Tải bản đầy đủ (.pdf) (71 trang)

Tư tưởng hồ chí minh về xây dựng mối quan hệ giữa đảng và nhân dân sự vận dụng tư tưởng của người trong công tác dân vận hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.24 MB, 71 trang )

1

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
----------

NGUYỄN THỊ ÁI

Tư tưởng Hờ Chí Minh về xây dựng mối quan hệ
giữa Đảng và nhân dân – Sự vận dụng tư tưởng
của Người trong công tác dân vận hiện nay

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP

SƯ PHẠM GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ


2

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho Đảng và nhân dân ta hệ thống tư
tưởng lý luận vô giá. Tư tưởng của Người nói chung và tư tưởng về mối quan
hệ giữa Đảng và nhân dân nói riêng được xem như sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá
trình cách mạng của Đảng và nhân dân ta, soi sáng con đường cách mạng của
dân tộc ta hôm nay và mai sau.
Trong toàn bộ sự nghiệp cách mạng và ở tất cả các thời kỳ, Hồ Chí Minh
luôn đặt vấn đề về xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, trong đó Người luôn
khẳng định việc liên hệ, gắn bó mật thiết với nhân dân là nguồn gốc chủ yếu
tạo nên sức mạnh và là một trong những điều kiện, nguyên nhân làm cho


Đảng ta giữ vững được quyền lãnh đạo cũng như giành được thắng lợi trong
quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Vì vậy, liên hệ gắn bó mật thiết với
dân là một yêu cầu khách quan, cũng là một biện pháp quan trọng nhằm tǎng
cường vai trò lãnh đạo của Đảng. Đảng chăm lo cuộc sống cho dân ấm no,
hạnh phúc và dân cũng chăm lo xây dựng Đảng để Đảng ngày một vững
mạnh hơn, tiên phong hơn trên con đường sự nghiệp lãnh đạo vẻ vang của
mình. “Dân như nước có thể đẩy thuyền, lật thuyền” nên việc nước phải “lấy
nghĩa mà duy trì, lấy nhân để cố kết... Có đặt dân lên chốn chiếu êm mới làm
cho thế nước vững như núi Thái Sơn, bàn thạch”. Đó là những triết lý được
cha ông tổng kết từ xa xưa rất phù hợp với quan điểm “lấy dân làm gốc” của
Đảng ta. Chính vì vậy, quan tâm xây dựng, củng cố và không ngừng tăng
cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng Cộng sản với nhân dân là một nguyên
tắc cơ bản trong xây dựng Đảng mà Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi trọng, và
được xem là cội nguồn tạo nên sức mạnh của Đảng ta. Trong thời kỳ đổi mới,
Đảng ta đã quán triệt và thực hiện tư tưởng về xây dựng mối quan hệ giữa


3

Đảng và nhân dân rất thành công, từ việc Đảng đề ra mục tiêu đấu tranh, cho
đến việc huy động sức mạnh của nhân dân để thực hiện thắng lợi mục tiêu đó,
mà xét đến cùng, cũng là do dân và vì dân.
Bên cạnh đó, trong tổ chức Đảng, vẫn cịn mợt bợ phận cán bợ, đảng
viên sa sút phẩm chất đạo đức, lối sống, phai nhạt mục tiêu, lý tưởng, sống xa
dân, quan liêu, hách dịch, làm giảm sút niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo
của Đảng, đó là một nguy cơ không thể xem thường. Xa rời nhân dân, khơng
gắn bó mật thiết với nhân dân là một vấn đề rất nghiêm trọng, như cảnh báo
của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đó là nguy cơ của sự thất bại.
Ngoài ra, để tiếp tục xóa bỏ các nước xã hợi chủ nghĩa cịn lại, chủ nghĩa
đế q́c và các thế lực phản động trong và ngoài nước, đã và đang tìm mọi

cách hạ thấp uy tín và vai trò lãnh đạo của Đảng, chia rẽ Đảng với dân, chia rẽ
các dân tộc anh em trong cộng đồng dân tợc Việt Nam…hịng làm cho chúng
ta suy yếu để xóa bỏ chủ nghĩa xã hội hiện thực mà nhân dân ta xây dựng.
Với tình hình trên, để làm thất bại mọi âm mưu của kẻ thù chỉ có thể dựa
chắc vào nhân dân, khơi dậy tiềm năng cách mạng dời dào, sáng tạo của nhân
dân, mới có thể vượt qua những khó khăn thử thách để tiếp tục tiến lên. Chính
vì vậy, nghiên cứu, học tập và vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về
xây dựng mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân là việc làm có ý nghĩa vô cùng
cấp thiết. Đó cũng chính là lý do đã thôi thúc bản thân tôi chọn đề tài : “Tư
tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân – Sự
vận dụng tư tưởng của Người trong công tác dân vận hiện nay” để nghiên
cứu làm khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Tư tưởng về xây dựng Đảng của Hồ Chí Minh nói riêng và toàn bộ di sản
tư tưởng của Người nói chung là kho tàng quý báu của dân tộc ta hiện nay
cũng như mãi mãi về sau, nó là ngọn đuốc soi đường để đưa sự nghiệp cách
mạng nước ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Tư tưởng Hồ Chí Minh


4

về xây dựng mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân đã được nhiều tác giả quan
tâm nghiên cứu như: “Mối quan hệ giữa Đảng và dân cội nguồn sức mạnh
của Đảng ta” của Lê Kim Ngân, tạp chí Lịch sử Đảng tháng 02- 2002, tác giả
bài viết này đã nêu lên một số nội dung trong tư tưởng Hồ Chí Minh về xây
dựng mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân như sự gắn bó máu thịt, liên hệ mật
thiết với nhân dân lao động là quy luật tồn tại, phát triển và hoạt động của
Đảng Cộng sản, là cội nguồn sức mạnh vô địch của Đảng, là nhân tớ bảo đảm
cho sự thành cơng của tồn bợ sự nghiệp cách mạng; “Tư tưởng dân là chủ,
Đảng là đày tớ của dân của Chủ tịch Hồ Chí Minh” tác giả Th.s Chế Đình

Quang, tạp chí Xây dựng Đảng tháng 09- 2007; “Thực chất công tác Dân vận
là xây dựng mối quan hệ máu thịt giữa Đảng và Dân” tác giả Đại tướng Võ
Nguyên Giáp, tạp chí Dân vận tháng 10- 2009; “Bàn thêm về chữ “đầy tớ”
trong lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh” tác giả Nguyễn Thanh Sơn, tạp chí
Dân vận tháng 11- 2008. “Phương pháp làm dân vận của Bác Hồ” tác giả
Huỳnh Chí Thiện, tạp chí Dân vận tháng 10- 2008. “Công tác dân vận là một
trong những công tác đặc biệt quan trọng, có ý nghĩa chiến lược của Đảng,
nhất định phải được tiến hành với chất lượng và hiệu quả cao nhất” tác giả
Trương Tấn Sang, tạp chí Dân vận tháng 03- 2009.
Nhìn chung, những ý kiến của các tác giả trong các bài viết trên là rất
phong phú và đa dạng vừa mang tính cụ thể vừa mang tính khái quát, các bài
viết đã giải quyết được những vấn đề về lí luận và thực tiễn, định hướng cho
việc giải quyết những vấn đề liên quan đến đề tài.
Tuy nhiên cho đến nay, chưa có công trình nghiên cứu có tính hệ thống
về tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân –
Sự vận dụng tư tưởng của Người vào công tác dân vận hiện nay.


