Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

Đổi mới kinh tế việt nam với phép phủ định biện chứng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (164.34 KB, 26 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
TL22
Lời nói đầu
Việc đổi mới nền kinh tế Việt Nam từ nền kinh tế kế hoạch tập trung quan
liêu bao cấp sang nền thị trờng có sự quản lý của Nhà nớc theo định hớng xã hội
chủ nghĩa mà Đảng cộng sản Việt Nam đã lựa chọn từ đại hội Đảng VI (1996)
đang từng bớc thúc đẩy sự phát triển kinh tế ở Việt Nam. Thực tiễn tình hình kinh
tế của nớc ta trong những năm qua cho thấy công cuộc đổi mới kinh tế của Việt
Nam đang đi trên con đờng đúng đắn. Công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá
đất nớc đang dần dần thu đợc những thành quả đáng chú ý. Từ một nớc phải nhập
khẩu gạo trong những năm đầu giải phóng đất nớc, đến nay, Việt Nam đã trở
thành một trong ba nớc xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới, sánh vai cùng với Mỹ và
Thái Lan. Quan hệ thơng mại của nớc ta cũng ngày càng đợc mở rộng với chủ tr-
ờng Việt Nan muốn làm bạn với tất cả các nớc trên thế giới. Nớc ta nhập WTO
tổ chức thơng mại thế giới và đến khi đó thì nền kinh tế của Việt Nam sẽ có
những bớc tiến mới, hứa hẹn một sự tăng trởng cao. Không chỉ trong lĩnh vực kinh
tế mà trong những ngành khoa học cơ bản cũng dần dần đợc đầu t thích đáng hơn
và có sự chú ý hơn của Nhà nớc, bằng chứng là ngân sách Nhà nớc cho những
ngành này đã tăng lên đáng kể so với những năm đầu thập kỷ 90. Để đạt đợc
những thành tích đáng kể nh vậy ngoài sự nỗ lực gồng mình trong xu thế hội nhập
với thế giới để không trở thành kể bị đào thải thì một trong những điều kiện
quan trọng để đa nớc ta có đợc vị thế dần dần đợc khẳng định trong khu vực là do
Đảng và Nhà nớc cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã kiên trì đờng lối lãnh
đạo, quán triệt t tởng của chủ nghĩa Mác Lênin, coi đó là nền tảng t tởng và làm
kim chỉ nam cho mọi lý luận khoa học và xã hội mặc dầu đã có không ít những sự
nghi ngờ, dèm pha về chủ nghĩa Mác Lênin, đặc biệt khi Liên Xô và các nớc
Đông Âu sụp đổ. Trong quá trình lãnh đạo đất nớc để thực hiện mục tiêu dân
giầu, nớc mạnh, xã hội công bằng văn minh, tiến lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta
đã kiên định đờng lỗi lãnh đạo, kế thừa và phát huy chủ nghĩa Mác Lênin và
biết áp dụng thực tiễn phép biện chứng của Mác xít một cách linh hoạt trong
những đờng lối, định hớng, chính sách hoạch định phát triển kinh tế xã hội khẳng


1
Website: Email : Tel : 0918.775.368
định việc đổi mới nền kinh tế nớc ta sang nền kinh tế thị trờng có sự quản lý của
Nhà nớc theo định hớng xã hội chủ nghĩa là hoàn toàn đúng đắn - trong đó chủ
nghĩa duy vật biện chứng Mác Lênin luôn là nền tảng vững chắc là kim chỉ
nam dẫn đờng.
