Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

Phương pháp rèn luyện kĩ năng sử dụng bản đồ trong dạy học địa lí 12 ở trường thpt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.78 MB, 91 trang )

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA ĐỊA LÝ
----------

BÙI THỊ THÚY

Phương pháp rèn luyện kĩ năng sử dụng bản đồ
trong dạy học địa lí 12 ở trường THPT

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP

SƯ PHẠM ĐỊA LÝ

1


A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Giáo dục và đào tạo đang là vấn đề thách thức của toàn cầu. Hiện nay, các quốc
gia trên thế giới đang nỗ lực đổi mới nội dung và phương pháp giáo dục và đào tạo với
nhiều mơ hình, biện pháp khác nhau nhằm mở rộng qui mơ, nâng cao tính tích cực
trong dạy và học một cách toàn diện, dạy làm sao để giúp người học hướng tới việc học
tập chủ động, chống lại thói quen học tập thụ động. Trong dạy học, người GV không
chỉ dạy cho HS mỗi kiến thức mà còn phải rèn luyện cho HS những kĩ năng tương ứng
có như vậy mới phát huy được tính tích cực, chủ động trong q trình học. Đối với
mơn địa lí bên cạnh hệ thống kiến thức tàng trữ trong SGK thì cịn tồn tại song song hệ
thống kĩ năng địa lí có trong chương trình. Trong hệ thống các kĩ năng này thì kĩ năng
sử dụng bản đồ là quan trọng nhất và đặc trưng nhất của môn địa lí.
“Địa lí bắt đầu và kết thúc bằng bản đồ”. Quả đúng như vậy, trong bộ mơn Địa
lí ở trường phổ thơng nói chung và Địa lí lớp 12 nói riêng, việc sử dụng bản đồ trong


các tiết dạy là rất thường xuyên và thiết thực. Bản đồ không những là phương tiện
minh họa cho nội dung bài học mà còn chứa đựng kiến thức cho HS khai thác, giúp các
em hiểu sâu hơn, cụ thể hơn thế giới xung quanh chúng ta và những vấn đề địa lí liên
quan.
Rèn luyện kĩ năng sử dụng bản đồ giúp HS lĩnh hội được kiến thức địa lí một
cách nhẹ nhàng, nhanh chóng và ghi nhớ kiến thức lâu bền. Vì vậy, việc giảng dạy kiến
thức lí thuyết kết hợp với rèn luyện kĩ năng địa lí cho HS là một việc làm rất cần thiết.
Rèn luyện kĩ năng bản đồ còn là phương tiện đặc biệt quan trọng để phát triển tư duy
nói chung và tư duy địa lí nói riêng. Trong khi học tập sử dụng bản đồ, HS ln phải
quan sát, tưởng tượng, phân tích đối chiếu, so sánh, tổng hợp, khái quát hoá, xác lập
các mối quan hệ địa lí, vì thế tư duy của các em ln ln hoạt động và phát triển.
Chính vì vậy, rèn luyện kĩ năng càng cao bao nhiêu thì càng tạo ra tiền đề cho chất
lượng cao của kiến thức địa lí bấy nhiêu.

2


Tuy nhiên trên thực tế, vì nhiều điều kiện khác nhau mà công việc này chưa đạt
được nhiều kết quả tốt. Nhiều GV chỉ chú trọng dạy kiến thức mà quên đi hay ít quan
tâm đến việc rèn luyện kĩ năng cho HS. Mặt khác, HS chưa nhận thức được hết vai trò
và tác dụng của việc tiếp thu nội dung kiến thức thông qua những kĩ năng này nên chưa
hứng thú học tập, cho nên việc sử dụng bản đồ chỉ dừng lại ở mức coi bản đồ là
phương tiện minh họa, chỉ có một số ít GV chú ý đến việc rèn luyện cho HS sử dụng
bản đồ để khai thác kiến thức địa lí.
Xuất phát từ những lí do trên, tơi quyết định chọn đề tài : “Phương pháp rèn
luyện kĩ năng sử dụng bản đồ trong dạy học địa lí 12 ở trường THPT” để nghiên
cứu.
2. Lịch sử nghiên cứu
Vấn đề nghiên cứu phương pháp sử dụng bản đồ trong dạy học địa lí đã có từ rất
sớm. Chính vì vậy trong lĩnh vực khoa học địa lí đã có nhiều nhà khoa học, nhà sư

phạm địa lí nghiên cứu về vấn đề này.
Trên thế giới, có nhiều nhà nghiên cứu đã biên soạn các cuốn sách về vấn đề
rèn luyện kĩ năng địa lí cho HS như: N.N.Baranski; W.D - Walter Jabn; I.F Kharlamôp;
L.V Panshenhicova…
Ở Việt Nam, nhiều nhà tác giả cũng đã thấy rõ tầm quan trọng của việc rèn
luyện kĩ năng sử dụng bản đồ cho HS. Chính vì thế vấn đề này được đề cập trong nhiều
giáo trình như:
- Các tác giả: Lâm Quang Dốc (Chủ biên) – Lê Huỳnh… nghiên cứu về tập bản
đồ bài tập dùng cho các lớp 6,7,8,9,10,11,12 xuất bản các năm từ 1984 đến 1994.
- Trong cuốn “Lí luận dạy học địa lí” của PGS. Nguyễn Dược – Nguyễn Trọng
Phúc nhà xuất bản ĐHQG (1998) và “Lí luận dạy học địa lí” của PGS.T.S Đậu Thị
Hịa ĐH SP Đà Nẵng (2004). Trong tài liệu này đã nêu lên các loại kĩ năng và phương
thức hình thành kĩ năng địa lí cho nhà trường phổ thơng một cách khái quát, đưa ra
phương pháp hướng dẫn HS khai thác tri thức từ bản đồ nói chung, giới thiệu cách đọc
bản đồ ở ba mức.

3


- Cuốn “Rèn luyện kĩ năng địa lí” của tác giả Mai Xuân San – nhà xuất bản
Giáo Dục (1997) cũng chỉ ra từng kĩ năng sử dụng, khai thác bản đồ theo trình tự: Ý
nghĩa, cách thức tiến hành, quy trình tiến hành.
- “Phương pháp sử dụng các phương tiện dạy học địa lí ở trường phổ thơng”
của PGS.TS Nguyễn Đức Vũ (chủ biên), ĐH Huế 7/2000 đã trình bày về quan niệm,
chức năng và một số điểm chú ý trong sử dụng phương tiện dạy học địa lí, phương
pháp sử dụng các phương tiện dạy học địa lí truyền thống và một số phương tiện kĩ
thuật thường dùng trong dạy học địa lí phổ thơng.
- Ngồi ra cịn có một số tác giả khác nghiên cứu về vấn đề này như: Đặng Văn
Đức; Nguyễn Đức Vũ…
Bên cạnh đó cịn nhiều cơng trình nghiên cứu khác được trình bày trong các hội

thảo như: Hội thảo khoa học về phương pháp dạy học địa lí của khoa Sử - Địa tại
trường Đại học sư phạm Đà Nẵng diễn ra vào tháng 4/2005; các cơng trình nghiên cứu
khoa học, nghiên cứu luận án, khóa luận tốt nghiệp…
Các tài liệu trên đều nhấn mạnh ý nghĩa của việc sử dụng bản đồ trong dạy học
địa lí, xác định một số phương pháp để rèn luyện các kĩ năng địa lí, kĩ năng sử dụng
bản đồ cho HS… Tuy nhiên việc rèn luyện kĩ năng sử dụng bản đồ cho HS, đặc biệt là
trong chương trình địa lí lớp 12 đến nay vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề bất cập. Việc rèn
luyện kĩ năng sử dụng bản đồ cho HS trong dạy học địa lí là rất cần thiết nhằm giúp
cho HS khai thác tốt kiến thức địa lí gắn với bản đồ.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Xác định các kĩ năng sử dụng bản đồ và cách thức rèn luyện bản đồ trong dạy
học địa lí 12 góp phần đổi mới phương pháp dạy học và nâng cao chất lượng dạy học.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lí luận của việc hình thành kĩ năng sử dụng bản đồ trong dạy
học địa lí.

