Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

Phân tích sự kế thừa và phát triển của quy định nghĩa vụ cơ bản của công dân trong các bản Hiến pháp nước ta

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (159.48 KB, 11 trang )

Phân tích sự kế thừa và phát triển của quy định nghĩa vụ cơ bản của công dân trong các bản Hiến pháp nước

I. Lời Mở Đầu
Nghĩa vụ của công dân trong Hiến pháp nước ta thể hiện tính kế thừa, phát triển
cả về hình thức và nội dung. Điều đó phản ánh sự phát triển càng đầy đủ hơn các
nghĩa vụ công dân phù hợp với sự phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam, phản ánh nền
dân chủ XHCN và địa vị xã hội ngày càng tăng của các cá nhân con người. Đồng thời
còn là sự thể hiện sâu sắc bản chất Nhà nước ta đối với con người và xã hội Việt Nam.
Với tầm quan trọng như trên đề tài “ Sự kế thừa và phát triển chế định nghĩa vụ cơ
bản của công dân trong lịch sử lập hiến” đã thu hút được sự quan tâm của các bạn
trong nhóm. Bởi vậy thơng qua lịch sử lập hiến của bốn bản Hiến pháp(1946,
1959,1980,1992)và việc nghiên cứu, phân tích chế định này giúp ta có cái nhìn tổng
thể và ngày càng hồn thiện hơn nhằm trực tiếp góp phần nâng cao đời sống của
người dân, đồng thời cho phép chúng ta nhận thức rõ hơn trong việc xây dựng và áp
dụng pháp luật về nghĩa vụ của công dân trong thực tế.
II. Nội Dung
Việc xác định nội dung của chế định nghĩa vụ cơ bản của công dân trong các
bản Hiến pháp trước hết phải xuất phát từ vị trí của quy định có ý nghĩa và có tầm
quan trọng đặc biệt trong Hiến pháp, nên nó quyể định tồn bộ nội dung. Chế độ
chính trị mỗi nước khác nhau nên quy định cũng khác nhau. Nhìn chung cả nước đều
quan tâm đến chế định này vì nó có ý nghĩa quan trọng trong cuộc sống.
1, Phần chung cho các bản Hiến pháp: Trong lịch sử lập Hiến nước ta, nội
dung chế định về nghĩa vụ cơ bản của công dân hết sức phong phú, ngày càng đầy đủ
và hoàn thiện hơn từ 1946 đến 1992. So với Hiến pháp trước, Hiến pháp sau đã có
những sửa đổi bổ sung điều khoản mới phản ánh những thay đổi cơ bản về mọi mặt
đời sống xã hội Việt Nam trong mỗi giai đoạn phát triển. Để khẳng định điều này
chúng ta cần quan tâm đến phần chung nhất của chế định nghĩa vụ cơ bản của công
dân qua các bản Hiến pháp và thấy được sự phát triển và hồn thiện nó.
Về mặt nội dung: Hiến pháp 1946 thể hiện sự tiến bộ vượt trội của một nhà
nước dân chủ nhân dân, thông qua các nghĩa vụ được ghi nhận trong Hiến pháp thể
hiện vai trò trách nhiệm của cơng dân với nhà nước. Trong đó có hai điều ghi những


nghĩa vụ cơ bản phải thực hiện đồng thời đáp ứng yêu cầu của lịch sử một đất nước
vừa mới được độc lập nhưng đang trong tình cảnh khó khăn vơ cùng. Đó là các nghĩa
vụ được quy định ở điều 4 và điều 5. Hiến pháp 1959 có những quy định mới về
nghĩa vụ tác động trên cả ba phương diện là hình thức và nội dung tác động trên các
phương diện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội,…kèm theo đó là sự bảo đảm của nhà
nước để thực hiện nghĩa vụ cơ bản của công dân thể hiện được đường lối của Nhà
nước là đưa nền kinh tế lên một tầm cao mới phát triển và hiện đại. Hiến pháp 1980
mở rộng và cụ thể hóa hơn các nghĩa vụ của cơng dân. Phản ánh sự phát triển không
ngừng của xã hội và sự quan tâm của nhà nước với việc bảo đảm và mở rộng các
nghĩa vụ cơ bản của công dân. Đã khắc phục được tính hình thức, tính ngun tắc
giáo điều của các bản Hiến pháp. Hiến pháp 1992 là Hiến pháp của thời kỳ đổi mới,
ngoài 26 điều sửa đổi bổ sung cho sát với thực tế ra Hiến pháp 1992 còn bổ sung thêm
4 điều. Riêng về nghĩa vụ cơ bản của công dân Hiến pháp 1992 bổ xung thêm nội
dung về nghĩa vụ đối với phụ nữ trẻ em, và người Việt Nam ở nước ngồi. Nhìn lại
1


Phân tích sự kế thừa và phát triển của quy định nghĩa vụ cơ bản của công dân trong các bản Hiến pháp nước

lịch sử lập hiến Việt Nam chưa có một bản Hiến pháp nào lại coi trọng dân chủ như
bản Hiến pháp 1992. Nghĩa vụ công dân nâng cao cũng chính là phải để bảo đảm
quyền cơng dân được thực hiện đầy đủ. Hiến pháp 1992 đã cùng dân tộc bước và thời
kỳ đổi mới với những thay đổi và hội nhập. Trong xu thế hội nhập, nghĩa vụ của công
dân càng phải được thực hiện đầy đủ mới có thể đưa đất nước và hội nhập với quốc tế.
Hơn nữa, hoàn cảnh này lại đặt ra yêu cầu phải hoàn thiện hơn nữa bản Hiến pháp
hiện nay của chúng ta.
Để tìm hiểu một cách chi tiết về sự thay đổ trên ta hãy đi vào khái niện cơng
dân, nghĩa vụ cơng dân là gì? Cơ sở nào để khẳng định nghĩa vụ của công dân qua
các bản Hiến pháp? Ý nghĩa của nó trong các bản Hiến pháp và trong thực tiễn như
thế nào?

