Tải bản đầy đủ (.pdf) (69 trang)

Nghiên cứu một số bài tập phát triển sức mạnh tốc độ nhằm nâng cao hiệu quả giảng dạy và học tập môn nhảy xa cho học sinh khối 11 trường thpt thanh khê thành phố đà nẵng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (843.8 KB, 69 trang )

1
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
----------

HỒ THỊ HIỀN
NGHIÊN CỨU MỘT SỐ BÀI TẬP PHÁT TRIỂN SỨC MẠNH TỐC
ĐỘ NHẰM NÂNG CAO HIỆU QỦA GIẢNG DẠY VÀ HỌC TẬP MÔN
NHẢY XA CHO HỌC SINH KHỐI 11 TRƯỜNG THPT THANH KHÊ
– THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

SƯ PHẠM GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ


2
ĐẶT VẤN ĐỀ
Hiện nay nền kinh tế thế giới đang ngày một phát triển mạnh mẽ, cùng
với những thành tựu vượt bậc của khoa học công nghệ, đối với sự phát triển
của mỗi quốc gia con người là nhân tố cơ bản, là động lực của sự phát triển
đất nước. Chính vì vậy Đảng và nhà nước ta ln xem con người là vốn quý
nhất của xã hội, sức khỏe và thể lực là vốn quý nhất của con người, nó quyết
định đến hiệu quả làm việc và hạnh phúc của mỗi con người.
Bác Hồ đã nói: “ Vì lợi ích mười năm trồng cây
Vì lợi ích trăm năm trồng người”.
Để giáo dục thế hệ trẻ trở thành những con người phát triển tồn diện
về trí lực và thể lực để phục vụ cho sự nghiệp của đất nước thì phải có một hệ
thống giáo dục tồn diện hợp lý. Trong đó giáo dục thể chất trong trường học
là một bộ phận không thể thiếu được. Văn kiện Đại hội Đảng tồn quốc lần


thứ VII(6/1991) đã nhấn mạnh: “Cơng tác TDTT cần coi trọng và nâng cao
chất lượng GDTC ở trong các trường học”. Đây là một môn học rất quan
trọng, nó có nhiệm vụ phát triển thể chất, tâm lý, tác phong, nhân cách, quyết
định chiều hướng phát triển thể chất của các em học sinh vì thời kì này là thời
kỳ phát triển về hình thái, chức năng và các tố chất thể lực của cơ thể. Vì vậy
GDTC ở Việt Nam là một nhân tố xã hội. GDTC quyết định đến điều kiện
phát triển thể chất cho thế hệ trẻ theo nhu cầu xã hội. GDTC đã đưa tuổi trẻ
vào hoạt động tích cực để tránh xa hoạt động tiêu cực, góp phần vào giáo dục
đạo đức nhân cách cho học sinh, sinh viên.
Để thực hiện mục tiêu của nền giáo dục Việt Nam đó là phát triển thế hệ
trẻ một cách toàn diện: "Phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất,
phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức". Thì mục tiêu quan trọng của
GDTC đó là : Củng cố, duy trì nâng cao sức khỏe thể lực cho thế hệ trẻ góp
phần phát triển con người tồn diện, có sức khỏe và các phẩm chất nhân cách
phục vụ đất nước một cách đắc lực cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc.


3
Những năm qua nhờ sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, công tác
GDTC trong trường học ngày một được nâng cao về chất lượng, hiện tại đội
ngũ giáo viên THPT, THCS cơ bản đã ổn định và phần nào đáp ứng được nhu
cầu giảng dạy môn học GDTC, chất lượng GDTC cũng được tăng lên. Hiện
nay GDTC là một môn học được phổ cập từ bậc tiểu học đến đại học, là mơn
học chính khóa trong chương trình giáo dục quốc gia nhằm cung cấp kiến
thức, kỹ năng vận động cơ bản cho người học thông qua bài tập và trò chơi
vận động.
Đà Nẵng là một trong những thành phố thực hiện tốt công tác GDTC
trong nhà trường. Mặc dù cịn nhiều khó khăn trong cơng tác GDTC, đội ngũ
giáo viên, cơ sở vật chất thiếu thốn. Nhưng với phương châm "tất cả các

trường phải dạy đúng, dạy đủ nội dung chương trình mơn thể dục", kết hợp
với việc thường xuyên tổ chức thanh tra, kiểm tra đột xuất và định kỳ đã phần
nào tạo được sự chuyển biến trong công tác giáo dục thể chất trong trường
học trên địa bàn thành phố. Kết quả, đã có 95% các trường học đã đạt kết quả
tương đối đạt yêu cầu về giáo dục thể chất trường học và tổ chức các hoạt
động ngoại khoá thường xuyên, chất lượng GDTC cũng từng bước được nâng
lên.
Trường THPT Thanh Khê - Đà Nẵng tuy mới thành lập vừa tròn 5 năm,
nhưng cũng đã có nhiều cố gắng trong việc nâng cao cơng tác GDTC trong
nhà trường, trường cũng đã có nhiều thành tích trong các hội thi, hội khỏe phù
đổng thành phố. Tuy nhiên nhà trường cũng còn nhiều bất cập chúng ta cần
phải quan tâm như đội ngũ giáo viên còn thiếu cả về chất lượng và số lượng,
cơ sở vật chất cũng chỉ mới đáp ứng tạm thời nhu cầu học tập và rèn luyện thể
thao. Điều đó dẫn tới chất lượng giảng dạy và học tập không được cao.
Trong các nội dung chương trình giảng dạy GDTC thì cũng như các
trường khác, nhà trường THPT Thanh Khê luôn chú trọng vào giảng dạy môn
điền kinh theo quy định của Bộ GD & ĐT, bởi điền kinh có vị trí quan trọng


4
là nội dung cơ bản, là nền tảng để phát triển các tố chất thể lực cơ sở cho các
môn thể thao khác, là một nội dung thu hút đông đảo các em học sinh tham
gia ở các kỳ HKPĐ.
Như chúng ta đã biết trong các mơn thể thao thì nhảy xa là mơn có lịch
sử phát triển lâu đời, dần trở thành một phương tiện rèn luyện để phát triển
các tố chất thể lực. Trong hệ thống Điền kinh thì nhảy xa là một kỹ thuật phức
tạp, để đạt được hiệu quả trong việc giảng dạy và tập luyện, địi hỏi người
giáo viên lên lớp phải có những phương pháp mới nhằm kích thích sự tập
luyện của học sinh, phải có các bài tập hợp lý, khoa học nhằm nâng cao thành
tích và kết quả trong học tập.