4


- Tìm hiểu đặc điểm, nội dung chương trình SGK địa lí lớp 12. Qua đó xác định
các kĩ năng sử dụng bản đồ và một số cách thức rèn luyện cho HS trong q trình dạy
học địa lí 12.
- Nghiên cứu đặc điểm tâm sinh lí HS lớp 12 THPT.
- Tìm hiểu thực trạng rèn luyện kĩ năng sử dụng bản đồ ở các trường THPT.
- Thực nghiệm việc rèn luyện kĩ năng sử dụng bản đồ và một số bài dạy cụ thể
tại một số trường THPT.
4. Đối tượng, giới hạn nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Phương pháp rèn luyện kĩ năng sử dụng bản đồ cho HS trong q trình dạy học

địa lí 12.
4.2. Giới hạn nghiên cứu
Địa lí 12, phần “Địa lí các vùng kinh tế” (Ban cơ bản).
Địa bàn thực hiện: Một số trường THPT ở Quảng Nam.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp nghiên cứu lí thuyết
Thu thập, phân tích tổng hợp các nguồn tài ngun tài liệu, tạp chí, sách tham
khảo… có liên quan đến đề tài để nghiên cứu hệ thống các phương pháp dạy học địa lí
nói chung và phương pháp rèn luyện kĩ năng sử dụng bản đồ nói riêng. Từ đó vận dụng
các phương pháp đó vào dạy học địa lí lớp 12 THPT.
5.2. Phương pháp điều tra khảo sát thực tế
- Điều tra, khảo sát thực trạng việc rèn luyện kĩ năng sử dụng bản đồ cho HS tại
các trường một số trường THPT thông qua phiếu điều tra.
- Tiến hành trao đổi, phỏng vấn với GV và HS lớp 12 ở các trường TN.
Nội dung điều tra, khảo sát chủ yếu là về mức độ nhận thức và việc sử dụng bản
đồ trong dạy học địa lí 12 tại một số trường THPT trên địa bàn Quảng Nam.
5.3. Phương pháp thực nghiệm sư phạm

5


- Tiến hành TN sư phạm tại một số trường THPT thơng qua việc giảng dạy một
số bài có rèn luyện kĩ năng sử dụng bản đồ cho HS nhằm kiểm chứng kết quả nghiên
cứu của đề tài.
- Từ đó đề xuất, kiến nghị và nêu các giải pháp để rèn luyện kĩ năng sử dụng
bản đồ.

5.4. Phương pháp thống kê toán học
Qua việc điều tra, khảo sát và TN sư phạm để thống kê, phân tích, xử lí kết quả
điều tra đánh giá quá trình TN.

6. Cấu trúc của khóa luận
Ngồi phần mở đầu, mục lục, phần kết luận, kiến nghị và tài liệu tham khảo, lời
cảm ơn, đề tài nghiên cứu gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận chung và thực tiễn của đề tài.
Chương 2: Phương pháp rèn luyện kĩ năng sử dụng bản đồ trong dạy học địa lí
12
Chương 3: Thực nghiệm sư phạm

6


B. PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC RÈN LUYỆN KĨ
NĂNG SỬ DỤNG BẢN ĐỒ CHO HỌC SINH TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 12 Ở
TRƯỜNG THPT
1.1. Kĩ năng địa lí
1.1.1. Khái niệm
a. Kĩ năng
Gần đây chúng ta nghe nói rất nhiều về thuật ngữ "kĩ năng" như là kĩ năng sống,
kĩ năng mềm, kĩ năng chuyên môn… Tuy nhiên để hiểu rõ thuật ngữ này thì vẫn cịn
nhiều người chưa hiểu hết.
Kĩ năng là gì? Có nhiều cách định nghĩa khác nhau về kĩ năng. Những định
nghĩa này thường bắt nguồn từ góc nhìn chuyên môn và quan niệm cá nhân của người
viết. Tuy nhiên hầu hết chúng ta đều thừa nhận rằng kĩ năng được hình thành khi chúng
ta áp dụng kiến thức vào thực tiễn. Kĩ năng học được do quá trình lặp đi lặp lại một
hoặc một nhóm hành động nhất định nào đó. Kĩ năng ln có chủ đích và định hướng
rõ ràng.
Kĩ năng theo tâm lí học nói chung, là phương thức thực hiện một hành động nào
đó, thích hợp với mục đích và những điều kiện hành động.
A.V.Petrovxki: Kĩ năng là sự vận dụng những tri thức, kĩ xảo đã có để lựa chọn

thực hiện những phương thức hành động tương ứng với mục đích đề ra.
Bui Văn Huệ: Kĩ năng là khả năng vận dụng tri thức, khái niệm, định nghĩa,
định luật vào thực tiễn.

7


Lưu Xuân Mới: Kĩ năng là sự biểu hiện kết quả hành động trên cơ sở kiến thức
đã có. Kĩ năng là tri thức trong hành động
Từ điển tiếng Việt: Kĩ năng là khả năng vận dụng những kiến thức thu được vào
thực tế.
Như vậy, kĩ năng là phương thức thực hiện một hành động nào đó nhằm đạt
được mục đích. Hay chính xác hơn kĩ năng là năng lực hay khả năng của chủ thể thực
hiện thuần thục một hay một chuỗi hành động trên cơ sở hiểu biết (kiến thức hoặc kinh
nghiệm) nhằm tạo ra kết quả mong đợi.
b. Kĩ năng địa lí
Kĩ năng địa lí thực chất là những hoạt động thực tiễn, mà HS hình thành được
một cách có ý thức, trên cơ sở vận dụng những kiến thức địa lí đã có.
Chính vì vậy, muốn có kĩ năng trước hết HS phải có kiến thức và biết cách vận
dụng chúng vào trong thực tiễn một cách sáng tạo. Kĩ năng nếu được thường xuyên rèn
luyện và lặp đi lặp lại nhiều lần sẽ trở thành kĩ xảo. Trong kĩ xảo, hành động của HS đã
trở thành thành thục, có tính chất tự động. Ví dụ: Khi đọc bản đồ nếu HS biết đối chiếu
các kí hiệu trên bảng chú giải với các kí hiệu trên bản đồ để hiểu ý nghĩa của chúng, thì
họ đã có kĩ năng ban đầu về đọc các kí hiệu trên bản đồ. Nhưng nếu khi nhìn vào bản
đồ, HS đã hình dung ngay ra các đối tượng biểu hiện trên bản đồ, mà khơng phải dị
dẫm đối chiếu để giải mã các kí hiệu, thì việc đọc bản đồ của các em đã trở thành kĩ
xảo.
1.1.2. Đặc điểm của kĩ năng địa lí
Việc nắm kĩ năng, kĩ xảo của HS là một q trình hành động theo mẫu, nếu
khơng có mẫu thì phải được chỉ dẫn từng động tác một cách sao sát theo một trình tự

nhất định. Nếu HS chưa tận mắt nhìn thấy cách thực hiện đó bao giờ thì khó có thể
hình dung được kĩ năng đó một cách cụ thể.
Điều kiện thứ hai cũng hết sức cần thiết trong việc nắm kĩ năng của HS, đó là
vấn đề phương tiện. Phương tiện, nó hết sức cần thiết cho việc nắm kĩ năng của HS.
Phần lớn các kĩ năng đều có liên quan đến phương tiện và địi hỏi phải có phương tiện.
Ví dụ: muốn nắm kĩ năng về bản đồ, khơng thể khơng có phương tiện triển khai kĩ

