Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Québec : Từ kẻ bại trận vùng lên đòi tự trị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (157.94 KB, 10 trang )

Québec : Từ kẻ bại trận vùng lên đòi tự trị
Québec nguyên thủy là vùng đất của người da đỏ (Amérindien) và người Inuit.
Năm 1535, nhà thám hiểm đầu tiên đến Québec là Jacques Cartier, người Pháp.
Sau đó, vào năm 1608, dưới thời vua Louis 12, Samuel de Champlain đến chiếm,
thành lập nên thuộc địa cho Đế quốc Pháp, đặt tên là Nouvelle-France. Đến năm
1663, vua Louis 14 cử Quan quản lý (intenant) Jean Talon đến để cùng với Thống
đốc đẩy mạnh phát triển và biến Québec thành 1 tỉnh của nước Pháp. Năm 1763,
Pháp và Anh đánh nhau tranh giành thuộc địa. Pháp thua trận nên vua Louis 15
phải nhường Nouvelle-France cho Đế quốc Anh. Phần đất từ đó chính thức mang
tên “Qbec” cho đến ngày hơm nay.

Samuel de Champlain đến Québec năm1608

Sau khi chiếm lấy Québec, Đế quốc Anh muốn đồng hóa những kiều dân Pháp
theo đạo Thiên Chúa Giáo và loại trừ chính quyền cũ nên đã lập ra bản tuyên ngôn
với những điều kiện phân biệt đối xử như: Đòi phải tuyên thệ trước khi muốn trở
thành công nhân viên nhà nước, gạt bỏ những thần dân Pháp ra khỏi vị trí trọng
trách trong chính quyền, không được quyền làm ban bồi thẩm, ủng hộ việc lập
trường học dòng đạo Tin Lành, tăng cường di dân người Anh vì 95 % dân số là
người Pháp.

Năm 1774, tại Québec chỉ có 2000 người Anh, nhưng có tới 90000 người Pháp.
Để tránh những cuộc nổi dậy của người Pháp và cũng để tránh người Pháp bị cám
dỗ kết thân với quân phản nghịch Mỹ ngày càng mạnh ra. Đế quốc Anh đã phải
đồng ý 1 Đạo luật Québec, trả lại luật lệ Pháp, đất đai, tài sản, bảo đảm quyền tự
do theo tôn giáo của họ, bãi bỏ việc tuyên thệ khai trừ đạo Thiên Chúa Giáo của
các nghị sĩ, quan tịa và viên chức chính quyền, Cơng nhận ngôn ngữ văn học


Pháp và mở rộng lãnh thổ Québec. Đây là định mệnh và là một thành quả vô cùng
quan trọng mà người Pháp đã giành được kể từ khi bị cai trị. Nó là bàn đạp để sau


này tiến đến đấu tranh giành lại chủ quyền.

Năm 1783, khi Đế quốc Anh bại trận trong chiến tranh dành độc lập của Mỹ. Có
khoảng 50 000 dân trung thành rút về Canada, phần lớn định cư vùng gần Lake
Ontario, trong số đó có khoảng 7000 dân Anh đến tỵ nạn ở Québec, tại Sherbrooke,
Drummondville, và Lennoxville. Những người Anh thiểu số này cảm thấy khó
chịu trước ưu thế đa số của người Pháp nên đã làm áp lực với chính quyền Anh,
tìm cách làm giảm bớt những ưu đãi đã nhường lại cho người Pháp bởi Đạo luật
Québec ban hành trước đó.

Thành phố Québec

Năm 1791, để làm vui lòng những người trung thành, chính quyền Anh đã
thơng qua một Đạo luật Lập hiến, chia Canada thành 2 thực thể chính trị: Hạ
Canada (Pháp) và Thượng Canada (Anh). Hiến pháp này dẫn vào 1 số yếu tố của
nền dân chủ sơ khai trong chính trị của Canada.