Nhận thức tầm quan trọng của chủ nghĩa duy vật biện chứng Mác Lênin,
đặc biệt là phép phù định biện chứng đối với công cuộc đổi mới của Việt Nam, và
đây cũng là những lý luận cơ bản mà mỗi học sinh khi bớc chân vào giảng đờng
đại học cần phải nắm đợc, Bộ môn Triết học Mác Lênin trong Đại học Kinh tế
Quốc dân đã có chủ trơng cho sinh viên nghiên cứu và ngoài những giời giảng dậy
trên lớp, bộ môn đã nâng lên thành một đề tài nghiên cứu khoa học cho sinh viên.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, em rất vui khi đợc tiếp xúc với những lý luận cơ
bản và cần thiết và rất vui mừng khi đợc nâng cao kiến thức với một đề tài đổi
mới kinh tế việt nam với phép phủ định biện chứng.Tuy nhiên, vì đây là lần
đầu tiên thử sức với một đề tài vừa mang tính lý luận, vừa mang tính thực tiễn cao
nên em không tránh khỏi sai sót, em mong các thầy (cô) thông cảm và giúp đỡ em
trong quá trình hoàn thiện t duy và kiến thức của mình.
Em xin chân thành cảm ơn thầy (cô)
2
Website: Email : Tel : 0918.775.368
A.Cơ sở lý luận
Phần I: quy luật phủ định và phủ định
I. Khái niệm phủ định biện chứng và những đặc điểm của nó
1. Khái niệm
Triết học Mác thấy rõ sự chuyển hoá từ những thay đổi thành những thay
đổi về vật chất, sự đấu tranh của các mặt đối lập dẫn tới mâu thuẫn đợc giải quyết,
sự vật cũ mất đi và sự vật mới ra đời. Mỗi sự thay thế ấy làm thành một mắt khâu
trong sợi dây xích phát của hiện thực và của sự t duy. Sự ra đời của cái mới là kết
quả của sự phủ định cái cũ, cái lỗi thời. Sự phủ định trong tự nhiên lẫn trong xã hội

là sự phủ định làm mất đi cái cũ và xuất hiện cái mơí, tiến bộ hơn.Sự phủ định nh
vậy là hình thức giải quyết các mâu thuẫn nội tại của bản thân sự vật bị phủ định.
Từ những sự nhận đinh trên chủ nghĩa duy vật đã đa ra khái niệm: Phủ định biện
chứng là quá trình tự thân vận động phủ định, tự thân phát triển, là mắt khâu trên
con đờng dẫn tới sự ra đời của cái mới, tiến bộ hơn so với cái bị phủ định.
2. Đặc điểm
Phủ định biện chứng có hai đặc trng cơ bản
+ Thứ nhất, nó mang tính khách quan, là điều kiện của sự phát triển.
Phủ định biện chứng là quá trình mang tính khách quan do mâu thuẫn của
bản thân sự vật tự quy định. Hơn nữa, phơng thức phủ định sự vật cũng không tuỳ
thuộc ý muốn của con ngời. Khi đề cập tới vấn đề này, chúng ta lu ý rằng, mỗi sự
vật có phơng thức phủ định riêng, do đó mà có sự phát triển. Sự phủ định là kết
quả hoạt động của quy luật mâu thuẫn và quy luật lợng chất cũ và xuất phát từ xu
hớng vận động của sự vật, hiện tợng, từ chính trong nội lực của sự vật.
Nguyên nhân của sự chuyển hoá đó là do sự phát triển của mâu thuẫn bên
trong của sự vật do sự biến hoá của một số điều kiện bên trong nào đó làm cho
một số đặc trng, đặc tính hoặc hình thức vốn có mất ý nghĩa tích cực đáng đợc
khẳng định trong quá trình phát triển mà trở thành những cái tiêu cực ngăn cản sự
phát triển nhất định, mọi sự vật mới có ý nghĩa tích cực mới là cái ngăn cản sự
phát triển nhất định, mọi sự vật mới có ý nghĩa tích cực mới là cái nên khẳng định
3
Website: Email : Tel : 0918.775.368
vợt qua khỏi điều kiện phát triển đó thì ý nghĩa tích cực của nó sẽ mất đi và
chuyển thành cái tiêu cực, cái cần phải phủ định. Vì vậy cần phải chuyển hoá sang
mặt đối lập của nó, cần phải có đặc trng, đặc tính khác đối lập với bản thân nó,
hoặc hình thức khác mới có thể phát triển lên đợc nếu không thì sự phát triển sẽ
gặp trở ngại, sẽ thành ra sai lầm hay lệch lạc.
