Tải bản đầy đủ (.doc) (5 trang)

Chiến tranh Lê - Mạc 6

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (57.64 KB, 5 trang )

Chiến tranh Lê-Mạc
Chiến sự 1592-1593
Chiến trận giáp Tết
Tháng chạp năm Tân Mão (đầu năm dương lịch 1592), Trịnh Tùng khởi
đại quân ra bắc. Quân chia làm 5 đạo:
1. Nguyễn Hữu Liêu và Trịnh Ninh đem 1 vạn quân tinh nhuệ làm
tiên phong
2. Hồng Đình Ái, Trịnh Đồng và voi ngựa cùng 1 vạn quân
3. Trịnh Đỗ và 1 vạn giáp binh, voi, ngựa
4. Trịnh Tùng đích thân đốc suất 2 vạn quân
5. Hà Thọ Lộc và Ngô Cảnh Hựu cùng đốc suất quân chở lương làm
hậu quân.
Ngoài ra, Trịnh Tùng sai Trịnh Văn Hải, Nguyễn Thất Lý đem quân
thuỷ, bộ đi trấn giữ những nơi hiểm yếu ở các cửa biển, Lê Hoà kiêm coi
võ sĩ trong ngoài bốn vệ bảo vệ vua Lê Thế Tông. Quân Nam triều từ
Tây Đô đi ra theo đường tây bắc của huyện Thạch Thành[14], qua phủ
Thiên quan, đi gấp hơn 10 ngày, đến núi Mã n thuộc huyện Quốc Oai
thì đóng qn lại.
Qn Nam triều khí thế mạnh mẽ, trong 10 ngày tiến thẳng đến các
huyện Yên Sơn, Thạch Thất, Phúc Lộc[15], Tân Phong[16].
Ngày 21 tháng chạp, Mạc Mậu Hợp cử hết đại binh, tất cả hơn 10 vạn
người, chia ra các đạo:
1. Mạc Ngọc Liễn đốc suất các tướng sĩ binh mã Tây đạo đi bên phải
2. Nguyễn Quyện đốc suất tướng sĩ binh mã Nam đạo đi bên trái
3. Ngạn quận công, Thuỷ quận công chỉ huy binh mã Đông đạo


4. Đương quận công, Xuyên quận công chỉ huy binh mã Bắc đạo
5. Khuông quận công, Tân quận công chỉ huy binh mã 4 vệ đi tiên
phong[17].
Mạc Mậu Hợp đích thân đốc suất binh mã của chính dinh. Ngày 27


tháng chạp, quân Mạc chia đường cùng tiến. Đến địa phận xã Phấn
Thượng[18], hai bên đối trận với nhau, dàn bày binh mã. Mạc Mậu Hợp
đích thân đốc chiến.
Quân hai bên đón đánh nhau giáp lá cà suốt từ sáng sớm giờ Mão đến
giờ Tỵ gần trưa, quân Nam triều chém được Khuông Định công và Tân
quận công của Bắc triều tại trận. Quân Mạc không địch nổi, tan vỡ bỏ
chạy. Quân Nam triều đuổi đến Giang Cao, chém được hơn 1 vạn quân
Mạc, cướp được rất nhiều khí giới và ngựa. Mạc Mậu Hợp xuống thuyền
vượt sông bỏ chạy về Thăng Long.
Ngày 30 tết âm lịch, Trịnh Tùng tiến quân đến chợ Hoàng Xá, hạ lệnh
cho quân các dinh vượt sông Cù[19] phá huỷ hào luỹ của quân Mạc, san
thành đất bằng. Trịnh Tùng sai Nguyễn Hữu Liêu đem 5000 quân tinh
nhuệ và voi tiến đến đóng ở cầu Cao tại góc tây bắc thành Thăng Long,
thiêu đốt nhà cửa. Mạc Mậu Hợp bỏ kinh thành chạy trốn.
Chiến trận sau Tết
Ngày mồng 5 tết, Trịnh Tùng đốc quân vượt sông, Mạc Mậu Hợp vượt
sông Nhị Hà đến bến Bồ Đề, ở tại Thổ Khối[20], để lại các đại tướng chia
giữ các cửa trong thành.
Ngày mồng 6 tết, Trịnh Tùng đốc qn qua sơng Tơ Lịch đến cầu Nhân
Mục, đóng qn ở núi Xạ Đôi[21] dàn binh bố trận.
Mạc Mậu Hợp sai Mạc Ngọc Liễn đem quân bản đạo cố thủ từ cửa Bảo
Khánh về phía tây đến phường Nhật Chiêu; Bùi Văn Khuê, Trần Bách
Niên đem quân bốn vệ giữ cửa Cầu Dừa, qua cửa Cầu Muống đến thẳng
cửa Cầu Dền, ngày đêm đóng cửa cố thủ trong thành Đại La; Nguyễn
Quyện đem quân giữ từ Mạc Xá trở về đông, ứng cứu quân các đạo.