Vào mùa hè năm 1792, lần đầu tiên tổ chức tuyển cử nhưng chỉ dành cho người
làm chủ, trên 21 tuổi, có lên hệ với Anh, bầu bằng cách phát biểu trước quần
chúng chứ không viết giấy bỏ vơ thùng phiếu kín như hiện nay, chọn ra được 50
nghị viên, gồm 34 Pháp và 16 Anh. Trong thời gian đó, quốc hội trên thực tế
khơng có quyền lực, bởi vì Thống Đốc do vua Anh chỉ định, Thống Đốc tự quyết
định chọn 9 người Pháp và 9 người Anh vào cơ quan lập pháp, 4 người Pháp và 5
người Anh vào cơ quan hành pháp. Ngoài ra Thống đốc có quyền phủ quyết mọi
quyết định của quốc hội và cũng có quyền giải tán quốc hội. Mọi đề án luật đều
phải đưa lên cho cơ quan lập pháp xem xét, nếu được chấp thuận mới được trình


lên Thống đốc phê chuẩn. Ngôn ngữ dùng trong quốc hội cũng là 1 đề tài tranh cãi
rất gây gắt. Chính vì những bất cơng đó, vào năm 1834 đảng Patriote (Người yêu

nước) ra đời, lãnh tụ đảng Patriote là Louis-Joseph Papineau đã gởi 1 văn kiện
gồm 92 nghị quyết nói lên những bất mãn tích tụ của người Canada gốc Pháp cho
Luân Đôn. Mãi đến năm 1837 (4 năm sau) Luân Đôn chỉ đáp lại bằng 10 nghị
quyết của Russell, khơng những từ chối mà cịn chứa đựng 1 sự tăng cường quyền
lực. Thống đốc giải tán quốc hội. Trước tình thế như thế, đảng Patriote triệu tập
hội nghị quần chúng và yêu cầu tẩy chay sản phẩm của Anh. Phong trào đấu tranh
được thành hình. Vào năm 1837, lãnh tụ của đảng Cải Cách lợi dụng nhóm nỗi
loạn của đảng Patriote để lật đổ chính phủ của đảng Bảo Thủ, nhưng lực lượng vũ
trang của đảng Patriote bị quân đội Anh dẹp tan 1 cách nhanh chóng. 750 đảng
viên bị bỏ tù, 12 người bị treo cổ và hơn 60 người bị đày đi Úc. Năm 1838, Thống
đốc của tất cả thuộc địa ở Bắc Mỹ, ông Durham đến Québec để điều tra tình thế
của thuộc địa. Đầu năm 1839, Ông trở về Anh đề nghị sữa đổi Đạo luật Lập hiến,
vì chính đạo luật này đã khêu gợi ra những xung đột chính trị giữa các nghị viên
được dân bầu với cố vấn do Thống đốc chỉ định. Một bên muốn được thêm quyền
hạn và một bên muốn bảo vệ quyền lực. Hơn nữa, 2 bên Anh và Pháp có nhiều cá
tính khác nhau và thù ghét nhau nên thường xảy ra xung đột dân tộc.

Năm 1840, dựa trên bản báo cáo của Tổng thống đốc Durham, chính quyền Anh
đã thơng qua một Đạo luật Liên minh để ghép 2 Canada Thượng và Hạ vào 1, Mỗi
bên đều có 42 nghị sĩ và phải vơ chung 1 nghị viện, mặc dù dân số của bên
Thượng Canada (Anh) ít hơn bên Hạ (Pháp), bên Thượng (phía tây) có 450 ngàn
dân; bên Hạ (phía đơng) có 650 ngàn dân. Tiếng Anh là ngơn ngữ chính thức trong
các cuộc hội thảo, Thống đốc vẫn được quyền chỉ định những cố vấn lập pháp và
hành pháp. Do đó, nghị sĩ gốc Pháp trở thành thiểu số và bị đồng hóa trở lại.
Xem thêm::

Điêu khắc: Từ hiện đại tới...


Vạn Lý Trường Thành - Vạn điều...

Tài liệu mật WikiLeaks
Áo tắm thời xưa
Thổ Nhĩ Kỳ - Lịch sử, Văn hóa và...

Trả Lời Với Trích Dẫn Trả Lời Với Trích Dẫn
Like
Tặng Vàng
25-03-2010 11:22 AM #2
MAGICWOMAN
NGƯỜI ĐI TÌM MỘNG MAGICWOMAN's Avatar

Tham gia ngày
Aug 2005
Vị trí
Little SaiGon - California
Bài gởi
13,000
Tài sản (Vàng)
92,239
Say 'Thank You!' for this post. :
0 For This Post
546 tổng số
Cảm Ơn
336
Được Cảm Ơn 618 lần trong 476 Bài Viết
Vàng (TOP! 6)
92,239 Received 3 thank(s)


Nhà thờ Notre Damme


Lúc bầu cử năm 1841, lãnh tụ của nhóm gốc Pháp tại nghị viện, ơng LouisHippolyte Lafontain đã liên minh với lãnh tụ của đảng Cải Cách gốc Anh. Nhờ đó
đảng liên minh thắng cử.