+ Thứ hai, nó mang tính kế thừa là nhân tố liên hệ giữa cái cũ và cái mới.
Kế thừa là việc cái mới ra đời từ cái cũ đã giữa lại trong đó những yếu tố
tích cực tiến bộ từ cái cũ tạo đi phù hợp với hoàn cảnh mới.

Phủ định biện chứng không phải là thủ tiêu, sự phá hoại hoàn toàn của cái
bị phủ định. Trái lại, để dẫn tới sự ra đời của cái mới, quá trình phủ định biện
chứng bao hàm trong đó nhân tố giữ lại những nội dung tích cực của cái bị phủ
định. Phủ định biện chứng, do vậy, là sự phủ định mang tính kế thừa. Với ý nghĩa
nh vậy, phủ định đồng thời là khẳng định. Diễn đạt t tởng đó, Lênin có viết
không phải sự phủ định sạch trơn, không phải sự phủ định không suy nghĩ, không
phải sự nghi ngờ là cái đặc trng và cái bản chất trong phép biện chứng... mà là sự
phủ định coi nh là vòng khâu của liên hệ, vòng khâu của sự phát triển, với sự duy
trì cái khẳng định.
Giá trị của sự kế thừa biện chứng đợc quy định bởi vai trò của nó trong sự ra
đời của cái mới. Thật ra, nó đã tham gia vào việc tạo ra cái hiện tại, nó tạo thành
mối liên hệ sống động trong thời gian. Một trong những hình thức quan trọng của
cái đợc kế thừa trong đời sống xã hội là truyền thống. Truyền thống là cái chứa
đựng trong bản thân mình những năng lực to lớn để tạo ra cái mới.
Trong qúa trình đổi mới hiện nay, chúng ta phải biết kế thừa những di sản
tích cực của dân tộc cũng nh của thế giới. Nhng có lúc, có nơi đã coi nhẹ việc khai
thác vốn quý báu của dân tộc, có quan điểm phủ định sạch trơn. Ngợc lại, có lúc
có nơi lại phục hồi cả những phong tục tập quán đã lỗi thời, không biết đứng trên
yêu cầu mới của cách mạng mà cải biến và sử dụng những vốn cũ đó cho thích
hợp.
4
Website: Email : Tel : 0918.775.368
II. Quy luật phủ định của phủ định và hình thức xoáy ốc của sự phát
triển.
1. Nội dung
Phủ định biện chứng nói lên một giai đoạn, một nấc thang trong quá trình
phát triển. Với t cách là kết quả của phủ định lần thứ nhất, cái mới cũng chứa
đựng trong bản thân mình xu hớng dẫn tới những lần phủ định tiếp theo phủ
định của phủ định. Chỉ có thông qua phủ định của phủ định mới dẫn tới việc ra đời
một sự vật, trong đó có sự lặp lại một số đặc trng cơ bản của cái xuất phát ban đầu

nhng trên cơ sở cao hơn. Đến đây mới hoàn thành một chu kỳ phát triển. Khuynh
hớn chung nh vậy của sự phát triển đợc khái quát thành nội dung cơ bản của quy
luật phủ định của phủ định.
Sự phát triển biện chứng thông qua những lần phủ định biện chứng, nh trên
đã nói, là sự thống nhất giữa loại bỏ, kế thừa và phát triển. Mỗi lần phủ định biện
chứng đợc thực hiện sẽ mang lại những nhân tố tích cực mới. Do đó, sự phát triển
thông qua những lần phủ định biện chứng sẽ tạo ra xu hớng tiến lên không ngừng.
Đặc điểm quan trọng nhất của sự phát triển biện chứng thông qua phủ định
chính là sự phát triển dờng nh quay lại cái cũ, nhng trên cơ sở cao hơn. Nói một
cách khái quát, qua một số lần phủ định, sự vật hoàn thành một chu kỳ phát triển.