5

3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nhìn nhận một cách khái quát tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng mối
quan hệ giữa Đảng và nhân dân để từ đó nhận thức sâu sắc hơn, hệ thống hơn
tư tưởng của Người.
Bước đầu tìm hiểu sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng mối
quan hệ giữa Đảng và nhân dân vào công tác dân vận hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Với mục đích nghiên cứu nêu trên, đề tài thực hiện những nhiệm vụ sau:
- Làm sáng rõ nguồn gốc hình thành và phát triển, nội dung cơ bản của tư

tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân.
- Làm sáng rõ được sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng mối
quan hệ giữa Đảng và nhân dân vào công tác dân vận hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng mối quan hệ giữa Đảng và nhân
dân.
- Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng mối quan hệ giữa Đảng
và nhân dân trong công tác dân vận hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Khóa luận tập trung nghiên cứu một số vấn đề về mối quan hệ giữa Đảng
và nhân dân trong tư tưởng Hồ Chí Minh và sự vận dụng tư tưởng của Người
trong công tác dân vận hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Khóa luận dựa trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh; đường lối, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam.


6

5.2. Phương pháp nghiên cứu
Khóa luận sử dụng nhiều phương pháp, trong đó phương pháp logic và
lịch sử là chủ yếu. Ngoài ra cịn sử dụng mợt sớ phương pháp như: phân tích,
tổng hợp, so sánh làm mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu khóa luận.
6. Đóng góp của đề tài
Đề tài góp phần hệ thống hóa tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng mối
quan hệ giữa Đảng và nhân dân.
Đề tài góp phần vận dụng tư tưởng trên của Người vào công tác dân vận
hiện nay.

7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, khóa luận gồm: 2 chương:
Chương 1: Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng mối quan hệ giữa
Đảng và nhân dân.
Chương 2: Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng mối quan hệ giữa
Đảng và nhân dân vào công tác dân vận hiện nay.


7

Chương 1: NỘI DUNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG
MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐẢNG VÀ NHÂN DÂN
1.1. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng mối quan hệ
giữa Đảng và nhân dân.
1.1.1. Truyền thống gia đình, q hương, đất nước.
Có thể khẳng định mợt trong những trùn thớng nổi bật trong lịch sử
hình thành và phát triển của dân tộc ta là chủ nghĩa yêu nước và ý chí bất
khuất đấu tranh để dựng nước và giữ nước. Từ văn hóa dân gian, từ nhân vật
truyền thuyết đến các tên tuổi sáng ngời trong lịch sử như Hai Bà Trưng, Ngô
Quyền, Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi,…đều đã phản ánh chân lý đó một cách
hùng hờn. Chủ nghĩa u nước là dịng chảy xun śt trường kỳ lịch sử
Việt Nam, là chuẩn mực cao nhất, đứng đầu bảng giá trị văn hóa – tinh thần
Việt Nam.
Bên cạnh đó, tinh thần nhân nghĩa, truyền thống đoàn kết, tương thân,
tương ái, “lá lành đùm lá rách” trong hoạn nạn, khó khăn. Truyền thống này
cũng hình thành cùng mợt lúc với sự hình thành dân tợc Việt Nam. Do hồn
cảnh đặc biệt phải chớng giặc ngoại xâm và thiên tại khắc nghiệt trong suốt
chiều dài lịch sử, người Việt Nam quen sớng gắn bó với nhau trong tình làng
nghĩa xóm, tắt lửa tối đèn có nhau. Bước sang thế kỷ XX, mặc dù xã hội Việt
Nam đã có sự phân hóa về giai cấp, trùn thớng ấy vẫn cịn rất bền vững. Vì

vậy Hờ Chí Minh đã chú ý kế thừa, phát huy sức mạnh của truyền thống nhân
nghĩa, nhấn mạnh bốn chữ “đồng” (đồng tình, đồng sức, đờng lịng, đờng
minh). Hờ Chí Minh – con người đại diện cho dân tộc, đã tiếp thu những giá
trị truyền thống đoàn kết, nhân nghĩa của dân tộc Việt Nam và nâng nó lên
mợt tầm cao mới, bằng thế giới quan duy vật mácxít Hờ Chí Minh đã từng
nói: “Nhân dân ta từ lâu đã sống với nhau có tình có nghĩa…Từ khi có Đảng
lãnh đạo và giáo dục, tình nghĩa ấy càng cao đẹp hơn, trở thành tình nghĩa


8

đồng bào, đồng chí, tình nghĩa năm châu bốn biển một nhà. Hiểu chủ nghĩa
Mác – Lênin là phải sống với nhau có tình, có nghĩa. Nếu thuộc bao nhiêu
sách mà sống với nhau không có tình có nghĩa thì sao gọi là hiểu chủ nghĩa
Mác – Lênin được”[27,554].
Trải qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, tinh thần yêu nước
gắn liền với ý thức cộng đồng, ý thức cố kết dân tộc, đoàn kết dân tộc Việt
Nam đã hình thành và củng cố, tạo thành một truyền thống bền vững, trở
thành tiền đề tư tưởng và lý luận góp phần hình thành tư tưởng Hờ Chí Minh
về xây dựng mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân.
Đối với mảnh đất Nghệ Tĩnh - mảnh đất địa linh nhân kiệt, giàu truyền
thống cách mạng. Con người Nghệ Tĩnh hiếu học, cần cù sáng tạo trong lao
động, thủy chung tình nghĩa trong cuộc sống, không cam chịu làm nô lệ, kiên
cường bất khuất trong chiến đấu, suốt chiều dài lịch sử thời đại nào cũng có
những anh hùng, hào kiệt đứng lên chống giặc ngoại xâm như: Mai Thúc
Loan, Phan Đình Phùng, Phan Bội Châu,… Và đến thời đại của chúng ta,
mảnh đất này lại tiếp tục sinh ra cho dân tộc ta một con Người vĩ đại “Người
đã làm rạng rỡ nhân dân ta, dân tộc ta và non sông đất nước ta”[11,40].
Hồ Chí Minh được sinh ra trong mợt gia đình nhà nho nghèo giàu lịng
u nước, sớng gần gũi với nhân dân. Thân phụ của Người là Cụ Phó bảng

Ngũn Sinh Sắc, Cụ là mợt nhà nho cấp tiến có lịng u nước, thương dân
sâu sắc. Với quan niệm học để làm người chứ không phải học để làm quan, vả
lại trong hoàn cảnh đất nước bị thực dân Pháp thống trị, làm quan là làm tay
sai cho giặc, là đắc tội với đồng bào, nên sau khi đỗ Phó bảng (1901), Cụ đã
lần lữa việc ra làm quan nhiều năm. Mãi đến năm 1906, Cụ được bổ nhiệm
làm thừa biện Bộ Lễ, phụ trách “công việc trường ớc”. Tiếp xúc với học trị,
Cụ thường nói: Làm quan là nô lệ trong đám nô lệ, lại càng nô lệ hơn. Sự tức
chí đó khiến Cụ bị triều đình cho là “bất phùng thời”, phải đi khỏi Kinh đơ để
vào làm Tri hụn Bình Khê (Bình Định). Ngời trên ghế tri huyện nhưng Cụ