Năm 1848, Thống đốc Lord Elgin thừa nhận thực tế một chính phủ có trách
nhiệm do 2 đảng thành hình. Lafontain đọc diễn văn bằng tiếng Pháp tại nghị viện.,
tiếng Pháp được thừa nhận, nhiều tù nhân phản nghịch được ân xá và đền bù tiền.
Nhờ đó vị trí của người Pháp được đảm bảo, đặc quyền chính trị và văn hóa được
bảo tồn. Đây cũng là bước tiến quan trọng cho số phận tương lai của người Pháp.

Vào năm 1851, khi bộ kiểm tra dân số nêu lên rằng dân số của vùng thượng
(952 ngàn) bây giờ nhiều hơn vùng hạ (890 ngàn) thì đảng Clear Grits, theo chủ
nghĩa cải lương, yêu cầu áp dụng “Rep by Pop” (viết tắc của chữ Representation
by population), tức là đại diện theo tỷ lệ dân số của 2 vùng. Cách này có lợi cho
dân gốc Anh.

Năm 1864, tình hình chính trị rất nguy cập. Trong 2 năm, 5 chính phủ nối tiếp
nhau khơng đạt được đa số ủng hộ, làm tê liệt chính quyền Canada. Về chính trị
thì dân số người gốc Pháp ngày càng tăng nhanh và khơng bị đồng hóa, hệ thống
chính trị chỉ đẻ ra chính quyền thiểu số, hoạt động khó khăn do liên minh, không
thỏa mãn cho cả người Anh lẫn người Pháp. Về mặt kinh tế thì chậm phát triển
những ngành cơng nghiệp chủ yếu, do bởi chính sách thực dân của Hồng gia Anh,
dân số khơng đủ đơng để giúp đẩy mạnh hiệu quả kinh tế trong bối cảnh Bắc Mỹ.
Chính vì thế ý tưởng tách Canada ra thành 2 tỉnh: Ontario (Anh) và Québec (Pháp)
rồi kết hợp 2 tỉnh đó với 2 thuộc địa khác là Nouveau-Brunswick và NouvelleÉcosse để thành lập ra Liên bang Canada.


Đây là sự ra đời của nước Canada mới bởi Đạo luật Amerique du Nord
britanique được cơng bố chính thức tại Ottawa ngày 1 tháng 7 năm 1867.


Chính phủ Liên bang làm luật trong phạm vi đối ngoại, trong khi đó chính phủ
tỉnh bang quản lý việc địa phương. Mỗi chính phủ được quyền tự trị trong lĩnh vực
của mình. Cả 2 bên gốc Anh và gốc Pháp đều thỏa mãn vì:

-Người Anh có được đa số trong những tỉnh bang của họ.

-Người Pháp cũng có được đa số trong tỉnh bang của mình với những quyền hạn
cần thiết để bảo vệ ngơn ngữ và văn hóa của mình.

-Nước Canada mới tạo ra 1 môi trường kinh tế lớn nhất, nơi mà tất cả có thể
phát triển.

Manitoba gia nhập vào Canada năm 1870, British Columbia năm 1871,
Saskatchewan và Alberta năm 1905.

Vào cuộc bầu cử năm 1867 ở Québec, giới giáo sĩ thiên chúa giáo xúi giục quần
chúng chấp nhận hiến pháp mới. Nhóm Bảo thủ đại diện cho tầng lớp thợ, công
nhân, thắng 45 trong 65 ghế trong Hôi đồng Lập pháp.

Sau năm 1867, mặc dù làm chủ về tài chính, thương mại và chính trị đối nội
nhưng Canada cũng chưa có chủ quyền vì quyền lực cịn nằm trong tay Nữ Hồng
Anh.

Thể chế chính trị của Canada năm 1867:


Nữ Hoàng Anh --> Thống đốc --> Thượng viện
Dân chúng --> Hạ viện --> Nội các--> Thủ tướng

*Ngày nay, Thủ tướng thay quyền Nữ Hoàng, chỉ định Thống đốc và Thượng

viện.