Phủ định lần thứ nhất tạo ra sự đối lập với cái ban đầu, đó là một bớc trung gian
trong sự phát triển.
Quy luật phủ định của phủ định khái quát tính chất tiến lên của sự phát
triển. Sự phát triển đi lên không phải diễn ra theo đờng thẳng, mà theo đờng xoáy
ốc. Đề cập đến con đờng đó của sự phát triển biện chứng, Lênin viết. Sự phát
triển hình nh diễn lại những giai đoạn đã qua, nhng dới một hình thức khác, một
trình độ cao hơn; sự phát triển có thể nói là theo đờng trôn ốc chứ không theo đ-
ờng thẳng.
Diễn tả quy luật phủ định bằng đờng xoáy ốc chính là hình thức cho phép
biểu đạt đợc rõ ràng nhất các đặc trng của qúa trình phát triển biện chứng: tính kế
thừa, tính lặp lại nhng không quay trở lại và tính chất tiến lên của sự phát triển.
Mỗi vòng mới của đờng xoáy ốc thể hiện một trình độ cao hơn của sự phát triển,
5
Website: Email : Tel : 0918.775.368
đồng thời dờng nh quay lại cái đã qua, dờng nh lặp lại vòng trớc. Sự tiếp nối nhau
của các vòng thể hiện tính vô tận của sự phát triển, tính vô tận của sự tiến lên từ
thấp đến cao.
Quy luật phủ định của phủ định diễn tả sự phát triển theo đờng xoáy ốc
thông qua phủ định của phủ định nhng cần tránh khuynh hớng hiểu sự phát triển
một cách máy móc. Số lợng cần phủ định trong một chu kỳ phát triển một cách

máy móc. Số lợng các lần phủ định trong một chu kỳ phát triển cụ thể trong thực
tế có thể nhiều hơn hai, điều đó tuỳ theo tính chất của một quá trình phát triển cụ
thể, nhng ít nhất cũng phải hai lần.
Từ những lập luận trên đây, chúng ta có thể hiểu nội dung cơ bản của quy
luật phủ định của phủ định nh sau: quy luật này nói lên mối liên hệ sự kế thừa
giữa cái bị phủ định, do sự kế thừa đó sự phủ định biện chứng không phải là sự
phủ định sạch trơn bác bỏ tất cả sự phát triển trớc đó, mà là điều kiện cho sự phát
triển, nó duy trì và giữ gìn nội dung tích cực của các giai đoạn trớc, lắp lại một số
đặc điểm cơ bản của cái xuất phát nhng trên cơ sở mới cao hơn; do vậy, sự phát có
tính chất tiến lên không phải theo đờng thẳng mà là đờng xoáy ốc.
2. ý nghĩa của quy luật phủ định của phủ định
Trong hoạt động lý luận cũng nh trong thực tiễn, chúng ta cần lu ý rằng cái
mới nhất định sẽ thay thế cái cũ, cái tiến bộ nhất sẽ chiến thắng cái lạc hậu, cái
mới ra đời từ cái cũ, nó kế thừa tất cả những gì tích cực của cái cũ. Do đó, cần
chống lại thái độ phủ định sạch trơn cái cũ.
Trong khi đấu tranh với cái cũ, chúng ta vừa phải biết sàng lọc, biết giữ lấy
những gì tích cực là có giá trị của cái cũ, cải tạo cái cũ cho phù hợp với những
điều kiện mới; chống thái độ h vô chủ nghĩa trong khi nhìn nhận lịch sự, đánh
giá quá khứ. Chẳng hạn trớc tình trạng tam thời khủng hoangả thoái trào hiện nay
của chế độ XHCN ở Liên Xô cũ và Đông Âu không chỉ những kẻ chống cộng có
cả một số ngời vốn là Macxít cũng ra sức phủ nhận những thành quả to lớn của
CNXH đã tạo dợng đợc ở những nớc đó. Họ không thấy rằng trong hơn 70 năm
tồn tại, CNXH ở Liên Xô đã để lại những giá trị tích cực có giá trị lâu dài đối với
lịch sử toàn thế giới.
