Tải bản đầy đủ (.pdf) (131 trang)

Phủ định biện chứng và vấn đề kế thừa, phát huy giá trị truyền thống gia đình việt nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế luận văn thạc sỹ 60 22 80

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.05 MB, 131 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN


NGUYỄN THỊ TRI LÝ

PHỦ ĐỊNH BIỆN CHỨNG VÀ VẤN ĐỀ
KẾ THỪA, PHÁT HUY GIÁ TRỊ TRUYỀN THỐNG
GIA ĐÌNH VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ

Chuyên ngành: TRIẾT HỌC
Mã số: 60.22.80

LUẬN VĂN THẠC SỸ TRIẾT HỌC

Người hướng dẫn khoa học
TS. NGUYỄN THỊ BÍCH THỦY

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - 2012


LỜI CAM ĐOAN

Tơi cam đoan đây là cơng trình mà tôi nghiên cứu. Kết quả nghiên cứu
là trung thực và chưa được công bố

Người thực hiện

NGUYỄN THỊ TRI LÝ



MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................. 1
1. Tính cấp thiết của đề tài ......................................................................................... 1
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài................................................................... 3
3. Mục đích, nhiệm vụ và giới hạn của đề tài ............................................................ 7
4. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn ........................... 7
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn .............................................................. 8
6. Kết cấu của luận văn .............................................................................................. 8

Chương 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHỦ ĐỊNH BIỆN CHỨNG .............. 9
1.1. CÁC QUAN NIỆM TRƯỚC C.MÁC VỀ PHỦ ĐỊNH VÀ PHỦ ĐỊNH
BIỆN CHỨNG ..................................................................................................................... 9

1.1.1. Các quan niệm trước C.Mác về phủ định.................................................................. 9
1.1.2. Quan niệm trước C.Mác về phủ định biện chứng................................................... 13
1.2. QUAN NIỆM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VỀ PHỦ ĐỊNH
BIỆN CHỨNG ................................................................................................................... 24

1.2.1. Khái niệm phủ định biện chứng .............................................................................. 24
1.2.2. Nội dung của phủ định biện chứng.......................................................................... 25

Chương 2: VẤN ĐỀ KẾ THỪA, PHÁT HUY GIÁ TRỊ TRUYỀN
THỐNG GIA ĐÌNH VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP
QUỐC TẾ .......................................................................................................47
2.1. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN CỦA GIA ĐÌNH VIỆT NAM ............................. 47

2.1.1 Đặc điểm gia đình Việt Nam từ khi dựng nước đến Cách mạng tháng Tám năm
1945 .................................................................................................................................... 47
2.1.2. Đặc điểm gia đình Việt Nam từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến nay... 55

2.2. GIÁ TRỊ TRUYỀN THỐNG GIA ĐÌNH VIỆT NAM ........................................... 61

2.2.1. Khái niệm giá trị, giá trị truyền thống ..................................................................... 61
2.2.2. Giá trị truyền thống chủ yếu của gia đình Việt Nam .............................................. 72


2.3. TÁC ĐỘNG CỦA BỐI CẢNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ VÀ VIỆC
KẾ

THỪA,

PHÁT

HUY

GIÁ

TRỊ

TRUYỀN

THỐNG

GIA

ĐÌNH

VIỆT NAM ........................................................................................................................ 81

2.3.1. Tác động của bối cảnh quốc tế đối với giá trị truyền thống gia đình Việt Nam .... 81

2.3.2. Kế thừa và phát huy các giá trị truyền thống gia đình Việt Nam ........................... 90
2.4. MỘT SỐ GIẢI PHÁP KẾ THỪA VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ TRUYỀN
THỐNG GIA ĐÌNH VIỆT NAM .................................................................................. 101

2.4.1 Nhà nước thực hiện các chính sách cụ thể và phù hợp để thúc đẩy sự phát triển
bền vững của gia đình trong thời kì hội nhập .................................................................. 102
2.4.2. Đẩy mạnh giáo dục giá trị truyền thống gia đình, kết hợp các phương pháp giáo
dục, kết hợp giáo dục trong gia đình, nhà trường và xã hội..............................................104
2.4.3. Nâng cao vai trò và hiệu quả của pháp luật trong việc giữ gìn và phát huy các
giá trị truyền thống của dân tộc........................................................................................111
2.3.4. Việc kế thừa, gìn giữ các giá trị tốt đẹp của truyền thống gia đình Việt Nam cần
kết hợp với quá trình phát huy, tiếp thu những giá trị tiến bộ của thời đại trong bối
cảnh hội nhập....................................................................................................................112

KẾT LUẬN ................................................................................................... 119
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................ 123


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong bối cảnh toàn cầu, hội nhập quốc tế hiện nay bên cạnh những
mặt tích cực mà nó mang lại, tạo điều kiện cho các quốc gia dân tộc mở rộng
hợp tác kinh tế, giao lưu văn hóa và phát triển trên nhiều lĩnh vực. Nhưng mặt
khác, q trình hội nhập đó lại mang lại những hạn chế nhất định, nó làm
chao đảo và lu mờ nhiều giá trị truyền thống của các dân tộc, đặc biệt là giá trị
truyền thống gia đình.
Gia đình với ý nghĩa là tế bào của xã hội, là cái nôi thân yêu nuôi
dưỡng cả đời người, là nơi con người có thể thỏa mãn những nhu cầu cả về

vật chất lẫn tinh thần. Gia đình là nơi hội tụ, là nơi biểu hiện và là nơi diễn ra
mạnh mẽ các yếu tố của văn hóa truyền thống gia đình, là mơi trường quan
trọng giáo dục nếp sống và hình thành nhân cách của con người, và cũng là
nơi lưu trữ và truyền thụ các giá trị truyền thống của dân tộc, là nơi kế thừa và
bảo vệ các giá trị truyền thống gia đình. Vậy, muốn cho xã hội phát triển thì
cần phải làm cho mỗi “tế bào gia đình” ngày càng phát triển tốt hơn, đáp ứng
được nhu cầu phát triển của xã hội.
Nhưng thực tế hiện nay cho thấy, dưới tác động của kinh tế thị trường
nhiều giá trị đạo đức truyền thống và nếp sống văn hố gia đình đã có sự vận
động và biến đổi phức tạp. Bên cạnh những giá trị đạo đức mới, nếp sống văn
hóa gắn liền với quá trình phát triển kinh tế thị trường, đã có những giá trị đạo
đức truyền thống, nếp sống văn hoá gia đình truyền thống bị xâm hại và có
nguy cơ bị mai một đi. Trên thực tế ở nhiều nơi, nhất là ở các đơ thị lớn, gia
đình đã có những dấu hiệu của sự khủng hoảng. Các mối quan hệ gia đình
truyền thống, đặc biệt giá trị truyền thống gia đình tốt đẹp đang bị lấn át bởi
những quan hệ hàng hoá, thị trường, lợi nhuận, bởi những lối sống lai căng,


