Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

các nhân tố tác động đến quan hệ Nga – Eu sau chiến tranh lạnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (152.35 KB, 13 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Năm trên vùng đất chiến lược của thế giới lại là hai thực thể lớn nhất
Châu Âu, mối quan hệ hợp tác Nga – EU luôn có ý nghĩa quan trọng đối với
sự ổn định của cả châu lục và thế giới. Tuy nhiên, quan hệ hai bên chưa bao
giờ ổn định mà luôn có những lúc thăng lúc trầm. “Quan hệ đối tác với Nga
là quan trọng nhất, cấp thiết nhất và là thách thức nặng nề nhất đối với Liên
minh Châu Âu”
1
.
Quan hệ Nga – EU trong thập kỷ 90 của thế kỷ XX tương đối nồng ấm.
Điều này xuất phát từ tình hình nước Nga lúc bấy giờ: Tình trạng khủng
hoảng và suy thoái kéo dài, chính trị nội bộ rối ren, vị thế quốc tế suy giảm
khiến nước Nga ở vào thế yếu, phải nhượng bộ phương Tây trong mọi lĩnh
vực từ an ninh, quân sự đến các vấn đề kinh tế. Ngày 31/12/1999, V. Putin
lên thay B. Yeltsin trở thành tổng thống Liên Bang Nga. Từ bỏ chính sách
phiến diện nghiêng về Phương Tây của người tiền nhiệm để theo đuổi đường
lối ngoại giao độc lập mang tính thực dụng vì lợi ích quốc gia, nước Nga
dưới sự lãnh đạo của vị Tổng thống mới đã bắt đầu khôi phục hình ảnh và vị
thế cũng như bắt đầu có lập trường của riêng mình đối với nhiều vấn đề
trong quan hệ vơi EU. Quan hệ Nga – EU thiết lập từ tháng 12/1991 và được
định hình theo khuôn khổ đối tác chiến lược bằng “Hiệp định đối tác và hợp
tác” ký kết năm 1994, chính thức có hiệu lực từ tháng 12 năm 1997. Vậy có
những nhân tố nào tác động đến quan hệ giữa hai thực thể này ? và trong
mối quan hệ này ảnh hưởng của nhân tố Mỹ như thế nào?. Bài tiểu luận sẽ
đi vào phân tích các nhân tố tác động đến quan hệ Nga – Eu sau chiến tranh
lạnh, đê làm sáng tỏ những bất đồng trong quan hệ giữa hai thực thể lớn nhất
của Châu Âu.
1
Phát biểu của Javier Solana – Đại diện cao cấp về chính sách đối ngoại và an ninh chung của Liên
minh châu Âu. Xem: Union europeenne – Russia: quelles relation?, />307/r06-3070.html, truy cập ngày 8-4-2010
I. khái quát chung quan hệ Nga - EU


1. Bối cảnh quốc tế
Sau hơn bốn thập kỷ đối đầu căng thẳng, Chiến tranh lạnh đã kết thúc
cùng với sự sụp đổ của Liên bang Xô Viết, dẫn đến những thay đổi sâu sắc
trong quan hệ quốc tế. Ý thức hệ không còn là nhân tố hàng đầu trong tập
hợp lực lượng, thay vào đó, lợi ích quốc gia trở thành nhân tố chủ đạo trong
hoạch định chính sách của các nước. Vì vậy nên hầu hết tất cả các nước dù
lớn hay nhỏ, trong đó có Liên bang Nga, đều thay đổi chiến lược đối ngoại
của mình sao cho phù hợp với sự thay đối về so sánh lực lượng và thực trạng
an ninh thế giới, nhằm giành được cơ hội thuận lợi để phát triển đất nước và
xác lập một vị trí có lợi nhất trong trật tự thế giới mới đang hình thành.
Những năm đầu thập niên 90 của thế kỷ XX, cục diện của thế giới là nhất
siêu đa cường, trong đó các cực, các trung tâm hoạt động hài hòa, phối hợp
chặt chẽ với nhau chứ không triệt tiêu nhau, tuy có mâu thuẫn nhưng xu
hướng hợp tác vẫn là chủ yếu, kiềm chế và đấu tranh song không đi đến quan
hệ đổ vỡ.
Bên cạnh đó, sau Chiến tranh lạnh, những nguy cơ an ninh phi truyền
thống như an ninh kinh tế, an ninh con người, an ninh sinh thái – môi
trường…với những đặc điểm là khả năng xuyên quốc gia, tính vô chính phủ
và khả năng chuyển hóa và vận động mau lẹ đã trở thành mối quan tâm đặc
biệt của cộng đồng quốc tế. Sau Chiến tranh lạnh, phát triển kinh tế trở thành
ưu tiên hàng đầu trong chiến lược của các quốc gia, đặc biệt là các nước lớn.
Dưới sự tác động của quá trình toàn cầu hóa và cuộc cách mạng khoa học
công nghệ, sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia không chỉ tăng trong lĩnh
vực kinh tế mà cả về an ninh chính trị. Như vậy sự sụp đổ của trật tự thế giới
đối đầu hai cực đã góp phần tích cực làm cho xu thế hòa bình, ổn định và hợp
tác để phát triển trở thành xu thế lớn của thế giới.
2. Tình hình châu Âu, EU và Nga sau Chiến tranh lạnh
2.1 Bối cảnh Châu Âu sau chiến tranh lạnh
Lịch sử thể kỷ XX đã chứng kiến châu Âu trở thành nơi tranh chấp
ảnh hưởng một cách quyết liệt giữa hai siêu cường hàng đầu thế giới. Chiến