9

thường giao du với các nhà Nho yêu nước ở địa phương hơn là có mặt ở công
đường, tạo điều kiện cho những nông dân thiếu tiền thuế, những người tham
gia phong trào chớng thuế…đang bị giam cầm, trớn thốt. Cụ rất ốn ghét bọn
cường hào bức hiếp nơng dân và thường đứng về phía nơng dân chớng lại
chúng. Sinh thời, Cụ không chỉ giáo dục cho các con của mình lịng u nước
thương dân, mà cịn ln nhắc nhở cho con của mình phải biết đặt lợi ích
q́c gia dân tộc lên trên hết, nếu cần phải hy sinh lợi ích riêng để phục vụ
nhân dân.
Tư tưởng yêu nước, thương dân của người cha đã ảnh hưởng sâu sắc tới
thời niên thiếu của Nguyễn Tất Thành. Mặt khác, trong quá trình trưởng thành
ở quê nhà, rồi đi học ở Huế, càng đi vào cuộc sống của nhân dân, Nguyễn Tất
Thành càng thấm thía thân phận cùng khổ của người dân mất nước. Người đã
tận mắt chứng kiến cảnh đọa đày dân đi phu ở Cửa Rào (Nghệ An) và tự bản
thân Người cũng đã tham gia những cuộc biểu tình địi giảm sưu thuế của
nơng dân sáu hụn của tỉnh Thừa Thiên (tháng 4-1908). Ấn tượng theo suốt
cuộc đời Người là hình ảnh những người dân mất nước cần được giải phóng
khỏi đọa đày, đau khổ, cần được sớng ấm no, tự do, hạnh phúc. Chính vì vậy,

Người đã quyết tâm ra đi tìm đường cứu nước, cứu dân: Tơi ḿn đi ra nước
ngồi, xem nước Pháp và các nước khác. Sau khi xem xét họ làm như thế nào,
tơi sẽ trở về giúp đờng bào chúng ta.
Có thể khẳng định truyền thống yêu nước của dân tộc, truyền thớng q
hương và gia đình Hờ Chí Minh có ảnh hưởng rất sâu sắc đến sự hình thành
nhân cách Hờ Chí Minh và là nhân tớ quan trọng góp phần hình thành nên tư
tưởng về xây dựng mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân ở Hờ Chí Minh sau
này.


10

1.1.2. Lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về mối quan hệ giữa Đảng và
nhân dân.
Vào đầu thế kỷ XIX, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã phát triển
mạnh mẽ ở Châu Âu và ở Mỹ. Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản gắn liền với
sự phát triển của khoa học kỹ thuật, sự lớn mạnh của nền đại công nghiệp.
Với sự lớn mạnh của giai cấp tư sản trong nền đại cơng nghiệp thì giai cấp
công nhân làm thuê cũng có sự gia tăng nhanh chóng, từ đó x́t hiện sự bóc
lợt giá trị thặng dư tuyệt đối và giá trị thặng dư tương đối đã làm trầm trọng
thêm mâu thuẫn giai cấp trong xã hội tư bản. C.Mác và Ph.Ăngghen là những
người cách mạng sống trong phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân, các
ông đã nhận thức một cách đúng đắn, khoa học bản chất của chủ nghĩa tư bản
cũng như sứ mệnh lịch sử vẻ vang của giai cấp cơng nhân.
Có thể khẳng định rằng, cùng với hai phát kiến vĩ đại là chủ nghĩa duy
vật lịch sử và học thuyết giá trị thặng dư, C.Mác đã phát minh ra phát kiến thứ
ba đó là khẳng định sứ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp công nhân. Với phát
kiến ra sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là một vấn đề có ý nghĩa quan
trọng mà chưa một nhà tư tưởng nào trước đó nhìn nhận được, nhưng giai cấp
cơng nhân khơng thể hồn thành sứ mệnh lịch sử của mình nếu khơng có lý

ḷn khoa học, cách mạng đưa đường dẫn lối và không có Đảng lãnh đạo, vì
vậy vấn đề Đảng cợng sản là mợt nợi dung rất quan trọng trong học thuyết của
C.Mác. Sự ra đời của Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản năm 1848 đã chính
thức đánh dấu sự ra đời của một học thuyết mới, học thuyết Mác đó là chủ
nghĩa xã hội khoa học. Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản đã trình bày một cách
rất cơ bản những tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen về Đảng cộng sản.
Trong khi nêu lên những tư tưởng của mình về Đảng cợng sản C.Mác và
Ph.Ăngghen cũng đã đặt ra cơ sở cho việc xây dựng Đảng trên những nguyên
tắc cơ bản như là phải xây dựng nền tảng lý luận tư tưởng của Đảng, xây
dựng Đảng cộng sản thành một tổ chức thống nhất, đoàn kết chặt chẽ và chủ


11

nghĩa quốc tế cộng sản cũng là một trong những nguyên tắc về tổ chức, xây
dựng Đảng.
C.Mác và Ph.Ăngghen cũng từng nhấn mạnh: Chỉ trông vào bàn tay
của những người cộng sản để xây dựng xã hội cộng sản, đó là một tư tưởng
hết sức ngây thơ. Những người cộng sản là một giọt nước trong đại dương,
một giọt nước trong đại dương nhân dân. Như vậy, ngay từ khi đưa ra tư
tưởng về Đảng cộng sản, C.Mác và Ph.Ăngghen đã chú trọng đến mối quan
hệ giữa Đảng và nhân dân, tư tưởng này về sau đã được V.I.Lênin kế thừa và
phát triển để xây dựng Đảng cộng sản trong điều kiện mới, điều kiện Đảng
cộng sản đã giành được chính quyền và trở thành lực lượng lãnh đạo xã hội và
lãnh đạo nhà nước.
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX tình hình thế giới đã có nhiều chuyển
biến cực kỳ quan trọng đó là chủ nghĩa tư bản chuyển sang chủ nghĩa đế quốc.
Giai cấp tư sản đã trở thành một lực lượng phản động, cản trở sự phát triển
của xã hội. Mâu thuẫn giữa các nước đế quốc và các nước thuộc địa ngày
càng trở nên gay gắt hơn. Cuộc đấu tranh của các dân tộc thuộc địa chống các

nước đế quốc chủ nghĩa đã thúc đẩy mạnh mẽ nhu cầu phải có sự phới hợp
lực lượng cách mạng ở các nước thuộc địa với cách mạng ở các nước đế quốc.
Mâu thuẫn giữa các nước đế q́c trong c̣c đấu tranh nhằm tranh giành lợi
ích ngày càng gay gắt đã tạo ra những mắt xích yếu trong hệ thống chủ nghĩa
đế quốc tạo ra thời cơ cho cách mạng vô sản. Mặt khác, giai cấp công nhân đã
lớn mạnh không ngừng cả về số lượng và chất lượng; trưởng thành nhanh
chóng về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Phong trào đấu tranh mạnh mẽ của
giai cấp công nhân ở nhiều nước châu Âu đã chứng minh rằng, giai cấp cơng
nhân có khả năng đoàn kết với những người bị áp bức và bóc lợt để lật đổ chủ
nghĩa tư bản và xây dựng xã hội mới.
Chính trong hồn cảnh đó, V.I.Lênin đã bước lên vũ đài chính trị dẫn
dắt phong trào công nhân thế giới. Với tư chất của một nhà chính trị vĩ đại


