theo nhau vào lăng viếng Bác –“Dòng người đi trong thương nhớ”.
+ Bằng sự quan sát trong thực tế, tác giả đã tạo ra một hình ảnh ẩn dụ đẹp và sáng tạo:
“tràng hoa”. Chúng ta có thể hiểu “tràng hoa” ở đây theo nghĩa thực là những bơng hoa
tươi thắm kết thành vịng hoa được những người con khắp nơi trên đất nước và thế giới
về thăm dâng lên Bác để bày tỏ tình cảm, tấm lịng nhớ thương, u q, tự hào của
mình.- “Tràng hoa” ở đây còn mang nghĩa ẩn dụ chỉ từng người một đang xếp hàng
viếng lăng Bác mỗi ngày là một bơng hoa ngát thơm. Những dịng người bất tận đang
ngày ngày vào lăng viếng Bác nối kết nhau thành những tràng hoa bất tận. Những bông
hoa – tràng hoa rực rỡ đó dưới ánh mặt trời của Bác đã trở thành những bông hoa – tràng
hoa đẹp nhất dâng lên “bảy mươi chín mùa xuân”– 79 năm cuộc đời của Người.
-> Hình ảnh thơ trên biểu lộ tấm lịng thành kính, và biết ơn sâu sắc của nhà thơ, của
nhân dân đối với Bác Hồ.
3. Cảm xúc của nhà thơ khi vào trong lăng: Vào trong lăng, khung cảnh và khơng khí
như ngưng kết cả thời gian, khơng gian. Hình ảnh thơ đã diễn tả thật chính xác, tinh tế sự
yên tĩnh, trang nghiêm cùng ánh sáng dịu nhẹ, trong trẻo của không gian trong lăng Bác.
“Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim”
– Đứng trước Bác, nhà thơ cảm nhận Người đang ngủ giấc ngủ bình yên, thanh thản giữa
vầng trăng sáng dịu hiền.
– Hình ảnh “vầng trăng sáng dịu hiền” gợi cho chúng ta nghĩ đến tâm hồn, cách sống cao

đẹp, thanh cao, sáng trong của Bác và những vần thơ tràn ngập ánh trăng của Người.
– Tâm trạng xúc động của nhà thơ được biểu hiện bằng một hình ảnh ẩn dụ sâu xa: “Vẫn
biết trời xanh là mãi mãi”.
23


+ “Trời xanh” trước tiên được hiểu theo nghĩa tả thực đó là hình ảnh thiên nhiên mà
chúng ta hằng ngày vẫn đang chiêm ngưỡng, nó tồn tại mãi mãi và vĩnh hằng.
+ Mặt khác, “trời xanh” còn là một hình ảnh ẩn dụ sâu xa: Bác vẫn cịn mãi với non sông
đất nước, như “trời xanh” vĩnh hằng. Nhà thơ Tố Hữu đã viết: “Bác sống như trời đất
của ta”, bởi Bác đã hóa thân thành thiên nhiên, đất nước và dân tộc.
– Dù tin như thế nhưng mấy chục triệu người dân Việt Nam vẫn đau xót và nuối tiếc
khôn nguôi trước sự ra đi của Bác – “ Mà sao nghe nhói ở trong tim”.+ “Nhói” là từ ngữ
biểu cảm trực tiếp, biểu hiện nỗi đau đột ngột quặn thắt. Tác giả tự cảm thấy nỗi đau mất
mát ở tận trong đáy sâu tâm hồn mình: nỗi đau uất nghẹn tột cùng khơng nói thành lời.
Đó khơng chỉ là nỗi đau riêng tác giả mà của cả triệu trái tim con người Việt Nam.
+ Cặp quan hệ từ “vẫn, mà” diễn tả mâu thuẫn. Cảm giác nghe nhói ở trong tim mâu
thuẫn với nhận biết trời xanh là mãi mãi. Như vậy, giữa tình cảm và lý trí có sự mâu
thuẫn. Con người đã khơng kìm nén được khoảnh khắc yếu lịng. Chính đau xót này đã
làm cho tình cảm giữa lãnh tụ và nhân dân trở nên ruột già, xót xa. Cảm xúc đau đớn
này, vơ vọng này đã từng xuất hiện trong bài thơ của Tố Hữu:
Trái bưởi kia vàng ngọt với ai
Thơm cho ai nữa hỡi hoa nhài
Cịn đâu bóng Bác đi hơm sớm…
Cảm xúc này là đỉnh điểm của nỗi nhớ thương, của niềm đau xót. Nó chính là ngun
nhân dẫn đến những khát vọng ở khổ cuối bài thơ.
4. Tâm trạng lưu luyến của nhà thơ khi rời xa lăng Bác:
Nếu ở khổ thơ đầu, nhà
thơ giới thiệu mình là người con miền Nam ra thăm Bác thì trong khổ thơ cuối, nhà thơ
lại đề cập đến sự chia xa Bác. Nghĩ đến ngày mai về miền Nam, xa Bác, xa Hà Nội, tình