Mạc Mậu Hợp tự đốc suất thuỷ quân, dàn hơn 100 chiếc thuyền giữ sông
Nhị Hà để làm thanh viện. Nguyễn Quyện đặt quân phục ở ngoài cửa
Cầu Dền để đợi, dàn súng lớn Bách Tử và các thứ hoả khí để phịng bị.

Trịnh Tùng ra lệnh tiến đánh. Hai bên giao chiến từ sáng giờ Tỵ đến giờ
Mùi (qua trưa) chưa phân thắng bại. Sau đó Văn Khuê, Bách Niên tự
liệu sức không chống nổi, quân tự tan vỡ tháo chạy. Mạc Ngọc Liễn thấy
các cánh quân bị thua cũng bỏ chạy theo. Quân Nam triều đuổi tràn đến
tận sơng, phóng lửa đốt cung điện và nhà cửa trong thành.
Sau đó Trịnh Tùng thúc voi ngựa và qn lính đánh phá cửa Cầu Dền.
Quân Mạc tan vỡ, quân mai phục của Nguyễn Quyện chưa kịp nổi dậy,
bị chết hết ở ngoài cửa Cầu Dền. Nguyễn Quyện cùng kế, định chạy
trốn, nhưng khơng cịn đường nào, trong ngồi đều vị vây và cửa luỹ lại
bị lấp. Các con Nguyễn Quyện Bảo Trung, Nghĩa Trạch và thủ hạ cố sức
đánh, đều bị tử trận. Nguyễn Quyện kiệt sức chạy về bản dinh, bị quân
Nam triều bắt sống[22].
Tổng số quân Mạc bị chết vài ngàn người, tướng Mạc bị chết đến mấy
chục viên[23]. Mạc Mậu Hợp thu nhặt tàn quân giữ sông Cái để cố thủ.
Trịnh Tùng đem quân đến bờ sông, dừng lại đóng doanh trại.
Nguyễn Quyện bị bắt, trá hàng Trịnh Tùng, xui Tùng điều quân đi phá
luỹ đất mà quân Bắc triều đã đắp thành Đại La năm trước để làm kế
hoãn binh, kéo dài thời gian cho vua Mạc chuẩn bị lực lượng phịng thủ
bên kia sơng[23]. Trịnh Tùng làm theo, ngày rằm tháng giêng sai quân
Nam triều san luỹ đất, phát hết bụi rậm gai góc, cày lấp hào rãnh.
Tháng 3 âm lịch năm 1592, Trịnh Tùng tiến quân đến huyện Chương
Đức, chia quân đi đánh các huyện Thanh Trì, Thượng Phúc, Phú Xuyên,
tự mình đốc quân đánh dẹp các huyện Từ Liêm, Đan Phượng, Phúc Lộc,
Tiên Phong, Ma Nghĩa, Yên Sơn, Thạch Thất. Sau đó quân Nam triều rút
về Thanh Hóa.