8


năng là bản đồ hoặc muốn nắm kĩ năng khai thác tri thức địa lí từ tranh ảnh thì khơng
thể khơng có tranh ảnh...
Cũng tương tự như việc nắm kiến thức, việc nắm kĩ năng của HS được thực hiện
theo 2 giai đoạn chính: Giai đoạn nắm lý thuyết và giai đoạn rèn luyện kĩ năng.
- Trong giai đoạn nắm kĩ năng: Trước tiên HS phải hiểu rõ mục đích của hành
động, tức là biết kĩ năng sẽ thực hiện là kĩ năng gì (Ví dụ: Vẽ biểu đồ hoặc phân tích số
liệu, đọc bản đồ…), kĩ năng đó dùng để làm gì? (Biểu hiện sự phát triển dân số hay cơ
cấu xuất nhập khẩu…), nó có tác dụng như thế nào trong việc học tập địa lí? (Minh họa
cho một quá trình phát triển sản xuất hay nghiên cứu một hiện tượng kinh tế - xã hội
của một nước, một khu vực…). Sau khi nắm được những vấn đề trên, HS cần phải nắm
được quá trình hành động của kĩ năng. Ví dụ: Hoạt động với phương tiện hay dụng cụ
quan trắc nào, tính tốn hay phân tích, so sánh dựa trên các số liệu, các bản đồ nào và
trình tự tiến hành ra sao. Tất cả những vấn đề trên là những vấn đề lý thuyết, cần thiết
cho một kĩ năng mới.
- Trong giai đoạn rèn luyện kĩ năng: Trước tiên HS cần được quan sát tận mắt,
ít nhất một lần việc thực hiện kĩ năng mẫu, sau đó mới tự mình thực hiện theo kĩ năng
và quy trình đã biết. Cuối cùng, việc nắm kĩ năng của HS phải được kết thúc bằng việc
rút kinh nghiệm và đánh giá.
Quá trình hình thành kĩ năng gồm 3 bước:
+ Bước 1: Nhận thức đầy đủ về mục đích

+ Bước 2: Quan sát mẫu và làm thử theo mẫu
+ Bước 3: Luyện tập để tiến hành các hành động theo đúng yêu cầu, điều kiện
hành động nhằm đạt được mục đích đặt ra.
1.1.3. Các loại kĩ năng địa lí
Hiện nay trong mơn địa lí, việc hình thành kĩ năng, kĩ xảo cho HS trong nhà
trường đều tập trung vào các nhóm kĩ năng sau:
- Kĩ năng làm việc với bản đồ, khai thác kiến thức địa lí tàng trữ trong bản đồ.
Trong nhóm kĩ năng này gồm có các kĩ năng như định hướng trên bản đồ; đo tính
khoảng cách, độ sâu hay chiều cao trên bản đồ; tìm tọa độ địa lí trên bản đồ, xác định

9


vị trí địa lí các đối tượng trên bản đồ; đọc bản đồ và sử dụng bản đồ…Đây là loại kĩ
năng quan trọng nhất và đặc trưng nhất của môn địa lí.
- Kĩ năng khảo sát các hiện tượng địa lí ngồi thực địa. Thuộc nhóm kĩ năng này
có các kĩ năng như quan sát, phân tích hiện tượng, đo đạc các dụng cụ quan trắc đơn
giản về thơi tiết, thỗ nhưỡng, địa hình, khí hậu…
- Kĩ năng nghiên cứu, làm việc với các tài liệu địa lí: SGK, tài liệu tham khảo,
làm việc với biểu đồ, số liệu thống kê, các mơ hình, lát cắt…
- Kĩ năng học tập, nghiên cứu địa lí: trong đó có các kĩ năng như đọc sách, kĩ
năng mơ tả, viết và trình bày những vấn đề địa lí…
- Kĩ năng làm việc với máy tính và các phần mềm địa lí như kĩ năng khai thác
Internet, kĩ năng vẽ biểu đồ trên máy tính, kĩ năng khai thác các phần mềm có nội dung
địa lí…
1.1.4. Vai trị của kĩ năng trong dạy học địa lí.
Việc rèn luyện kĩ năng địa lí cho HS có một vai trị đặc biệt quan trọng trong
dạy học địa lí. Nó sẽ giúp cho HS lĩnh hội được kiến thức địa lí một cách nhẹ nhàng,
nhanh chóng và ghi nhớ lâu bền.
Nắm kĩ năng, kĩ xảo địa lí là điều kiện giúp HS có khả năng chủ động trong việc

khai thác tri thức dưới sự hướng dẫn của GV.
Nắm kĩ năng, kĩ xảo địa lí có quan hệ chặt chẽ với việc nắm kiến thức và thường
được tiến hành đồng thời với việc nắm kiến thức, để chuẩn bị cho việc vận dụng kiến
thức vào thực tiễn, kĩ năng bao giờ cũng xuất phát từ kiến thức, cũng dựa trên kiến
thức và là kết quả của kiến thức trong hành động. Sự chuyển hóa của kiến thức thành kĩ
năng, kĩ xảo được thực hiện trong các bài luyện tập, các bài thực hành, các bài thực
nghiệm và trong cơng tác độc lập của HS.
Trong q trình dạy học địa lí, việc rèn luyện kĩ năng, kĩ xảo cho HS là rất quan
trọng, bởi vì đối với GV, HS có nắm được kĩ năng của bộ mơn, thì GV mới thay đổi
được phương pháp dạy học, chuyển từ phương pháp truyền thống sang phương pháp
phát huy tích cực, chủ động của HS trong việc khái thác tri thức. Đối với HS thì việc
nắm vững các kĩ năng sẽ hình thành cho các em năng lực tự học, tự phát hiện tri thức,

10


dựa vào sự hướng dẫn của GV và đặc biết là khả năng vận dụng được những kiến thức
đã học vào thực tiễn.
Rèn luyện kĩ năng bản đồ là một phương tiện đặc biệt quan trọng để phát triển
năng lực tư duy nói chung và năng lực tư duy địa lí nói riêng. Trong khi tập sử dụng
bản đồ, HS phải ln quan sát, tưởng tượng, phân tích, đối chiếu, so sánh, tổng hợp,
khái quát hóa, xác lập mối liên hệ địa lí, tư duy các em ln ln hoạt động và phát
triển. Việc rèn luyện kĩ năng bản đồ khơng những giúp các em nắm chắc kiến thức mà
cịn trau dồi cho các em phương pháp nghiên cứu địa lí.
1.2. Kĩ năng sử dụng bản đồ
1.2.1. Bản đồ địa lí
Trước đây người ta thường quan niệm: Bản đồ địa lí là sự biểu hiện thu nhỏ một
phần hay tồn bộ bề mặt Trái Đất lên bản vẽ. Quan niệm trên chưa đầy đủ và chính
xác về bản đồ địa lí. Bản đồ địa lí khơng phải là một bức ảnh chụp hàng không hay bức
tranh phong cảnh vẽ thu nhỏ tồn bộ Trái Đất mà nó cịn có khả năng giải thích tồn bộ

tính chất của các đối tượng có trên bản đồ. Mặt khác nói như trên, bản đồ địa lí chỉ hạn
chế trong việc biểu hiện những đối tượng có trên bề mặt Trái Đất, trong khi đó nó cịn
biểu hiện những đối tượng hiện tượng phức tạp phân bố trên bề mặt, trong khơng gian,
dưới lịng đất và cả những hiện tượng đó có thể biến đổi theo thời gian.
Định nghĩa của nhà bản đồ học người Nga K.A. Salisev được mọi người thừa
nhận là đầy đủ và hồn chỉnh nhất: “Bản đồ địa lí là mơ hình kí hiệu hình tượng khơng
gian của các đối tượng, hiện tượng tự nhiên và xã hội, được thu nhỏ, được tổng hợp
hoá theo một cơ sở toán học nhất định, nhằm phản ánh vị trí, sự phân bố không gian
và mối tương quan giữa các đối tượng và hiện tượng và những biến đổi của chúng theo
thời gian để thoả mãn mục đích yêu cầu đã định trước”.
Như vậy, bản đồ địa lí là sự biểu thị thu nhỏ quy ước của bề mặt Trái Đất lên
mặt phẳng, xây dựng trên cơ sở toán học với sự trợ giúp và sử dụng các ký hiệu qui
ước để phản ánh sự phân bố, trạng thái và mối quan hệ tương quan của các hiện tượng
thiên nhiên và xã hội được lựa chọn và khái quát hoá để phù hợp với mục đích sử dụng
của bản đồ và đặc trưng cho khu vực nghiên cứu.