12

hịa lẫn những phẩm chất cao đẹp của mợt cá nhân lãnh tụ kiệt xuất có tầm
nhìn chiến lược thiên tài, V.I.Lênin đã sớm nhận ra yêu cầu của cách mạng
Nga nói riêng và phong trào cách mạng thế giới nói chung cần xây dựng một
Đảng vô sản kiểu mới nhằm lãnh đạo giai cấp công nhân đấu tranh chống chủ
nghĩa đế quốc, bảo vệ, truyền bá và phát triển chủ nghĩa Mác.
Trên cơ sở kế thừa và vận dụng sáng tạo những tư tưởng của C.Mác và
Ph.Ăngghen về Đảng cộng sản, căn cứ vào thực tiễn cách mạng Nga,
V.I.Lênin đã đề ra những tư tưởng vừa xây dựng Đảng cộng sản, Đảng lãnh
đạo sự nghiệp cách mạng ngay sau khi giành được chính quyền.
V.I.Lênin là người sáng lập và lãnh đạo Đảng Bôn-sê-vích (chính đảng
kiểu mới của giai cấp công nhân) thực hiện thành công Cách mạng Tháng
Mười vĩ đại. Cùng với quá trình hoạt động và lãnh đạo của mình, V.I.Lênin
đã có nhiều cống hiến, đóng góp cả về lý luận và thực tiễn cho công cuộc xây
dựng Đảng cầm quyền, Đảng kiểu mới đồng thời V.I.Lênin cũng đưa ra hệ

thống những nguyên tắc xây dựng, chỉnh đốn đảng kiểu mới của giai cấp công
nhân. Tư tưởng của V.I.Lênin về hệ thống các nguyên tắc xây dựng Đảng rất
phong phú và toàn diện, trong quá trình nghiên cứu, đề tài này chỉ trình bày
nguyên tắc: Đảng phải gắn bó chặt chẽ với nhân dân, kiên quyết đấu tranh để
ngăn ngừa và khắc phục bệnh quan liêu, xa rời dân.
V.I.Lênin khẳng định rằng, Đảng là đội tiên phong của giai cấp công
nhân, Đảng Cộng sản là đội tiên phong của giai cấp vơ sản, nhưng nó chỉ làm
trịn sứ mệnh lịch sử của mình khi biết gắn bó chặt chẽ với quần chúng nhân
dân và dẫn dắt toàn thể quần chúng tiến lên. Nếu khơng có sự đờng tình ủng
hợ của quần chúng nhân dân thì mọi chủ trương, đường lối của Đảng không
trở thành hiện thực. Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội mới bắt đầu nếu
không được sự đờng tình ủng hợ của nhân dân thì sẽ khó mà thành cơng.
“Trong tất cả những nghị quyết của chúng ta, chúng ta nói rõ như vậy, vì
chúng ta ln ln nhấn mạnh rằng chúng ta có thể công nhận một đảng là


13

đảng công nhân, khi nào và chỉ khi nào đảng đó thực sự liên hệ với quần
chúng”[8,315]. Trong bài “Phát biểu về vai trị của Đảng Cợng sản ngày 23
tháng bảy”, Lênin nhấn mạnh rằng: “Chúng ta cần những đảng liên hệ thực tế
thường xuyên với quần chúng và biết lãnh đạo những quần chúng đó”,
“không biết lãnh đạo quần chúng, liên hệ chặt chẽ với quần chúng, thì nó
khơng phải là mợt đảng”[8,286].
Thật vậy, nếu khơng có sự đờng tình ủng hợ, chung sức, chung lịng của
quần chúng nhân dân thì Đảng cộng sản không thể có được sức mạnh, cách
mạng vô sản không thể thành công và nếu khơng có sự lãnh đạo, tổ chức của
Đảng cợng sản thì quần chúng nhân dân cũng khơng có được đường hướng
chính trị đúng đắn để chỉ đạo, dẫn dắt c̣c đấu tranh cách mạng của mình.
Lịch sử phong trào cợng sản và công nhân quốc tế cho thấy, một trong những

nguyên nhân dẫn đến sự thành công của Đảng cộng sản và các cuộc cách
mạng vô sản là nhờ đã thắt chặt được mối liên hệ giữa Đảng và quần chúng.
Nói tóm lại, sự gắn bó máu thịt, liên hệ mật thiết với quần chúng nhân dân lao
động là quy luật tồn tại, phát triển và hoạt động của Đảng cộng sản, là cội
nguồn sức mạnh vô địch của Đảng, là nhân tớ bảo đảm cho sự thành cơng của
tồn bợ sự nghiệp cách mạng.
Vì vậy, khơng ngừng củng cớ mối quan hệ mật thiết giữa Đảng cầm
quyền và quần chúng nhân dân là một nguyên tắc bất di bất dịch của chủ
nghĩa Mác - Lênin về xây dựng Đảng. V.I.Lênin đã nhiều lần nhấn mạnh tính
tất yếu khách quan cũng như sự cần thiết phải tăng cường, mở rộng mối liên
hệ giữa Đảng và quần chúng, “đi sâu hơn nữa vào trong quần chúng”, “liên hệ
chặt chẽ hơn nữa với quần chúng”[8,235], đặc biệt là sự cần thiết phải lôi
cuốn đông đảo quần chúng nhân dân vào công cuộc xây dựng xã hội mới, xã
hội xã hội chủ nghĩa. Ông cho rằng, đối với một Đảng cộng sản đang lãnh đạo
đất nước thực hiện bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, một trong những nguy
hiểm lớn nhất và đáng sợ nhất là tự cắt đứt liên hệ với quần chúng và đó là


14

một tai họa thực sự. Khi Đảng nắm quyền lãnh đạo, đảng viên có chức có
quyền trong Đảng cũng dễ nảy sinh những bệnh quan liêu, một bộ phận đảng
viên cũng dễ rơi vào tình trạng thối hóa, biến chất, xa rời nhân dân.
V.I.Lênin cho rằng đó là một trong những nguy cơ mà Đảng cầm quyền cần
chú ý đề phịng, khắc phục.
Đáng tiếc là, vào những năm ći thập niên 80, đầu thập niên 90 của thế
kỷ XX, tai họa mà V.I.Lênin từng cảnh báo đã xảy ra với Đảng Cộng sản Liên
Xô - một Đảng lớn với 20 triệu đảng viên. Như nhiều nhà nghiên cứu đã phân
tích, lý giải, Đảng Cộng sản Liên Xô lúc đó, trên thực tế, đã dường như chia
thành hai Đảng: Một Đảng thuộc “đẳng cấp thượng lưu” của tầng lớp quan

liêu, tham nhũng, đặc quyền, đặc lợi, bị nhân dân oán ghét; một Đảng của
những đảng viên thường đã trở thành một khối thờ ơ, thụ động, mất niềm tin
vào chủ nghĩa xã hợi, vào Đảng Cợng sản.
Vì mất niềm tin nên đông đảo đảng viên thường và quần chúng nhân
dân Liên Xô đã thờ ơ với Đảng, không đứng lên bảo vệ Đảng khi Đảng lâm
nguy, khi Đảng bị giải tán, bị cấm hoạt đợng. Bài học thất bại vì mất dân, mất
chỗ dựa vững chắc của Đảng Cộng sản Liên Xô thật quá đắt giá, rất đáng để
cho tất cả các Đảng cộng sản đã mất quyền lãnh đạo, chưa cầm quyền hoặc
đang cầm quyền trên thế giới phải suy ngẫm để tự rút ra bài học cho chính
mình.
Tư tưởng của V.I.Lênin về các nguyên tắc xây dựng Đảng trong đó
nguyên tắc Đảng phải gắn bó chặt chẽ với nhân dân, kiên quyết đấu tranh để
ngăn ngừa và khắc phục bệnh quan liêu, xa rời dân đã được Hờ Chí Minh vận
dụng một cách sáng tạo vào việc xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam trong
sạch, vững mạnh. Tư tưởng đó được thể hiện nhất qn trong tồn bợ q
trình lãnh đạo cách mạng của Người và của Đảng ta.