Thực trạng cơng tác giảng dạy mơn học GDTC nói chung và nhảy xa nói
riêng, hiện nay phần lớn giáo viên tập trung quá nhiều vào kỹ thuật mà quên
rằng yếu tố thể lực như sức mạnh tốc độ là yếu tố quyết định tới thành tích.
Các bài tập cịn đơn điệu, khơ khan, nhàm chán nên khơng kích thích được
tinh thần tự giác tích cực trong tập luyện của học sinh, hiệu quả bài tập chưa
cao. Điều đó đã dẫn tới thành tích và kết quả học tập mơn nhảy xa của học
sinh chưa đạt được kết quả mong muốn.
Xuất phát từ những bất cập nêu trên và thực tiễn công tác giảng dạy của
trường THPT Thanh Khê, Đà Nẵng, chúng tôi mạnh dạn nghiên cứu đề tài:
“NGHIÊN CỨU MỘT SỐ BÀI TẬP PHÁT TRIỂN SỨC MẠNH
TỐC ĐỘ NHẰM NÂNG CAO HIỆU QỦA GIẢNG DẠY VÀ HỌC TẬP
MÔN NHẢY XA CHO HỌC SINH KHỐI 11 TRƯỜNG THPT THANH
KHÊ – THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG”


5
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1 Các quan điểm của đảng và nhà nước về TDTT và GDTC trong
trường học.
Xác định được vai trò quan trọng của việc tập luyện TDTT, ngay từ khi
đất nước giành độc lập Hồ chủ tịch đã đưa TDTT vào quốc sách hàng đầu
trong chiến lược phát triển con người. Do đó ngày 27/03/1946 Hồ Chủ Tịch
đã ra lời kêu gọi toàn dân tập thể dục Người viết: “…Mỗi người dân yếu ớt
tức là làm cho cả nước yếu ớt một phần, mỗi người dân mạnh khoẻ tức là góp
phần làm cho cả nước khoẻ mạnh. Vậy nên tập luyện thể dục thể thao, bồi bổ
sức khoẻ là bổn phận của mỗi người dân yêu nước".
Tiếp tục thực hiện lời dạy của Bác ngay khi hịa bình lập lại Đảng và
Nhà nước ta luôn luôn quan tâm, chú trọng, bồi dưỡng đến việc phát triển thể
chất con người Việt Nam, đặc biệt là thế hệ trẻ. Do vậy nhà nước đặc biệt
quan tâm tới công tác TDTT trường học, và trọng tâm là cơng tác GDTC

trong nhà trường. Điều đó được thể hiện qua các văn kiện, chỉ thị các nghị
quyết vê công tác TDTT trong hơn 65 năm qua.
Hiến pháp nước cộng hịa dân chủ Việt Nam 1959 có nêu: “Nhà nước
chú trọng đặc biệt việc giáo dục thanh niên về đạo đức, trí dục và thể dục”.
[Trang41;điều35]
Trong thời gian qua căn cứ vào từng giai đoạn cách mạng, theo yêu cầu
và tình hình cụ thể, Đảng và nhà nước ta ln có những chỉ thị, nghị quyết
lãnh đạo kịp thời, đề ra những chủ trương nhằm đẩy mạnh phong trào TDTT
của nước ta, hàng loạt các chỉ thị về công tác TDTT của Đảng đã ban hành
đều nhấn mạnh đến vai trị của TDTT như một cơng tác cách mạng. Trong đó,
với mục tiêu đó là phát triển thế hệ trẻ một cách tồn diện: "Phát triển cao về
trí tuệ, cường tráng về thể chất, phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo
đức".


6
Chỉ thị số 18 TTG/VG 18/02/1965 của Thủ tướng chính phủ đó là “Phải
ra sức đẩy mạnh phong trào TDTT trong trường học. Bộ giáo dục phải đưa
ra những biện pháp khắc phục khó khăn , nhằm đẩy mạnh phong trào TDTT
trong trường học tiến lên đúng với tầm quan trọng của nó…” Chỉ thị số
48TTG/VG, ngày 02/06/1969 nêu rõ: “Đẩy mạnh phong trào vệ sinh và thể
dục yêu nước trong các trường học. Tăng cường công tác TDTT, nhất là thể
dục trong các trường học, kết hợp chặt chẽ việc đảm bảo số giờ học TDTT
trong chương trình với việc tổ chức học sinh rèn luyện thể thao ngoài lớp, tạo
nên thói quen tập luyện TDTT hằng ngày trong học sinh và giáo viên. Nghành
TDTT phải coi học sinh là đối tượng phục vụ quan trọng của mình.
Chỉ thị số 180-CT/TW ngày 26/08/1970 (chỉ thị về tăng cường công tác
TDTT trong những năm tới) có nêu: “ Đối với trường học phải cải tiến nội
dung phương pháp và tổ chức huấn luyện thể dục, hoạt động thể thao nhằm
nâng cao sức khỏe và chữa một số bệnh cho học sinh”.

Nghị quyết của bộ chính trị số 14 – TQ/TW ban hành ngày 11/01/1979
về cải cách giáo dục có nêu: Ở trường THPT cần coi trọng giáo dục thẩm mỹ
và nghệ thuật, rèn luyện thể chất cho học sinh.
Văn kiện đại hội Đảng tồn quốc lần thứ V(1982) có ghi: “Để đảm bảo
cho sự nghiệp TDTT của nước ta phát triển vững chắc đem lại hiệu quả thiết
thực trong những năm tới cần mở rộng và nâng cao chất lượng các hoạt động
TDTT quần chúng, trước hết là học sinh, thanh niên…” Văn kiện đại hội lần
thứ VI(1986): “Nâng cao chất lượng giáo dục thể chất trong trường học,
củng cố và mở rộng hệ thống trường, lớp năng khiếu thể thao”
Ngày 09/05/1989 Chủ tịch hội đồng Bộ trưởng đưa ra chỉ thị số 112-CT
đó là: “Nâng cao chất lượng GDTC cho học sinh các trường và phát triển
phong trào TDTT trong các lực lượng vũ trang…Đối với học sinh sinh viên,
trước hết nhà trường phải thực hiện nghiêm túc việc dạy và học mơn thể dục
theo chương trình quy định.


7
Để thực hiện mục tiêu của nền giáo dục Việt Nam là phát triển con người
một cách toàn diện đặc biệt là thế hệ trẻ thì GDTC trong nhà trường luôn
được Đảng và Nhà Nước quan tâm hàng đầu. Hiến pháp nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam được ban hành ngày 15/04/1992 tại điều 41 quy định:
“Nhà nước thống nhất quản lý sự nghiệp phát triển TDTT, quy định chế độ
GDTC bắt buộc trong trường học, khuyến khích và giúp đỡ phát triển các
hình thức tổ chức tập luyện TDTT tự nguyện của nhân dân…”.
Chỉ thị 192/CT của chính phủ, đã chỉ rõ “sự cần thiết phải đổi mới nội
dung chương trình, phương pháp và các điều kiện cơ sở vật chất nhằm đảm
bảo và nâng cao chất lượng giáo dục thể chất trong nhà trường các cấp”.
Để đẩy mạnh nâng cao chất lượng GDTC cho học sinh, thông tư liên
bộ Giáo Dục – Đào Tạo và tổng cục TDTT số 4/93/GD – ĐT Thể dục thể
thao ngày 17/4/1993 đã nêu: “Trong quá trình phát triển đào tạo, GDTC là

nội dung, biện pháp quan trọng góp phần đào tạo Thanh thiếu niên Việt Nam
phát triển hài hòa về trí tuệ, thể chất, tinh thần và đạo đức. Đồng thời xây
dựng nhà trường thành những cơ sở phong trào TDTT quần chúng của học
sinh, sinh viên”.
Chỉ thị 36/CT/TW của Ban bí thư TW ngày 23/04/1994 về cơng tác
TDTT trong giai đoạn mới ghi rõ: “…Cải tiến chương trình giảng dạy, tiêu
chuẩn rèn luyện thân thể, đào tạo giáo viên dạy thể dục cho trường học các
cấp tạo những điều kiện cần thiết nhất về cơ sở vật chất, để thực hiện chế độ
GDTC bắt buộc ở tất cả trường học…”
Văn kiện Đại hội đảng lần thứ VIII (1996): Phát triển phong trào TDTT
trong cả nước, trước hết là trong thanh, thiếu niên, tạo chuyển biến tích cực
về chất lượng và hiệu quả GDTC trong trường học.[trích báo cáo chính trịP3-Mục VI].