11


Bản đồ địa lí có 3 đặc điểm cơ bản:
- Được thành lập bằng các phương pháp toán học.
- Bản đồ địa lí thể hiện các đối tượng và hiện tương địa lí trên bề mặt Trái Đất
bằng một hệ thống các kí hiệu đặc biệt.
- Lựa chọn và khái quát hóa các đối tượng được biểu hiện là đặc tính đặc biệt
quan trọng của bản đồ địa lí.
1.2.2. Các kĩ năng bản đồ
Trong khi sử dụng bản đồ để khai thác được kiến thức trên bản đồ xét về mức
độ có ba kĩ năng cần rèn luyện cho HS.
* Kĩ năng hiểu bản đồ:
Là kĩ năng đầu tiên cần rèn luyện cho HS, nghĩa là các em phải có kiến thức tối

thiểu về bản đồ. Ngay trong chương trình địa lí ở các khối, các lớp khơng có nhiều giờ
học về bản đồ. Để hiểu được bản đồ địa lí, HS phải nắm được những kiến thức rải rác
trong các bài ở nhiều lớp, cịn để có kĩ năng về bản đồ thì HS phải thơng qua việc thực
hiện các bài thực hành có liên quan đến bản đồ.
- Trước hết, muốn hiểu bản đồ HS phải biết và dựa vào định nghĩa của nó. Trên
cơ sở định nghĩa HS phải hiểu được tính chất, đặc điểm của bản đồ địa lí và bản đồ
giáo khoa, hiểu được các yếu tố hình thành trên bản đồ.
- Từ các phép chiếu đồ khác nhau, dẫn đến hệ thống kinh vĩ tuyến có hình dạng
khác nhau trên bản đồ. Dựa vào hệ thống kinh, vĩ tuyến HS có thể xác định tọa độ địa
lí của các lãnh thổ…
- Bên cạnh hệ thống kinh, vĩ tuyến trên bản đồ, phải chú ý đến tỷ lệ của bản đồ.
- Những nội dung được biểu hiện trên bản đồ, cịn được thể hiện thơng qua bản
chú giải của nó. Vì vậy cần hướng dẫn HS khai thác bảng chú giải để khai thác và sử
dụng bản đồ có hiệu quả.
* Đọc bản đồ:
Trong các kĩ năng bản đồ, khó và phức tạp nhất đối với HS, là kĩ năng đọc bản
đồ. Việc rèn luyện kĩ năng đọc bản đồ cho HS trong giảng dạy địa lí trước hết phải dựa

12


trên cơ sở hiểu bản đồ, vì vậy hiểu bản đồ là bước đầu tiên trong rèn luyện kĩ năng bản
đồ. Đây là chìa khóa để đọc và nhận biết các nội dung địa lí được đưa lên bản đồ ở
những mức độ khác nhau. Đọc bản đồ giáo khoa địa lí cũng giống như đọc một cuốn
SGK, người đọc có thể qua đó, nắm được một số thơng tin về số lượng và chất lượng,
về cấu trúc của các hiện tượng địa lí được trình bày trên bản đồ, từ đó mà phân tích,
tổng hợp, khái qt các đối tượng được thể hiện trên bản đồ. Đọc bản đồ có ba mức độ
khác nhau:
- Mức sơ đẳng nhất: Thể hiện ở chổ đọc được vị trí của các đối tượng địa lí, có
được biểu tượng về các đối tượng đó, thơng qua hệ thống các kí hiệu quy ước ghi trong

bảng chú giải.
- Mức thứ hai: Cao hơn đòi hỏi HS phải biết dựa vào những hiểu biết về bản đồ,
kết hợp với các kiến thức địa lí, để tìm ra những đặc điểm tương đối rõ ràng của những
đối tượng địa lí biểu hiện trên bản đồ.
- Mức thứ ba: Đòi hỏi khi đọc bản đồ, HS còn phải biết kết hợp những kiến thức
bản đồ với những kiến thức địa lí sâu hơn để so sánh, phân tích, tìm ra được, mối liên
hệ giữa các đối tượng đó.
Đối với GV, hướng dẫn HS khai thác kiến thức trên bản đồ chủ yếu là hướng
dẫn HS đọc được bản đồ ở các mức độ trên, quan trọng nhất là mức hai và ba.
* Sử dụng bản đồ
Đây là kĩ năng cao nhất về bản đồ, kĩ năng này địi hỏi HS khơng chỉ biết đọc,
hiểu bản đồ mà còn phải biết vận dụng các tri thức bản đồ, tri thức địa lí biểu hiện trên
bản đồ. Cụ thể biết cách so sánh, phân tích, tổng hợp xác lập mối quan hệ giữa các đối
tượng địa lí được thể hiện trên bản đồ, từ đó biết tìm ra kiến thức mới tiềm ẩn trong
bản đồ. Rèn luyện kĩ năng bản đồ cho HS phải qua nhiều bước từ đơn giản đến phức
tạp, từ thấp đến cao, đó là cả một quá trình, bắt đầu từ bậc tiểu học.
Các kĩ năng bản đồ cụ thể cần rèn luyện cho HS, từ đơn giản đến phức tạp, từ
thấp lên cao:
- Kĩ năng nhận biết, chỉ và đọc tên các đối tượng địa lí trên bản đồ
- Kĩ năng xác định phương hướng, đo tính khoảng cách trên bản đồ

13


- Kĩ năng xác định tọa độ, vị trí địa lí
- Kĩ năng mơ tả từng yếu tố thành phần của tự nhiên, kinh tế - xã hội, chính trị
được biểu hiện trên bản đồ
- Kĩ năng xác định các mối quan hệ địa lí trên bản đồ
- Kĩ năng mơ tả tổng hợp địa lí một khu vực, tức là mơ tả khu vực đó về nhiều
mặt: vị trí địa lí, địa hình, khí hậu, thủy văn, sinh vật, dân cư...