1.1. Công dân:Công dân trước hết được hiểu là con người, là cá nhân. Bởi vậy
muốn tìm hiểu khái niệm cơng dân, chúng ta cần biết con người và cá nhân là gì?
Con người với tư cách là một thực thể tồn tại, là sản phẩm của tự nhiên và xã
hội. Xét về góc độ tự nhiên thì con người là một thực thể có ý chí,tư duy và ngơn ngữ,
có khả năng sang tạo công cụ lao động và xử dụng chúng theo ý chí và mục đích của
mình. Trong xã hội, con người tồn tại trong mối lien hệ với người khác, có khả năng
nhận biết, tác động, ảnh hưởng và thậm chí thay đổi mơi trường xã hội. Đồng thời,
mơi trường xã hội sẽ có tác động mạnh mẽ đối với mỗi con người. Bởi vậy bản chất
con người trong tính hiện thực là tổng hòa các mối quan hệ xã hội.
Cá nhân là một con người xã hội cụ thể, là sản phẩm của sự phát triển xã
hội. Cá nhân luôn đặt trong mối quan hệ với xã hội, luôn chữa đựng những đặc điểm
sinh lý riêng của mỗi người để phân biệt người này với người khác.
Công dân là cá nhân trong mối quan hệ với nhà nước và pháp luật, là sự xác
định về mặt pháp lý một thể nhân thuộc về một nhà nước nhất định. Do vậy con người
được hưởng chủ quyền của nhà nước và được nhà nước bảo hộ quyền lợi, đồng thời
cũng phải thực hiện một số nghĩa vụ đối với nhà nước. Khái niệm công dân gắn với
khái niệm quốc tịch. Quốc tịch là mối lien hệ bền vững về mặt pháp lý của một thể
nhân với một nhà nước nhất định.
1.2.Khái niệm nghĩa vụ cơ bản của công dân: Nghĩa vụ cơ bản của công dân
là nghĩa vụ tối thiểu mà công dân phải thực hiện đối với nhà nước và là tiền đề để
đảm bảo các quyền công dân được thực hiện.
1.3.Cơ sở nghĩa vụ cơ bản của công dân : Con người sinh ra trong thời đại có
nhà nước, ln có mối quan hệ với nhà nước, cơ sở đó được thiết lập trên cơ sở pháp
luật quy định về quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia trong quan hệ. Con người đó
trở thành cơng dân nhà nước. Khi công dân được nhà nước trao cho những quyền và
được nhà nước bảo đảm thực hiện thì Nhà nước cũng có quyền u cầu cơng dân thực
hiện những nghĩa vụ bắt buộc đối với nhà nước. Như vậy, quyền công dân trở thành
cơ sở nghĩa vụ của công dân.
1.4.Ý nghĩa của các quy định về nghĩa vụ cơ bản của công dân trong các bản
Hiến pháp: Chế định về nghĩa vụ của công dân là chế định cơ bản trong hầu hết các

bản hiến pháp của các quốc gia trên thế giới. Cùng với chế định quyền trong Hiến
pháp ta có thể xác định được ta có thể xác định được mức độ dân chủ nhân đạo, tiến
2


Phân tích sự kế thừa và phát triển của quy định nghĩa vụ cơ bản của công dân trong các bản Hiến pháp nước

bộ của một nhà nước, một xã hội. quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân là cơ sở để
xác định địa vị pháp lý của công dân, là cơ sở cho mọi quyền và nghĩa vụ khác.
1.5. Những nguyên tắc Hiến pháp của nghĩa vụ cơ bản của công dân Việt
Nam:
1Tôn trọng các quyền con người về các mặt chính trị, dân sự, kinh tế,văn hóa
và xã hội. Quyền con người ở đây được hiểu là các quyền tối thiểu mà các cá nhân
phải có được pháp luật thừa nhận, những quyền mà các nhà lập pháp không được xâm
hại đến. Nguyên tắc này được thừa nhận tại điều 50 Hiến pháp nước CHXHCN Việt
Nam năm 1992.
2 Quyền công dân không tách rời với nghĩa vụ công dân. Trong xã hội quyền
lợi luôn gắn liền với nghĩa vụ. Nhà nước ta luôn đảm bảo cho mọi công dân những
quyền lợi hợp pháp đi liền với đó cũng địi hỏi họ thực hiện các nghĩa vụ của mình.
Quyền lợi và nghĩa vụ là hai mặt của quyền làm chủ của mỗi cơng dân, nó cơ bản do
Hiến pháp và nhà làm luật quy định. Nguyên tắc này được nhà nước thừa nhận tại
Điều 51 Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam năm 1992.
3Mọi cơng dân đều bình đẳng trước pháp luật. Tức là sự bình đẳng giữa mọi
đối tượng và trong mọi quan hệ pháp luật. “Không phân biệt dân tộc, nam nữ, thành
phần xã hội, tín ngưỡng, tơn giáo, trình độ văn hóa, nghề nghiệp,…”. Ngun tắc này
đảm bảo tính cơng bằng cho xã hội, hạn chế hiện tượng tham ơ, tham nhũng, góp
phần làm trong sạch xã hội; được nhà nước thừa nhận tại Điều 52 Hiến pháp nước
CHXHCN Việt Nam năm 1992.
4Nhân đạo xã hội chủ nghĩa: Là nguyên tắc thể hiện sự quan tâm của nhà nước
đối với từng con người trong xã hội. Trong quá trình dự thảo hiến pháp các quy định