2

kệch cỡm, xa lạ, thiếu văn hoá…, trái với các chuẩn mực của xã hội, bất chấp
những truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc. Một bộ phận trong các tầng
lớp xã hội khi mưu cầu lợi ích cá nhân đã chà đạp lên những khuôn mẫu,
những giá trị truyền thống đích thực của dân tộc. Một bộ phận khơng nhỏ
trong lớp trẻ hiện nay có tâm lý sống thực dụng, buông thả, sùng bái đồng
tiền, quay lưng lại với văn hóa, đạo đức truyền thống…
Vì vậy, việc bảo vệ, kế thừa và phát huy các giá trị truyền thống gia
đình đang trở nên bức bách và hết sức cần thiết, là vấn đề cần phải nhìn nhận
nghiêm túc và có sự quan tâm đặc biệt cùng với quá trình xây dựng và phát
triển của đất nước.

Nhận thức rõ tầm quan trọng của gia đình và các giá trị truyền thống
của gia đình, Đảng và Nhà nước ln quan tâm đến vấn đề xây dựng gia đình
no ấm, hồ thuận, tiến bộ và nâng cao ý thức về nghĩa vụ gia đình đối với mọi
tầng lớp người trong xã hội. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã từng
căn dặn: Gia đình tốt thì xã hội mới tốt, xã hội tốt thì gia đình càng tốt hơn.
Hạt nhân của xã hội là gia đình. Những lời dạy của Bác đến nay vẫn có tính
thời sự, khẳng định giá trị hết sức to lớn của gia đình, cũng như trách nhiệm
của mỗi người trong việc xây dựng gia đình thực sự là tổ ấm hạnh phúc, đồng
thời xây dựng một hình ảnh đẹp về con người và đất nước Việt Nam trong
thời kỳ hội nhập quốc tế.
Việc nghiên cứu lý luận triết học Mác, đặc biệt là quan điểm phủ định
biện chứng nhằm vận dụng vào quá trình giữ gìn và phát huy giá trị truyền
thống của dân tộc, cụ thể là giá trị truyền thống gia đình trong bối cảnh hội
nhập quốc tế để những giá trị truyền thống tốt đẹp đó trở thành sức mạnh nội
sinh cho chúng ta xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Điều này thể hiện sự
thống nhất giữa lý luận và thực tiễn của cơng cuộc đổi mới tồn diện đất nước.


3

2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài
Phép biện chứng và phủ định biện chứng là một trong những lý luận
quan trọng của triết học Mác, có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn. Vì vậy, có
rất nhiều cơng trình và tác giả nghiên cứu. Các tác giả nghiên cứu về phép
biện chứng như sau:
Đầu tiên phải kể đến cơng trình nghiên cứu phép biện chứng thời cổ
đại, trong đó có quan niệm về phủ định. Với tác phẩm: “Lịch sử triết học
phương Tây” (Nxb. Giáo dục, 2002) của Nguyễn Tiến Dũng; “Triết học Hy
Lạp cổ đại” (Nxb. Chính trị quốc gia, 1999) của Đinh Ngọc Thạch;“Đại
cương lịch sử triết học Phương Tây” (Nxb. Tổng hợp, 2006) do Đỗ Minh

Hợp chủ biên. Những tác phẩm này bàn về phép biện chứng cổ đại Phương
Tây, trong đó có mầm móng của tư tưởng phủ định. Tác phẩm: “Đại cương
lịch sử triết học Trung Quốc”, “Đại cương lịch sử triết học Ấn Độ” (Nxb.
Chính trị quốc gia, 2004) do Trịnh Dỗn Chính (chủ biên) hai tác phẩm đã
trình bày tư tưởng biện chứng trong triết học phương Đông cổ đại.
Với bộ sách “Lịch sử phép biện chứng” (Nxb.Chính trị quốc gia, 1990)
gồm 3 tập: Trong cơng trình này, các tác giả đã nêu bật lên lịch sử phát triển
của phép biện chứng trong đó có quan niệm tiến bộ về phủ định biện chứng;
quá trình phát triển của phép biện chứng từ thời cổ đại đến thế kỷ XIV – XVI
và phép biện chứng duy tâm Đức.
Trong phép biện chứng duy tâm Đức với đại biểu là Hêghen thì phép
biện chứng được thể hiện hoàn bị nhất, tiêu biểu với các tác phẩm: “Khoa học
logic” ( tập 1, 1970); Khoa học logic” (tập 2, 1971); “Khoa học logic” (tập 3,
1972); “Nhập môn triết học” (1971); Triết học Hêghen: “Các vấn đề của
phép biện chứng” (Mát - xcơ – va, 1974) với các tác phẩm này thì Hêghen đã
trình bày một cách có hệ thống phép biện chứng và quan niệm phủ định biện


4

chứng lần đầu tiên được nêu lên với tư cách chỉ ra con đường và khuynh
hướng của sự phát triển.
Tác phẩm: “Phép biện chứng Mácxit từ khi xuất hiện chủ nghĩa Mác
đến giai đoạn của Lênin” (Nxb.Tiến bộ, 1986); “Về vấn đề phép biện chứng”
(Nxb. Sự thật, 1978); “Bút ký triết học” Lênin tồn tập. tập 29 (Nxb. Chính trị
quốc gia, 2006); V.I. Lênin: “Tồn tập”, tập 26 (Nxb. Chính trị quốc gia,
2006); C.Mác – Ăngghen: “Toàn tập” tập 20, tập 8 (Nxb. Chính trị quốc gia,
1995). Tất cả các cơng trình nghiên cứu nói lên được con đường và khuynh
hướng của sự phát triển theo con đường phủ định của phủ định.
Ngồi các cơng trình nghiên cứu trên cịn có các tác phẩm của các tác

giả như: Ngơ Thành Dương:“ Một số khía cạnh của phép biện chứng duy
vật” (Nxb. Sách giáo khoa Mác – Lênin, 1986); Phạm Văn Đức: “Phạm trù
quy luật trong lịch sử triết học Phương Tây” (Nxb. Khoa học xã hội, 1997);
Khánh Hàm: siêu tập và giới thiệu, “Phép biện chứng duy vật Mác, Ăngghen,
Lênin” (Nxb.Sự thật, 1962). Các tác phẩm này là những tác phẩm được
nghiên cứu khá lâu của nước ta về phép biện chứng, nhưng qua đó ta thấy
được phép biện chứng đã được các học giả của Việt Nam quan tâm từ rất
sớm.
Việc vận dụng phép biện chứng vào trong thực tiễn cũng có một số
cơng trình nghiên cứu như: “Phép biện chứng và công cuộc đổi mới ở Việt
Nam” của Ngơ Thành Dương (Nxb. Chính trị quốc gia, 2007); Nguyễn Thế
Nghĩa “Triết học với sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa” (Nxb. Khoa
học xã hội, 1997). Các cơng trình này đã gắn được lý luận của triết học Mác
vào trong sự phát triển của xã hội.
Nghiên cứu về sự tác động của q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
và q trình tồn cầu hóa đối với các giá trị truyền thống của dân tộc có rất
nhiều cơng trình nghiên cứu như: “Tìm hiểu giá trị văn hóa truyền thống