1.2.3. Vai trò của bản đồ trong dạy học địa lí
Bản đồ địa lí là một phương tiện trực quan, một nguồn tri thức quan trọng. Qua
bản đồ, HS có thể nhìn một cách bao qt các khu vực lãnh thổ rộng lớn, những vùng
lãnh thổ xa xôi trên bề mặt Trái Đất, mà họ chưa bao giờ có điều kiện đi đến tận nơi để
quan sát.
Trong dạy học địa lí, bản đồ có khả năng phản ánh sự phân bố và những mối
quan hệ của các đối tượng địa lí trên bề mặt Trái Đất một cách cụ thể, mà khơng một
phương tiện nào có thể làm được. Những kí hiệu, màu sắc, cách biểu hiện trên bản đồ
là những nơi dung địa lí đã được mã hóa, trở thành một thứ ngôn ngữ đặc biệt - ngôn
ngữ bản đồ.
Ngồi ra, bản đồ cịn được coi là phương tiện trực quan, vì vậy trong q trình
dạy học có sử dụng bản đồ sẽ giúp HS khai thác, củng cố kiến thức và phát triển tư duy
trong quá trình giảng dạy địa lí.
Để khai thác được những tri thức trên bản đồ, trước hết, HS phải hiểu bản đồ,
đọc và sử dụng được bản đồ, nghĩa là phải có những kiến thức lí thuyết về bản đồ, trên
cơ sở đó có được những kĩ năng làm việc với bản đồ.
Như vậy, bản đồ trong dạy học địa lí có một vai trị đặc biệt quan trọng, vì vậy
việc rèn luyện kĩ năng sử dụng bản đồ là hết sức cần thiết. Là phương tiện dạy học vừa
điều khiển được hoạt động nhận thức một cách sinh động, vừa là nguồn tri thức phong
phú để lĩnh hội tri thức và rèn luyện kĩ năng. Khơng dừng lại ở đó, bản đồ còn giúp HS
đào xới sâu hơn vào “miếng đất” tri thức mà mình đã lĩnh hội trước đó, giúp các em có
thêm chất men hứng thú tiếp nhận tri thức và hình thành các kĩ năng, năng lực khác.

14


Với người dạy, bản đồ lại là chất xúc tác để làm cho bài giảng sâu sắc hơn, tinh giản
mà đầy đủ.

1.3. Đặc điểm chương trình và SGK địa lí lớp 12 THPT ( Ban cơ bản)

1.3.1. Mục tiêu của chương trình địa lí lớp 12
a. Mục tiêu chung chương trình Địa lí THPT
Mơn địa lí ở THPT nhằm góp phần hồn thiện học vấn phổ thơng cho HS, phát
triển tư duy logic, tạo điều kiện cho HS tiếp tục học lên các lĩnh vực khoa học tự nhiên;
cũng cố và phát triển tiếp bốn năng lực chủ yếu của HS đã được hình thành từ cấp cơ
sở, đáp ứng mục tiêu giáo dục và phát triển con người Việt Nam trong thời kì cơng
nghiệp hóa - hiện đại hóa. Các năng lực đó là:
- Năng lực hành động có hiệu quả trên cơ sở những kiến thức kĩ năng, phẩm
chất đã được hình thành trong quá trình học tập, rèn luyện và giao tiếp.
- Năng lực hợp tác, phối hợp hoạt động trong học tập và đời sống.
- Năng lực sáng tạo, có thể thích ứng với những thay đổi trong cuộc sống.
- Năng lực tự khẳng định bản thân.
Tất cả những điều nói ở trên được thực hiện thơng qua việc phát huy có hiệu
quả các đặc trưng của bộ môn, được quán triệt từ việc cơ cấu 1 chương trình có hệ
thống, hợp lý đến việc lựa chọn các chuẩn về kiến thức, kĩ năng; ở việc thể hiện các
yêu cầu này trong SGK, các sách tham khảo; và cuối cùng là ở việc tổ chức dạy học,
việc đánh giá kết quả học tập của HS.
b. Mục tiêu cụ thể của chương trình địa lí 12
Chương trình địa lí 12 dành cho địa lí Việt Nam gồm cả địa lí tự nhiên và địa lí
kinh tế - xã hội. Mục tiêu của chương trình này là:
- Về kiến thức: Tiếp tục hoàn thiện kiến thức của HS về địa lí Việt Nam. Học
xong chương trình địa lí 12, HS cần nắm được các đặc điểm tự nhiên, tài nguyên thiên
nhiên, dân cư, kinh tế và một số vấn đề đang được đặt ra nhằm sử dụng hợp lý tự

15


nhiên, giảm thiểu hậu quả của thiên tai, nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân,
phát triển kinh tế - xã hội của cả nước cũng như của các vùng lãnh thổ, địa phương nơi
học sinh đang sống.

- Về kĩ năng: Tiếp tục hoàn thiện cũng cố và phát triển các kĩ năng địa lí nhằm
phát triển hơn nữa tư duy địa lí cho HS, đó là tư duy tổng hợp, gắn với lãnh thổ, có liên
hệ thường xuyên với thực tiễn đời sống và sản xuất. Các kĩ năng cụ thể là:
+ Quan sát, nhận xét, phân tích, tổng hợp, đánh giá các sự vật hiện tượng địa lí.
+ Sử dụng các bản đồ, lược đồ, biểu đồ, lát cắt, số liệu thống kê.
+ Thu thập, xử lý và trình bày các thơng tin địa lí.
+ Vận dụng kiến thức để giải thích các hiện tượng, sự vật địa lí và để ứng dụng
vào thực tiễn của cuộc sống.
- Về thái độ, tình cảm: Làm giàu thêm ở HS tình yêu quê hương, đất nước, tinh
thần tự cường dân tộc và niềm tin vào tương lai của đất nước, của dân tộc; cũng cố cho
HS thế giới quan khoa học, nhân sinh quan đúng đắn, tinh thần trách nhiệm trong bảo
vệ môi trường, xây dựng kinh tế xã hội ở q hương.
1.3.2. Cấu trúc chương trình địa lí 12 - ban cơ bản
Trước hết, cần lưu ý rằng, kiến thức về địa lí tự nhiên Việt Nam đã được đề cập
khá hệ thống, tuy với thời lượng không nhiều ở lớp 8 (23 tiết). Địa lí kinh tế - xã hội
Việt Nam cũng được dạy một cách khá cơ bản ở lớp 9 (52 tiết). Nay, chương trình địa
lí Việt Nam bao gồm cả địa lí tự nhiên và địa lí kinh tế - xã hội lại được dạy ở lớp 12
(53 tiết). Do ở nước ta đang tiến tới phổ cập trung học cơ sở, không phải mọi HS đều
có điều kiện hồn thành giáo dục THPT, nên cấu tạo chương trình đồng tâm và nâng
cao như hiện nay là hợp lý. Điểm khác biệt quan trọng trong chương trình địa lí 12 là ở
tính nâng cao, địi hỏi HS khơng chỉ nhận biết mà cịn phải giải thích các hiện tượng
địa lí tự nhiên và kinh tế - xã hội; là ở việc lựa chọn và trình bày các nội dung dưới
hình thức các vấn đề. Các kĩ năng được nâng cao hơn nhiều, với những bài tập địi hỏi
phải tổng hợp kiến thức và có nhiều thao tác tư duy, trình bày các báo cáo ngắn (Viết
hoặc nói trước lớp). Bên cạnh các bài tập cá nhân, các hoạt động theo nhóm được chú ý
nhằm tăng cường khả năng hợp tác của HS.

