Tải bản đầy đủ (.doc) (4 trang)

BÀI THUYẾT TRÌNH: LUẬN GIẢI, LUẬN CHỨNG NHỮNG NGUYÊN NHÂN THẤT BẠI TRONG CHÍNH BẢN THÂN CÁC TƯ TƯỞNG CẢI CÁCH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (36.58 KB, 4 trang )

BÀI THUYẾT TRÌNH:
LUẬN GIẢI, LUẬN CHỨNG NHỮNG NGUYÊN NHÂN THẤT BẠI
TRONG CHÍNH BẢN THÂN CÁC TƯ TƯỞNG CẢI CÁCH
Cuối thế kỷ 19, với sự phát triển mạnh mẽ của chủ nghĩa thực dân
phương tây, với những nguy cơ đứng trên bờ vực mất nước, ở Việt Nam lúc nay
đã xuất hiện những nhà cải cách tiến bộ như Nguyễn Trường tộ, Nguyễn Lộ
Trạch, Phạm Phú Thứ, Đặng Huy Trứ… với mong muốn đưa đất nước phát triển
thoát ra khỏi họa ngoại xâm… các nhà canh tân đã có nhiều cải cách tiến bộ,
góp phần giải quyết được một số yêu cầu cấp bách lúc bấy giờ. Mặc dù là
những nhà cải cách có những tư tưởng canh tân vượt thời đại nhưng chính trong
bản thân các tư tưởng cải cách cịn có những hạn chế khơng thể tránh khỏi, góp
phần làm nên sự thất bại của cuộc canh tân đất nước lúc bấy giờ.
Thứ nhất: Áp dụng trào lưu cải cách một cách máy móc từ bên ngồi vào
mà khơng dựa vào những điều kiện thực tiễn của Việt Nam.
Ở Việt Nam, các nhà cải cách tiến hành thực hiện cơng cuộc cải cách của
mình trong điều kiện đất nước đã bị thực dân Pháp xâm lược. Lúc này đất nước
đang phải đối phó với giặc ngoại xâm, đời sống nhân dân vơ cùng khổ cực, bất
mãn với triều đình, các điều kiện về kinh tế, chính trị, xã hội đều không đủ đáp
ứng để mở trường kỹ thuật với quy mơ lớn, ứng dụng cơng nghệ nước ngồi,
hay lúc này nhan dân đang đói kém thì lấy đâu ra tâm trạng mà đi học các loại
ngoại ngữ như: Anh,. Pháp, Mã lai…điều kiện kinh tế không cho phép chúng ta
mua tàu đồng, phát triển quân sự một cách nhanh chóng để có khả năng chống
giặc Pháp…đó là nguyên nhân dẫn đến thất bại.
Thứ hai: Các nhà cải cách cuối thế kỷ 19 đã không giải quyết được những
mâu thuẫn trong xã hội lúc bấy giờ, đặc biệt là mâu thuẫn giai cấp mà chỉ tiến
hành cải cách dựa trên nhũng biện pháp đã đưa ra, tuy có kết quả nhưng chỉ là ở
một số vùng và mang tính tức thời mà thôi. Cái quan trọng nhất của nông nhân
Việt Nam đó chính là được sở hữu tư liệu sản xuất về ruộng đất. Đó là nhu cầu
cơ bản và thiết yếu đối với họ. Thế nhưng vào cuối thế kỉ 19, ruộng đất công