5

trong q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa” của Nguyễn Trọng Chuẩn
(Nxb. Chính trị quốc gia, 2001); “Giá trị truyền thống thách thức của tồn
cầu hóa” của Nguyễn Trọng Chuẩn (Nxb. Chính trị quốc gia, 2004); “Tồn
cầu hóa với việc giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của dân
tộc” (tạp chí khoa học xã hội, số 5); “Tồn cầu hóa và vấn đề kế thừa một số
giá trị truyền thống của dân tộc trong bối cảnh tồn cầu hóa” (Nxb. Khoa
học xã hội, 2009) của Mai Thị Quý; “Sự biến đổi các giá trị văn hóa trong
bối cảnh xây dựng nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay” (Nxb. Từ điển
bách khoa và viện văn hóa, 2008) của Nguyễn Văn Bắc; “Phát triển tồn diện

con người trong thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa” của Phạm Văn Hạc
(Nxb. Chính trị quốc gia, 2002). Nhìn chung, các cơng trình nghiên cứu này
đã nói lên được sự tác động của tồn cầu hóa đem lại những biến đổi không
nhỏ đối với xã hội Việt Nam. Trong đó, có những biến đổi của các giá trị
truyền thống, q trình đó vừa có những mặt tích cực vừa có những mặt tiêu
cực nhất định.
Lý luận chung về giá trị và giá trị truyền thống, kế thừa giá trị và giá
trị truyền thống có rất nhiều cơng trình nghiên cứu. Chẳng hạn như Migolatep
với tác phẩm: “Tính kế thừa trong phát triển văn hóa” (Nxb. Chính trị quốc
gia, 1975); Hồ Sỹ Quý: “Về giá trị và giá trị châu Á” (Nxb.Chính trị quốc
gia, 2005); Nguyễn Quan Uẩn, Nguyễn Thạc, Mạc Văn Trang “Giá trị, định
hướng giá trị nhân cách và giáo dục giá trị” (Chương trình KHCN cấp nhà
nước, KX. 07 – 04, 1980); Trần Văn Giàu:“Giá trị truyền thống tinh thần của
dân tộc Việt Nam” (Nxb. Chính trị quốc gia, 1980); Nguyễn Trọng Chuẩn,
Nguyễn Văn Huyên: “Giá trị truyền thống thách thức của toàn cầu hóa”
(Nxb. Chính trị quốc gia, 2004); Bùi Thanh Sơn: “Con người Việt Nam giá trị
truyền thống và hiện đại” (Nxb. Qn đội nhân dân, 2002). Tất cả các cơng
trình nghiên cứu trên nhằm đưa ra một cái nhìn sâu sắc trong quan niệm về


6

giá trị và giá trị tuyền thống, cung cấp một lý luận đầy đủ nhất trong quan
niệm về giá trị và giá truyền thống.
Nghiên cứu về gia đình và giá trị truyền thống gia đình trong bối cảnh
hội nhập quốc tế cũng có rất nhiều cơng trình nghiên cứu như: “Gia đình
truyền thống Việt Nam – những giá trị và thách thức hiện nay” của tác giả
Trần Thị Hạ trong luận văn thạc sỹ (2005); “Ảnh hưởng của truyền thống gia
đình đến định hướng giá trị của lứa tuổi đầu thanh niên” của Cấn Hữu Hải
(Nxb. Trường đại học sư phạm Hà Nội, 2002); “Về gia đình Việt Nam truyền

thống dưới ảnh hưởng của Nho giáo” của Trần Đình Hựu (Nxb. Xã hội học,
1998);“Gia đình Việt Nam trong bối cảnh đổi mới” của Lê Thi ( Nxb. Khoa
học xã hội, 2004); “Vai trị của gia đình trong việc xây dựng nhân cách con
người Việt Nam” của Lê Thi (Nxb. Khoa học xã hội, 1997); “Gia đình, phụ
nữ Việt Nam với dân số, văn hóa và sự phát triển bền vững” của Lê Thi (Nxb.
Khoa học xã hội, 2004). Tất cả các cơng trình nghiên cứu này đã nêu lên các
đặc điểm của gia đình Việt Nam, các giá trị truyền thống trong gia đình Việt
Nam cần phải kế thừa và phát huy, bởi các giá trị này là cơ sở để hình thành
nhân cách của con người, và bởi gia đình là nơi mà bảo vệ và lưu giữ tốt nhất
các giá trị truyền thống.
Trên cơ sở kế thừa và tìm hiểu các cơng trình nghiên cứu của các tác
giả nêu trên, tác giả của luận văn đưa ra đề tài nghiên cứu của mình “Phủ
định biện chứng và vấn đề kế thừa, phát huy giá trị truyền thống gia đình
Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế”.
Luận văn này có tham khảo các cơng trình nghiên cứu của các tác giả
nhưng đồng thời cũng đưa ra cái mới trong nghiên cứu đó là nghiên cứu quan
điểm phủ định biện chứng và vận dụng vào việc kế thừa, phát huy giá trị
truyền thống gia đình Việt Nam, có sự kết hợp giữa nghiên cứu lý luận và vận


7

dụng nó vào thực tiễn, đưa ra một số giải pháp khi giữ gìn và phát huy các giá
trị truyền thống gia đình Việt Nam.
3. Mục đích, nhiệm vụ và giới hạn của đề tài
a. Mục đích của đề tài
Làm rõ quan điểm phủ định biện chứng và vận dụng nó vào q trình
giữ gìn, kế thừa và phát huy giá trị truyền thống gia đình Việt Nam trong bối
cảnh hội nhập quốc tế hiện nay.
b. Nhiệm vụ của đề tài