8
Hiện nay trên thế giới thể trạng và tầm vóc của con người ngày càng
được phát triển vượt bậc, nhiều Quốc gia trên thế giới đã chú trọng vào vấn đề
phát triển thể chất con người. Và Việt Nam cũng đang từng bước đưa ra
những giải pháp tối ưu để phát triển thể trạng và tầm vóc người Việt. Cụ thể
trong 2 năm 2001 – 2002 Viện khoa học TDTT - Ủy ban TDTT đã tiến hành
điều tra thể chất con người Việt Nam ở lứa tuổi 6 -12 và đưa ra dự án phát
triển phát triển thể trạng và tầm vóc con người Việt trong vịng 20 năm (2005
– 2025)
Gần đây Bộ GD & ĐT - Ủy ban TDTT thống nhất ban hành thông tư liên
tịch số 34/2005/TTLT-Bộ GD & ĐT, quản lý và chỉ đạo công tác TDTT
trường học 2006 – 2010, xác định: “Thể thao trường học là một bộ phận
quan trọng trong việc nâng cao sức khỏe và thể lực, bồi dưỡng phẩm chất
đạo đức, ý chí, giáo dục nhân cách cho HS-SV, góp phần đáp ứng CNH-HĐH
đất nước…, phát triển TDTT trường học theo hướng đổi mới và nâng cao
chất lượng giờ học thể dục nội khóa, đa dạng hóa các hình thức hoạt động

ngoại khóa, đồng thời tổ chức chặt chẽ kiểm tra tiêu chuẩn rèn luyện thân thể
cho người học.
Luật Giáo dục 2006 xác định rõ GDTC là mơn học chính khóa thuộc
chương trình giáo dục nhằm cung cấp các kiến thức, kỹ năng vận động cơ
bản cho người học thong qua các bài tập và trị chơi vận động, góp phần thực
hiện mục tiêu toàn diện. Hoạt động thể thao trong nhà trường là một hoạt
động tự nguyện của người học được tổ chức theo phương thức ngoại khóa
phù hợp với sở thích, giới tính, lứa tuổi và sức khỏe nhằm tạo điều kiện cho
người học thực hiện quyền vui chơi, giải trí, phát triển năng khiếu thể thao
[Luật giáo dục 2006;tr32][mục 2; điều 20]
Năm 2011-2012 Đảng, Nhà nước ta tiếp tục chỉ đạo công tác TDTT
trong thời gian tới, với mục tiêu và nhiệm vụ của công tác TDTT trường học
là: Đẩy mạnh công tác GDTC và thể thao trường học, bảo đảm phát triển toàn


9
diện, góp phần nâng cao thể trạng và tầm vóc người Việt Nam, làm nền tảng
cho thể thao thành tích cao và xây dựng lối sống lành mạnh trong tầng lớp
thanh, thiếu niên, chú trọng công tác GDTC trong trường học các cấp; Đổi
mới nội dung, chương trình GDTC phù hợp với thể chất học sinh, sinh viên…
Để đáp ứng được các nhu cầu trong cuộc sống hiện nay thì việc nâng cao
sức khỏe cho học sinh, phát triển cường tráng về thể chất, để những mầm non
tương lai luôn khỏe mạnh đủ sức khỏe xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời
kỳ mới. Do vậy công tác GDTC trong nhà trường có vị trí, tác dụng to lớn đối
với chính sách phát triển kinh tế xã hội của nước ta. Là một trong những
chiến lược hàng đầu của Đảng, Nhà nước ta hiện nay.
1.2 Vai trò, mục tiêu TDTT và GDTC trong trường THPT
TDTT trường học bao gồm:
+ Giáo dục thể chất
+ Các hoạt động thể thao ngoại khóa

TDTT trường học là một bộ phận cấu thành của giáo dục phát triển toàn
diện. Mục tiêu của TDTT trường học của nước ta là “Nhằm tăng cường sức
khỏe, phát triển thể chất, góp phần hình thành và bồi dưỡng nhân cách, đáp
ứng nhu cầu giáo dục toàn diện cho người học”
TDTT trường học là cơ sở của TDTT toàn dân, nó có ý nghĩa chiến lược
quan trọng đối với việc phát triển TDTT nước nhà, có tác dụng lâu dài.
TDTT trường học là yếu tố tích cực trong đời sống tinh thần, là yếu tố cơ
bản chuẩn bị cho đội ngũ lao động và những chiến sĩ bảo vệ tổ quốc trong
tương lai, làm phong phú đời sống xã hội hiện đại.
Trong đó GDTC là một bộ phận cấu thành nên TDTT trường học. Chính
xác hơn, đó cịn là những hình thức hoạt động cơ bản có định hướng rõ của
TDTT trong xã hội, là một q trình có tổ chức để truyền thụ và tiếp thu
những giá trị của TDTT trong hệ thống giáo dục giáo dưỡng chung.


10
GDTC là một loại hình giáo dục mà nội dung chuyên biệt là: Dạy học
động tác và giáo dục các tố chất vận động của con người.
+ Dạy học động tác: Là q trình truyền thụ, tiếp thu có hệ thống những
cách thức điều khiển động tác, vốn kỹ năng, kỹ xão vận động cần thiết cho
cuộc sống và những tri thức chuyên môn.
+ Giáo dục các tố chất vận động: Là tác động hợp lí tới sự phát triển các
tố chất vận động, đảm bảo việc phát triển các năng lực vận động.
GDTC trong nhà trường phổ thơng có một vị trí và ý nghĩa vơ cùng quan
trọng trong việc đào tạo thế hệ trẻ phát triển một cách toàn diện, đáp ứng nhu
cầu ngày càng cao của sự nghiệp CNH – HĐH đất nước.
Để thực hiện mục tiêu của hệ thống TDTT trường học là đào tạo nên
những con người hồn thiện về thể chất, góp phần giáo dục đạo đức nhân
cách cho học sinh. Thì nền GDTC cần phải thực hiện những nhiệm vụ sau
đây:

+ Nhiệm vụ giáo dục: Giáo dục tư cách, đạo đức, phẩm chất đạo đức
XHCN, rèn luyện tinh thần tập thể, xây dựng ý thức tổ chức kỷ luật, niềm tin,
lối sống lành mạnh.
+ Nhiệm vụ tăng cường sức khỏe: Góp phần củng cổ, tăng cường sức
khỏe cho học sinh, nâng cao trình độ thể lực chung, phát triển cơ thể toàn
diện, cân đối, đáp ứng các tiêu chuẩn rèn luyện thân thể.
+ Nhiệm vụ giáo dưỡng: Cung cấp cho học sinh những kiến thức cơ bản
về nội dung phương pháp tập luyện TDTT, các kỹ năng, kỹ xão vận động để
sử dụng phương tiện GDTC trong cuộc sống hằng ngày.
Một bộ phận thứ 2 của TDTT trường học đó là giờ học thể thao ngoại
khóa: Là nhu cầu và ham thích trong khi nhàn rỗi của một số bộ phận học
sinh với mục đích và nhiệm vụ góp phần phát triển năng lực thể chất tồn
diện, đồng thời góp phần nâng cao thành tích thể thao. Tạo cảm giác vui chơi