về nghĩa vụ của công dân được nhà nước xây dựng trên tinh thần đảm bảo nhu cầu đời
sống vật chất và tinh thần cho công dân. Giúp công dân phát triển tồn diện. Nhà
nước ta chính là nhà nước của dân, do dân, tất cả vì hạnh phúc của nhân dân.
5 Hiện thực nghĩa vụ của công dân: đây là nguyên tắc đòi hỏi các nghĩa vụ
được ghi nhận trong hiến pháp đều phải có cơ sở, có tính thực tiến trong thực tế cuộc
sống.
Lịch sử nước ta đã trải qua 4 bản Hiến pháp. Mặc dù ra đời trong những hoàn
cảnh lịch sử khác nhau nhưng xuyên suốt các bản hiến pháp đều có những tư tưởng
chủ đạo chi phối. Đó là tư tưởng quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Tư tưởng này
được ghi nhận rất cụ thể: nhà nước ta là nhà nước dân chủ nhân dân, bắt nguồn từ
nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Một tư tưởng nữa tồn tại trong các bản hiến
pháp đó là tư tưởng đảm bảo việc thực hiện và phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
Cơng dân có quyền bầu cử, ứng cử, đóng góp các ý kiến thơng qua người đại điện do
tự mình bầu ra, có quyền giám sát mọi hoạt động.

3


Phân tích sự kế thừa và phát triển của quy định nghĩa vụ cơ bản của công dân trong các bản Hiến pháp nước

2. Sự kế thừa và phát triển các quy định của nghĩa vụ cơ bản của công dân
qua các bản Hiến pháp:
2.1.Hiến pháp 1946:
Nói về các bản Hiến pháp, ta sẽ không thể lý giải một cách chính xác, đầy đủ
những đặc trưng, tính đặc thù của sự ra đời và cả quá trình phát triển và kế thừa của
nền lập hiến Việt Nam, nếu chúng ta không chú ý quan tâm đến điểm khởi nguồn.
Vậy khởi nguồn Lập hiến của chúng ta như thế nào? Để trả lời cho câu hỏi này ta hãy
đi tìm hiểu một cuộc gặp gỡ lịch sử đã diễn ra giữa nhu cầu bức thiết của xã hội vốn
đã rơi vào tình trạng khủng hoảng sâu sắc về đường lối đấu tranh giải phóng dân tộc
và một nhân vật lịch sử đặc biệt đó là Nguyễn Ái Quốc – Hồ chí Minh.

Hiến pháp 1946 ra đời trong bối cảnh đất nước vừa được giải phóng, nhân dân
Việt Nam chính thưc làm chủ đất nước mình. Hiến pháp 1946 được thơng qua ngày
9/11/1946. Hiến pháp 1946 bao gồm lời nói đầu và 7 chương, 70 điều, chương “nghĩa
vụ và quyền lợi cơ bản của công dân được xếp ở chương thứ 2 bao gồm 18 điều. Dù
trong hoàn cảnh nước Việt Nam dân chủ cộng hòa non trẻ vừa ra đời, dù các thế lực
thù địch bên ngồi ln dình dập chống phá nhà nước. như chủ Tịch Hồ Chí Minh đã
nói “ nếu nước được độc lập mà dân không đươc hạnh phúc , tự do thì độc lập cũng
chắng có ý nghĩa gì”. Xuất phát từ đó, Hiến pháp 1946 “nghĩa vụ và quyền lợi của
công dân”. Lần đầu tiên trong lịch sử , địa vị pháp lý của công dân được xác lập gán
liền với việc dân tộc dành độclập. hiến pháp 1946 đã long trọng ghi nhận những giá
trị quyền con người, nghĩa vụ củacông dân mà nhân dân ta đã dành được, coi đó là nội
dung cơ bản của hiến pháp dân chủ..Tính chất dân chủ, bản chất nhân dân của Hiến
pháp năm 1946 thật sâu sắc và đến nay vẫn giữ nguyên giá trị. Sự xác định rõ nghĩa
vụ và quyền lợi công dân đã thể hiện điều đó. Mỗi cơng dân Việt Nam phải có nghĩa
vụ bảo vệ Tổ quốc, tôn trọng Hiến pháp và tuân theo pháp luật.
Điều đáng chú ý hơn cả ở Hiến pháp 1946 khác với các Hiến pháp sau này là
nghĩa vụ được đặt lên trước quyền lợi. Điều này rất có ý nghĩa vì vừa giành được
chính quyền, vừa có địa vị cơng dân, nhân dân ta đã bị nhiều kẻ thù uy hiếp và xâm
lược lại. Vậy nên để giành được độc lập ta phải đặt nghĩa vụ lên trên hết mà trước hết
đó là nghĩa vụ bảo vệ tổ quốc. Chúng ta đã từng được nghe về những thế hệ “xẻ dọc
Trường Sơn đi cứu nước mà long phơi phới dậy tương lai”; các phong trào sôi dậy
như: Tất cả vì tiền tuyến, Ba sẵn sàng; các cơng dân nam nữ thanh niên tham gia vệ
quốc đồn, đồn qn tự vệ,…; Hay những cơ gái chàng trai Hà thành như Đặng Thùy
Trâm, Nguyễn văn Thạc,...; Hay những chiến sỹ Miền Đơng Nam Bộ, biệt động Sài
Gịn anh dũng kiên cường,…tất cả họ chính là những người anh em, người đồng chí,
đồng đội, đều vì một mục đích duy nhất là bảo vệ tổ quốc mới được độc lập nhưng
vẫn chưa nguôi nỗi đau chiến tranh chia cắt. Ngồi ra, Hiến pháp cịn quy định tơn
trọng pháp luật, chưa có nghĩa vụ đóng thuế vì hồn cảnh cả nước vừa thoát khỏi sưu
cao thếu nặng trong tay thực dân nay đang rơi vào nạn đói khủng khiếp, người ta
không thể thực hiện được nghĩa vụ này trong thời điểm hiện tại.