Để đạt được mục đích trên luận văn giải quyết các nhiệm vụ sau:
- Khái quát quá trình hình thành và phát triển của quan điểm phủ định
biện chứng.
- Trình bày nội dung, tính chất, ý nghĩa của quan điểm phủ định biện
chứng.
- Vận dụng quan điểm phủ định biện chứng vào việc kế thừa, phát huy
giá trị truyền thống gia đình Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế.
- Đưa ra giải pháp cho việc giữ gìn và phát huy giá trị truyền thống gia đình.
c. Phạm vi của đề tài
Quan điểm về phủ định và phủ định biện chứng là vấn đề sâu rộng và
xuyên suốt. Trong khả năng và giới hạn riêng luận văn chỉ tập trung nghiên
cứu quan điểm phủ định, phủ định biện chứng qua các giai đoạn phát triển,
nhưng cũng chỉ tập trung ở một số đại biểu tiêu biểu và dừng lại nghiên cứu
sâu phủ định biện chứng của phép biện chứng duy vật, từ đó vận dụng vào
việc kế thừa giá trị truyền thống gia đình Việt Nam trong bối cảnh hội nhập
quốc tế.
4. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của
chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Ngoài phương pháp chung


8

nhất là phương pháp biện chứng duy vật, luận văn còn sử dụng các phương
pháp như so sánh, lịch sử và logic, phân tích và tổng hợp, diễn dịch và quy
nạp… để nghiên cứu.
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn góp phần làm rõ quan điểm phủ định biện chứng và ý nghĩa
phương pháp luận khi vận dụng quan điểm này.
Luận văn góp phần giải quyết tính cách mạng và khoa học của việc vận

dụng quan điểm phủ định biện chứng vào quá trình kế thừa và phát huy giá trị
truyền thống gia đình Việt Nam.
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu và giảng
dạy triết học văn hóa, triết học con người, kết hợp giữa lý luận và thực tiễn.
6. Kết cấu của luận văn
Luận văn ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo
gồm 2 chương và 6 tiết.


9

Chương 1

LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHỦ ĐỊNH BIỆN CHỨNG

1.1. CÁC QUAN NIỆM TRƯỚC C.MÁC VỀ PHỦ ĐỊNH VÀ PHỦ
ĐỊNH BIỆN CHỨNG

1.1.1. Các quan niệm trước C.Mác về phủ định
Triết học Hy Lạp cổ đại là nền triết học lâu đời của nhân loại, cái nôi
đầu tiên của phép biện chứng, nhưng biện chứng lúc đầu chỉ được hiểu là
“nghệ thuật tranh luận”. Nền triết học chủ yếu dựa trên sự quan sát mối liên
hệ giữa nguyên nhân và kết quả; hay nói cách khác, tìm câu trả lời cho câu
hỏi phải chăng các sự vật hiện tượng vận động theo một chuỗi nguyên nhân –
kết quả tất yếu khách quan hay chỉ là sự trùng hợp, tình cờ ngẫu nhiên. Xuất
phát từ đó, mà quan niệm về phủ định và phủ định biện chứng có những nét
đặc trưng riêng.
Các nhà duy vật cổ đại xem thế giới trong quá trình vận động và phát
triển khơng ngừng, nhưng q trình xem xét mang tính chất trực quan và cảm
tính. Xem thế giới ln thống nhất ở tính vật chất nào đó, và những yếu tố vật

chất này là những yếu tố có sẵn trong tự nhiên. Vậy, chúng ta thấy một điều
dễ hiểu là quan niệm về phủ định cũng mang tính chất trực quan, cảm tính. Sự
thay thế giữa yếu tố này với yếu tố khác trong quá trình vận động và phát
triển, giữa cái cũ và cái mới có mối quan hệ với nhau nhưng chỉ là mối quan
hệ bên ngồi mà thơi.
Điều đầu tiên dễ thấy nhất là trong quan niệm của Talet về vận động
của vạn vật có yếu tố liên hệ phủ định. Talet cho rằng bản nguyên của thế giới
là nước, mọi yếu tố đều bắt nguồn từ nước, thơng qua q trình vận động và
phát triển rồi cũng quay trở về yếu tố ban đầu của nó là nước. Nước đã trở


10

thành cái quy định sự chuyển biến từ vật này sang vật khác, là cái tạo nên sự
thống nhất của thế giới
Anaximenđrơ – học trị của Talet, ơng cũng quan niệm có một hành
chất cấu tạo nên thế giới đó là cái khơng xác định, trừu tượng hơn, ít hình ảnh
hơn đó là Apayrơn. Anaximenđrơ cho rằng Apayrơn ngay từ đầu trong nó đã
chứa đựng các mặt đối lập. Sau đó, nó lại quay trở về với nó (phủ định của
phủ định) toàn bộ thế giới được tạo thành – Apayrơn như một vịng tuần hồn
biến đổi khơng ngừng.
Anaximen tiếp tục các tư tưởng trên và cũng cho rằng khởi ngun của
vũ trụ là khơng khí. Ơng lý giải sự xuất hiện của vô số các vật thể và sự quay
trở về khởi nguyên đầu tiên thống nhất của chúng là q trình cơ đặc và làm
lỗng ra của khơng khí. Đặc trưng cho tư tưởng này của ơng là thừa nhận
trạng thái chuyển hóa của khơng khí. Khơng khí lỗng ra thì nó đã trở thành
lửa, sau đó là một ete, cịn nếu cơ đặc thì thành gió mây… sau đó là nước, đất,
đá … đã có sự phát triển hơn so với tư tưởng của Talet… nhưng ta thấy ở đây,
cái tư tưởng mầm mống phủ định đã có, từ cái ban đầu, trên cơ sở đó đã xuất
hiện những yếu tố mới, nhưng hạn chế cũng chỉ là các yếu tố mới tách biệt

với yếu tố cũ, khơng có kế thừa yếu tố cũ.
Tiếp tục tư tưởng của các nhà triết học trước, quan điểm về phủ định
thể hiện rõ nét và hệ thống hơn trong tư tưởng biện chứng tự phát của
Hêraclit. Hêraclit có một bước mới hơn về quan niệm phủ định của phủ định,
với quan niệm lửa là bản nguyên của thế giới – mọi cái đều bắt đầu và kết
thúc từ lửa. Cụ thể là theo hướng đi lên thì lửa vận động thành vật thể rắn
(đất), vật chất thể rắn vận động thành vật chất thể lỏng (nước), từ vật thể lỏng
vận động thành vật chất thể hơi (khí) và cuối cùng trở về với lửa. Cịn theo
hướng đi xuống, thì từ lửa vận động thành vật chất thể hơi (khí) từ vật chất