11
thoải mải cho các em học sinh, góp phần giúp các em tránh xa các hoạt động
tiêu cực trong xã hội.
Theo thống kê thì hiện nay GDTC đã là mơn học chính khóa ở các
trường THPT, mỗi tuần 2 tiết, là môn học bắt buộc ở các cấp học. Tuy nhiên
ở một số trường chất lượng GDTC chưa đạt kết quả cao, cơng tác TDTT
trong trường học cịn nhiều hạn chế. Giờ học thể dục còn coi nhẹ, bị cắt xén
tùy tiện, nhiều trường học nhất là các trường THCS chưa có giáo viên thể
dục. Phương pháp giảng dạy chưa hợp lý, chưa kích thích được tinh thần thái
độ tập luyện của học sinh. Nhiều trường học chưa có sân bãi, cơ sở vật chất
tập luyện. Đây là một vấn đề khó khăn, yếu kém cần được sự quan tâm của
các nghành, đoàn thể cơ quan và đặc biệt của các cấp ủy Đảng, chính quyền
cơ sở.
1.3 Đặc điếm tâm sinh lý lứa tuối từ 17 – 18
Trong quá trình sống và phát triến cơ thể con người có sự biến đổi đa

dạng về cấu trúc, chức năng tâm sinh lý dưới tác động của các yếu tố di
truyền và mơi trường sống, vì vậy tập luyện thể thao chỉ có ánh hưởng tốt đến
cơ thể nếu được tiến hành trên cơ sở quán triệt các đặc điểm của lứa tuối đó .
Ớ lứa tuổi 17– 18 cơ thế phát triển tương đối hoàn chỉnh, các bộ phận tiếp tục
lớn lên nhưng tốc độ chậm dần, chức năng của các cơ quan, bộ phận cơ thể
cũng được nâng cao biểu hiện :
1.3.1 Về mặt tâm lý
- Tuối 17 -18 là giai đoạn đầu tuổi thanh niên, thời kỳ thay đổi từ thiếu
niên sang thanh niên. Đây là thời kỳ hoàn thành căn bản cá một quá trình
trưởng thành và phát triển lâu dài của con người về mặt sinh lý cũng như tâm
lý, là thời kỳ phát triển mạnh nhất về thể chất và tinh thần, nhân cách con
người. Căn bản được quy định hiện hành và có tính độc lập.
- Trong thời kỳ này là các em tỏ ra mình là người lớn địi hỏi mọi người
xung quanh phải tơn trọng mình, tỏ ra là người hiểu biết, các em đã tìm hiểu


12
nhiều, hiểu rộng hơn, ưa thích các hoạt động lớn. Tuy nhiên, các em học sinh
cũng hay đưa ra các kết luận hấp tấp, nóng vội, phiến diện. Nguyên nhân dẫn
đến như vậy là do những hiểu biết, kinh nghiệm của các em còn non trẻ chưa
bằng người lớn. Giai đoạn này các em có nhiều ước mơ hồi bão ở lứa tuổi
này các em đã bắt đầu xác định cho ước mơ của mình, đây là giai đoạn bồi
dưỡng kiến thức chung đã khiến cho các em suy nghĩ đến tiền đồ của mình,
việc chuản bị bước vào đời và lựa chọn nghề nghiệp mai sau.
- Tuổi thanh niên mới lớn là thời kỳ dồi dào về thể lực và trí lực, đồng
thời đây cũng là thời kỳ các em thích đi tìm cái mới lạ trong học tập, lao
động, và đời sống hằng ngày. Có thể nói đây là lứa tuổi trong sáng, đầy ước
mơ, khát vọng cháy bóng, nhiệt tình và đầy lịng dũng cảm. Các em đã có
những tưởng tượng phong phú và mang tính hiện thực hơn tuổi thiếu niên.
Nhận thức ở lứa tuổi này đã phát triển hơn nhiều, thái độ nhận thức của học

sinh đã có từng bước tiến đáng kể. Các em khao khát, mong muốn được cung
cấp những kiến thức trong các lĩnh vực khoa học kỹ thuật, rất quan tâm tới
các mối quan hệ gia đình, xã hội. Đặc biệt tuổi học sinh mới lớn thì tình cảm
các em phức tạp hơn lứa tuổi THCS, điều này được thể hiện ở chỗ là các em
đã bắt đầu nảy nở một loại tình cảm đặc biệt. Đó là tình u, tình yêu ở lứa
tuổi này nổi bật lên mang tính thuần khiết, có tính lý tưởng, cũng có thể lẫn
lộn giữa tình bạn và tình yêu, thường thì rất mạnh mẽ nhưng cũng rất thầm
kín. Do đó các em thường phấn đấu học tập và rèn luyện thân thể tốt hơn, biết
quan tâm chăm sóc cơ thể mình hơn.
- Ở lứa tuổi này do quá trình hưng phấn chiếm ưu thế hơn quá trình ức
chế nên các em tiếp thu kiến thức mới tương đối nhanh nhưng lại chóng chán,
có khi trở thành tự kiêu, tự mãn. Nhưng trái lại khi thất bại thì trở nên bi
quan, mất tự tin vào bản thân. Những ngun nhân đó sẽ ảnh hưởng khơng ít
trong quá trình tập luyện thể dục thể thao.[tâm lý học lứa tuổi sư phạm]


13
Kết luận: Từ những đặc điểm của lứa tuổi 17 - 18 như trên, do đó trong
khi tiến hành cơng tác Giáo dục thể chất cho các em học sinh ở lứa tuổi này
cần phải quan tâm đúng mức, chú ý uốn nắn, nhắc nhở, chỉ bảo tận tình và
định hướng cho các em. Đặc biệt trong quá trình giảng dạy và huấn luyện thì
cần phải đàn dần từng bước đối với những em có khả năng tiếp thu chậm kỹ
thuật động tác, từ đó giúp các em khơng cịn cảm thấy chán nản, tự ty, có định
hướng và hiệu quả bài tập được nâng cao. [Google.com.vn]
1.3.2 Về mặt sinh lý:
Ở lứa tuổi này cơ thể đã bắt đầu hoàn thiện các cơ quan chức năng trong
cơ thể. Là thời kỳ bắt đầu tuổi thanh niên với những thay đổi đặc điểm cấu
trúc cơ thể và giải phẫu thể hiện ở:
- Hệ thần kinh:
Các tổ chức thần kinh ở lứa tuổi này đang tiếp tục phát triển để đi tới

hoàn thiện khả năng tư duy phát triển, nhất là khả năng phân tích, tổng hợp,
trừu tượng hóa phát triển rất thuận lợi cho sự hình thành phản xạ có điều kiện.
Tính linh hoạt của hệ thần kinh cao, q trình ức chế phát triển, hoạt động với
cường độ mạnh của các tuyến giáp, tuyến sinh dục, tuyến yên…Làm cho
hưng phấn chiếm ưu thế và ức chế không cân bằng, ảnh hưởng đến hoạt động
TDTT. Và có thể một số nhân tố như các bài tập đơn điệu, khô cứng sẽ làm
cho các em cảm thấy mệt mỏi, không muốn tập luyện dẫn tới kết quả học tập
khơng cao. Vì vậy trong quá trình giảng dạy và huấn luyện người giáo viên
cần đặc biệt chú ý tới hình thức tập luyện, đưa ra các bài tập phù hợp với các
em học sinh.
- Hệ xương:
Ở lứa tuổi này xương đã bắt đàu giảm tốc độ phát triển, sụn ở hai đầu
xương vẫn cịn dày, nhưng sụn chuyển thành xương ít. Cột sống tương đối ổn
định về hình dáng nhưng vẫn chưa được củng cố vẫn dễ bị cong vẹo, cơ thể
của các bạn nữ thì yếu hơn các bạn nam, xương xốp hơn nam, bắp thịt và khả