16



Địa lí 12 được cấu tạo theo đơn vị kiến thức lớn, sắp xếp theo logic của khoa
học và phù hợp với logic của q trình dạy học. Đó là các phần chủ yếu sau đây:
+ Việt Nam trên đường đổi mới và hội nhập (1 tiết).
+ Địa lí tự nhiên (14 tiết.)
+ Địa lí dân cư (4 tiết)
+ Địa lí kinh tế (24 tiết).
+ Địa lí địa phương (2 tiết).
+ Ôn tập và kiểm tra (8 tiết).
Bài mở đầu (bài 1) nhằm giới thiệu bối cảnh quốc tế và trong nước, những thành
tựu đã đạt được trong công cuộc đổi mới và những định hướng chính để nước ta tiếp
tục đổi mới và hội nhập.
Phần địa lí tự nhiên Việt Nam không chỉ đề cập đến các đặc điểm cơ bản của
thiên nhiên Việt Nam, những quy luật phân hóa lãnh thổ tự nhiên, mà cịn đánh giá tự
nhiên như các nguồn lực thường xuyên và cần thiết để phát triển kinh tế - xã hội. Vì
thế, các kiến thức về địa lí tự nhiên sẽ được cũng cố và vận dụng khi học về địa lí kinh
tế - xã hội Việt Nam; cách trình bày các nội dung sẽ tạo ra một thể thống nhất cần thiết
trong chương trình và SGK.
Địa lí dân cư đề cập đến những nét cơ bản về dân cư, lao động và việc làm, chất
lượng cuộc sống của dân cư hiện nay. Phần này không chỉ nhấn mạnh dân cư vừa là
lực lượng sản xuất, vừa là lực lượng tiêu thụ, mà còn cho HS thấy rằng việc nâng cao
chất lượng cuộc sống dân cư là mục tiêu xã hội của công cuộc đổi mới và phát triển đất
nước.
Địa lí các ngành kinh tế được bắt đầu từ cái nhìn tổng quan về sự chuyển dịch
cơ cấu kinh tế. Trên nền của ba khu vực kinh tế lớn (khu vực I: Nông, lâm nghiệp và
thủy sản; khu vực II: Công nghiệp và xây dựng; khu vực III: Dịch vụ) các vấn đề phát
triển và phân bố các ngành kinh tế đã được lựa chọn để phân tích, tổng hợp. Có thể nói,
những kiến thức được chọn lọc để HS hiểu được cơ cấu ngành của nền kinh tế là nền
tảng để HS nắm vững được các vấn đề phát triển kinh tế - xã hội của các vùng.

17



Khi học về các vùng, chương trình chỉ đề cập đến các vấn đề tiêu biểu, được lựa
chọn từ rất nhiều vấn đề phải giải quyết của các vùng lãnh thổ nước ta. Những vấn đề
này có bản chất địa lí rõ nét và có ý nghĩa lâu dài.
1.3.3. Đặc điểm SGK địa lí 12
- SGK địa lí 12 được biên soạn thành từng bài, phù hợp với nội dung một tiết
học (45 phút) theo chương trình Giáo dục phổ thơng mơn địa lí.
- SGK địa lí 12 gồm 45 bài, trong đó có 35 bài lí thuyết và 10 bài thực hành.
- Dù ở lớp cuối cấp THPT, nhưng SGK vẫn được cấu tạo thành các bài học
tương đối độc lập. Trong trường hợp một số kiến thức khó chia tiết, thì các tác giả chấp
nhận phương án là có bài tiếp theo, chẳng hạn như bài 4 và 5 về lịch sử hình thành và
phát triển lãnh thổ Việt Nam, bài 9 và 10 về thiên nhiên nhiệt đới ẩm gió mùa…
- Mỗi bài học đều có kênh hình, kênh chữ và số liệu minh họa.
+ Về kênh chữ: Do chú ý đến yêu cầu đây là lớp cuối cấp, mơn địa lí thường là
mơn thi tốt nghiệp THPT, là môn thi vào đại học, cao đẳng khối C, nên không quá hạn
chế kênh chữ, nhằm tạo điều kiện cho HS tự học, ôn tập và nắm được các kiến thức
chuẩn xác. Các bài học đều chia thành các đề mục lớn (thường mỗi bài có hai đến ba
đề mục lớn) ứng với các đơn vị kiến thức HS cần nắm vững. Kênh chữ và kênh hình đã
được gia công để tạo thành thể thống nhất hữu cơ.
Khi đề cập đến các vấn đề của tự nhiên và kinh tế xã hội các tác giả đã cố gắng
đưa vào những kết quả nghiên cứu mới về tự nhiên Việt Nam, thông tin cập nhật về sự
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, các ngành và các vùng lãnh thổ. Để đảm bảo
tính chính thức và nhất quan của các số liệu thống kê, tập thể tác giả lấy số liệu năm
2006 theo niêm giám thống kê 2006 (vì số liệu năm 2006 là ước tính). Trong phần
phân tích, để phản ánh các xu hướng mới nhất, đơi chổ có sử dụng các thơng tin kinh tế
- xã hội đến thời điểm năm 2007.
+ Về kênh hình: Chủ yếu là các sơ đồ, biểu đồ và bản đồ (hoặc lược đồ). Các
hình minh họa phù hợp giúp HS tri giác nhanh, phát hiện được các xu thế chính, các
đặc điểm chủ yếu nhất là sự vật, hình tượng. Một số sơ đồ, biểu đồ cịn thể hiện các


18


mối quan hệ qua lại giữa các hiện tượng, quá trình địa lí. Lưu ý rằng, mặc dù một số
bản đồ có tỉ lệ bản đồ, có cơ sở tốn học khá tốt, nhưng trong quan niệm của các tác
giả, chúng tôi vẫn sử dụng thuật ngữ “lược đồ”, bởi vì trong khi khái qt hóa bản đồ,
các tác giả đã chỉ đưa nội dung một cách chấm phá và nhằm nhấn mạnh những kiến
thức quan trọng nhất.
Các câu hỏi giữa bài và câu hỏi bài tập cuối bài là bộ phận hữu cơ trong SGK,
không những dùng để chỉ ra những kiến thức cơ bản mà HS cần nắm vững mà còn
dùng để rèn luyện kĩ năng, củng cố, mở rộng kiến thức, giúp HS có tác phong nghiên
cứu.
Đáng chú ý nhất là trong một số bài lí thuyết và cả bài thực hành có yêu cầu HS
sử dụng Atlat địa lí Việt Nam do cơng ti bản đồ và tranh ảnh giáo dục – nhà xuất bản
giáo dục biên soạn và xuất bản. Bản đồ là ngôn ngữ thứ hai của địa lí. Atlat địa lí được
coi là một công cụ không thể thiếu để dạy và học địa lí 12. Vì vậy, việc đưa các câu hỏi
và bài tập có liên quan đến Atlat địa lí Việt Nam là nhằm mục đích nâng cao chất
lượng dạy và học địa lí trong nhà trường.
Trong tổng số 45 bài, có đến 10 bài thực hành, như vậy là tỉ lệ trên 20% về thời
lượng. Điều này cho thấy vai trò của các bài thực hành nhằm nâng cao các kĩ năng địa
lí sau đây cho HS:
- Vẽ lược đồ khung lãnh thổ Việt Nam. Yêu cầu HS vẽ được khung lãnh thổ
Việt Nam đã được thực hiện từ lâu ở trường THPT, nhưng trong các chương trình
trước đây khơng bố trí trong kế hoạch dạy học và cũng khơng có tài liệu chính thức.
Việc vẽ khung lãnh thổ Việt Nam có tác dụng rất tốt, giúp cho HS có được tư duy
không gian, biết thể hiện các hiểu biết của mình về địa lí Tổ Quốc bằng những lược đồ
đơn giản. Hình ảnh của đất nước được in sâu vào trí nhớ của HS cũng là một cách để
các em yêu Tổ Quốc và tự hào về Tổ Quốc. Bài thực hành vẽ khung lãnh thổ Việt Nam
còn là cơ sở để tổ chức các bài thực hành điền các đối tượng kinh tế lên lược đồ.

- Đọc bản đồ địa lí tự nhiên Việt Nam và bản đồ kinh tế Việt Nam (cả nước hay
các vùng) để phát hiện các đặc điểm về tự nhiên hay kinh tế - xã hội, xác định các mối
quan hệ không gian giữa các đối tượng và các quá trình tự nhiên hay kinh tế - xã hội.