Thể chế chính trị của Qbec năm 1867:

Nữ Hồng Anh --> Thống đốc tỉnh --> Cố vấn lập pháp
Dân chúng --> Hội đồng lập pháp --> Nội các --> Thủ hiến

*Ngày nay, Thủ hiến cùng với Thủ Tướng chỉ định Thống đốc tỉnh. Từ năm
1968, Cố vấn lập pháp được hủy bỏ và Hội đồng lập pháp đổi thành Quốc hội.

Từ năm 1879 đến năm 1896, nhờ vào chính sách đẩy mạnh kinh tế của chính
phủ liên bang như thiết lập mức thuế nhập cảng nhầm nâng đỡ công nghiệp, nối
dài đường xe lửa xuống phía tây, ủng hộ di dân đến mở mang phía tây, năng suất
nơng nghiệp tăng nhanh, nhiều ngành công nghiệp phát triển tại thành phố lớn
Montréal. Từ đó xuất hiện ra giai cấp tư sản cơng nghiệp và ngân hàng, phong trào
cơng đồn phát triển mạnh. Tuy nhiên, về mặt chính trị, xảy ra nhiều bất đồng giữa
2 chính phủ Liên bang và Tỉnh bang. Năm 1887, Honoré Mercier, Thủ hiến của
Québec (từ 1887 đến 1891) đã tổ chức 1 buổi gặp mặt của 5 Thủ hiến, yêu cầu liên
bang tăng tiền viện trợ và đề nghị khơng can dự vào phạm vi tịa án của tỉnh bang.

Thành phố Montréal


Từ năm 1896 đến năm 1918, Québec bắt đầu phát triển những tài nguyên thiên
nhiên phong phú của mình. Để có thể phát triển những cơng nghiệp lớn như thủy
điện, bột giấy, nhơm, hố chất, chính phủ Qbec phải ưu đãi những nhà đầu tư
nước ngoài, phần lớn là người Anh và người Mỹ. Trong giai đoạn nầy, có rất
nhiều dân di tản từ nông thôn vào thành phố, nhiều di dân đến từ Anh, Ý, Hy Lạp,
và Ba Lan. Năm 1896, Ông Wilfrid Laurier, là người Pháp đầu tiên đắc cử Thủ
tướng Canada.


Năm 1900, Canada vẫn còn là thuộc địa của Anh, mặc dù hưởng quyền tự trị rất
lớn trong chính trị đối nội, lệ thuộc Anh trên phương diện đối ngoại. Nhưng sự
tham gia của Canada trong chiến tranh Anh có hệ quả thúc đẩy bước tiến đến tự trị.
Bởi vì tính ưu thế qn sự của nước Anh đang bị 2 sức mạnh mới của Đức và Mỹ
hăm dọa. nên chính phủ Anh cần đến sự giúp đỡ của các thuộc địa. Tuy nhiên,
phần lớn người Canada gốc Anh bị chia rẽ về tính trung thành với Đế quốc Anh.
Người gốc Pháp không muốn gởi quân đôi tham chiến với Anh.

Từ năm 1919 đến năm 1928, Nước Anh bận tái kiến thiết đất nước nên khơng
cịn tài trợ cho Québec. Thay vào đó, Mỹ đã cung cấp những tư bản cần thiết cho
việc cơng nghiệp hóa của Québec. Do ảnh hưởng của sự suy thoái kinh tế sau
chiến tranh, 130 000 người Québec đã di cư qua Mỹ để tìm việc làm. Trong giai
đoạn này đã xảy ra nhiều xung đột giữa 2 hệ tư tưởng của đảng Tự do cầm quyền,
chủ trương phát triển công nghiệp, với đảng đối lập, chủ nghĩa dân tộc, chủ trương
phát triển nơng nghiệp là chính, coi trọng gia đình và tôn giáo.

Từ năm 1929 đến năm 1945, Québec cũng như tất cả các tỉnh bang khác đều bị
ảnh hưởng nặng nề do cuộc đại suy thoái lớn nhất (1929-1933) bùng nổ ra tại Mỹ,
tỷ lệ thất nghiệp tăng từ 3% đến 25%. Lương giảm 40%.


Năm 1931, Canada độc lập với Đế quốc Anh, làm chủ chính sách đối ngoại và
tự trang bị quân đội, chọn quốc kỳ (1964), quốc ca(1980) cho chính mình.