14
năng chịu lực kém hơn nam. Do vậy khi đưa ra các bài tập cần lưu ý cho phù
hợp lứa tuổi và giới tính, tránh những bài tập quá nặng làm ảnh hưởng tới cột
sống.
- Hệ cơ:
Ở giai đoạn này cơ bắp phát triển nhanh, khối lượng cơ tăng lên rất
nhanh(cơ đùi, cơ cánh tay), độ đàn hồi cơ tăng nhưng không đồng đều chủ
yếu là do các cơ nhỏ và cơ dài. Đặc biệt ở các em nữ thì độ tuổi này phát triển
rất mạnh các tổ chức lớp mỡ dưới da, làm ảnh hưởng tới sự phát triển sức
mạnh của cơ thể. Do vậy khi tập luyện cần chú ý tới các bài tập phát triển sức
mạnh, chú ý phát triển cơ bắp cho các em.
- Hệ tuần hoàn:
Hệ tuần hoàn giai đoạn này đang phát triển và dần hoàn thiện, năng

lượng và sức chứa của tim tương đối hoàn chỉnh, tim đập với 70 – 80lần/phút,
nhưng lúc cơ thể hoạt động TDTT tim có thể đạt tới tối đa 250lần/phút, phản
ứng tuần hoàn trong vận động tương đối rõ rệt, sau vận động mạch đập và
huyết áp hồi phục tương đối nhanh. Vì vậy khi sử dụng các bài tập thể lực cần
chú ý và xem xét tình trạng của học sinh.
- Hệ hơ hấp:
Lứa tuổi bày hệ hô hấp của các em cũng đã đi vào giai đoạn hồn thiện,
diện tiếp xúc khơng khí khoảng 100 – 120cm2, dung lượng phổi tăng lên
nhanh, khả năng trao đổi chất của phổi tăng lên rõ rệt. Tần số thở khoảng 10 –
20 lần/phút.(tương đương với người lớn). Lúc n tĩnh lượng khơng khí phổi
trung bình khoảng 5 – 8 lít/phút, nhưng khi tập luyện và hoạt động cơ bắp
căng thẳng thì khơng khí phổi có thể đạt tới 10l/phút. Tuy đã phần nào hoàn
thiện nhưng các cơ quan hơ hấp vẫn cịn yếu, do vậy trong q trình giảng
dạy, huấn luyện thể thao thì người giáo viên, huấn luyện viên cần chú ý các
bài tập và đưa ra quảng nghỉ hợp lý, nhắc nhở các em hít thở sâu và thở tập


15
trung thở bằng lồng ngực để tăng cường cơ năng và cơ quan hô hấp.[giải phẫu
sinh lý cơ thể người]
Kết luận: Từ những đặc điểm trên thì khi giảng dạy và huấn luyện người
giáo viên cần chú ý để đưa ra các bài tập phù hợp với lứa tuổi, giới tính, khả
năng tập luyện của các em học sinh.
1.4 Đặc điểm, sinh lý, nguyên lý kỹ thuật nhảy xa
1.4.1 Đặc điểm chung của môn nhảy
Môn nhảy bao gồm: Nhảy cao, nhảy xa, nhảy 3 bước, nhảy sào. Môn
nhảy thuộc các bài tập hỗn hợp, trong đó có các giai đoạn có chu kỳ như trong
kỹ thuật chạy đà, có giai doạn hoạt động không chu kỳ như kỹ thuật giậm
nhảy và bay trên không. Các tố chất tổng hợp thể hiện qua khả năng thực hiện
của người tập. Thành tích nhảy phụ thuộc vào tốc độ, góc độ giậm nhảy, sức

mạnh bột phát, nhiều tác giả nghiên cứu thành tích nhảy xa được xác định
theo công thức sau:
2
Smax = vo . cos  sin  

2 gh
vo 2

h = 1m
Smax : Thành tích
V

: Tốc độ trung bình

Vo

: Tốc độ ban đầu



: Góc giậm nhảy

h

: Chiều cao từ trọng tâm cơ thể với mặt đất

1.4.2 Đặc điểm sinh lý môn nhảy
+ Hệ thần kinh: Khi học môn nhảy xa thần kinh có tính mẫn cảm cao bởi
vì mơn nhảy xa có kỹ thuật chủ yếu là giậm nhảy, bay trên không và rơi
xuống đất với các hoạt động khơng có chu kỳ kết hợp lại với nhau.

+ Vai trò, chức năng của các giác quan:


16
- Vai trò: Chức năng cơ quan cảm thụ bản thể trong các giai đoạn kỹ
thuật chạy đà – giậm nhảy yêu cầy vị trí xuất phát phải chính xác. Bởi vị trí
ban đầu xuất phát chính xác có vai trị có vai trị mấu chốt để duy trì nhịp điệu
đến bước cuối để chuẩn bị giậm nhảy. Khi vị trí ban đầu thay đổi thì nhịp điệu
đà cũng thay đổi ảnh hưởng đến cơ quan cảm thụ gây nên phản xạ căng thẳng
cho cơ thể, ảnh hưởng động tác tồn thân xuất hiện tâm lý gây mất tính nhịp
điệu động tác, tính nhịp điệu chạy đà.
- Tác dụng của cơ quan cảm giác cơ thể:
Do động tác nhảy kỹ thuật kích thích cơ quan cảm thụ, sự phản xạ gây
nên phản xạ có điều chỉnh khi điều chỉnh đà để chuẩn bị giậm nhảy, do vậy
môn nhảy phải nâng cao chức năng cơ quan tiền đình.
+ Vai trị của thị giác:
VĐV môn nhảy trước khi thực hiện kỹ thuật cần phải quan sát chính xác
bước và bước giậm nhảy, phản đoán cảm giác 4- 6 bước cuối để giậm nhảy
cho hợp lý. Do vậy khả năng phản đoán thời gian và không gian của thị giác
đối với người tập phải được nâng cao.
1.4.3 Nguyên lý kỹ thuật nhảy xa:
+ Định nghĩa: Nhảy xa là phương pháp vượt qua chướng ngại vật nằm
ngang. Nó là hoạt động khơng có chu kỳ, gồm nhiều động tác liên kết với
nhau một cách chặt chẽ và phức tạp từ chạy lấy đà, giậm nhảy, bay trên không
và kết thúc là rơi xuống đất.
+ Đặc điểm, tính chất hoạt động
Đặc điểm của mơn nhảy xa là cần phải kéo dài khoảng cách bay trên
không do nỗ lực của người nhảy (sự phối hợp chặt chẽ giữa thần kinh và cơ)
trong lấy đà và giậm nhảy tạo nên. Quỹ đạo của trọng tâm cơ thể trong lúc
bay phụ thuộc vào tốc độ chạy đà, lực giậm nhảy và góc độ giậm nhảy.

Tính chất hoạt động là dùng sức mạnh tốc độ và sức mạnh bột phát trong
khoảng thời gian ngắn.