Hiến pháp 1946 chính là bản Hiến pháp đầu tiên được xây dựng trên cơ sở tư
tưởng lập Hiến của Hồ chí Minh. Là bản Hiến pháp lần đầu tiên đã làm thay đổi địa vị
4


Phân tích sự kế thừa và phát triển của quy định nghĩa vụ cơ bản của công dân trong các bản Hiến pháp nước

pháp lý của công dân, công dân có địa vị gắn liền với độc lập dân tộc và chủ quyền
quốc gia.
2.2.Hiến pháp 1959:
Hiến pháp này đánh dấu bước phát triển thứ hai trong lịch sử lập hiến
Việt Nam. Đây là Hiến pháp xã hội chủ nghĩa đầu tiên ở Việt Nam, Hiến pháp của
thời kỳ tiến lên chủ nghĩa xã hội. Hiến pháp năm 1959 ra đời trong hoàn cảnh cách
mạng Việt Nam và trên tất các phương diện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội,…Ở
nước ta đều có những thay đổi căn bản, cách mạng Việt Nam đã bước sang một giai
đoạn phát triển mới với những nhiệm vụ mới. Hiến pháp 1946 đã hoàn thành sứ mệnh
của nó. Hiến pháp 1959 đã được Quốc hội khóa I nhất trí thơng qua ngày 31-121959. Hiến pháp 1959 ra đời đã đáp ứng yêu cầu của mới của cách mạng Việt Nam.
Hiến pháp gồm có “lời nói đầu” và 10 chương. Lời nói đầu bản Hiến pháp đã rất coi
trọng địa vị pháp lý của công dân. Chương III với tiêu đề “quyền lợi và nghĩa vụ cơ
bản của cơng dân” gồm 21 điều trong đó có 19 điều trực tiếp quy định về quyền lợi và
nghĩa vụ của cơng dân và có 4 điều quy định về nghĩa vụ cơ bản của công dân là các
điều 39, 40, 41, 42.
Tính hồn chỉnh của chế định nghĩa vụ của cơng dân nói riêng và quyền và
nghĩa vụ của cơng dân nói chung ở Hiến pháp 1959 so với Hiến pháp 1946 là một
bước phát triển tiến dài.
Nói về nghĩa vụ: Các quy định về quyền cơ bản của công dân trong
trong Hiến pháp 1959 so với 1946 khơng chỉ tăng về số lượng mà cịn phong phú về
nội dung.
Về số lượng: các nghĩa vụ cơ bản của công dân ngày càng được quy
định nhiều hơn trong Hiến pháp 1959, Hiến pháp 1946 chỉ có 2 điều là điều 4: “Mỗi

công dân Việt Nam phải: Bảo vê tổ quốc; Tôn trọng Hiến pháp; Tôn trọng pháp luật.”.
Điều 5: “ cơng dân Việt Nam có nghĩa vụ phải đi lính.” Hiến pháp 1959 tăng lên 4
điều như sau: Điều 39: Cơng dân Việt Nam dân chủ cộng hịa có nghĩa vụ tuân theo
Hiến pháp, pháp luật, kỷ luật lao động, trật tự công cộng và những quy tắc sinh hoạt
xã hội. Điều 40: Tài sản công cộng của nước Việt Nam dân chủ cộng hịa là thiêng
liêng khơng thể xâm phạm, cơng dân có nghĩa vụ tơn trọng và bảo vệ tài sản công
cộng. Điều 41: Công dân nước Việt Nam dân chủ cộng hịa có nghĩa vụ đóng thuế
theo pháp luật. Điều 42: Bảo vệ tổ quốc là nghĩa vụ thiêng liêng và cao quý nhất của
công dân nước Việt Nam dân chủ cộng hịa. Cơng dân có bổn phận làm nghĩa vụ quân
sự để bảo vệ tổ quốc. Xét như vậy thì nghĩa vụ cơ bản của công dân trong Hiến pháp
1959 hơn hai điều khoản so với Hiến pháp 1946 về nghĩa vụ đóng thuế và tôn trọng
tài sản công cộng.
Về nội dung: Hiến pháp 1959 không chỉ mở rộng phạm vi vấn đề
mà nội dung của nó cịn phong phú, sâu sắc và tồn diện hơn. Ví dụ: Hiến pháp 1959
có những quy định mới như sau: Nghĩa vụ phải đóng thuế (Điều 41), nghĩa vụ bảo
vệ tôn trọng pháp luật (Điều 40). Mặt khác ta cũng thấy được sự phát triển, kế thừa
những quy định Hiến pháp 1946 như sau: không chỉ dừng lại ở việc xác định nghĩa
mà hiến pháp 1959 đã làm rõ hơn về mặt ý nghĩa, tính chất của nghĩa vụ phải tuân
theo đó.
5


Phân tích sự kế thừa và phát triển của quy định nghĩa vụ cơ bản của công dân trong các bản Hiến pháp nước