tranh lạnh kết thúc, môi trường an ninh, chính trị của Châu Âu đã có những
thay đổi căn bản. Sự đối đầu của haai siêu cường Mỹ là Liên Xô với hai khối
quân sự NATO – Vacsava không còn, do đó nguy cơ châu Âu bị biến thành
chiến trường tranh chấp ảnh hưởng đã được đẩy lùi. Tuy nhiên, an ninh châu
Âu lại rơi vào tình trạng không ổn định mới. Liên Xô tan rã dẫn đến sự ra đời
của một loạt các chủ thể với tư cách là các quốc gia châu Âu, đồng thời dẫn
đến sự phân hóa nội bộ sâu sắc trong các tầng lớp xã hội Nga cũng như các
nước Đông Âu. Những nhân tố này đang đe dọa nghiêm trọng đến sự ổn định
của Châu Âu. Nguy cơ tiềm tàng của chiến tranh quy mô lớn đến từ một phía
trước đây đã bị thay thế bởi sự “uy hiếp” và “thách thức” đến từ nhiều phía
2
.
Trong bối cảnh đó, hợp tác Nga – EU không chỉ nhằm củng cố an ninh của cả
hai bên, thúc đẩy hợp tác kinh tế, giải quyết các vấn đề buôn lậu và các vấn
đề biên giới lãnh thổ nhằm đảm bảo một châu Âu an ninh, ổn định mà còn
nhằm hạn chế ảnh hưởng của Mỹ ở Châu Âu, phát huy cai trò của Nga cũng
như EU trong nền an ninh châu lục.
2.2 EU thập niên đầu của thời kỳ sau Chiến tranh lạnh
Ngày 7/2/1992 Hiệp ước Mastricht được ký kết là một bước ngoặt lớn
ở Tây Âu, nó đánh dấu sự thành lập chính thức của Liên minh châu Âu (EU).
Ra đời trong hoàn cảnh lịch sử mới sau Chiến tranh lạnh kết thúc, EU có
nhiều thuận lợi nhưng cũng gặp không ít những khó khăn.
Thuận lợi: Hiệp ước Mastricht thể hiện chính sách thích ngi mới của
Cộng đồng châu Âu khi quyết định đặt vấn đề nhất thể hóa châu Âu làm mục
tiêu nền tảng cho sự phát triển trong kỷ nguyên mới, nhằm tạo dựng một liên
2
Vương Dạt Châu, An ninh quốc tế trong thời đại toàn cầu hóa, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội -
2004
minh ngày càng chặt chẽ giữa nhân dân các nước châu Âu. Việc thống nhất
thị trường của các nước thành viên EU với các nước thành viên EU với các