19


- Vẽ biểu đồ và phân tích bảng số liệu về một số tiêu chí kinh tế - xã hội theo
yêu cầu cho trước.
- Thu thập, tổng hợp thông tin để viết báo cáo ngắn theo chủ đề.
Do SGK là sách HS, nên trong các bài thực hành chỉ trình bày nội dung thực
hành. Các gợi ý về cách tổ chức thực hành được trình bày trong sách GV.
1.4. Đặc điểm tâm lí và trình độ nhận thức của HS lớp 12
Lứa tuổi THPT bao gồm giai đoạn từ 14 – 15 đến 17 – 18 tuổi, tương ứng với
lứa tuổi HS từ lớp 10 đến lớp 12. Ở độ tuổi này các em đã có những chuyển biến về
mặt thể chất và tâm lí. Lúc này sự phát triển về thể trạng, sức khỏe và trí tuệ là cao
nhất. HS có mong muốn đi sâu vào cuộc sống, chọn nghề, khẳng định vị trí của mình
trong xã hội.
HS lớp 12 là HS lớp cuối cấp THPT, đây là thời kì các em đã được phát triển
khá đầy đủ về thể chất, tư duy lô gic, tư duy trừu tượng, sự hồi nghi khoa học, thích
tranh luận, bước đầu đã có kinh nghiệm học tập, có ý thức đúng đắn về nhiệm vụ học
tập của mình. Các em có nhu cầu tìm tịi, giải quyết mâu thuẫn một cách thấu đáo.
Về đặc điểm cơ thể đã bắt đầu đi vào thế ổn định và đạt được sự trưởng thành về
mặt thể lực, nhưng sự phát triển cơ thể còn kém so với sự phát triển cơ thể của người
lớn. Sự phát triển của hệ thần kinh có những thay đổi quan trọng do cấu trúc bên trong
của não phức tạp và các chức năng của não phát triển. Điều đó tạo tiền đề cần thiết cho
sự phức tạp hóa hoạt động phân tích, tổng hợp…
Với những nhu cầu học tập ngày càng cao, địi hỏi HS lớp 12 phải có tính độc
lập, tinh thần tự học thì mới có thể nắm vững bản chất của các khái niệm khoa học. HS
càng trưởng thành, kinh nghiệm sống càng dồi dào và ý thức được mình đang đứng

trước ngưỡng cửa của cuộc đời. Ở lứa tuổi này, các em đã hình thành những hứng thú
học tập gắn liền với khuynh hướng nghề nghiệp. HS lớp 12 đã xác định cho mình một
hứng thú ổn định đối với một mơn học nào đó, đối với một lĩnh vực tri thức nhất định.
Hứng thú này thường liên quan đến việc lựa chọn nghề của HS.
Thái độ học tập của thanh niên HS được thúc đẩy bởi động cơ học tập có cấu
trúc khác với lứa tuổi trước. Các em có khả năng tư duy lý luận, tư duy trừu tượng một

20


cách độc lập và sáng tạo. Sự ý thức của HS THPT diễn ra mạnh mẽ, các em khao khát
muốn tìm hiểu mình, trên cơ sở nhận thức đó đã biểu hiện thái độ đối với bản thân
mình. Các em rất vui sướng, tự hào khi đạt kết quả hoạt động hay hoàn thành nhiệm vụ
học tập... Hay lo buồn khi là bài sai, hay một điều gì đó. Khả năng tự đánh giá của HS
dần dần đúng đắn hơn, mang tính khách quan hơn và các em sẽ có niềm tin vào năng
lực của mình để tự học, tự nghiên cứu, tự tìm tịi kiến thức. Chính vì vậy việc đổi mới
phương pháp dạy học theo hướng tích cực hóa hoạt động học tập là rất cần thiết với
năng lực học tập của HS.
Ở lứa tuổi này, tính chủ định được phát triển mạnh mẽ ở tất cả các q trình
nhận thức. Tri giác, quan sát có mục đích đạt tới mức độ cao, có hệ thống và tồn diện
hơn. Ghi nhớ có chủ định giữ vai trị chủ đạo trong hoạt động trí tuệ, đồng thời vai trị
của ghi nhớ logic trừu tượng, ghi nhớ ý nghĩa ngày một tăng rõ nét trong sự phát triển
trí tuệ.
Tuy nhiên do trình độ phát triển tâm lý chưa chín muồi cùng với những thiếu sót
trong giáo dục ở gia đình, nhà trường và xã hội, một số thanh niên HS chưa xác định
được ý nghĩa của cuộc sống, khơng có định hướng nghề nghiệp và do đó khơng thể lập
được cho bản thân một kế hoạch sống cụ thể. Vì thế, khi đối diện với những vấn đề về
học tập và chọn nghề, các em dễ hoang mang và có những đáp ứng tiêu cực. Mặt khác,
thái độ học tập của một số em cịn có nhược điểm, một mặt các em tích cực học một số
mơn mà các em cho là quan trọng đối với nghề mình đã chọn, một mặt lại sao nhãng

với các môn học khác hoặc chỉ học để lấy điểm trung bình. Các em HS lớp 12 thường
gặp khó khăn về cảm xúc trí tuệ ở mức độ cao nhất. Sự “mệt trí”, “sức ép” và sự “thất
vọng khi không đạt được mục tiêu” là ba cảm nhận thường xuyên của HS.
Đây là một thời kì dài có sự phát triển nhảy vọt cả về thể chất lẫn tâm lý. So với
lứa tuổi thiếu niên, các em ở lứa tuổi này có nhận thức mang tính rộng rãi, sâu sắc và
bền hơn. Về ý thức đại học: Các em có khát vọng hiểu biết, có khả năng tự chủ sáng
tạo trong học tập.
1.5. Thực trạng rèn luyện kĩ năng bản đồ trong dạy học địa lí 12 ở một số trường
THPT trên địa bàn Quảng Nam

21


1.5.1. Mục tiêu, thời gian, địa điểm, nội dung và phương pháp điều tra
- Mục tiêu điều tra: Tìm hiểu thực trạng vấn đề rèn luyện kĩ năng sử dụng bản đồ
trong dạy học địa lí 12 ở trường THPT nhằm phục vụ cho việc nghiên cứu của đề tài.
- Thời gian: Thực hiện vào tháng 3 năm 2012.
- Địa điểm điều tra: Tổ chức điều tra tại các trường:
+ Trường THPT Nguyễn Duy Hiệu, Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam.
+ Trường THPT Trần Quý Cáp, Hội An, tỉnh Quảng Nam.
- Nội dung điều tra: Điều tra GV Địa lí và HS lớp 12 tại một số trường ở Quảng
Nam, về quan điểm, thực trạng, những thuận lợi và khó khăn, phương pháp của việc
rèn luyện kĩ năng sử dụng bản đồ cho HS trong học tập địa lí.
- Phương pháp điều tra: Điều tra bằng phiếu.
1.5.2. Thực trạng của việc rèn luyện kĩ năng sử dụng bản đồ cho học sinh qua dạy
học địa lí 12 của GV
Để đảm bảo cho việc đánh giá chúng tôi tiến hành khảo sát, điều tra ở 15 GV
dạy địa lí tại một số trường THPT trên địa bàn Quảng Nam.
Qua kết quả khảo sát lấy ý kiến của 15 GV địa lí ở các trường THPT thì chúng
tơi đã thu thập được nhiều kiến khác nhau của GV trong việc nhận thức vai trò của việc

rèn luyện kĩ năng sử dụng bản đồ trong dạy học địa lí 12 hiện nay. Điều này được thể
hiện cụ thể qua bảng sau:
Bảng 1.1. Nhận thức của GV địa lí trong việc rèn luyện kĩ năng bản đồ cho HS
Số lượng GV

Tỉ lệ %

Rất cần thiết

11

73,3

Cần thiết

4

26,7

Không cần thiết

0

0

Ý kiến

Như vậy, đa số GV được hỏi đều cho rằng việc rèn luyện kĩ năng sử dụng bản
đồ là rất cần thiết và cần thiết. Vì mơn địa lí nói chung và địa lí 12 nói riêng gắn liền
với lãnh thổ không gian cụ thể, mà không gian đó lại được phản ánh trên các bản đồ.