Đầu tiên, Hiến pháp 1959 có sự thay đổi về tiêu đề ra với Hiến pháp 1946: Đặt
quyền lợi trước nghĩa vụ và có thêm cụm từ “cơ bản” ở sau. Trong điều kiện mới hiện
nay cách đặt vấn đề này làm cho tiêu đề thêm chuẩn xác.
Hiến pháp 1946 chỉ dừng lại ở việc: “công dân Việt Nam phải tơn trọng” thì tới
1959 đã quy định là “có nghĩa vụ tuân theo” Hiến pháp và pháp luật. Điều này nhỏ
nhưng đã nâng cao vị thế của Hiến pháp và pháp luật lên. Hơn nữa, việc “tôn trọng”

và “tn theo” là hai việc hồn tịan khác nhau. Tơn trọng thì có thể thực hiện có thể
khơng cịn tuân theo nghĩa là đã thực hiện theo. Các quy định về nghĩa vụ cơ bản của
công dân phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội đất nước lúc bấy giờ. Mặt khác, chúng
ta cũng thấy được sự phát triển, kế thừa và phát triển không chỉ dừng lại ở việc nêu
ngắn gọn các nghĩa vụ của công dân như: “bảo vệ tổ quốc, tuân theo pháp luật, tôn
trọng Hiến pháp,…” mà ở Hiến pháp 1959 đã bổ xung làm rõ hơn về mặt ý nghĩa, tính
chất và nghĩa vụ của công dân phải tuân theo. Chẳng hạn như ở Hiến pháp 1959 có
ghi: “Bảo vệ tổ quốc là nghĩa vụ thiêng liêng cao quý của công dân nước Việt Nam
dân chủ cộng hịa” hay là “cơng dân có nghĩa vụ phải tuân theo kỷ luật lao động, trật
tự công cộng, và những quy tắc sinh hoạt xã hội.” Đây đồng thời cũng là một điểm
mới trong Hiến pháp 1959.
Các quy định về nghĩa vụ cơ bản của công dân trong Hiến pháp phù hợp với
điều kiện kinh tế xã hội của đất nước mới đảm bảo cho các quy định đó có tính khả
thi. Tính khả thi giúp cho các quy định đó khơng chỉ tồn tại trên lý thuyết mà chính là
phải được đảm bảo thực hiện trong thực tế, được người dân chấp nhận như một nhu
cầu cần thiết của cuộc sống. Ví dụ: Hiến pháp 1959 đã quy định về nghĩa vụ phải
đóng thuế là cái mới so với Hiến pháp 1946, nó phản ánh được phẩn nào tình hình đất
nước. Chính những điều kiện lịch sử đã quy định sự khác nhau ở từng giai đoạn về
điều khoản và nội dung các điều trong Hiến pháp. Năm 1945, nước ta vừa mới hoàn
thành xong cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân nhưng hai miền Nam bắc vẫn
chia cắt. Hơn nữa, sau khi giành thắng lợi trong cuộc tổng tuyển cử, khắp cả nước ta
từ Lạng Sơn đến Cà Mau đều rơi vào nạn đói khủng khiếp. Người dân chết đói như
ngả rạ, thù trong giặc ngoài làm nước ta rơi vào trong tình trạng “ngàn cân treo sợi
tóc” bởi vậy Hiến pháp của chúng ta chưa quy định nghĩa vụ đóng thuế bắt buộc đối
với công dân. Cho đến năm 1959, nhân dân tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
Miền Bắc và còn phải là hậu phương vững chắc cho chiến tranh ở Miền Nam để thống
nhất đất nước chính vì vậy việc đóng thuế trở nên rất cần thiết và cấp bách, bởi thế sự
suất hiện của điều 42 Hiến pháp 1959 là tất yếu.
2.3.Hiến pháp 1980:
Thắng lợi vĩ đại của Chiến dịch Hồ Chí Minh mùa xuân 1975 đã mở ra một giai

đoạn mới trong lịch sử dân tộc ta. Miền Nam được hồn tồn giải phóng, cách mạng
dân tộc dân chủ đã hoàn thành trong phạm vi cả nước. Nước nhà đã hoàn toàn độc
lập, tự do là điều kiện thuận lợi để thống nhất hai miền Nam, Bắc đưa cả nước đi lên
chủ nghĩa xã hội.
Quốc hội chung của cả nước được thành lậpsẽ xác định hệ thống chính trị của
Nhà nước, thành lập cơ quan Nhà nước Trung ương và xây dựng Hiến pháp mới của
Nhà nước Việt Nam thống nhất.
6


Phân tích sự kế thừa và phát triển của quy định nghĩa vụ cơ bản của công dân trong các bản Hiến pháp nước

Về chế độ chính trị : Nhà nước CHXHCN Việt Nam, trong đó
xác định bản chất giai cấp của Nhà nước ta là Nhà nước chun
chính vơ sản, sứ mệnh lịch sử của Nhà nước là thực hiện quyền làm
chủ tập thể của nhân dân lao động, xây dựng thắng lợi CNXH, tiến
tới chủ nghĩa cộng sản (Điều 2); lần đầu tiên Hiến pháp 1980 thể
chế hóa chính thức vai trị lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam đối
với Nhà nước và xã hội không chỉ trong Lời nói đầu như Hiến pháp
1959, mà cịn có một điều riêng quy định rõ về vấn đề này (Điều 4)
Chương V: Quyền và nghĩa vụ cơ bản của cơng dân:Chương này có 32 điều
(từ Điều 53 đến Điều 81). Kế thừa và phát triển Hiến pháp 1946, 1959, Hiến pháp
1980 một mặt ghi nhận lại nghĩa vụ công dân đã quy định trong hai Hiến pháp trước,
mặt khác xác định thêm một số quyền và nghĩa vụ mới phù hợp với giai đoạn mới của
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. So với Hiến pháp 1959, Hiến pháp 1980 đã xác định
thêm một số nghĩa vụ mới của công dân: Công dân phải trung thành với Tổ quốc.
Phản bội tổ quốc là tội nặng nhất đối với dân tộc” (Điều 76), ghi nhận này khẳng định
bổn phận của cơng dân đối với quốc gia dân tộc; ngồi bổn phận làm nghĩa vụ qn
sự, cơng dân cịn phải tham gia xây dựng quốc phịng tồn dân (Điều 77 quy định:
“Bảo vệ Tổ quốc XHCN là nghĩa vụ thiêng liêng và quyền cao q của cơng dân.