nước trong hiệp hội mậu dịch tự do châu Âu trong một “không gian kinh tế
châu Âu” cũng như sự nhất trí của các nước thành viên EU trao quyền đại
diện cho Ủy ban Châu Âu trong WTO đã tạo nên một sức mạnh lớn chi phối
các vấn đề kinh tế, thương mại quốc tế. Nhìn chung, thập niên đầu tiên của
thời kỳ hậu Chiến tranh lạnh, EU đã xây dựng được những cơ sở làm tiền tệ
cho quá trình nhất thể hóa của mình.
Khó khăn: Về kinh tế, do có sự khác biệt về lợi ích giữa các nước
thành viên trong nhiều vấn đề khác nhau nên vẫn còn tồn tại nhiều bất đồng
liên quan đến liên quan đến tiến trình nhất thể hóa. Về chính trị, các nước EU
mặc dù đều là những nền kinh tế phát triển nhưng bị phụ thuộc gần như toàn
vào nguồn năng lượng từ bên ngoài. Về mặt xã hội, dân số già kéo theo sự
suy giảm sức sản xuất và gắng nặng về phúc lợi xã hội cũng như tỷ lệ thất
nghiệp cao, chênh lệch khoảng cách giàu nghèo lớn, những nguyên nhân tiềm
tang gây bất ổn xã hội đang lo lắng của chính phủ các nước EU. Việc kết nạp
thành viên mới, biên giới EU được mở rộng nhưng đồng thời cũng đẩy EU
tiếp giáp với nhiều khu vực bất ổn định. Vấn đề xung đột sắc tộc, tôn giáo và
các làn song ly khai cực đoan khiến tình hình ở những khu vực này trở nên
bất ổn hơn bai giờ hết, đe dọa trực tiếp đến an ninh của Châu Âu, trong đó có
EU.
2.3 Tình hình nước Nga mười năm đầu sau sự sụp đổ của Liên bang Xô
Viết
Cuối năm 1991, sau khi Liên bang Xô Viết với tư cách là một siêu
cường tan rã, nước Nga
3
lại xuất hiện với tư cách là một quốc gia độc lập.
Liên bang Nga bước ra vũ đài quốc tế sau “Chiến tranh lạnh”, với quy chế
đặc biệt: “quốc gia kế tục Liên Xô”.
3
Trong quá khứ, Nga chưa bao giờ ngừng mở rộng lãnh thổ, Nhưng sau sự tan rã của Liên bang Xô
Viết, nga đã gần như quay trở lại mốc biên giới vào năm 1683, trước triều đại của Pie Đại Đế

Về kinh tế, thừa hưởng tiềm lực kinh tế của Liên Xô, nước Nga phải
gánh chịu những hậu quả nặng nề của cuộc khủng hoảng kinh tế trầm trọng
và kéo dài suốt từ khi Liên Xô tan rã cũng như các món nợ nước ngoài rất lớn
của Liên Xô. Tính đến năm 1992, khoản nợ mà Nga kế thừa từ Liên Xô là
103 tỷ USD, trong đó nợ đến hạn phải trả ngay trong năm 1992 là 6 tỷ USD
4
.
Thập niên đầu sau Chiến tranh lạnh, tăng trưởng GDP của Nga liên tục âm.
Suy thoái kinh tế kéo dài khiến nước Nga “tuột dốc” khi đồng rúp mất giá,
đến mức phải tuyên bố không nợ nước ngoài.
Về chính trị - xã hội, chính trường Nga những năm 1990 trở nên bất ổn
định với những cuộc tranh giành quyền lực gay gắt. Đó là sự đối đầu giữa các
phe nhóm, đảng phái với những mối quan tâm khác nhau. Tập trung và biểu
hiện sâu sắc nhất cho những mâu thuẫn đó là cuộc đấu tranh giữa một bên
phe của Tổng thống Yltsin và một bên là phe của Chủ tịch Xô Viết tối cao
Khabulatov để thiết lập chế độ Cộng hòa Tổng thống hay Cộng hòa Nghị
viện (9/1993)
5
, dẫn đến việc Tổng thống dùng biện pháp bạo lực để giải tán
Đuma. Những mâu thuẫn trong hệ thống chính trị Nga trở thành một rào cản
lớn đối với chính phủ Nga trong hoạch định và thực hiện đường lối, chính
sách phát triển kinh tế.
Với tình hình trên Nga đang phải đứng trước những khó khăn, thách
thức lớn để xác lập vị thế cường quốc xứng đáng với tiềm lực, lịch sử và
truyền thống của mình. Như vậy, Sauk hi Liên bang Xô Viết tan rã vị thế của
nước Nga bị giảm sút đáng kể. Khủng hoảng trầm trọng cùng với thực tế bất
lợi sau trật tự thế giới hai cực tan rã tạo ra nhiều khó khăn, thách thức không
nhỏ cho nước Nga trong con đường xác lập vị thế cường quốc khu vực cũng
như vị thế cường quốc thế giới.
II. Nhân tố năng lượng trong quan hệ Nga – EU

4
Hà Mỹ Hương, Nước Nga trên trường quốc tế hôm qua, hôm nay và ngày mai, NXB chính trị quốc
gia, Hà Nội – 2007, trg. 72 – 73.
5
Nguyễn Thị Huyền Sâm, “Kinh tế LB Nga thời kỳ cầm quyền của Tổng thống Boris Yltsin: Thực
trạng và nguyên nhân”, Tạp chí nghiên cứu Châu âu, số 1, 2005, trg.39

×