17
Cơ sở để nâng cao thành tích và hồn thiện kỹ thuật, thể lực của người
nhảy đều dựa trên cơ sở tập luyện chạy và các môn thể thao khác.
+ Kỹ thuật nhảy xa
Nhảy xa bao gồm nhiều động tác liên kết lại với nhau lại với nhau thành
kỹ thuật hồn chỉnh. Để tiện cho việc phân tích và giảng dạy người ta chia kỹ
thuật nhảy xa thành 4 giai đoạn: Chạy đà, giậm nhảy, bay trên không và rơi
xuống đất.
Mỗi giai đoạn đóng vai trị quyết định trong thành tích nhảy xa, giai đạon
chạy đà là một trong những giai đoạn quan trọng nhất, nó ảnh hưởng rất lớn
đến giậm nhảy, để nâng cao thành tích nhảy xa. Vì vậy để tạo điều kiện thuận
lợi cho đi sâu nghiên cứu các vấn đề liên quan đến kỹ thuật và phối hợp kỹ
thuật động tác, từ giai đoạn chạy đà, giậm nhảy, bay trên không và rơi xuống
đất trước hết cần nắm vững nguyên lý kỹ thuật của từng giai đoạn.
- Giai đoạn chạy đà và chuẩn bị giậm nhảy:
Giai đoạn này được tính từ khi bắt đàu chạy đến khi chân giậm đặt vào
ván giậm nhảy. Nhiệm vụ giai đoạn này là tạo ra góc độ nằm ngang để chuẩn
bị tốt cho giậm nhảy, tư thế người nhảy trước khi chạy đà có thể khác nhau
nhưng phải ổn định và trở thành thói quen, tính chính xác của chạy đà phụ
thuộc vào chiều dài bước và nhịp điệu thực hiện các bước chạy, tốc độ càng
cao, người nhảy càng có khả năng bay xa. Tốc độ chạy đà phải tăng tới mức
hợp lý và đạt cao nhất ở những bước cuối cùng trước khi giậm nhảy, độ dài
bước giậm nhảy ngắn hơn bước trước giậm nhảy từ 15cm – 20 cm. Khi thực
hiện các bước cuối cùng để chuyển sang giậm nhảy tốc độ càng cao thì giậm
nhảy càng nhanh, kỹ thuật chuyển từ chạy đà sang giậm nhảy rất quan trọng
và quyết định đến thành tích của các lần nhảy.

- Giai đoạn giậm nhảy:
Giai đoạn này được tính từ khi chân giậm nhảy đặt vào ván giậm nhảy
đến khi chân giậm nhảy rời khỏi mặt đất. Đặt chân giậm nhảy vào ván phải


18
thật nahnh, dứt khoát, đồng thời chân chạm ván, đùi và cẳng chân gần như
thẳng.
Nhiệm vụ của giậm nhảy là : làm thay đổi phương chuyển động của
trọng tâm cơ thể phù hợp với mục đích là tăng độ bay xa.
Phần lớn các VĐV đặt bàn chân giậm nhảy xuống ván bằng gót chân
hoặc cả bàn chân. Vào thời điểm đó VĐV phối hợp tồn thân làm động tác
giậm nhảy: Duỗi thẳng các khớp của chân giậm nhảy đồng thời gấp gối đưa
đùi của chân lăng về trước lên trên và dừng khi cánh tay song song mặt đất.
Tay bên chân lăng gập ở khuỷu và đánh sang bên để nâng cao vai. Kết thúc
giậm nhảy, cơ thế rời đất ở tư thế bước bộ trên không.
- Giai đoạn bay trên khơng:
Tính từ khi chân giậm rời khỏi ván giậm đến khi một bộ phận của cơ thể
chuẩn bị chạm đất.
- Nhiệm vụ: Giữ thăng bằng và tận dụng được quĩ đạo bay của trọng tâm
cơ thể.
- Do tốc độ nằm ngang lớn hơn tốc độ thẳng đứng nên góc độ bay ban
đầu của môn nhảy xa khoảng từ 21 ± 2 độ .
- Sự khác biệt giữa các kiểu nhảy xa chính là ở giai đoạn này. Có ba kiểu
chính: “ngồi”, “ưỡn thân”, “cắt kéo”.
Sau khi cơ thể rời đất, cơ thể người nhảy chuyển sang giai đoạn bay.
Trọng tâm cơ thể bay theo đường vịng cung, tồn bộ các động tác của người
nhảy đều nhằm mục đích giữ thăng bằng và tạo điều kiện rơi xuống hố cát có
hiệu quả nhất.
- Giai đoạn bay người nhảy thực hiện các kiểu nhảy xa khác nhau (kiểu

ngồi, ưỡn thân, cắt kéo)
+ Rơi xuống đất:
Nhiệm vụ:
- Đảm bảo an toàn cho người nhảy


19
- Giữ và nâng cao thành tích
- Giai đoạn này xảy ra trong thời gian rất ngắn và gây chấn động lớn
cho cơ thể.
- Để đạt được độ xa của lần nhảy và giảm chấn động cho cơ thể việc
thực hiện đúng kỹ thuật rơi xuống cát có ý nghĩa rất lớn. Trong tất cả các kiểu
nhảy, việc thu chân chuẩn bị rơi xuống cát được bắt đầu khi tổng trọng tâm cơ
thể ở cách mặt cát ngang với mức khi họ kết thúc giậm nhảy.
Để chuẩn bị cho việc rơi xuống đất, đầu tiên cần nâng đùi đưa hai đầu
gối lên sát ngực và gập thân trên nhiều về trước. Cẳng chân lúc này được hạ
xuống dưới, hai tay chuyển từ trên cao ra phía trước. Tiếp đó là duổi chân,
nâng cẳng chân để gót chân chỉ thấp hơn mông một chút. Thân trên lúc này
không nên gập về trước q nhiều vì sẽ gây khó khăn cho việc nâng chân lên
cao.Tay lúc này gấp ở khuỷu và được hạ xuống theo hướng xuống dưới và ra
sau. Sau khi hai gót chân chạm cát cần gấp gối để giảm chấn động và tạo điều
kiện chuyển trọng tâm cơ thể xuống dưới - ra trước vượt qua điểm chạm cát
của gót. Thân trên lúc này cũng cố gập về trước để giúp không đổ người về
sau làm ảnh hưởng tới thành tích.
1.5 Vai trị và tác dụng việc tập luyện nhảy xa
Nhảy xa là một môn thể thao khá phổ biến được nhiều người ưa thích và
tham gia tập luyện, cũng như các mơn thể thao khác nhảy xa địi hỏi sự căng
thẳng rất lớn của hệ thống thần kinh, cơ bắp của con người. Thông qua tập
luyện và thi đấu mơn nhảy xa thì cơ thể con người hồn thiện hơn. Tập luyện
thể thao có tác dụng rất lớn trong việc phát triển các tố chất thể lực, nâng cao

khả năng tập trung sức. Tự chủ và rèn luyện lịng dũng cảm, tính kiên trì và
khắc phục khó khăn trong tập luyện, thong qua các bài tập chạy đà – giậm
nhảy tăng cường phát triển các tố chất sức mạnh, sức mạnh tốc độ, sức nhanh
của người tập, thực hiện tốt giai đoạn bay trên không đã rèn luyện được tính
khéo léo.