Cơng dân có bổng phận làm nghĩa vụ quân sự và tham gia xây dựng quốc phịng tồn
dân”), đây chính là thái độ nghiêm khắc nhất của nhà nước đối với
cơng dân. Ngồi nghĩa vụ tuân theo Hiến pháp, pháp luật, kỷ luật lao động, tôn
trọng những quy tắc sinh hoạt xã hội (Điều 78 quy định:”Cơng dân có nghĩa vụ
tn theo hiến pháp, pháp luật, kỉ luật lao động, bảo vệ an ninh chính trị và trật tự an
tồn xã hội, giữ gìn bí mật nhà nước, tơn trọng những quy tắc của cuộc sống
XHCN”) cơng dân cịn phải bảo vệ an ninh chính trị và trật tự an tồn xã hội, giữ gìn
bí mật Nhà nước; ngồi nghĩa vụ đóng thuế, cơng dân cịn phải tham gia lao động
cơng., nghĩa vụ lao động cơng ích (Điều 80 quy định: “Cơng dân có nghĩa
vụ đóng thuế và tham gia lao động cơng ích theo quy định của pháp luật”).
Hiến pháp 1980 đã đánh cột mốc quan trọng trong lịch sử nước ta. Nó là bản
tổng kết những thành tựu của nhân dân Việt Nam đã giành được qua nửa thế kỷ đấu
tranh giành độc lập, tự do, xây dựng cuộc sống ấm no hạnh phúc cho nhân dân, dưới
sự lãnh đạo của Đảng. Đó là bản Hiến pháp của nước Việt Nam đã hoàn toàn thống
nhất, sau hơn hai mươi năm bị chia cắt với những chế độ chính trị - xã hội khác nhau.
Đó là bản Hiến pháp thể hiện ý chí của nhân dân hai miền Nam - Bắc đoàn kết một
lòng cùng tiến lên chủ nghĩa xã hội. Mặc dù có những hạn chế nhất định,
nhưng Hiến pháp 1980 vẫn có ý nghĩa quan trọng trong lịch sử lập
hiến ở nước ta. Điều này thể hiện ở chỗ: Hiến pháp 1980 là Hiến
pháp của nước Cộng hoà XHCN Việt Nam thống nhất, Hiến pháp của
thời kỳ quá độ lên CNXH trong phạm vi cả nước. Hiến pháp 1980 là
văn bản pháp lý tổng kết và khẳng định những thành quả đấu tranh
cách mạng của nhân dân Việt Nam trong nửa thế kỷ qua, thể hiện ý
chí và nguyện vọng của nhân dân ta quyết tâm xây dựng CNXH và
7


Phân tích sự kế thừa và phát triển của quy định nghĩa vụ cơ bản của công dân trong các bản Hiến pháp nước

bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Hiến pháp 1980 thể chế hóa cơ chế " Đảng

lãnh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý”.
2.4.Hiến pháp 1992:
Sau một thời gian dài phát huy hiệu lực, trước địi hỏi của tình hình đất nước,
Quốc Hội đã thơng qua Hiến pháp 1992- HP của thời kì đổi mới, baao gồm 12 chương
và 147 điều.Chế định quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân được ghi nhận ở
Chương V với 34 điều. So với Hiến pháp 1980 và các bản Hiến pháp trước đó Hiến
pháp 1992 đã tiến một bước dài trên con đường pháp triển và hoàn thiện. Hiến pháp
1992 đã ghi nhận toàn bộ các nghĩa vụ cơ bản của công dân mà bản Hiến pháp 1980
đã xác định và có sự sắp xếp lại một số điều cho hợp lý hơn.Hiến pháp 1992 xác định
“ nghĩa vụ bảo vệ tổ quốc, thực hiện nghĩa vụ quân sự”. Quy định này xuất phát từ sự
an toàn của an ninh quốc gia, dân tộc. Bản Hiến pháp tiếp tục nhấn mạnh nghĩa vụ
trên là quyền cao quý nhất của công dân. Đồng thời cũng quy định rõ: “ Công dân
phải trung thành với tổ quốc, Phản bội tổ quốc là tội nặng nhất”. Sự ghi nhận này
tiếp tục khẳng định bổn phận của công dân đối với quốc gia dân tộc đã được ghi nhận
ở Hiến pháp 1980, thể hiện thái độ nghiêm khắc nhất của nhà nước đối với những
người khơng làm trịn bổn phận với tổ quốc, đi ngược lại với lơi ích của dân tộc. Hơn
nữa, Hiến pháp 1992 còn nhân mạnh thêm đây là quyền “cao quý của công dân” để
tăng thêm trách nhiệm và vinh dự của công dân và ý nghĩa của nhiệm vụ này.
Cũng như các bản Hiến pháp trước nó, Hiến pháp 1992 khơng chỉ là sự kế thừa
mà nó có sự phát triển, có sự thay đổi để phù hợp với hoàn cảnh lịch sử. Như trong
điều 40 Hiến pháp 1959 quy định “ cơng dân có nghĩa vụ tôn trọng và bảo vệ tài sản
công cộng” và Điều 79 Hiến pháp 1980 tiếp tục ghi nhận nhưng thay đổi từ ngữ
thành “ tài sản xã hội chủ nghĩa”. Sự quy định như vậy có phẩn chưa hợp lý vì khái
niệm tài sản cơng cộng và tài sản Xã hội chủ nghĩa là khái niệm chưa thực sự định
hình,vì thế mỗi người có thể hiểu nó theo một cách khác nhau. Khắc phục nhược điểm
ấy, Hiến pháp 1992 đã có sự sửa đổi về từ ngữ một cách chính sác hơn thành “tài sản
của nhà nước vì lợi ích cộng đồng”. Nếu nói như vậy thì cách hiểu sẽ có sự thống
nhất tài sản đó thuộc sở hữu của nhà nước do nhà nước quản lý và có quyền định đoạt.
Ngoài những nghĩa vụ mà Hiến pháp 1980 ghi nhận thì Hiến pháp 1992
có một số nghĩa vụ mới. Đó là: “ nghĩa vụ thực hiện chương trình dân số và kế