6
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Phần II. Những lý luận về thị trờng
I. Nền kinh tế kém phát triển mang tính tự cấp, tự túc
ền kinh tế tự nhiên là hình thái kinh tế đầu tiên trong tiến trình phát triển
kinh tế xã hội của loài ngời. Nền kinh tế tự nhiên là loại hình kinh tế tiến hành

sản xuất sản phẩm để thoả mãn nhu cầu của bản thân ngời sản xuất. Các mối quan
hệ sản xuất kinh tế đều mang hình thái quan hệ hiện vật. Đây là nền kinh tế thị tr-
ờng có thị trờng là kiểu hệ thống kinh tế đặc thù mà ở đó nhà nớc chính thức có
quyền lực kinh tế vô cùng to lớn, nhng trong thực tế quyền lực đó là sự bác bỏ về
việc tởng một cái gì đó là việc thực hiện tích cực một sự lựa chọn. Mọi hoạt động
của kinh tế đều đợc điều chỉnh bởi nhà nớc, từ giá cả tất nhiên gồm cả giá ngoại
hối và việc phân phối hàng tiêu dùng.
II. Nền kinh tế hàng hoá.
Nền kinh tế hàng hoá là một bớc ngoặt phát triển cao hơn của kinh tế tự
nhiên. Kinh tế hàng hoá là một kiểu tổ chức kinh tế xã hội mà trong đó hình
thái phổ biến của sản xuất ra sản phẩm để bán để trao đổi trên thị trờng. Trong nền
kinh tế hàng hoá gần nh toàn bộ sản phẩm lao động xã hội và dịch vụ đều mang
hình thaí hàng hoá, tức là hầu nh tất cả các mỗi quan hệ kinh tế đều đợc thực hiện
dới hình thái quan hệ hàng hoá, tiền tệ trên thị trờng.
III. Nền kinh tế thị trờng tự do
Nền kinh tế thị trờng là nền kinh tế hàng hoá phát triển ở trình tự cao đợc
điều tiết bởi cơ chế thị trờng ở đó sản xuất cái gì, sản xuất nh thế nào và sản xuất
cho ai đợc quyết định thông qua thị trờng cơ sở quan hệ cung cầu, giá cả.
Cơ chế thị trờng là tổng thể các nhân tố, quan hệ cơ bản vận động dới sự chi
phối của quy luật thị trờng trong môi trờng cạnh tranh nhằm mục tiêu lợi nhuận.
Nhân tố cơ bản của cơ chế thị trờng là cung cầu và giá cả thị trờng. Trong nền
kinh tế thị trờng là hàng loạt những quy luật kinh tế vốn có của nó nh: quy luật giá
trị, quy luật kinh tế cung cầu, quy luật cạnh tranh... cơ chế hoạt động của nền kinh
tế thị trờng tuân theo những quy luật trên.
7
Website: Email : Tel : 0918.775.368
IV. Nền kinh tế thị trờng hỗn hợp.
Đây là nền kinh tế thị trờng thị trờng phát triển ở trình độ cao mà ở đó chú
trọng tới vai trò quản lý của Nhà nớc đối với kinh tế bên cạnh những quy luật vốn
có của thị trờng.Thị trờng lúc này chịu sự điều tiết của cả bàn tay vô hình và

bàn tay hữu hìnhmà tuy theo mục đích phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia
mà trong từng thời kỳ, tơng quan giữa việc sử dụng bàn tay vô hình và bàn tay
hữu hình đợc điều chỉnh. Nền kinh tế này còn gọi là nền kinh tế hỗn hợp.