15

1.1.3. Những bài học kinh nghiệm, thành công và thất bại của các phong
trào đấu tranh của nhân dân Việt Nam và phong trào cách mạng thế giới.
Tư tưởng về xây dựng mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân của Hờ Chí
Minh được hình thành trên cơ sở thực tiễn phong trào đấu của dân tộc ta và
phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân thế giới.
Truyền thống tốt đẹp của mỗi dân tộc bao giờ cũng được phát huy cùng
sự trường tồn của dân tộc ấy. Qua mỗi giai đoạn lịch sử, dân tộc Việt Nam đã
làm rạng rỡ những bài học quý giá của quá khứ, biến chúng thành những nhân
tớ góp phần chiến thắng cho c̣c đấu tranh hiện tại và góp phần mở ra triển
vọng tươi sáng cho tương lai. Các anh hùng dân tợc sở dĩ làm nên nghiệp lớn,

vì khơng bao giờ họ tách mình khỏi trùn thớng tớt đẹp của dân tợc mình mà
ngược lại, bao giờ họ cũng tiêu biểu cho những nguyện vọng cao cả nhất, bức
thiết nhất của mỗi thời đại. Chủ tịch Hờ Chí Minh đã kế tục xứng đáng nhất
sự nghiệp và công đức của những anh hùng đi trước, đã thu góp tinh hoa tư
tưởng mà dân tộc ta đã xây dựng nên từ máu lửa của cuộc chiến đấu để sinh
tồn và phát triển.
Nghiên cứu lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, Hồ
Chí Minh đã nhận thức sâu sắc vai trị của nhân dân và mới liên hệ giữa nhà
cầm quyền với nhân dân với tư tưởng “Vua tơi đờng lịng, anh em hịa tḥn,
cả nước góp sức”, tư tưởng của Trần Quốc Tuấn “Khoan thư sức dân để làm
kế sâu rễ bền gốc là thượng sách giữ nước” với niềm tin “chúng chí thành
thành” (ý chí nhân dân là bức thành vững chắc). Và đến thời của Ngũn Trãi
(thế kỷ XV) thì vai trị cứu nước của nhân dân chính thức được tuyên dương
xứng đáng. Theo Nguyễn Trãi “phúc chu thủy, tín dân do thủy” tức là sức của
dân như nước, nước chở thuyền và cũng có thể lật thuyền. Sau chiến thắng
chống quân Minh, Nguyễn Trãi đã viết Đại cáo Bình Ngơ khơng chỉ ghi cơng
cho trời thần, danh tướng, mà cịn cẩn trọng ghi cơng lao của nhân dân lao


16

khổ - sức mạnh đầu tiên xung phong đánh thắng giặc Minh: “dựng gậy làm
cờ, bốn phương dân cày tụ họp”.
Chính chủ nghĩa u nước, trùn thớng đoàn kết của dân tộc trong
chiều sâu và bề dày của lịch sử này đã tác đợng mạnh mẽ đến Hờ Chí Minh và
được Người ghi nhận như những bài học lớn cho sự hình thành tư tưởng của
mình. Lịch sử nước ta có ghi: Vua nhà Hờ rất thơng minh, tài giỏi, có nhiều tư
tưởng cải cách nhưng khơng tḥn lịng dân nên ći cùng chịu mất nước. Và
có thể nói bài học đoàn kết ở thời Trần, cũng như bài học thất bại của triều Hờ
đã được Hờ Chí Minh khái quát nhằm giáo dục cho cán bộ, đảng viên và nhân

dân ta, đó là ở những giai đoạn lịch sử nào mà lực lượng lãnh đạo cuộc kháng
chiến, đoàn kết, thớng nhất, hợi tụ được lịng người, sức dân thì dân tợc ta sẽ
có sức mạnh giữ vững đợc lập, chủ quyền cho dân tộc.
Nếu lực lượng lãnh đạo cuộc kháng chiến không tập hợp được đông
đảo nhân dân, chia đàn xẻ nghé, khơng có sự đoàn kết thì dân tộc rơi vào suy
yếu, mất nước. Hoặc trong những phong trào kháng chiến chống Pháp của các
nhà cách mạng tiền bối ở cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, các phong trào hầu
như đều thất bại vì không có đường lới cứu nước đúng đắn, khơng có sự đoàn
kết, thống nhất trong quần chúng nhân dân. Như Phan Bội Châu thì tin tưởng
vào người “anh cả da vàng” đế quốc Nhật, chẳng khác gì “đuổi hổ cửa trước,
rước beo cửa sau”. Phan Châu Trinh thì tin tưởng vào lời lẽ mị dân của thực
dân Pháp với phương châm “Ỷ Pháp cầu tiến”, chẳng khác gì xin giặc rủ lịng
thương. Qua những bài học thành công và thất bại đó, đặc biệt khi bắt gặp chủ
nghĩa Mác- Lênin, Hờ Chí Minh càng nhận thức rõ hơn về mối quan hệ giữa
Đảng và nhân dân, là cội nguồn tạo nên sức mạnh của Đảng ta.
Trải qua bao nhiêu năm bôn ba tìm đường cứu nước và tìm hiểu về các
c̣c cách mạng điển hình trên thế giới: Cách mạng Mỹ năm 1776, cách mạng
Pháp năm 1789 và cách mạng Nga năm 1917. Từ sự phân tích nợi dung, tính
chất các c̣c cách mạng ở Mỹ, ở Pháp, Người đi đến kết luận: Đó là những


17

cuộc cách mạng không đến nơi - có nghĩa là cách mạng rời mà dân vẫn bị áp
bức, bóc lợt. Người chỉ rõ: “Chúng ta đã hy sinh làm cách mệnh thì nên làm
cho đến nơi, nghĩa là làm sao cách mệnh rời thì qùn giao cho dân chúng sớ
nhiều, chớ để trong tay một bọn ít người thế mới khỏi hy sinh nhiều lần, thế
dân chúng mới được hạnh phúc”[17,270]. Người cũng rút ra kết luận vô cùng
quan trọng đó là các dân tợc ḿn giải phóng chỉ có thể trơng cậy vào mình,
dựa vào lực lượng của bản thân mình là chính. Đồng thời, Người cũng chỉ rõ