hoạch hóa gia đình bảo vệ và chăm sóc bà mẹ trẻ em” (Điều 40). Tuy nghĩa vụ trên
không nằm trong chế định quyền và nghĩa vụ của công dân nhưng chúng ta cũng phải
hiểu rằng đây cũng là nghĩa vụ của công dân. Do thực tiễn từ những năm 1990 dân số
nước ta tăng nhanh một cách chóng mặt, bùng nổ dân số xảy ra. Chính thực tiễn này
Hiến Pháp 1992 đã thêm nghĩa vụ trên nhằm giảm thiểu việc gia tăng dân số quá
nhanh.Thứ hai là: “ nghĩa vụ vệ sinh phòng bệnh và vệ sinh công cộng” (Điều 61).
Nhà nước quán triệt, định hướng xây dựng một môi trường lành mạnh, sạch sẽ, nâng
cao đời sống xã hội và trách nhiệm của mỗi người đối với gia đình, cộng đồng, phát
triển đất nước văn minh, sạch đẹp.
Thứ ba là: “ nghĩa vụ của người nước ngoài sinh sống trên Việt Nam” (Điều
81). Điều này quy định người nước ngoài cư trú tại Việt Nam phải tuân theo
8


Phân tích sự kế thừa và phát triển của quy định nghĩa vụ cơ bản của công dân trong các bản Hiến pháp nước

Hiến Pháp và pháp luật Việt Nam đồng thời với nghĩa vụ này họ có quyền được nhà
nước Việt Nam bảo hộ tính mạng, tài sản và các quyền lợi ích chính đáng. Đây là một
bước phát triển mới, nó phù hợp với tinh thần của pháp luật quốc tế. Quy định này tạo
điều kiện thuận lợi cho người nước ngoài đến Việt Nam phục vụ việc mở rộng, hợp
tác kinh tế, kh-kt và giao lưu với thị trường thế giới.
Nói tóm lại, cho đến nay thì Hiến pháp 1992 là bản Hiến pháp hoàn thiện nhất
trong lịch sử lập Hiến nước ta. Phù hợp với xu thế đổi mới nhưng không thể tránh
khỏi các khiếm khuyết của thời kỳ hội nhập cần sửa đổi trong tương lai.
3.Phương hướng hoàn thiện quy định và cơ chế bảo đảm thực hiện nghĩa
vụ cơ bản của cơng dân:
Hồn thiện Hiến pháp và bảo đảm thực hiện các quy định của Hiến pháp chính
là trăn trở khơng ngi của các nhà làm luật ở nước ta. Trải qua các thăng trầm của
lịch sử, chúng ta cũng có cả 4 bản Hiến pháp trong các thời khắc quan trọng. Đó là
thời kỳ chiến tranh dân tộc dân chủ nhân dân (1946) đó là thời kỳ miền Bắc được giải

phóng đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, còn cuộc chiến vẫn tiếp tục ở miền Nam
(1959), đó là thời kỳ cả nước được hoàn toàn độc lập, khắc phục các hậu quả chiến
tranh và đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội trên cả nước (1980), và cuối cùng là thời kỳ
đổi mới kinh tế (1992), Hiến pháp 1992 được coi là một bản Hiến pháp hoàn thiện
nhất trong lịc sử lập hiến, đáp ứng được các nhu cầu của thực tế đổi mới đất nước,
nhưng gần hai mươi năm đã trôi qua cả nước đã trải qua bao nhiêu thăng trầm của
thời kỳ hội nhập và tồn cầu hóa.Tham gia sâu rộng hơn vào các công việc của
ASean, châu Á Thái Bình Dương, nổi bật là sự kiện ra nhập WTO, tổ chức thương
mại thế giới, chúng ta có những cơ hội để phát triển nhưng có những thách thức
khơng thể lường hết được.
Yêu cầu đặt ra ở đây chính là Hiến pháp và pháp luật nước ta phải hoàn toàn
phù hợp với Hiến pháp và pháp luật quốc tế và phải làm sao để cơ chế pháp luật của
ta khơng hạn chế để cơng dân hồn tồn thực hiện được nghĩa vụ của mình nói riêng
và để đảm bảo thực hiện các quyền lợi của người khác thông qua nghĩa vụ của mình.
Nhiều người vơ tư hưởng và sẵn sàng phủi tay ngay những nghĩa vụ cơ bản nhất của
mình đối với xã hội như: xây dựng đất nước, giữ gìn trật tự cơng cộng…Nhìn chung
cuộc sống ngày càng phát triển, vấn đề phát sinh, tồn tại rất đa dạng bởi vậy cần sự nỗ
lực nhiều hơn từ cả hai phía nhà nước và cơng dân để đảm bảo tốt hơn nhà nước và
công dân để đảm bảo tốt hơn chế định quan trọng này.
3.1.Phương hướng hoàn thiện các bản Hiến pháp:
Muốn thực hiện được việc hoàn thiện Hiến pháp, chúng ta phải xây dựng một
đội ngũ cán bộ trong sạch, vững mạnh, luôn đi sâu, đi sát vào quần chúng nhân dân
không lợi dụng cửa quyền để làm tham ơ lãng phí của nhà nước, khơng nhiễu sách
nhân dân. Cải cách thủ tục hành chính chính là một công việc đã được Đảng và Nhà
nước ta luôn quan tâm chú ý trong thời gian qua nhưng tại sao vấn đề thủ tục hành
chính vẫn rườm rà đi kèm những quy định lằng nhằng? Phải chăng thủ tục hành chính
là cái cố hữu khơng thể cải cách được mà ln ln “Hành” là “ chính”? Đây quả là
một điều đáng buồn và rất đáng để suy nghĩ. Theo chúng tơi u cầu cải cách hành
chính là u cầu quan trọng khơng thể tách rời trong việc hồn thiện Hiến pháp và
9