cảm của nhà thơ khơng kìm nén, ẩn giấu trong lịng mà được bộc lộ thể hiện ra ngồi:
“Mai về miền Namthương trào nước mắt”.
+ Câu thơ “Mai về miền Nam thương trào nước mắt” như một lời giã biệt.+ Lời nói giản
dị diễn tả tình cảm sâu lắng.+ Từ “trào” diễn tả cảm xúc thật mãnh liệt, luyến tiếc, bịn
rịn khơng muốn xa nơi Bác nghỉ.+ Đó là khơng chỉ là tâm trạng của tác giả mà cịn là
của muôn triệu trái tim khác. Được gần Bác dù chỉ trong giây phút nhưng không bao giờ
ta muốn xa Bác bởi Người ấm áp quá, rộng lớn quá.
– Mặc dù lưu luyến muốn được ở mãi bên Bác nhưng tác giả cũng biết rằng đến lúc phải
trở về miền Nam. Và chỉ có thể gửi tấm lịng mình bằng cách muốn hóa thân, hịa nhập
vào những cảnh vật quanh lăng để được luôn ở bên Người trong thế giới của Người:
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
24


Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này.
+ Điệp ngữ “muốn làm” cùng các hình ảnh đẹp của thiên nhiên“con chim”, ”đóa hoa”,
”cây tre” đã thể hiện ước muốn tha thiết, mãnh liệt của tác giả.
+ Nhà thơ ao ước được hóa thân thành con chim nhỏ cất tiếng hót làm vui lăng Bác,
thành đóa hoa đem sắc hương, điểm tô cho vườn hoa quanh lăng.
+ Đặc biệt là ước nguyện “Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này” để nhập vào hàng tre
bát ngát, canh giữ giấc ngủ thiên thu của Người. Hình ảnh cây tre có tính chất tượng
trưng một lần nữa nhắc lại khiến bài thơ có kết cấu đầu cuối tương ứng. Hình ảnh hàng
tre quanh lăng Bác được lặp ở câu thơ cuối như mang thêm nghĩa mới, tạo ấn tượng sâu
sắc, làm dòng cảm xúc được trọn vẹn. “Cây tre trung hiếu” là hình ảnh ẩn dụ thể hiện
lịng kính u, sự trung thành vô hạn với Bác, nguyện mãi mãi đi theo con đường cách
mạng mà Người đã đưa đường chỉ lối. Đó là lời hứa thủy chung của riêng nhà thơ và
cũng là ý nguyện của đồng miền Nam, của mỗi chúng ta nói chung với Bác.
III. Tổng kết:
1. Nội dung:

Niềm xúc động thiêng liêng, thành kính, niềm tự hào, đau xót của nhà thơ từ miền Nam
vừa được giải phóng ra thăm lăng Bác.
2. Nghệ thuật:
– Giọng điệu thơ phù hợp với nội dung tình cảm, cảm xúc: vừa trang nghiêm, sâu lắng,
vừa tha thiết, đau xót, tự hào.
– Thể thơ 8 chữ, xen lẫn những dòng thơ 7 hoặc 9 chữ. Nhịp thơ chủ yếu là nhịp chậm,
diễn tả sự trang nghiêm, thành kính và những cảm xúc sâu lắng. Riêng khổ cuối nhịp thơ
nhanh hơn, phù hợp với sắc thái của niềm mong ước.
– Hình ảnh thơ có nhiều sáng tạo, kết hợp hình ảnh thực với hình ảnh ẩn dụ, biểu tượng.
Những hình ảnh ẩn dụ – biểu tượng như “mặt trời trong lăng”, ”tràng hoa”, ”trời
xanh” vừa quen thuộc, vừa gần gũi với hình ảnh thực, vừa sâu sắc, có ý nghĩa khái quát
và giá trị biểu cảm.

Dàn ý phân tích bài thơ Viếng Lăng Bác
1.MỞ BÀI:
Giới thiệu tác giả Viễn Phương
Giới thiệu tác phẩm Viếng lăng Bác
Khái quát nội dung từng khổ thơ
25


×