11

thể hơi (khí) vận động thành vật chất thể lỏng (nước), từ vật chất thể lỏng
(nước) vận động thành vật chất thể rắn (đất) và cuối cùng trở về với lửa.
Như vậy, bắt đầu từ lửa, thơng qua q trình biến đổi và chuyển hóa thì
kết quả cuối cùng cũng quay trở về bản thể đầu tiên của nó chính là lửa. Ở
đây, phủ định của phủ định mang tính vận động biến đổi theo vịng trịn khép kín.
Tất cả các quan niệm nói trên chúng ta có thể kết luận rằng thời kỳ này
quan niệm về phủ định đã có mầm mống xuất hiện, nhưng chỉ dừng lại là sự
xuất hiện và vận động của các yếu tố vật chất, rồi quay lại với trạng thái ban
đầu của chính nó.
Nổi tiếng trong triết học Phương Đơng cổ đại về quan niệm phủ định
của phủ định là tư tưởng của Phật giáo Ấn Độ. Ở đây, sự phủ định của phủ
định trong triết lý phật giáo mang tính chất luân hồi, theo sáu nẻo đường luân
hồi: Địa ngục, ma quỷ, súc sanh, Atula, cõi người, cõi trời. Theo quan điểm
này tùy vào ý nghĩa của lời nói và hành động của chúng sanh tạo nên một tập
hợp năng lượng gọi là nghiệp. Tức nó khơng sinh ra cũng khơng mất đi mà nó
chỉ chuyển từ thân này sang thân khác. Thân sau phủ định thân trước, nhưng
những tập tính lại kế thừa những thân trước đó, nên thân sau dù sống ở cõi

nào đi chăng nữa, vui sướng hay đau khổ đều do ý nghĩ về việc làm của hành
động của thân trước mà ra.
Thân sau xét về mặt hình thức thì có thể khơng khác lắm so với thân
trước nhưng nó là cái đã tiến hóa, cái có kinh nghiệm. Và cứ như thế trong
sáu nẻo đường luân hồi cái này phủ định lại cái kia, và cái kia lại tiếp tục phủ
định để sinh ra cái mới. Cái hạn chế trong quan niệm về phủ định của phủ
định của Phật giáo là cái phủ định mang tính siêu hình, cái sau ra đời hồn
tồn như cái cũ.
Triết học phương Đông quan niệm về phủ định của phủ định cịn có
trong tư tưởng của triết học Trung Quốc cổ đại.


12

Trước tiên, quan niệm về phủ định trong học thuyết âm dương – ngũ
hành. Theo quan niệm của học thuyết âm – dương sự thay đổi của vạn vật
được thể hiện trong sự thay đổi, vận động của âm và dương nhưng sự thay đổi
này mang tính chất tồn vẹn trong chỉnh thể và cân bằng của cái đa và cái đơn
nhất. Để giải thích sự biến dịch từ cái duy nhất thành cái nhiều, đa dạng,
phong phú của vạn vật phái âm dương đưa ra cái logic sau: thái cực sinh
lưỡng nghi (âm - dương), lưỡng nghi sinh tứ tượng (thái dương – thiếu âm;
thiếu dương – thái âm) và tứ tượng sinh bác quái (càn –khảm – cấn – chấn –
tốn – ly – khơn – đồi), bác quái sinh vạn vật ( vô cùng, vô tận). Vậy, trong
âm có dương và trong dương có âm, thể hiện một vịng trịn khép kín có sự
vận động và biến đổi nhưng chưa có sự kế thừa phát triển, có chăng chỉ là sự
thay đổi hình thức tồn tại mà thơi.
Thứ hai, quan niệm về phủ định cịn được thể hiện trong quan niệm về
“Đạo” của Đạo giáo. Theo quan niệm này thì “đạo” là bản nguyên của thế
giới vạn vật, tất cả đều bắt đầu từ “đạo” mà ra và về cội nguồn của nó là
“đạo” tuy hình thức biểu hiện khác nhau nhưng tất cả đều quay về với “đạo”.

Bắt đầu từ “đạo”, “đạo” biến mà có khí, khí biến mà có hình, hình biến mà có
sinh, sinh biến mà có tử, tử để trở về với “đạo” [10.121]. Mọi hiện hữu đều
biến dịch theo nguyên tắc “bình quân” và “phản phục” tức là sự biến đổi trong
thế cân bằng và quay trở về với cái ban đầu.
Tóm lại, tất cả các quan niệm trước C.Mác về phủ định đều có chung
một đặc điểm là xem sự thay thế nhau giữa các sự vật, hiện tượng là một q
trình khép kín. Cái cũ mất đi, cái mới ra đời nhưng giữa cái cũ và cái mới
khơng có mối quan hệ với nhau. Sở dĩ có quan niệm như vậy là do ảnh hưởng
bởi tư tưởng biện chứng mang tính ngây thơ, chất phác thời cổ đại. Như
Ph.Ăngghen nhận xét: “Tư duy biện chứng xuất hiện với tính chất thuần phác
tự nhiên chưa bị khuấy đục bởi những trở ngại đáng yêu…” [7.491].


13

1.1.2. Quan niệm trước C.Mác về phủ định biện chứng
Quan niệm về phủ định biện chứng đã có mầm mống từ trong triết học
cổ đại đến triết học khai sáng Pháp, nhưng tư tưởng phủ định biện chứng với
nguyên nghĩa của nó là sự thay thế giữa cái cũ và cái mới, cái mới ra đời trên
cơ sở kế thừa của cái cũ thì chỉ bắt đầu trong triết học của Hêghen.
Hêghen là một trong những nhà triết học trước Mác thể hiện một cách
sâu sắc nguyên lý về sự phát triển. Hêghen coi sự phát triển không phải đơn
thuần về lượng hay chất, hay sự chuyển dịch ví trí của sự vật về khơng gian.
Ơng hiểu sự phát triển là phủ định biện chứng. Trong đó, cái mới ra đời thay
thế cái cũ, nhưng đồng thời kế thừa cái cũ tạo ra khả năng thúc đẩy sự phát triển.
Theo Hêghen: “Phủ định đó là sự duy trì cái nội dung thực thể trong sự
phát triển của sự vật để thực hiện thông qua sự phủ định biện chứng liên tục,
bởi một hình thức cao hơn, nhờ chỗ nội dung này đã có dưới dạng có sẵn
trong ý niệm tồn tại ngay từ đầu, hãy nói về một lĩnh vực xác định trong tế
bào của nó, tức trong khái niệm” [52.250]. Điều này được Hênghen chứng

minh cụ thể là: Một sự phủ định biện chứng được xác định với tư cách là sự
chuyển hóa thành cái khác của mình bao gồm khái niệm trước, nhưng bao
hàm nhiều hơn là chỉ có nó và là sự thống nhất của nó với mặt đối lập của nó
và phủ định đó là quá trình xây dựng hệ thống khái niệm.
Hênghen với tư cách là người đầu tiên trình bày một cách khái quát có
hệ thống quy luật phủ định của phủ định, trong đó phạm trù “lột bỏ” tức là
phủ định biện chứng giữ vị trí quan trọng. Phủ định tác động qua lại với khái
niệm khẳng định và với chính bản thân nó. Hêghen dùng thuật ngữ “lột bỏ”
đã hàm ý rằng mọi phạm trù lôgic đều phân chia một cách hợp lý thành ba
nhóm: Các phạm trù mang tính hệ thống, các phạm trù mang tính cơng cụ và
các phạm mang tính hệ thống – cơng cụ.