Năm 1939, Thủ tướng Mackenzie King gởi quận đội đi giúp các nước đồng
minh với trách nhiệm giới hạn trong việc tiếp ứng thực phẩm và dụng cụ. những
người gốc Anh được ưu tiên trong chiến tranh ở Âu châu. những người gốc Pháp
thì khơng bị gọi tịng qn. Thế nhưng, năm 1942, trước nhu cầu tăng quân số,
Mackenzie King phải thông qua 1 cuộc bỏ phiếu toàn dân, xin quyền động viên cả

người Canada gốc Pháp. Mặc dù 71% người Québec từ chối nhưng khơng được
chấp thuận, vì nó là thiểu số trong tỷ lệ 80% đồng ý của các tỉnh bang khác. 600
000 lính Canada đã được gởi đi tham dự Đệ nhị thế chiến, 42 000 chết và 53 000
bị thương.

Từ năm 1945 đến 1960, thời kỳ này được đánh dấu bởi sự ngự trị lâu dài của
Thủ hiến Maurice Duplessis. Đây là thời kỳ thịnh vượng cho Québec, lương bổng
được tăng nhanh, điều kiện làm việc được cải thiện, Người Québec theo cách sống
của người Mỹ (l’American Way of Life), tăng thêm xe hơi, tủ lạnh, radio, tv, điện
thoại. Duplessis ý thức được rằng sự phát triển kinh tế Québec phải được hướng
theo trục sản phẩm công nghiệp và khai thác tài nguyên thiên nhiên., ông muốn
kéo Québec trở nên giàu có về cơng nghiệp và tài chánh như Mỹ. Ơng là 1 chính
trị gia gây nhiều tranh luận trong lịch sử của Québec. Năm 1948, Chính phủ
Maurice Duplessis thừa nhận lá cờ Québec, được gọi là “le Fleurdelisé).

Lá cờ của Québec

Québec hiện nay là 1 tỉnh bang của Canada, có dân số hơn 7 triệu 750 ngàn
(2008), là tỉnh bang đơng dân đứng hàng thứ nhì trong Canada, đứng hàng thứ
nhất về diện tích. Trên 80% dân số ở Québec (khoảng 6 triệu) có gốc Pháp và


tiếng Pháp là tiếng mẹ đẻ. Tuy nhiên, tại những thành phố lớn, hầu hết mọi người
đều có thể nói và hiểu tiếng Anh. Hàng năm, Québec thâu nhận khoảng 25 ngàn di
dân, 10% của tổng số di dân đến Canada. Do bởi lịch sử và văn hóa đặc thù của nó,
Québec chịu ảnh hưởng của cả 2 nguồn văn hóa Âu châu và Bắc Mỹ, người ta có
thể tìm thấy 2 di sản của đạo Thiên Chúa Giáo và đạo Tin Lành ở mọi nơi trong
Québec, đặc biệt là ở trong kiến trúc và nghệ thuật của nó. Vấn đề về vị trí của
Québec trong liên bang Canada vẫn cịn ngun đó. Nó ám ảnh người Canada
trong những năm kế tiếp.


***

Lịch sử của Québec quả thật rất thú vị. Nó được lấy làm tham khảo cho 2 dân
tộc, 2 quốc gia hoặc 2 phái khác chính kiến muốn sống chung với nhau.

Người Canda gốc Anh, là kẻ chiến thắng, đã biết nhường bộ, tơn trọng vị trí của
người gốc Pháp, để chuộc nào 1 phần lỗi lầm của mình trong việc cai trị và đối xử
không phải đối với người gốc Pháp trước đó.

Người Canada gốc Pháp, là kẻ bại trận, đã biết đoàn kết để tạo ra sức mạnh
chống lại sự ức hiếp của người gốc Anh. Họ không cố chấp, họ cũng thừa hiểu
rằng việc liên kết với nhau sẽ có lợi cho đơi bên. Do đó, họ đã bỏ phiếu từ chối
tách riêng ra khỏi khối Canada.

Là 1 người di dân đến sau, nhập gia tùy tục, tơn trọng tính dân chủ, văn hóa, tơn
giáo của người đến trước, tiếp thu quyền tự do cá nhân, bình đẳng nam nữ, phát
huy văn hóa của mình hịa chung với xã hội đa văn hố. Đó là điều mà mọi ngươi
di dân mong muốn .

theo vietsciences.free.fr



×