8
Website: Email : Tel : 0918.775.368
B. phép phủ định biện chứng đối với công
cuộc đổi mới kinh tế ở Việt nam
I. Sự ra đời của nền kinh tế hàng hoá là tất yếu khách quan, phủ định
lại nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp đã không còn phù hợp trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
1. Những tồn tại và bất cập của nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp
ở Việt Nam
Sau kháng chiến thắng lợi, dựa vào kinh nghiệm của các nớc XHCN, đất n-
ớc ta bắt đầu xây dựng mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung dựa trên hình thức
sở hũ công cộng về t liệu sản xuất. Với sự nỗ lực của nhân dân ta có thêm sự giúp
đỡ tận tình của các nớc XHCN khác mô hình kế hoạch hoá đã phát huy đợc tính u
việt của nó, từ một nền kinh tế lạc hậu và phân tán, bằng công cụ kế hoạch hoá
nhà nớc đã tập trung vào tay mình một lực lợng vật chất quan trọng về đất đai, tài
sản và tiền bạc để ổn định và phát triển nền kinh tế.
Nền kinh tế kế hoạch hoá trong thời kỳ đầu thực hiện ở nớc ta đã tỏ ra phù
hợp, nó đã tạo ra một bớc chuyển biến quan trọng về mặt kinh tế xã hội. Đồng thời
nó cũng thích hợp với nền kinh tế thời chiến và đóng vai trò quan trọng trong việc
tạo ra chiến thắng vĩ đại của dân tộc. Nó đã cho phép Đảng và nhà nớc huy động ở
mức độ cao nhất sức ngời và sức của cho tiền tuyến.
Nhng sau ngày giải phóng Việt Nam bức tranh mới về hiện trạng kinh tế
XH đã thay đổi. Trong một nền kinh tế cùng một lúc tồn tại cả 3 loại hình kinh tế
tự cấp, tự túc, nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung và nền kinh tế hàng hoá. Đó là
thực tế khách quan tồn tại sau năm 1975 nhng chúng ta vẫn tiếp tục chủ trơng xây
dựng nền kinh tế chỉ huy nh ở Miền Bắc trớc đây. Do các quan hệ kinh tế đã thay
đổi rất nhiều, việc áp dụng cơ chế quản lý cũ vào điều kiện kinh tế đã thay đổi làm

xuất hiện hàng loạt các hiện tợng tiêu cực.
Trong nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp có sự phân phối một cách
mạnh mẽ mọi sản phẩm lao động, giá cả thì bị ấn định trớc theo những chỉ tiêu của
Nhà nớc, điều này dẫn đến việc những quy luật kinh tế khách quan nh quy luật giá
cả, quy luật cung cầu, quy luật giá trị vi phạm nghiêm trọng, làm cho tình hình lu
9
Website: Email : Tel : 0918.775.368
thông tiền tệ, giá cả không kiểm soát đợc, đặc biệt là trong những năm 80, lạm
phát của nớc ta đã lên đến 3 con số làm cho đời sống nhân dân vô cùng khó khăn
và tình hình kinh tế nớc ta lâm vào tình trạng khủng hoảng. Nền sản xuất kém phát
triển đợc sự bảo hộ của nhà nớc lại càng trở nên trì trệ. Bộ máy quản lý doanh
nghiệp không hiệu quả, cồng kềnh, có nhiều cấp trung gian và không năng động,
phong cách thì cửa quyền dới chính sách bù lỗ của nhà nớc ngày càng không đem
lại bất cứ một hiệu quả kinh tế nào.
Đồng thời do chủ quan cúng nhắc không cân nhắc tới sự phù hợp của cơ chế
quản lý kinh tế, chúng ta đã không quản lý có hiệu quả các nguồn tài nguyên sản
xuất của đất nớc, trái lại đã dẫn tới việc sử dụng lãng phí một cách nghiêm trọng
các nguồn tài nguyên đó. Tài nguyên thiên nhiên bị phá hoại, môi trờng bị ô
nhiễm, sản xuất kém hiệu quả, nhà nớc thực hiện bao cấp tràn lan. Những việc đó
gây ra rất xấu cho nền kinh tế, sự tăng trởng kinh tế gặp rất nhiều khó khăn, sản
phẩm trở nên khan hiếm, ngân sách bị thâm hụt nặng nề, thu nhập từ nền kinh tế
không đủ tiêu dùng, tích luỹ hàng năm hầu nh không có vốn đầu t chủ yếu vào vay
và viện trợ của nớc ngoài. Để cuối những năm 80, giá cả leo thang, khủng hoảng
kinh tế đi liền với lạm phát cao đã làm cho đời sống nhân dân bị giảm sút thậm chí
một số địa phơng nạn đói đang rình rập. Nguyên nhân sâu xa về sự xuy thái nền
kinh tế là do áp dụng dập khuôn một mô hình kinh tế cha thích hợp và kém hiệu
quả.