14

Theo Hêghen cần phải quy nhiều phạm trù về phạm trù thứ nhất (Phạm
trù mang tính hệ thống): Các phạm trù mang tính hệ thống giữ các vị trí nhất
định đối với mỗi một trong các phạm trù của Hêghen. Các phạm trù mang
tính cơng cụ khơng giữ vị trí xác định trong hệ thống, nhưng lại có hiệu lực
như là các nguyên tắc xây dựng và luận giải hệ thống, các phạm trù mang tính
cơng cụ như “lột bỏ”, “tha hóa”, “định đề”, “phản đề”, “tổng hợp”.
Nhóm phạm trù thứ ba giữ vị trí trung gian, chúng vừa mang tính hệ
thống, vừa mang tính cơng cụ, chẳng hạn như “ sinh thành”, “xuất hiện”,
“đồng nhất”, “mâu thuẫn”, “lột bỏ” là phạm trù mang tính cơng cụ, nó bao
hàm ba yếu tố có tác động qua lại với nhau, được phản ánh trong hệ thống qua
các khâu của bộ ba đầu tiên của logic học.
Yếu tố nhứ nhất – phủ định theo đúng nghĩa của từ đó là loại trừ, khắc
phục. Sự xem xét tách rời hai yếu tố khác “lột bỏ” và phủ định “cũng chính là
hư vơ”. “Phủ định” và “lột bỏ” có mối quan hệ với nhau nhưng giữa chúng có
sự khác biệt, cái “lột bỏ” dường như đối lập với cái phủ định để tự phủ định nó.

Yếu tố cấu thành thứ hai của “lột bỏ” là “bảo tồn”, cái quý báu, bất biến
có trong cái bị phủ định. Minh họa cho sự phân tích tiếp theo về bảo tồn là:
logic tư biện bao gồm trong mình logic trước đây bảo tồn chính các hình thức
tư duy đó… [52.253] nhưng đồng thời cũng tiếp tục phát triển và cải biến
chúng nhờ các phạm trù mới. Từ đó, nó đảm bảo được sự chuyển hóa của cái
bị phủ định, ở kết quả lột bỏ nó thành cái khác của nó, thành cái tồn tại khác
của nó.
Cuối cùng yếu tố thứ ba “lột bỏ” là chuyển hóa lên mọi trình độ phát
triển cao hơn, do đó, cái khác với mình của cái đã bị lột bỏ hóa ra là một đại
lượng cao hơn.
Thông qua cái yếu tố ban đầu, bước đầu tiên của yếu tố ban đầu được
“lột bỏ”, tức là đã có sự thay đổi, cái ban đầu bây giờ không phải là cái ban


15

đầu nguyên nghĩa mà cái ban đầu đã được bổ sung thêm những yếu tố mới.
Theo Hêghen sự phủ định như vậy mang tính kế thừa. Nhưng hạn chế trong tư
tưởng của Hêghen là yếu tố “lột bỏ” không phải yếu tố khách quan diễn ra
trong hiện thực khách quan mà nó diễn ra trong khái niệm, trong nhận thức.
Nên khi áp dụng quy luật phủ định của phủ định trong tồn bộ hệ thống của
mình, Hêghen đã miêu tả sự phát triển đi lên của các khái niệm, của tư duy
như là sự vận động theo vòng tròn (sự kế thừa của các vòng tròn, vòng tròn
sau kế thừa vịng trịn trước), trong đó quay trở lại khái niệm ban đầu, nhưng
cái khái niệm ban đầu này bây giờ đã là một khái niệm cụ thể hơn, xác định
hơn, có nội dung hơn, tức nó là kết quả của sự rút ra từ cái ban đầu, cái đã
được chứng minh nhưng cái mới hơn này không được rút ra từ trong hiện
thực mà là sự rút ra từ trong khái niệm.
Ngồi ra, theo Hêghen phủ định cũng mang tính khách quan. Sự “lột
bỏ”, “thủ tiêu”, khơng có nghĩa là loại trừ một cách máy móc, nói chính xác

hơn thì không phải thủ tiêu mà phát triển cơ sở (phát triển cái yếu tố ban đầu),
tức là vạch ra mâu thuẫn có trong cái ban đầu, bản thân cái ban đầu đã chứa
đựng trong mình sự phủ định của bản thân mình. Nghĩa là trong bản thân nó
đã chứa đựng những mâu thuẫn, “lột bỏ”, “thủ tiêu” là lột bỏ, thủ tiêu những
mâu thuẫn đã có trong cái ban đầu để hình thành nên những mâu thuẫn mới.
Từ đó Hêghen đi đến một kết luận là bản thân sự vật (khái niệm) bị thủ tiêu
không phải do thế lực bên ngồi nào đó mà bởi chính bản thân nó. Vậy khái
niệm nó đóng vai trị là cơ sở tự phủ định chính mình.
Tóm lại, theo Hêghen phủ định khơng phải chỉ mang tính tiêu cực mà
cịn mang tính tích cực và sáng tạo, khơng có phủ định thì khơng có sự vận
động và phát triển, nhưng đối với Hêghen sự vận động và phát triển đó chỉ
thuần túy diễn ra trong tư duy mà thôi.


16

Theo Hêghen phủ định của phủ định được thể hiện hợp nhất trong bộ
ba (chính đề - phản đề - hợp đề). Khái niệm ban đầu đứng đối lập với khái
niệm xuất hiện từ trong lịng nó – gọi là phản đề. Các khái niệm đối lập không
thủ tiêu lẫn nhau, mà hợp nhất lại trong một khái niệm cao hơn – gọi là chính
đề. Phản đề và chính đề thơng qua q trình vận động và phát triển thì được
tha hóa bằng hợp đề. Và Hêghen cho rằng sự phát triển như vậy là quá trình
“vượt bỏ” giữa phản đề và chính đề và đi đến hợp đề.
Xuất phát từ quan điểm coi sự phát triển như là một quá trình vận động
liên tục theo quy luật phủ định của phủ định. Vì vậy, Hêghen coi một trong
những nguyên tắc quan trọng để xây dựng hệ thống triết học của mình nhằm
thể hiện sự phát triển của tinh thần tuyệt đối là tam đoạn thức, và đây cũng là
con đường phát triển của sự vật, hiện tượng thông qua phủ định của phủ định:
Chính đề - phản đề - hợp đề. Trong đó các yếu tố đều có mối quan hệ hữu cơ
chuyển hóa lẫn nhau.