Vì vậy, để HS có thể tiếp thu và tự khai thác nguồn tri thức từ bản đồ trong quá trình

22


học tập cả trên lớp và về nhà thì việc rèn luyện kĩ năng bản đồ cho HS là điều hết sức
cần thiết.

Về mục đích sử dụng bản đồ của GV trong dạy học địa lí 12
Qua khảo sát và dự giờ một số tiết dạy của các GV địa lí trong đợt thực tập sư
phạm, thì chúng tơi thấy rằng vẫn còn nhiều quan niệm khác nhau về mục đích sử dụng
phương tiện dạy học nói chung và sử dụng bản đồ nói riêng. Điều đó cịn tuy thuộc vào
nhận thức của từng GV trong việc sử dụng bản đồ cũng như nhận thức về đổi mới
phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực của HS.
Bảng 1.2. Mục đích sử dụng bản đồ của GV trong dạy học địa lí
Số lượng

Tị lệ %

Phương tiện minh họa cho bài dạy trên lớp

3

15,8

Phương tiện kiểm tra, đánh giá HS

3

15,8


Là nguồn tri thức để khai thác kiến thức

11

57,9

Phương tiện để hướng dẫn HS làm bài tập ở trên lớp

2

10,5

Ý kiến

Như vậy, đa số GV được hỏi đều cho rằng trong dạy học địa lí 12 bản đồ có
chức năng chủ yếu là nguồn tri thức để khai thác. Tuy nhiên, một số GV lại có ý kiến
rằng nên kết hợp cả 4 chức năng trên trong dạy học địa lí để đạt hiệu quả cao nhất
trong dạy học.
Về mức độ sử dụng bản đồ trong quá trình dạy học địa lí 12 của GV:
Xuất phát từ nhận thức về việc sử dụng bản đồ cũng như quan niệm về chức
năng của bản đồ trong dạy học địa lí nên ảnh hưởng lớn đến mức độ hướng dẫn HS sử
dụng bản đồ để khai thác bản đồ của GV. Điều này được thể hiện như sau:
Bảng 1.3. Mức dộ sử dụng bản đồ trong q trình dạy học địa lí lớp 12 THPT của
GV
Mức độ

Số lượng

Tỉ lệ %


10

66,7

Thường xuyên

23


Ít sử dụng

5

33,3

Không sử dụng

0

0

Qua bảng 1.3 ta thấy hầu hết các GV thường xuyên sử dụng bản đồ trong dạy
học địa lí lớp12, điều này phù hợp với việc đối mới phương pháp dạy học. Tuy nhiên,
vẫn còn một số GV lại ít sử dụng bản đồ trong dạy học địa lí 12. Qua trao đổi với các
GV này chúng tôi được biết nguyên nhân là do hệ thống bản đồ của nhà trường không
đầy đủ, chất lượng chưa tốt hay do thời gian 1 tiết học quá ngắn cho nên việc sử dụng
bản đồ trong 1 tiết học sẽ tốn nhiều thời gian vì nhiều HS chưa biết cách khai thác,
phân tích và nhận xét bản đồ cịn chưa thành thạo nên việc khai thác tri thức từ bản đồ
cịn gặp nhiều khó khăn, mất nhiều thời gian.

Nhận thức của GV về kĩ năng rèn luyện cho HS sử dụng bản đồ trong q trình
dạy học địa lí 12.
Sau khi thâm nhập thực tế ở các trường THPT dưới các hình thức trao đổi, trị
chuyện, điều tra, tìm hiểu ý kiến của các GV địa lí về việc rèn luyện các kĩ năng sử
dụng bản đồ cho HS tôi nhận thấy rằng: Hầu hết các GV đã chú trọng rèn luyện cho HS
một số kĩ năng sử dụng bản đồ sau:
Bảng 1.4. Nhận thức của GV về kĩ năng bản đồ cần luyện cho HS trong dạy học
địa lí 12
Kĩ năng

Số lượng

Tỉ lệ %

Kĩ năng quan sát bản đồ

0

0

Kĩ năng đọc các đối tượng địa lí trên bản đồ

1

6,2

Kĩ năng phân tích, nhận xét các đối tượng địa lí trên bản đồ

7


43,8

Kĩ năng phát hiện các mối quan hệ giữa các hiện tượng địa lí

8

50

Như vậy qua số liệu trên chúng ta có thể thấy được rằng việc rèn luyện các kĩ
năng bản đồ cho HS lớp 12 được các thầy cô rất quan tâm. Đặc biệt chú trọng ở đây là
kĩ năng phát hiện các mối quan hệ giữa các hiện tượng địa lí trên bản đồ. Đây là một kĩ
năng rất quan trọng, kĩ năng này không chỉ dựa trên sự hiểu biết về bản đồ mà cịn dựa
trên những kiến thức địa lí, càng nắm chắc, càng hiểu sâu, càng tích lũy được nhiều
kiến thức thì kĩ năng này càng thành thạo. Đồng thời chương trình địa lí 12 nhất là

24


phần các vùng kinh tế học về những mối liên hệ trong tổng thể phát triển kinh tế của
các vùng. Vậy nên, HS cần được rèn luyện kĩ năng này để khai thác và tìm ra các tri
thức địa lí mới.
Tuy nhiên, cũng thơng qua tiếp xúc trị chuyện với các thầy cơ giảng dạy bộ
mơn địa lí, thầy cơ cũng nêu lên những khó khăn trong việc rèn luyện kĩ năng sử dụng
bản đồ cho HS như: Việc đáp ứng khối lượng kiến thức lớn, thời gian hạn chế trong 1
tiết học là 45 phút là rất ít nên việc hướng dẫn rèn luyện kĩ năng sử dụng bản đồ cho
HS còn hạn chế. Phần lớn chưa được sự hướng dẫn cụ thể từng bước tiến hành, tiết
thực hành riêng về bản đồ chưa có, GV chưa có thời gian thực hiện mẫu các bước, hầu
như HS tự nghiên cứu thêm.
Về phương pháp GV sử dụng trong rèn luyện kĩ năng sử dụng bản đồ cho HS
Bảng 1.5. Kết quả điều tra phương pháp GV sử dụng để rèn luyện kĩ năng sử dụng

bản đồ cho HS
Phương pháp sử dụng

Số lượng

Tỉ lệ %

Đàm thoại gợi mở

5

33,3

Thuyết trình

1

6,7

Thảo luận

1

6,7

Hướng dẫn HS khai thác kiến thức từ bản đồ

8

53,3


Một số phương pháp khác

0

0

Như vậy có thể thấy được rằng phần lớn các GV giảng dạy địa lí 12 đã sử dụng
bản đồ với nhiều phương pháp khác nhau. Đa số các GV đều đã nhận thức được sự cần
thiết và tầm quan trọng của việc sử dụng bản đồ để hướng dẫn HS khai thác kiến thức.
Qua điều tra thì có 5 ý kiến GV (33,3%) cho rằng việc rèn kĩ năng sử dụng bản
đồ cho HS bằng phương pháp đàm thoại gợi mở là mang lại hiệu quả. Đây là phương
pháp dạy học tích cực đang được khuyến khích sử dụng rộng rãi. Với hệ thống câu hỏi
gợi mở tạo điều kiện để HS tự khai thác nguồn tri thức có trên bản đồ. Hiện nay
phương pháp dạy học này mang lại hiệu quả rất cao nó sẽ tạo điều kiện thuận lợi giúp
HS tự khai thác nguồn tri thức từ bản đồ tốt hơn. Rất ít GV sử dụng phương pháp
thuyết trình hay thảo luận (6,7% ý kiến), bởi theo họ thì sự dụng bản đồ trong phương

25


×