nguyên nhân thất bại của phong trào giải phóng giải phóng dân tộc thuộc địa
lúc bấy giờ là do các dân tợc thiếu sự hiểu biết lẫn nhau, khơng có sự đoàn kết
giữa các dân tộc với nhau…
Cách mạng tháng Mười Nga thắng lợi, đối với Hồ Chí Minh đây là một
bài học kinh nghiệm quý báu trong việc huy động, tập hợp, đoàn kết lực
lượng quần chúng nhân dân, lực lượng cơng nơng để giành và giữ chính
qùn và xây dựng xã hội mới xã hội chủ nghĩa. Người khẳng định: Chỉ có
cách mạng tháng Mười Nga là đã thành công và thành công đến nơi, nghĩa là
dân chúng được hưởng hạnh phúc tự do, bình đẳng thực sự. Bài học mà Hờ
Chí Minh rút ra qua nghiên cứu cách mạng tháng Mười Nga là: Cách mạng
Nga dạy chúng ta ḿn cách mạng thành cơng thì phải dân chúng (cơng
nơng) làm gốc, phải có Đảng vững bền, phải bền gan, phải hy sinh, phải thống
nhất. Đây được coi là bài học kinh nghiệm thực tiễn rất cần thiết để Hồ Chí
Minh hình thành tư tưởng về xây dựng mới quan hệ giữa Đảng và nhân dân.
Như vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng mới quan hệ giữa Đảng và
nhân dân là sản phẩm của sự kết hợp từ các giá trị văn hóa truyền thống của
dân tộc, với tinh hoa văn hóa của nhân loại, mà đỉnh cao là chủ nghĩa Mác Lênin, với những bài học kinh nghiệm quý báu của dân tộc Việt Nam và cách
mạng thế giới đã góp phần quan trọng vào việc hình thành tư tưởng Hờ Chí
Minh về xây dựng mới quan hệ giữa Đảng và nhân dân và đây là sợi chỉ đỏ
xun śt trong tồn bợ hoạt đợng cách mạng của Người.


18

1.2. Nợi dung cơ bản của tư tưởng Hờ Chí Minh về xây dựng mối quan hệ
giữa Đảng và nhân dân.
Chúng ta có thể khái qt tư tưởng Hờ Chí Minh về xây dựng mối quan hệ
giữa Đảng và nhân dân và sự vận dụng trong công tác dân vận hiện nay thành
những luận điểm sau:
1.2.1. Sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.

1.2.1.1. Dân là gốc rễ, là nền tảng của nước, là nhân tớ qút định thắng lợi
của cách mạng.
Theo Hờ Chí Minh, mọi “quyền hành và lực lượng đều ở nơi
dân”[20,698]. Trong quan niệm của Người, nhân dân là người chủ của sự
nghiệp dựng nước và giữ nước, là mục tiêu và động lực của sự phát triển, là
nguồn sức mạnh vô tận của Đảng, là đối tượng của nhà nước công nông. Hồ
Chí Minh luôn coi “dân là gốc của nước, nước lấy dân làm gốc” và nhận thức
đầy đủ, sâu sắc hơn nguyên tắc “lấy dân làm gốc” và khẳng định “Gớc có
vững cây mới bền, xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân”[20,410].
Dân là gốc rễ, là nền tảng của nước được hiểu nước mạnh hay yếu là từ
dân, do dân theo tinh thần “dân là dân nước, nước là nước dân”. Gớc trong
dân là tài dân (trí tuệ, sáng tạo), sức dân (lực lượng), của dân (vật chất, tiền
thuế), quyền hành nơi dân, dân ủy quyền cho cán bợ. Hờ Chí Minh nói: “Dân
chúng đờng lịng, việc gì cũng làm được. Dân chúng không ủng hộ, việc gì
cũng khơng nên”[20,295]. Điều Người dặn, suy cho cùng, quan trọng nhất
trong cái gớc của dân là lịng tin của dân vào Đảng và Chính phủ và quyền
hành ở dân. Khi dân đã tin Đảng và Chính phủ thì họ sẳn sàng ủng hộ mọi thứ
từ vật chất, tiền bạc, lực lượng, trí ṭ đến cả việc khơng ngại hy sinh tính
mạng của mình. Ngược lại, mợt khi dân khơng cịn niềm tin nữa thì dân ốn.
“Dân ốn, dù tạm thời may có chút thành cơng, nhưng về mặt chính trị là thất
bại”[20,293].


19

Với Hờ Chí Minh, đại đoàn kết trước hết là tập hợp, tổ chức lãnh đạo
thống nhất được sức mạnh của toàn dân, phải làm cho dân mến, dân tin để dân
theo Đảng, Đảng có sức mạnh. Để dân là gớc rể, là nền tảng của đại đoàn kết
thì phải tin dân, chăm lo lợi ích của nhân dân, biết ơn dân và đền bù xứng
đáng cho dân. Người dặn “Cơm chúng ta ăn, áo chúng ta mặc, vật liệu chúng

ta dùng, đều do mồ hôi nước mắt của nhân dân mà ra. Vì vậy, chúng ta phải
đền bù xứng đáng cho nhân dân”[22,392]. Sức mạnh của khối đại đoàn kết là
sức mạnh vô địch, ở đó sức dân là gớc rể . “Dân khí mạnh thì qn lính nào,
súng ống nào cũng không chống lại được”[17,274]. Nhưng đại đoàn kết lấy
dân làm gốc cũng phải rất cần và điều căn bản là phải lấy liên minh công
nông làm nồng cốt, do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Người chỉ rõ: “Dân khơng
hiểu tình thế cách mạng trong thế giới, khơng biết so sánh, không có mưu
chước, chưa nên làm đã làm, khi nên làm lại không làm…Dân thường thường
chia rẽ phái này, bọn kia…nên mỗi sức yếu đi, như đũa mỗi chiếc mỗi
nơi…Vậy nên sức cách mệnh phải tập trung, muốn tập trung phải có Đảng
cách mệnh”[17,267]. Trong lãnh đạo công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam, Người khẳng định: “Chủ nghĩa xã hợi chỉ có thể xây dựng được
với sự giác ngộ đầy đủ và lao đợng và sáng tạo của hàng chục triệu
người”[23,494-495].
Theo Hờ Chí Minh, sức mạnh của cách mệnh là ở đại đoàn kết tồn
dân, gớc rễ nền tảng của đại đoàn kết là ở dân. Sự đoàn kết của nhân dân
chính là nguồn gốc sức mạnh vô tận, vô địch của cách mạng. “Lòng yêu nước
và sự đoàn kết của nhân dân là một lực lượng vô cùng to lớn, không ai thắng
nổi. Nhờ lực lượng ấy mà tổ tiên đã đánh thắng quân Nguyên, quân Minh, đã
giữ vững độc lập, tự do, dân chủ. Nhờ lực lượng ấy mà sức kháng chiến của ta
ngày càng mạnh. Nhờ lực lượng ấy mà quân và dân ta quyết định chịu đựng
muôn nỗi khó khăn thiếu thớn, đói khổ, tang tóc, quyết mợt lịng đánh tan
quân giặc cướp nước”.[21,281-282]. Người hỏi: “Cách mạng thành công là do