Trớc sự suy thoái kinh tế nghiêm trọng nh trên, thêm vào đó viện trợ nớc
ngoài bị giảm sút đã đặt nền kinh tế nớc ta với sự bức bách đòi hỏi phải đổi mới.
2. sự ra đời của nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần có sự quản lý

của Nhà nớc là một xu hớng phát triển yếu khách quan.
Trớc những tồn tại và bất cập trên của nền kinh tế chỉ huy, tại Đại hội Đảng
VI (1996) đã chủ trơng phát triển nền kinh tế nhiều thành phần và thực hiện
chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế từ cơ chế kế hoạch hoá sang cơ chế hạch toán
kinh doanh XHCN. Đến đại hội đảng VII Đảng ta xác định rõ việc đổi mới cơ chế
kinh tế ở nớc ta là một tất yếu khách quan và trên thực tế đã diễn ra ở đó, tức là
chuyển nền kinhtế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trờng có sự quản lý
của nhà nớc theo định hớng XHCN. Đây là một sự thay đổi về nhận thức có ý
10
Website: Email : Tel : 0918.775.368
nghĩa rất quan trọng trong lý luận cũng nh trong thực tế lãnh đạo của Đảng trên
mặt trận làm kinh tế. Xét dới góc độ triết học, việc chuyển sang nền kinh tế thị tr-
ờng là đúng đắn và phù hợp với quy luật phủ định của phủ định và xu thế của thời
đại.
Thứ nhất, nếu không thay đổi cơ chế kinh tế vẫn giữ cơ chế kinh tế cũ thì
không thể nào có đủ sản phẩm để tiêu dùng chứ cha muốn nói đến tích luỹ vốn để
mở rộng sản xuất.
Thứ hai, do đặc trng của nền kinh tế tập trung còn rất cứng nhắc nên nó chỉ
có tác dụng thúc đẩy tăng trởng kinh tế trong gia đoạn ngắn và chỉ có tác dụng
phát triển nền kinh tế theo chiều rộng.
Thứ ba, xét về sự tồn tại thực tế ở nớc ta, những nhân tố của kinh tế thị tr-
ờng. Về vấn đề này có rất nhiều ý kiến đánh giá khác nhau. Nhiều ý kiến cho rằng
thị trờng nớc ta là thị trờng mới hình thành còn non yếu và là thị trờng sơ khai.
Thứ t, xét về mối quan hệ kinh tế đối ngoại ta thấy nền kinh tế nớc ta đang
hoà nhập với nền kinh tế thị trờng thế giới, sự giao lu về hàng hoá, dịch vụ và đầu
t trực tiếp của nớc ngoài làm cho sự vận động của nền kinh tế nớc ta gần gũi hơn
với nền kinh tế thị trờng thế giới.
Thứ năm, xu hớng chung phát triển kinh tế thế giới là sự phát triển kinh tế
của mỗi nớc không thể tách rời với sự phát triển hoà nhập quốc tế, sự cạnh tranh
giữa các quốc gia đã làm thay đổi hẳn về chất, không còn là dân số đông, vũ khí

nhiều, quân đội mạnh mà là tiềm lực kinh tế.