ngày càng bị thu hẹp, ruộng đất tư ngày càng tăng lên, nông dân mất tư liệu sản
xuất, bị biến thành nơng nơ, đi tha hương cầu thực…trước tình hình đó, các nhà
cải cách tuy có đưa ra một số biện pháp để khơi phục nơng nghiệp, mở rộng
diện tích cày cấy như Phạm Phú Thứ đã tổ chức cho những người khỏe đi khai
hoang, trồng cây ngắn ngày, mở thủy lợi Đơng Triều, Nam Sách… nhưng rồi
những diện tích đất khai hoang đó cũng nhanh chóng rơi vào tay địa chủ phong
kiến, nông dân cuối cùng vẫn là kẻ trắng tay. Vì thế cho nên những cải cách đó
chưa đáp ứng được yêu cầu của nông dân nên dẫn đến thất bại là một yếu tố
quan trọng.
Thứ 3: Các nhà tư tưởng cải cách cuổi thế kỷ 19 tiến hành cải cách thơng
qua các hình thức là gửi các bản điều trần lên nhà vua để mong muốn nhà vua
và bá quan văn võ đồng ý cho tiến hành cải cách. Tư tưởng của họ chỉ lo thuyết
phục triều đình phong kiến, mà khơng biết dựa vào nhân dân, không tuyên
truyền rộng rãi cho nhân dân biết đến tư tưởng cải cách của mình, tuy cũng có
một số nhà cải cách như Đặng huy Trứ, phạm Phú Thứ…đã xâm nhập vào thực
tiễn nhân dân để tiến hành cải cách mang lại một số thành quả nhất định, nhưng
suy cho cùng thì nhân dân vẫn chỉ là những người làm theo lệnh quan mà thơi,
khơng khơng hề biết gì về cái gọi là văn minh phương tây cả. Các nhà cải cách
đã không biết dựa vào sức mạnh của nhân dân để gây sức ép với triều đình thực
hiện cải cách mà chỉ trông chờ vào sự cho phép cải cách nhỏ giọt của Tự Đức
mà thôi. Ngay cả Tự Đức còn nghi ngờ về cái gọi là văn minh phương tây mà
các nhà cải cách đã tai nghe mắt thấy, thì huống hồ gì là nhân dân ta lúc bấy giờ.
Thứ 4: Các nhà cải cách cuối thế kỷ 19 đã chưa thực sự nhìn nhận ra bản
chất của chủ nghĩa thực dân, quá đề cao họ mà tiêu biểu ở đây là thực dân Pháp.
Nhà canh tân lớn của nước ta Nguyễn Trường Tộ trong bản di thảo số 1 đã đưa
ra nhận định: “Họ(Pháp) chỉ có một số yêu sách nhỏ, nếu được thỏa mãn thì họ
sẽ hết gây hấn ngay, Pháp đến nước ta chỉ cốt giao hảo, bn bán, chỉ xin mình
miến đất mà thơi.”. Đồng thời ơng cịn đánh giá q cao thực dân Pháp: “ Ở
châu âu, việc võ bị chỉ có Pháp là đứng hạng nhất, hùng mạnh nhất không thua



ai cả, khi kéo qn thì khí thế hiên ngang, khi lâm trận thí xơng pha tới trước,
tướng thì gan dạ, nhiều mưu trí giỏi binh pháp, quân lính thí dấn thân với một
khí thế ra đi khơng trở về… Thử đặt ra câu hỏi ở đây trong khi nước ta đang bị
thực dân Pháp xâm lược, Nguyễn Trường Tộ lại có xuất thân từ con chiên của
đạo thiên chúa giáo vốn đã bị triều đình nghi kỵ mà ơng lại hết sức đề cao thực
dân Pháp thì liệu rằng thái độ của triều đình sẽ như thế nào, hơn nữa điều quan
trọng cốt lõi ở đây là ông cho rằng Pháp khơng có ý định cướp nước ta mà chỉ
muốn giao hảo, điều này cũng góp phần làm hạn chế trong tư tưởng canh tân
của ông mà đặc biệt là thời gian canh tân đất nước( có thể kéo dài đến trăm
năm).
Thứ 5 là vì muốn làm cho triều đình thấy được tính chát khả thi của các
bản điều trần nên các nhà cải cách đã vạch ra chi tiết hàng loạt các biện pháp
canh tân đất nước mang tính nhỏ lẻ, khơng hệ thống trong q trình thực hiện
cải cách của mình, hầu hết các nhà canh tân đều đưa ra cải cách trên tất cả các
lĩnh vực từ kinh tế, văn hóa, giáo dục…nhưng có lĩnh vực lại vượt q khả năng
thực hiện, khơng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau trong các lĩnh vực cải cách.
Nguyễn Trường Tộ đưa ra biện pháp đào con kênh dẫn nước từ Hải Dương đến
đèo Ngang mà điều này là khơng thể trong tình hình lúc đó hay như Phạm Phú
Thứ với tư tưởng mở trường dạy học ngoại ngữ cho nhân dân, Phạm Phú Thứ
với việc sử dụng tàu buôn của tư nhân để vận chuyển, buôn bán với nước
ngồi…tất cả những điều đó là khơng thể, khơng mang tính khả thi.
Hạn chế thứ 6, là trong chính bản thân của Nguyễn Trường Tộ đã quá đặt
niềm tin vào triều đình trong khi đó triều đình phong kiến từ trung ương đến địa
phương đang trong tình trạng thối nát, tha hóa. Đồng thời ơng cịn thể hiện mâu
thuẫn trong chính tư tưởng của mình đó là trong việc canh tân đất nước với
thuyết Thiên Mệnh, một mặt ông muốn canh tân đất nước làm cho dân giàu
thoát khỏi sự xâm lược của chủ nghĩa thực dân, nhưng trong chính tư tưởng của
ơng lại phản bác lại điều đó. Ông cho rằng “ các nước phương Tây đã bao chiếm
nhiều ruộng đất phương Đơng như thế nào? Đó là số mệnh trời đã định, huống



hồ nước Việt ta là một nước bé nhỏ tại sao lại muốn trái lại trời, làm việc thiên
hạ khó làm được. Như vậy, trong chính tư tưởng cịn có sự mâu thuẫn dằn xé
chưa rõ ràng thì làm sao có thể canh tân đất nước thắng lợi được.



×