20

ai?” và trả lời “do quần chúng”. Người khẳng định mợt cách chắc chắn rằng
“nếu khơng có nhân dân thì Chính phủ khơng đủ lực lượng”[19,56]. Do đó mà
“Trong bầu trời khơng gì q bằng nhân dân. Trong thế giới khơng gì mạnh

bằng đoàn kết của nhân dân”[23,276]. Người đã dùng những lời lẽ tôn vinh
nhân dân lên hàng tối thượng trong tất cả các lực lượng và chỉ rõ vai trị to lớn
nhất của nhân dân mà khơng có lực lượng nào có thể sánh được.
1.2.1.2. Dân là chỗ dựa vững chắc của hệ thống chính trị cách mạng.
Năm 1930, trong Sách lược vắn tắt, và Chương trình vắn tắt của Đảng,
Hồ Chí Minh cũng đã chỉ rõ: Dân là chỗ dựa vững chắc của Đảng và của hệ
thống chính trị cách mạng. Đờng thời Người cũng khẳng định: “Ḿn lật đổ
được giai cấp phong kiến, hồn thành cách mạng thổ địa thì Đảng phải dựa
vào dân, phải tập hợp được dân”. Nhân dân đã cung cấp cho Đảng những
người con ưu tú nhất. Lực lượng của Đảng có lớn mạnh được hay không là do
dân. Nhân dân là người xây dựng, đồng thời cũng là người bảo vệ Đảng, bảo
vệ cán bộ của Đảng. Dân như nước, cán bộ như cá. Cá không thể sinh tồn và
phát triển được nếu như không có nước. Nhân dân là lực lượng biến chủ
trương, đường lối của Đảng thành hiện thực. Do vậy, nếu khơng có dân, sự
tờn tại của Đảng cũng chẳng có ý nghĩa gì. Đới với Chính phủ và các tổ chức
quần chúng cũng vậy.
Chính vì vậy, nhân dân là lực lượng dựng xây đất nước, là lực lượng
hợp thành, ni dưỡng, bảo vệ các tổ chức chính trị. Vì dân là chỗ dựa của
Đảng nên khơng bao giờ Đảng lại hy sinh quyền lợi của giai cấp công nhân và
nông dân cho một giai cấp nào khác. Khơng những thế mà Đảng cịn phải
“liên kết với những dân tộc bị áp bức và quần chúng vô sản trên thế giới, nhất
là quần chúng vô sản Pháp”[18,3-4].
Ở Hồ Chí Minh, việc xác định dân là chỗ dựa vững chắc của Đảng của
hệ thớng chính trị với việc để dân thực hiện vai trò lãnh đạo của mình, cũng
như việc rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng của người cán bộ, đảng viên


21

để dân mến, dân tin, dân đoàn kết theo Đảng là mối quan hệ biện chứng, tác

động qua lại lẫn nhau không tách rời nhau. Người dạy: “Công việc đổi mới,
xây dựng là trách nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công
việc của dân”[20,698]. Từ đó khẳng định: “Lực lượng của dân rất to lớn. Việc
dân vận rất quan trọng. Dân vận kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì
việc gì cũng thành cơng.”[20,700]. Dân vận khéo khơng có nghĩa là dùng
mánh khóe, thủ đoạn để lôi kéo dân, mà người cán bộ phải tu dưỡng đạo đức,
phải rèn luyện và hành động vì dân để có dân.
Trong điều kiện lịch sử cụ thể Việt Nam, một nước nông nghiệp chậm
phát triển, hơn 90% dân số là nông dân là trung nông, bần nông và cố nông,
Hồ Chí Minh đã căn dặn các cán bộ dân vận rằng: “Mọi công việc chống giặc
và xây dựng được đất nước và phần lớn là do nông dân làm. Nông dân là
đồng minh trung thành của công nhân. Muốn kháng chiến kiến quốc thành
công, muốn độc lập thống nhất thật sự phải dựa vào nơng dân”[20,710]. Nơng
dân nói riêng, nhân dân nói chung tự thân họ khơng có sự đoàn kết bền vững,
chỉ có những mới quan hệ gần gũi tự nhiên, đoàn kết theo thời vụ. Sự đoàn
kết như thế không phải là chỗ dựa của Đảng, của hệ thớng chính trị. Chỉ
những người dân được giác ngộ, được tổ chức và do Đảng lãnh đạo mới là
sức mạnh, mới là chỗ dựa vững chắc của Đảng của hệ thớng chính trị cách
mạng. Người dạy, lực lượng giai cấp công nhân và nhân dân lao động rất to
lớn và vô cùng vô tận. Nhưng lực lượng ấy cần có Đảng lãnh đạo mới chắc
chắn thắng lợi. Trong nhiều bài viết và bài nói của Người, Người ln chỉ rõ:
Thành công của Đảng ta là ở chỗ đã tổ chức và phát huy được lực lượng cách
mạng vô tận của nhân dân, lãnh đạo nhân dân dưới lá cờ tất thắng của chủ
nghĩa Mác – Lênin.
Như vậy, Hồ Chí Minh ln đứng vững trên quan điểm lập trường của
chủ nghĩa Mác – Lênin, nắm vững tinh thần ý nghĩa của mối quan hệ biện
chứng giữa Đảng và nhân dân, luôn giữ vững nguyên tắc tất cả vì độc lập dân


22


tơc, vì hạnh phúc của nhân dân, vì sự phát triển toàn diện và hoàn thiện của
con người mà khẳng định: Dân là gốc rễ, dân là nền tảng, dân là chủ thể, dân
là nguồn sức mạnh vô tận, vô địch của đại đoàn kết. Dân là chỗ dựa vững
chắc của Đảng và của hệ thớng chính trị cách mạng.
1.2.2. Đảng Cộng sản Việt Nam là người lãnh đạo, đồng thời là người đầy
tớ trung thành của nhân dân.
1.2.2.1. Công tác lãnh đạo của Đảng phải xuất phát từ thực tế khách quan,
đồng thời phải xuất phát từ yêu cầu, ngụn vọng chính đáng của nhân dân.
Theo Hờ Chí Minh, Đảng phải vì dân, Nhà nước cũng phải vì dân, tất
cả vì qùn lợi chính đáng của nhân dân.
Hờ Chí Minh đã từng nhấn mạnh, chỉ có chế đợ xã hợi xã hợi chủ nghĩa
thì qùn lợi cá nhân và quyền lợi Nhà nước cùng quyền lợi tập thể mới nhất
trí. Trong “Báo cáo về dự thảo Hiến pháp sửa đổi tại kỳ họp thứ 11 Quốc hội
thứ I nước Việt Nam Dân chủ cợng hịa”, Hờ Chí Minh đã nêu rõ, cơng dân
Việt Nam Dân chủ cợng hịa có quyền làm việc, có quyền nghỉ ngơi, có quyền
học tập, có quyền tự do thân thể. Nhân dân là người giữ vai trò quyết định
trên tất cả các lĩnh vực: từ kinh tế, chính trị đến văn hóa, xã hợi, từ những
chuyện nhỏ có liên quan đến lợi ích của mỗi cá nhân đến những chuyện lớn
như lựa chọn thể chế, lựa chọn người đứng đầu Nhà nước.
Người dân có quyền làm chủ bản thân, nghĩa là có quyền được bảo vệ
về thân thể, được tự do đi lại, tự do hành nghề, tự do ngôn luận, tự do học
tập… trong khuôn khổ luật pháp cho phép. Đúng như Hồ Chí Minh nói: “Mọi
quyền hạn đều của dân”. Cán bộ từ Trung ương đến cán bộ ở các cấp các
ngành đều là “đầy tớ” của dân, do dân cử ra và do dân bãi miễn.…
Đối với Đảng Cộng sản Việt Nam, một Đảng ra đời từ phong trào cách
mạng của nhân dân, có thiên chức lãnh đạo cách mạng vì mục đích phục vụ
nhân dân, lấy lợi ích của nhân dân làm lợi ích cao nhất của mình, thì Hờ Chí
Minh chỉ rõ rằng, hồn tồn khơng có mợt bức tường ngăn cách nào giữa