Chiến trận tháng 10
Có sơng Hồng ngăn trở, qn Nam triều chưa qua sông được. Mạc Mậu
Hợp lại không lo phòng giữ, sa vào tửu sắc. Vợ tướng Bùi Văn Kh là

Nguyễn Thị Niên có chị ruột là hồng hậu của Mậu Hợp[24], thường ra
vào trong cung. Mậu Hợp thấy Thị Niên đẹp, liền ngầm mưu dụ giết
Văn Khuê để cướp lấy vợ.
Bùi Văn Khuê biết chuyện, tháng 10 năm đó liền sai con là Bùi Văn
Nguyên chạy đến xin hàng Lê. Trịnh Tùng nghe sai Hồng Đình Ái đi
trước cứu Văn Khuê. Mạc Mậu Hợp biết Văn Khuê đã đầu hàng, lại có
quân đến cứu, liền lui về giữ sông Thiên Phái[25].
Ngày 28 tháng 10, Trịnh Tùng mang quân ra phủ Trường Yên. Mạc Mậu
Hợp sai Nghĩa quốc công ra đóng qn ở sơng Thiên Phái, đắp luỹ đất ở
bờ sông chống cự, thả chông tre hai bên bờ sông. Trịnh Tùng sai Bùi
Văn Khuê ngầm kéo theo thuyền ra cửa sông để đánh ở thượng lưu, sai
bắn súng ở ven sông để đánh ở hạ lưu; sai voi ngựa, qn lính qua sơng
đánh mạnh vào trung lưu để thu lấy thuyền quân Mạc trên sông.
Nghĩa quốc công trở tay khơng kịp, bỏ thuyền chạy trốn, qn lính tan
vỡ tháo chạy. Quân Nam triều thu được 70 chiếc thuyền. Nghĩa quốc
công thu nhặt tàn quân trở về Thăng Long. Tướng Mạc là Trần Bách
Niên đem quân tới hàng Lê.
Đoạn kết của Bắc triều
Ngày 14 tháng 11, quân Nam triều ra cửa sông Hát tiến theo cả hai
đường thuỷ, bộ. Tướng Mạc là Mạc Ngọc Liễn dàn thuyền để chống cự,
cắm cọc gỗ ở cửa sông Hát, đắp luỹ đất trên bờ sông làm thế hiểm vững.
Quân Nam triều tiến đánh phá tan, Ngọc Liễn cùng quân lính bỏ thuyền
lên bộ chạy đến chân núi Tam Đảo. Quân Nam triều đuổi đến tận cửa
Nam thành Thăng Long, đóng quân ở bến Sa Thảo[26].


Đêm 14 tháng 11, Mạc Mậu Hợp cùng tông tộc trốn chạy về huyện Kim
Thành, trấn Hải Dương. Các tướng Mạc nhiều người đến hàng Nam
triều.
Ngày 25 tháng 11, Trịnh Tùng tiến quân đến Hải Dương. Mạc Mậu Hợp

bỏ thành chạy trốn, các cánh quân không tiếp ứng được nhau, bỏ hết
thuyền bè chạy trốn.
Mạc Mậu Hợp lập con là Mạc Tồn làm vua, tự mình làm tướng đốc
qn.
Tháng chạp năm Nhâm Thìn (đầu năm 1593 dương lịch), Trịnh Tùng
chia qn phá được tơng thất nhà Mạc là Mạc Kính Chỉ ở xã Tân Mỹ,
huyện Thanh Hà (Hải Dương).
Các cánh quân Mạc bị thua lớn, tan rã. Mạc Mậu Hợp bỏ thuyền đi bộ,
đến một ngôi chùa ở huyện Phượng Nhãn ẩn nấp, giả làm sư. Được 11
ngày, quân Nam triều truy kích đến nơi, có người trong thơn dẫn đường
đưa vào chùa bắt được Mạc Mậu Hợp. Mậu Hợp bị đưa về dinh quân
Trịnh Tùng, hành hình ở bến Bồ Đề.
Khơng lâu sau Vũ An Đế Mạc Tồn cũng bị quân Nam triều bắt và giết
chết. Kể từ đó Bắc triều chấm dứt.



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×