20
1.6. Nguyên tắc tập luyện
Tập luyện môn nhảy xa cũng như một q trình tập luyện các mơn thể
thao khác, cũng tuân thủ theo một nguyên tắc nhất định. Đó là cơ sở khoa
học, để căn cứ đưa ra phương pháp tập luyện, do đó sử dụng phương pháp
nào cũng theo các nguyên tắc sau: Nguyên tắc hệ thống, nguyên tắc trực quan,
nguyên tắc Tự giác tích cực, nguyên tắc vừa sức hay cịn gọi là thích hợp và
cá biệt hóa. Trong q trình tập luyện khơng tn thủ những nguyên tắc trên
không những không nâng cao hiệu quả học tập và tập luyện mà ngược lại nó
cịn chính là nguyên nhân làm ảnh hưởng đến sức khỏe người tập, thậm chí
cịn đãn tới tình trạng chấn thương.
+ Ngun tắc hệ thống: Liên quan tính thường xuyên liên tục trong tập
luyện và luân phiên giữa lượng vận động và quảng nghỉ cũng như tính tuần tự
trong tập luyện được sắp xếp theo một cách logic nhất định.
+ Nguyên tắc trực quan: Cho học sinh trực tiếp xem tranh ảnh, tài liệu,
nhằm hình thành cho các em học sinh những khái niệm và dần hình thành nên
kỹ thuật động tác.
+ Nguyên tắc tự giác tích cực: Đây là nguyên tắc quan trọng trong q
trình tập luyện. Chỉ có tự giác tích cực tập luyện thì học sinh mới có thể tự
tiếp thu tốt kiến thức cho chính mình.
+ Ngun tắc thích hợp và cá biệt hóa: Các bài tập nhảy xa cũng cần chú
ý tới từng đối tượng, giới tính, lứa tuổi của các em học sinh. Một số em thể
lực tốt hơn thì tập luyện những bài tập với lượng vận động cao hơn và ngược

lại giảm lượng vận động cho những học sinh có tình trạng sức khỏe yếu hơn.
1.7 Yếu tố ảnh hưởng đến thành tích nhảy xa.
1.7.1 Vai trị giảng dạy và huấn luyện kỹ thuật mơn nhảy xa.
Việc nghiên cứu về đặc thù môn nhảy xa là việc chinh phục khoảng
không gian luôn là cần thiết đối với các nhà khoa học và chuyên môn TDTT,
các kết quả nghiên cứu khoa học TDTT nói chung và nhảy xa nói riêng rất có


21
ý nghĩa và tác dụng to lớn, tạo điều kiện cho các huấn luyện viên, giáo viên,
nhằm nâng cao thành tích thể thao và chất lượng giảng dạy. Cơng tác giảng
dạy, huấn luyện thể lực và kỹ thuật môn nhảy xa cũng luôn được các nhà
chuyên môn TDTT đổi mới hoàn thiện và áp dụng một cách hợp lý, các giai
đoạn các thời kỳ ở các VĐV nhảy xa xuất sắc khi chạy đà và giậm nhảy biết
tạo nên độ bay cao hơn và điều khiển tốc độ về trước, ít nhất phải nhờ đến
tăng lực theo phương thẳng đứng và giảm lực hãm theo phương nằm ngang.
Để đạt được điều này phải tùy thuộc vào trình độ chun mơn và nắm bắt kỹ
thuật có hiệu quả, do đó mà giảng dạy và huấn luyện kỹ thuật là nội dung chủ
yếu trong q trình giảng dạy cịn giáo dục và huấn luyện thể lực là cơ sở để
giảng dạy huấn luyện kỹ thuật, mặt khác chỉ có nắm vững được kỹ thuật họp
lý mới phát huy được trình độ tập luyện, năng lực phối hợp vận động lại có
ảnh hưởng quan trọng đến sự tiếp thu và hoàn thiện kỹ thuật, vận động tốt
thường có cảm giác khơng gian, thời gian, mức độ dùng sức tốt để có năng
lực phối hợp vận động tốt thì huấn luyện thể lực mới toàn diện cân đối làm
cho cơ thể phát triển tạo cơ sở vững chắc về chức năng cho năng lực thể thao.
Theo lý thuyết thành tích nhảy xa được xác định chủ yếu bằng vận tốc
nằm ngang tại thời điểm nhưng việc tạo ra tốc độ nằm ngang lại phụ thuộc
chủ yếu vào giai đoạn chạy đà vì chạy đà là khả năng tạo được tốc độ cao
nhất ở 4 bước cuối đồng thời cũng biết cách duy trì đến lúc giậm nhảy.
1.7.2 Vai trò thể lực, đặc biệt là vai trò SMTĐ trong nhảy xa

Hoạt động thể lực, nhất là hoạt động thể lực trong hoạt động TDTT rất
đa dạng và phức tạp, phụ thuộc và công suất hoạt động, cơ cấu động tác và
thời gain gắng sức. Mỗi một loại hoạt động đòi hỏi cơ thể phải phải thể hiện
khả năng hoạt động thể lực của mình về một khía cạnh nào đó. Trong bất kỳ
hoạt động thể lực nào, các tố chất thể lực cũng không biểu hiện đơn độc mà
luôn phối hợp với nhau để tạo nên thành tích nhất định. Đồng thời, trong phần
lớn các môn thể thao, một hoặc vài yếu tố thể lực được thể hiện rõ rệt nhất


22
quyết định đến khả năng hoạt động của môn thể thao đó. Ví dụ như: Chạy cự
ly trung bình, việt dã yếu tố thế lực thể hiện rõ nhất, trong thể dục nhịp điệu
thì tố chất mềm dẻo khéo léo đóng vai trị quyết định, cịn trong nhảy xa tố
chất sức mạnh tốc độ đóng vai trị quan trọng để tạo nên thành tích nhảy xa.
Thành tích nhảy xa dựa trên sự hoàn thiện của kỹ thuật, thể lực và tâm
lý, đó là yếu tố góp phần thể hiện động tác chính xác và đạt thành tích cao
trong nhảy xa.
Bằng thực tế và cơng trình nghiên cứu khoa học với những góc độ khác
nhau với mục đích cải thiện thành tích nhảy xa của các nhà chun mơn
TDTT: Với mơ hình hóa các chỉ tiêu tập luyện chun mơn cho VĐV nhảy xa
của tác giả Đinh Huy Sơn đã đưa ra kết luận: Bằng đấu tranh huấn luyện nhảy
xa, cần phát triển sớm tốc độ sức bật cho VĐV nhảy xa Việt Nam và các yếu
tố tập luyện chuyên môn nó có ảnh hưởng trực tiếp tới thành tích nhảy xa, có
thể đánh giá qua các test chạy 30m, 60m tốc độ cao, các bài tập bật xa, nhảy
xa có đà 6 bước.
Bằng cơng trình nghiên cứu của học viện Cret-xrôm VA, huấn luyện
viên nhà vô địch Olimpic được đăng ký tạp chí TDTT do nhà xuất bản TDTT
Maxcova phát hành vào năm 1980 có viết: Huấn luyện theo phương pháp dứt
điểm từng nhiệm vụ cũng là phương pháp hay nên theo ý kiến cá nhân tôi
không phải bất cứ lúc nào cũng có thể áp dụng, chúng tơi nghĩ giảng dạy đồng

thời theo giai đoạn cả tốc độ lẫn sau bất cứ lứa tuổi nào. Hai nhiệm vụ quan
trọng đó là: “Phát triển tốc độ chạy đà và tăng sức giậm nhảy”
Mục đích chạy đà là nhằm tạo ra tốc độ nằm ngang tối ưu trước khi giậm
nhảy, muốn đạt được mục đích đó thì yếu tố thể lực và tâm lý là những yếu tố
quan trọng nhất.
Trong các thành phần thể lực có ảnh hưởng đến thành tích nhảy xa thì tố
chất sức mạnh tốc độ có tầm quan trọng đặc biệt. Sức mạnh tốc độ là sự kết
hợp giữa sức mạnh và sức nhanh.