Chính đề: Đầu tiên có một ý tưởng, hoặc một lý thuyết, hoặc một xu
hướng vận động nào đó được gọi là một “chính đề”; một chính đề như thế
thường sẽ tạo ra cái đối lập, vì như hầu hết các sự vật tồn tại trên trời đất, có
lẽ nó sẽ có giá trị hạn chế và sẽ có các điểm yếu nhất định…
Phản đề: Ý tưởng hoặc xu hướng vận động đối lập được gọi là “phản
đề”, bởi vì nó nhằm phản lại cái trước tiên, tức chính đề. Cuộc tranh đấu giữa
chính đề và phản đề diễn ra cho tới khi đạt được một giải pháp nào đó mà,
theo một nghĩa nhất định, vượt lên trên cả chính đề và phản đề do nó phát
hiện ra được các giá trị riêng của chúng và do nó cố gắng bảo tồn các tinh hoa
và tránh các hạn chế của cả hai để tạo nên hợp đề.
Hợp đề: Giải pháp đạt được ở bước thứ ba này được gọi là “hợp đề”.
Đến khi đạt được, hợp đề đến lượt nó có thể lại trở thành bước thứ nhất trong
một của ba đoạn biện chứng mới khác, và quá trình sẽ lại tiếp diễn như thế


17

nếu hợp đề cụ thể vừa đạt được lại trở nên thiếu thuyết phục, hoặc trở nên
không thỏa mãn. Trong trường hợp này, mặt đối lập sẽ lại nổi lên, và điều này
có nghĩa là cái hợp đề vừa đạt được có thể được mơ tả như là một chính đề
mới, cái chính đề tạo ra được một phản đề mới.
Do đó, ba đoạn biện chứng sẽ lại diễn ra ở một trình độ cao hơn, và nó
có thể đạt tới cấp độ thứ ba khi một hợp đề thứ hai đạt được.
Bằng con đường tự phủ định, vượt bỏ và phát triển là cơ sở liên tục
sinh ra các khái niệm mới – các khái niệm này phức tạp hơn và phong phú
hơn. Quá trình đi từ cái trừu tượng đến cái cụ thể, từ cái đơn giản và nghèo
nàn đến cái phức tạp và phong phú, từ cái trực tiếp đến cái gián tiếp sẽ vạch
rõ và loại bỏ những khiếm khuyết của cái khái niệm ban đầu.
Thông qua đó, C.Mác cũng đưa ra một kết luận dựa trên tư tưởng này
của Hêghen như sau: Nếu như một mặt của mâu thuẫn (mặt khẳng định, duy

trì quan hệ đã có) là chính đề, cịn mặt kia (mặt phủ định, nhằm thủ tiêu quan
hệ đã có) là phản đề thì hình thức của sự vận động hiện thực, sự thực hiện
mâu thuẫn đó là hợp đề cụ thể của chúng, là sự phủ định của phủ định
[52.254].
Qua đây V.I.Lênin cũng có một nhận xét về vấn đề chuyển hóa thành
“cái khác với mình” thơng qua lột bỏ như sau: Khơng phải một vật có trạng
thái duy nhất mới có thể trở thành “cái khác với mình” đối với vật và trạng
thái đó mà trong một giới hạn nhất định sẽ có một tổ hợp vài khả năng lột bỏ
khác nhau mà chỉ một trong số đó được thực hiện hóa. Chúng diễn ra trong tất
cả các trường hợp lĩnh vực đó.” [41.245].
Vậy chính đề, phản đề, hợp đề là ba giai đoạn cơ bản trong quá trình
phát triển của tinh thần tuyệt đối, đồng thời cũng là quá trình nảy sinh và giải
quyết những mâu thuẫn giữa các mặt đối lập và từ đó Hêghen đưa ra ba
nguyên tắc cơ bản:


18

Nguyên tắc thứ nhất, quy luật lượng và chất quy định lẫn nhau, những
chuyển hóa về lượng dẫn đến những chuyển hóa về chất và ngược lại.
Nguyên tắc thứ hai, sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập với
tư cách là nguồn gốc và động lực của sự phát triển.
Nguyên tắc thứ ba, phủ định của phủ định với tính cách là sự phát triển
diễn ra theo vòng tròn xoắn ốc, đây là con đường phát triển của khái niệm,
ông giải quyết nguyên tắc này thông qua giải quyết mối quan hệ: chung –
riêng, tất nhiên - ngẫu nhiên, logic - lịch sử .
Vậy, khi áp dụng quy luật phủ định của phủ định cần phải hiểu một
cách linh loạt. Vì phủ định của phủ định là kết quả cụ thể của sự phát triển có
tính chất mâu thuẫn của đối tượng nên nó là sự tổng hợp hai mức độ phát triển
trước đó, hai mức độ của sự phát triển được thể hiện: Cái gì trong hai mức độ

trước đó tổng hợp lại thì ta có thể dự đốn trước được điều đó bởi vì giai đoạn
thứ nhất (chỉnh đề) đã qua rồi nên chúng ta có thể nhận thức được chúng, cịn
giai đoạn thứ hai (phản đề) đã đạt đến trạng thái phát triển của mình cuối cùng
chúng ta có thể thấy. Sự tổng hợp cụ thể này được thực hiện như thế nào điều
đó khơng thể dự đốn trước được mà chỉ thấy chúng trong bản thân hiện thực.
Mối liên hệ cụ thể giữa hình thức trừu tượng của chính đề và nội dung trừu
tượng của phản đề chính là cái khiến cho kết quả của sự phát triển khác nhau
căn bản so với chính đề. Sở dĩ có tình hình đó là do “phủ định cái phủ định
không kết hợp một cách máy móc cái này với cái kia, mà bắt các yếu tố đã
phát triển của phản đề phải phục tùng cấu trúc, hình thức bên trong của chính
đề” [52.252].
Vậy, điều quan trọng là tìm cách thức giải quyết mâu thuẫn chính đề và
phản đề trong bản thân cái hiện thực đang tồn tại. Vậy sự thống nhất, đồng
nhất cụ thể của các mặt chính đề và phản đề khơng phải là gán cho hiện thực
mà được phát hiện ra trong hiện thực.