Thứ sáu, sự vận động của nền kinh tế hàng hoá theo cơ chế thị trờng không
thể nào giải quyết đợc những vấn đề do chính cơ chế đó và bản thân đời sống kinh
tế xã hội đặt ra. Đó là tình trạng thất nghiệp lạm phát khủng hoảng, ô nhiễm
môi trờng, sự bùng nổ dân số cũng nh hiện tợng XH khác. Những tình trạng và
hiện tợng trên ở mức độ khác nhau trực tiếp hay gián tiếp đều có tác dụng ngợc trở
lại làm cản trở sự phát triển bình thờng của xã hội nói chung và của nền kinh tế
hàng hoá nói riêng, vì vậy, sự tác động của nhà nớc một chủ đề có khả năng nhận
thức và vận dụng các quy luật khách quan vào nền kinh tế là một tất yếu của sự
phát triển kinh tế XH. Thiếu sự can thiệp của Nhà nớc vào kinh tế chẳng khác nào
khi vỗ tay mà chỉ dùng một tay.
11
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Nh vậy, nhìn lại ta thấy, Việt Nam trong thời kỳ dài tiến hành xây dựng nền
kinh tế cơ chế kế hoạch hoá tập trung, phủ định bàn tay vô hình của thị trờng, cơ
chế này đã có một vai trò lịch sử trong những năm 1950 1979 và đã có tác dụng
đáng kể trong việc tập trung các nguồn lực phục vụ cho sự nghiệp xây dựng cơ sở
vật chất kỹ thuật của CNXH và đáp ứng nhu cầu của cuộc kháng chiến giải phóng
dân tộc, thống nhất đất nớc. Song cơ cấu này đã đợc duy trì quá lâu, làm cho từ tập
trung ở mức cần thiết chuyển sang tập trung cao độ, phát sinh quan liêu bao cấp
kìm hãm và cản trở sự phát triển kinh tế trong thời bình. Đứng trớc yêu cầu và
nhiệm vụ mới, khi cách mạng đã chuyển giai đoạn và trong bối cảnh tình hình
quốc tế có nhiều thay đổi, đồng thời nhận thức sâu sắc phép phủ định biện chứng
là cái mới sẽ tất yếu khách quan ra đời thay thế cho cái cũ không còn phù hợp nữa,
vì vậy, trong Đại hội lần thứ VI của Đảng (1986), Đảng và Nhà nớc ta đã mạnh
dạn đa ra đờng lối đổi mới, điều chỉnh cơ cấu kinh tế để chuyển nền kinh tế tập
trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, công nhận sự
tồn tại của thành phần kinh tế t nhân và có những chính sách mở rộng hợp tác
quốc tế nhằm đa nền kinh tế nớc ta dần dần hội nhập với nền kinh tế thế giới. Theo
hớng căn bản của sự đổi mới cơ chế quản lý đã đợc đại hội VI của Đảng xác định

và tiếp tục đợc Đại hội VII của Đảng khẳng định: tiếp tục xoá bỏ cơ chế tập
trung quan liêu bao cấp, hình thành đồng bộ và vận hành có hiệu qủa cơ chế thị tr-
ờng có sự quản lý của nhà nớc. Những thay đổi chính sách quan trọng đã đợc đề
ra trong đờng lối mới là.
Khẳng định sự phát triển lâu dài nền kinh tế nhiều thành phần. Điều này có
ý nghĩa là xoá bỏ sự kỳ thị trớc đây đối với kinh tế t nhân, đồng thời đặt kinh tế
nhà nớc vào môi trờng cạnh tranh bình đẳng.
Khẳng định các quan hệ thị trờng có vai trò quan trọng thúc đẩy sự phát
triển của sản xuất và trao đổi hàng hoá. Đổi mới chính sách cơ cấu theo hớng tập
trung các nguồn lực gia và ba mục tiêu lớn: phát triển nông nghiệp phát triển sản
xuất hàng tiêu dùng, đẩy mạng xuất khẩu và mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại,
ổn định môi trờng kinh tế và xã hội thông qua việc cố gắng đạt các mục tiêu: cắt
giảm lạm phát, giảm thiếu hụt ngân sách, giảm mức bộ chi tiền mặt và ngân cao
mức sống của nhân dân.
12

×