23
Sức nhanh là năng lực thực hiện một hành động vận động trong điểu kiện
nhất định với thời gian ngắn nhất, được thể hiện ở tốc độ động tác và tần số
động tác.
Vậy sức mạnh là khả năng khắc phục lực cản bên ngồi chống lại lực cản
đó bằng sự nỗ lực cơ bắp.
Sức mạnh tốc độ là khả năng hệ thống tuần hoàn và thần kinh khắc phục
sự đề kháng tốc độ lớn nhất của cơ bắp trong thời gian ngắn.
Sức mạnh tốc độ là một loại tố chất có biểu hiện đặc biệt, nó là sự hịa
quyện giữa sức mạnh và tốc độ, là năng lực tăng tốc độ được biểu hiện ra khi
khắc phục một lực cản nhất định của VĐV.
Chính vì trong q trình giảng dạy và huấn luyện do có sự khác nhau
đáng kể về sự phát triển các tố chất thể lực người tập. Vì thế cần phải có
phương pháp sao cho phù hợp để trong quá trình huấn luyện và giảng dạy đạt
được kết quả tốt nhất.
Việc phát triển sức mạnh tốc độ là yếu tố khơng thể thiếu được đối với
q trình tập luyện nhảy xa, vấn đề này đã được các nhà khoa học chứng
minh và thực tế cũng cho thấy sức mạnh tốc độ ảnh hưởng trực tiếp đến chạy
đà và giậm nhảy. Chẳng hạn nếu khơng có tốc độ cuối chạy đà từ 9 – 10m/s
thì một VĐV nhảy xa khó lịng đạt được thành tích 7,10 – 7,20m, ngoài ra tốc

độ chạy đà cao kết hợp với lực giậm nhảy tối đa cũng là yếu tố quyết đinh
đến thành tích nhảy xa. Điều đó cho thấy vai trị của sức mạnh tốc độ đối với
nhảy xa là không thể phủ nhận.
Quá trình giảng dạy và huấn luyện nhằm nâng cao thành tích nhảy xa,
đem lại kết quả học tập cao hơn phải dựa trên cơ sở nền tảng của nó là sự phát
triển tồn diện của các tố chất thể lực: Sức nhanh, sức mạnh, năng lực phối
hợp vận động và khéo léo. Tố chất quan trọng nhất là sức mạnh tốc độ, vì vậy
trong giảng dạy giáo viên phải chú ý phát triển sức mạnh tốc độ cho học sinh.


24
1.8 Cơ sở để nâng cao thành tích nhảy xa:
Để đạt được thành tích cao trong nhảy xa điều cơ bản là phải kéo dài giai
đoạn bay bằng cách chạy lấy đà chuẩn xác, biết sử dụng và phát huy tối đa
SMTĐ của cơ thể và giậm nhảy tích cực.
Quá trình chạy trọng tâm cơ thể chuyển động trong khơng gian theo một
quỹ đạo nhất định, quỹ đạo này được quy định bởi các yếu tố: Tốc độ bay ban
đầu, góc độ bay, lực cản khơng khí và lực hút trái đất.
Tốc độ bay ban đầu của người nhảy là yếu tố quyết định đến thành tích
nhảy xa, góc độ bay trong nhảy xa khoảng 18 – 23 độ. Nhưng để tạo được tốc
độ bay ban đầu thì sức mạnh tốc độ là điều quan trọng. Do vậy khi tập luyện
và thi đấu người tập cần tận dụng hết khả năng của mình một cách có hiệu
quả, để tạo ra hiệu quả bay xa nhất.
Quỹ đạo chuyển động của trọng tâm cơ thể trong lúc bay phụ thuộc vào
tốc độ chạy đà, lực giậm nhảy và góc bay. Về lý thuyết thành tích nhảy xa
được tính theo cơng thức:

S

vo . sin 

g

Trong đó:
S

: là độ xa

Vo

: là tốc độ bay ban đầu

α

: Là góc bay

g

: Là gia tốc rơi tự do

1.9. Cơ sơ sinh lý của yếu tố sức mạnh tốc độ.
1.9.1 Cơ sở sinh lý
Sức mạnh là một tố chất thể lực, đó là khả năng khắc phục lực cản bên
ngồi (ví dụ: dụng cụ tập luyện hay dụng cụ thi đấu, sức cản của khơng khí,
cuỷa nước) hoặc chống lại lực cản đó bằng sự nỗ lực của cơ bắp (ví dụ như
sức mạnh của đối thủ thể thao).


25
Sức mạnh phụ thuộc vào các yếu tố sau:
- Độ to, nhỏ của cơ bắp, cấu trúc của sợi cơ.

- Sức co giãn của cơ bắp
- Sự điều hòa của thần kinh
- Dự trữ nguồn năng lượng phù hợp
- Các phẩm chất tâm lý
Người ta phân sức mạnh thành 3 loại: Sức mạnh tối đa, sức mạnh tốc độ
và sức mạnh bền.
Sức mạnh tốc độ hay còn gọi là sức mạnh nhanh là năng lực phát huy
sức mạnh trong một khoảng thời gian ngắn nhất bằng sự co cơ nhanh. Ví dụ:
Ra địn tay, địn chân, chạy đà giậm nhảy trong nhảy xa, nhảy cao…Tập luyện
phát triển sức mạnh tốc độ tuy cơ bắp không nở nang như tập luyện sức mạnh
tối đa nhưng lại có khả năng co rút rất nhanh.
Sức mạnh tốc độ phụ thuộc vào tiết diện sinh lý cơ, thiết diện cơ càng
lớn thì lực cơ càng lớn. Và nó phụ thuộc vào các loại cơ cụ thể ( sợi cơ sáng,
xẫm) sợi cơ màu sáng co nhanh, sức mạnh lớn vì vậy các VĐV nhảy xa và
chạy cự ly ngắn có loại cơ màu sáng chiếm ưu thế thậm chí 85 – 90% của tất
cả các sợi cơ, vì vậy trong mọi hoạt động của cơ bắp sinh ra lực dưới mọi
hình thức.
- Khơng thay đổi độ dài về độ dài của cơ (chế độ tĩnh)
- Giảm độ dài của cơ ( khắc phục chế độ)
- Tăng độ dài của cơ (chế độ nhượng bộ)
Trong các hoạt động sức mạnh tốc độ VĐV cần phải gắng sức ở mức tối
đa ngoài ra hoạt động này cịn địi hỏi cơ phải có tính linh hoạt và phối hợp
rất cao trong một thời gian ngắn.
Tập luyện phát triển sức mạnh tốc độ yêu cầu thực hiện nhanh, thời gian
hoàn thành mỗi động tác chỉ từ 0,13 – 0,25s, các bài tập sức mạnh tốc độ là
các bài tập có cơng suất lớn được thực hiện trong thời gian ngắn. Vì vậy năng


×