Phân tích sự kế thừa và phát triển của quy định nghĩa vụ cơ bản của công dân trong các bản Hiến pháp nước

pháp luật. Sau đó, hồn thiện nên hướng vào các quy định của pháp luật về nghiã vụ
cơ bản của công dân trong Hiến pháp: Hiến pháp phải cơ bản ngắn gọn và ít mang
tính tun ngơn giáo điều. Hoàn thiện các luật điều chỉnh về quyền và nghĩa vụ của
công dân trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội,…Xây dựng các khơn
khổ pháp lý và hành lang an toàn cho việc bảo đảm thực hiện nghĩa vụ công dân.
Trước khi ban hành một văn bản pháp luật và sửa đổi một điều khoản trong
Hiến pháp cần phải khảo sát thực tế trong các khu dân cư, các lứa tuổi có thể áp
dụng, tránh trường hợp văn bản quá xa rời thực tiễn cuộc sống cuối cùng không được
bảo đảm thực hiện một các có hiệu quả. Trong q trình xây dựng và chuyển đổi
Hiến pháp và các văn bản pháp luật, đương nhiên ta khơng thể bỏ qua các quy định
về trình tự ban hành, song trong xu thế hiện nay chúng ta hãy nêu cao yêu cầu đơn
giản hóa, cắt bớt các thủ tục rườm rà gây lãng phí của cơng. Sau khi ban hành còn
phải tuyên truyền văn bản đến sâu rộng các tầng lớp nhân dân bằng các phương tiện
thơng tin đại chúng khơng để tình trạng người dân mù mờ về pháp luật, dễ bị những
cán bộ cửa quyền lợi dụng che mắt để hạch sách dân.
Theo chúng tôi, nếu chỉ ghi nhận và triển khai mọi việc một cách giáo điều thì
quả thực rất khó để các quy định trong Hiến pháp đi vào cuộc sống được người dân
tham gia thực hiện một cách nhiệt tình mà điều quan trọng nhất là nghĩa vụ phải đi
đôi với quyền lợi, cơ quan các cấp có thẩm quyền phải tạo được lòng tin trong nhân
dân. Nếu làm được điều này ta có thể thấy những người dân tự thực hiện nghĩa vụ một
cách đầy đủ. Phải làm cho họ thấy được lợi ích của họ sẽ phát sinh khi họ thực hiện
đầy đủ nghĩa vụ của mình.
Chúng tơi xin đưa ra một số kiến nghị sau về việc sửa đổi Hiến pháp:
Trên cơ sở đánh giá và phân tích trên chúng ta phải đổi mới tư duy pháp lý
vào cả quá trình lập hiến cũng như bảo đảm thực hiện.
Phải tiếp tục cải cách thủ tục hành chính đưa ra môt bộ máy nhà nước đơn giản

gọn nhẹ nhưng vẫn bảo đàm được định hướng xã hội chủ nghĩa, nhà nước phải là
công cụ để thực hiện quyền lực của giai cấp vô sản và các tầng lớp nhân dân.
Các quy định về nghĩa vụ công dân trong Hiến pháp cũng cần được đơn giản
và gọn nhẹ về hình thức nhưng sâu sắc về nội dung. Mang tính thực tế cao, ứng với
các quyền cơ bản mà công dân cần phải có.
Đối với các văn bản có liên quan phải bảo đảm giải thích Hiến pháp một cách
sâu sắc và tồn diện.
III. Kết Luận
Nghĩa vụ cơng dân ngày nay đã trở thành vấn đề tồn cầu hóa. Đặc biệt chế
định nghĩa vụ cơ bản của công dân được nhiều nước quan tâm. Do đó đã rất nhiều tác
phẩm, bài báo,các bài phát biều của các nhà chính khách đề cập đến vấn đề này. Riêng
ở Việt Nam vấn đề này trở thành một trong những chế định pháp lý quan trọng, được
ghi nhận trong Hiến pháp. Các nghĩa vụ của cơng dân ln ln có sự điền chỉnh phù
hợp với nhiệm vụ mà Đảng và Nhà nước đặt ra trong mỗi thời kì. Như vậy bên cạnh
việc củng cố chính quyền, duy trì quyền lực nhân dân, ngay từ Hiến pháp đầu
tiên(1946) đã đánh dấu sự ghi nhận nghĩa vụ công dân, các giai đoan tiếp theo cùng
với sự đổi mới tồn diện địi hỏi các chế định nghĩa vụ phải được sửa đổi, bổ sung và
10


Phân tích sự kế thừa và phát triển của quy định nghĩa vụ cơ bản của công dân trong các bản Hiến pháp nước

có phầm kế thừa để trong thời đại ngày nay chế định nghĩa vụ công dân được nêu nên
một cách hoàn thiện hơn.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Trường đại học Luật Hà Nội, giáo trình Luật Hiến pháp


Việt Nam, Nxb Công An Nhân Dân, Hà Nội, 2008
2.

Khoa Luật- Đại học quốc gia Hà Nội, GT Luật Hiến Pháp

Việt Nam, Nxb, ĐHQG, HN, 2005.
3.

Đoàn Thị Bạch Liên, Sự phát triển của chế định quyền và

nghĩa vụ cơ bản của công dân trong lịch sử lập Hiến Việt Nam, luận án
thạc sĩ luật học, Hà Nội, 1998.
4.

Trần Văn Bách, Sự phát triển chế định quyền và nghĩa vụ

cơ bản của công dân của lịch sử lập hiến Việt Nam, luận án tiến sĩ luật
học, Hà Nội, 2002.

11



×