19

Theo C.Mác sự vận động của mâu thuẫn được thực hiện theo quy luật
phủ định của phủ định và trong nhận thức cũng cần lưu ý đến điều này. Nếu
một mặt của mâu thuẫn, mặt khẳng định nhằm duy trì quan hệ đã có là chính
đề thì hình thức vận động, sự thực hiện mâu thuẫn đó là hợp đề cụ thể của
chúng, là phủ định của phủ định, còn mặt kia tức mặt phủ định, nhằm thủ tiêu
quan hệ đã có là phản đề.
Thơng qua đây ta cũng thấy rằng C.Mác cũng đã vận dụng bộ ba này
của Hêghen trong quá trình nghiên cứu bộ “Tư bản” của mình. Theo C.Mác
nếu quá trình sản xuất giá trị thặng dư là chính đề cịn q trình thực hiện nó
là phản đề thì sự tạo thành lợi nhuận bình quân là hợp đề của cả hai cái, là sự
phủ định cái phủ định, là hình thức vận động cụ thể của tư bản. C. Mác luận

giải thêm mâu thuẫn giữa giá trị sử dụng và giá trị cần được giải quyết thơng
qua một hình thức làm mơi giới trung gian của của sự rao đổi các vật trong xã
hội. Kết quả là tiền tệ ra đời. Lưu thông tiền tệ không chỉ là hình thức vận
động nhằm giải quyết mâu thuẫn giữa giá trị và giá trị sử dụng ở một mức độ
phát triển nhất định của nó mà cịn là kết quả phát triển của hình thức giá trị
trước đó. Tiền là một hàng hóa đặc biệt tách ra từ những hàng hóa khác làm
vật ngang giá chung để trao đổi, trước khi tiền xuất hiện, làm vật ngang giá
chung thì có các hình thái giá trị khác biểu hiện giá trị của hàng hóa.
Theo Hêghen sự phủ định trải qua hai giai đoạn:
Giai đoạn thứ nhất, theo Hêghen, không hồn thành sự phát triển của
nhận thức. Nó cần được bổ sung bằng phủ định thứ hai – phủ định cái phủ
định, hai cái này khác nhau về chức năng.
Phủ định thứ nhất nói lên xuất hiện mâu thuẫn, sự vượt bỏ tính phổ
biến và tính trực tiếp ban đầu.
Phủ định thứ hai là sự vượt bỏ bản thân mâu thuẫn, là sự giải quyết
mâu thuẫn, là sự thống nhất của các mặt đối lập là kết quả tích cực của việc


20

giải quyết mâu thuẫn. Hêghen cho rằng phủ định thứ hai này rất quan trọng vì
trong lần phủ định thứ hai này yếu tố của chủ nghĩa hoài nghi bị vượt bỏ hoàn toàn.
Quy luật phủ định của phủ định được Hêghen sử dụng khi ơng xây
dựng tồn bộ hệ thống triết học của mình. Trong hệ thống đó các phạm trù
được trình bày dưới hình thức đem đối lập mặt đối lập này với mặt đối lập
khác và đem vượt bỏ mặt đối lập đó với cặp phạm trù thứ ba và phạm trù này
là sự thống nhất của hai mặt đối lập trên.
Toàn bộ hệ thống triết học của Hêghen đều được diễn đạt theo sự phát
triển của tam đoạn thức thông qua quy luật phủ định của phủ định. Sự phát
triển của ý niệm tuyệt đối thông qua quy luật phủ định của phủ định có thể

diễn đạt diễn đạt như sau: Ý niệm tuyệt đối (giai đoạn sơ khai), tự nhiên (phủ
định), xã hội (phủ định của phủ định). Theo Hêghen ý niệm tuyệt đối là cái có
trước tất cả mọi cái. Do đó mâu thuẫn bên trong ý niệm tuyệt đối có sự vận
động từ thấp lên cao, thông qua sự phát triển, thông qua các khái niệm rồi trở
lại với nó với một sự phủ định phong phú hơn (logic học). Do đó, sự vận động
và chuyển hóa nên ý niệm tuyệt đối thành cái khác nó (tha hóa), đối lập với
nó là giới tự nhiên (tức triết học tự nhiên). Ý niệm tuyệt đối tiếp tục vận động
của bản thân mình trong đời sống có ý thức của cá nhân con người và xã hội
loài người và sự hoàn thành sự vận động của nó đạt tới đỉnh cao nhất trong hệ
thống triết học Hêghen (triết học tinh thần).
Tóm lại, chúng ta có thể diễn đạt nội dung đầy đủ của quy luật phủ định
của phủ định của Hêghen dưới dạng hợp nhất năm yếu tố:
Một là, phủ định biện chứng
Hai là, phủ định kết quả của phủ định lần thứ nhất
Ba là, bảo toàn nội dung bất biến trong kết quả của lần phủ định thứ
nhất và lần thú hai


21

Bốn là, tái phục hồi một phần cái đã bị lần phủ định thứ nhất lột bỏ và
tiến lên một trình độ phát triển mới cao hơn lần phủ định thứ nhất.
Năm là, vận động đến chu kì tác động tiếp theo của quy luật này.
Vậy, một kết luận chúng ta có thể rút ra là phủ định của phủ định theo
quan niệm của Hêghen là sự phủ định thuần túy chỉ trong ý thức, khái niệm,
trong ý niệm tuyệt đối mà thơi, điều này khác hồn tồn với quan niệm của
C.Mác và Ph.Ănghen. Điều đó dẫn đến khi vận dụng quy luật phủ định của
phủ định vào trong toàn bộ hệ thống triết học Hêghen đã có một số hạn chế
nhất định: Là đã tuyệt đối hóa mức độ phát triển thứ ba của ý niệm tuyệt đối,
hơn nữa là tuyệt đối hóa khâu cuối cùng trong tồn bộ hệ thống triết học của

ông, được kết thúc bởi tri thức tuyệt đối. Bản thân cái thứ ba này, đến lượt nó
chỉ có thể là sự bắt đầu của sự phát triển tiếp theo nó dường như đi lên tiếp tục
cho đến vơ cùng, nhưng thực ra nó lại có điểm cuối tuyệt đối. Vậy, vơ tình
Hêngen đã xem sự phát triển là có giới hạn, có điểm cuối cùng.
Ngược lại, C.Mác thì khơng thừa nhận bất kì mức độ tuyệt đối nào
trong sự phát triển. Chỉ có sự phủ định biện chứng ở mỗi mức độ đã đạt được,
mỗi hình thức đã được thực hiện là tuyệt đối mà thơi. Cịn q trình phát triển
là một q trình lâu dài, khơng có điểm kết thúc và giới hạn.
Theo Hêghen, sự duy trì cái nội dung thực thể trong sự phát triển của
sự vật được thực hiện thông qua sự phủ định chúng liên tục bởi một hình thức
cao hơn, chính là nhờ nội dung này đã có dưới dạng có sẵn trong ý niệm tồn
tại ngay từ đầu, hay nó có trong khái niệm. Hêghen cho rằng khái niệm là cơ
sở của triết học, nhưng không phải là cái cuối cùng, mà khái niệm chỉ là bước
đầu tiên trong q trình nhận thức đầy phức tạp, nó cần được bổ sung, cụ thể
hóa về mặt nội dung.
Ngược lại, C.Mác xem sự phát triển không phải là những khái niệm
thuần túy, mà là của những sự vật, hiện tượng vật chất, tức là sự phát triển


×