23

nhiệm vụ lãnh đạo và nhiệm vụ phục vụ: “Tất cả đường lối, phương châm,
chính sách... của Đảng đều chỉ nhằm một mục đích là nâng cao đời sống của
nhân dân nói chung”[25,380].
Người khẳng định: Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, mọi thành
quả cách mạng thuộc về nhân dân. Dân chủ là nhân dân là người làm chủ đất
nước, chủ xã hội, chủ cuộc sống. Các cấp chính quyền Nhà nước, các đoàn
thể nhân dân, bao giờ, ở đâu, xuất phát của hành động cũng vì lợi ích của
nhân dân mà làm và chịu trách nhiệm trước dân. Người nói: “Những chính
sách và nghị quyết của Đảng đều vì lợi ích của nhân dân. Đảng ta đại biểu cho
lợi ích chung của giai cấp cơng nhân, của tồn thể nhân dân lao động chứ
không phải mưu cầu lợi ích riêng của một nhóm người nào, của một cá nhân
nào”[24,288]. Hồ Chí Minh cũng yêu cầu mọi cán bộ, Đảng viên phải luôn
xác định và thực hiện đúng bổn phận là công bộc của dân “cần phải quyết tâm
suốt đời phục vụ Đảng phục vụ nhân dân”[24,293].
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhiều lần nhắc nhở: Vì lợi ích của nhân dân thì
việc gì có lợi cho dân ta phải hết sức làm, việc gì có hại đến dân ta phải hết
sức tránh. Tháng 1-1960, tại buổi lễ kỷ niệm 30 năm ngày thành lập Đảng ta,
Người lại nói: “Đảng ta vĩ đại và ngồi lợi ích của giai cấp, của nhân dân, của
dân tợc, Đảng ta khơng có lợi ích gì khác”[27,4]. Bản thân Chủ tịch Hờ Chí
Minh khi trả lời các nhà báo, đã nói rõ: “cả đời tơi chỉ có mợt mục đích, là
phấn đấu cho qùn lợi của Tổ quốc và hạnh phúc của quốc dân” và “bất kỳ
bao giờ, bất kỳ ở đâu, tôi cũng chỉ theo đuổi một mục đích là làm cho ích
quốc lợi dân”[19,240].
Người xác định: Dân vừa là động lực, vừa là mục tiêu của cách mạng.
Đảng khơng có mục đích riêng cho mình mà phải hòa chung vào mục đích
của nhân dân. Kết quả mọi lợi ích mang lại cho dân chính là thước đo hiệu
quả hoạt động của Đảng. Đây là cơ sở quan trọng để khẳng định: “Đảng Cộng

sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên


24

phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành
lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc”[3,88].
Mối quan hệ giữa Đảng cầm quyền với dân là mối quan hệ mật thiết,
gần gũi, gắn bó chặt chẽ với nhau.
Người nhiều lần nhắc nhở cán bộ, đảng viên, tổ chức Đảng phải gần gũi,
cán bộ không được xa dân. Ngay những ngày đầu khi Đảng mới cầm quyền,
trong thư gửi : “Ủy ban nhân dân các bộ, tỉnh, huyện và làng”, Hờ Chí Minh
phê bình những bệnh cậy thế, hủ hóa, tư túng, chia rẽ, kiêu ngạo.
Người phân tích, cậy thế là cậy mình ở trong ban này, ban nọ rời ngang
tàng phóng túng, ḿn sao làm vậy, coi khinh dư luận, không nghĩ đến dân,
cậy thế với dân. Hủ hóa là ăn tiêu xa xỉ, lấy của chung làm việc tư, quên cả
thanh liêm, đạo đức. Tư túng, Người phê phán thói kéo bè, kéo cánh bà con,
bạn hữu, không có tài năng gì cũng kéo vào chức này chức nọ; người có tài có
đức nhưng khơng tḥc cánh hữu của mình, khơng vừa lịng thì bị đẩy ra
ngồi. Chia rẽ là bênh vực lớp này chớng lại lớp khác, không biết làm cho các
tầng lớp nhân nhượng với nhau, hịa tḥn với nhau…Kiêu ngạo là tưởng
mình ở trong cơ quan của Chính phủ là thần thánh rời, coi khinh nhân dân,
không biết thái độ kiêu ngạo đó sẽ làm mất tin cậy của dân…Vì vậy, Hờ Chí
Minh ln căn dặn cán bợ, đảng viên tu dưỡng mình, bảo vệ mối quan hệ
Đảng - dân. Mối quan hệ này tỷ lệ thuận với sự bền vững của chế độ mới mà
Đảng và nhân dân ta chủ trương xây dựng.
Theo Người, trong mối quan hệ giữa Đảng cầm quyền với nhân dân thì
Đảng vừa là người lãnh đạo, vừa là đầy tớ trung thành của nhân dân.
Vai trò lãnh đạo của Đảng là do dân ủy thác. Đảng lãnh đạo, dân làm chủ.
Và trong Di chúc, tác phẩm cuối cùng của đời mình, khi nói về Đảng, mợt lần

nữa Bác viết: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải
thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công
vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo,


25

là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”. C.Mác và Ph.Ăngghen,
V.I.Lênin đã nhắc đến vị trí của người cán bộ cách mạng trong quan hệ với
dân. Họ là công bộc của dân. Dựa trên quan điểm đó, Hồ Chí Minh đã gắn
trách nhiệm “lãnh đạo” và “đầy tớ” trong tiêu chí hoạt động của Đảng.
Trong mối quan hệ Đảng – nhân dân, nếu Đảng là người lãnh đạo thì nhân
dân là đối tượng lãnh đạo, chịu sự lãnh đạo và trong mọi thời kỳ cách mạng
đều cần có sự lãnh đạo vững vàng của Đảng. Đảng lãnh đạo cách mạng, lãnh
đạo nhân dân là vì nhân dân. Vì nhân dân chính là điểm xuất phát, nội dung,
mục tiêu phấn đấu của Đảng ta. Khi Đảng ta đã trở thành Đảng cầm quyền, Hồ
Chí Minh nhiều lần nhắc nhở cán bộ, đảng viên và các tổ chức đảng phải luôn
luôn nhớ rằng mình là đầy tớ của nhân dân chứ không phải là “quan” nhân dân.
Là người lãnh đạo, Đảng xác định phương hướng mục tiêu, nhiệm vụ, đề ra
đường lối, chủ trương, phương pháp tổ chức thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ đó.
Không chỉ là người lãnh đạo Đảng cịn là “đầy tớ” của nhân dân, Hờ Chí
Minh đã nói các cơ quan của Đảng và Nhà nước là “đầy tớ” của nhân dân,
nhưng cũng có lần Người gọi các cơ quan đó là “công bộc” của nhân dân.
Công bộc cũng là đầy tớ, đầy tớ chung của mọi người, phục vụ chung cho
nhân dân. Trong mối quan hệ Đảng – nhân dân, nhân dân là chủ cũng có
nghĩa Đảng là đầy tớ của nhân dân.
Nhân dân là chủ, Đảng là đầy tớ nghĩa là Đảng phải trung thành và tận
tụy phục vụ nhân dân. Trong vai trò của Đảng đối với dân, cái chung của
người lãnh đạo và của người đầy tớ là vì nhân dân, phục vụ nhân dân. Chính
vì vậy mà Hồ Chí Minh đã đờng nhất vai trị Đảng là người lãnh đạo với

Đảng là người đầy tớ của nhân dân: “Đảng ta là Đảng lãnh đạo, nghĩa là tất cả
các cán bộ, từ trung ương đến khu, đến tỉnh, đến huyện, đến xã, bất kỳ ở cấp
nào và ngành nào - đều phải là người đầy tớ trung thành của nhân dân. Tất cả
cán bợ đều phải mợt lịng mợt dạ phục vụ nhân dân; đều phải hết sức quan


×