Tải bản đầy đủ (.doc) (7 trang)

Câu 4a : Phân tích quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam từ 1954 - 1968. Qua đó rút ra nhận xét.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (72.22 KB, 7 trang )

Câu 4a : Phân tích q trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam từ 1954 - 1968.
Qua đó rút ra nhận xét.
BÀI LÀM
I. Bối cảnh lịch sử
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, Mĩ trở thành cường quốc số một trên thế giới.
Mĩ có âm mưu làm bá chủ thế giới, để thực hiện âm mưu này, Mĩ luôn luôn thực hiện
chiến lược toàn cầu, xâm lược Việt Nam nhằm đạt 3 mục tiêu chủ yếu sau :
1)- Tiêu diệt phong trào cách mạng, thơn tính miền Nam, biến miền Nam
thành thuộc địa kiểu mới của chúng.
2)- Biến miền Nam Việt Nam thành một phòng tuyến ngăn chặn sự phát triển
của CNXH xuống vùng này.
3)- Xây dựng miền Nam Việt Nam thành một căn cứ quân sự, làm bàn đạp
tiến cơng miền Bắc và hệ thống XHCN từ phía Đơng - Nam Á.
Qúa trình Đảng chỉ đạo cuộc cách mạng miền Nam là q trình phân tích âm
mưu, thủ đoạn của kẻ thù, so sánh lực lượng giữa ta và địch để đề ra chủ trương,
biện pháp thích hợp đánh bại chúng. Là quá trình biết giành thắng lợi từng bước,
tiến tới giành thắng lợi hồn tồn. Q trình đó diễn ra qua nhiều thời kì kế tiếp theo.
II. Đảng lãnh đạo các giai đoạn kháng chiến chống Mĩ cứu nước
* Giai đoạn (Từ năm 1954 đến năm 1960) :
Là giai đoạn Đảng lãnh đạo nhân dân miền Nam đánh bại chiến lược tố cộng,
diệt cộng của Mĩ Diệm. Những hoạt động của địch trong thời gian này là : Ngơ Đình
Diệm dựa vào sức mạnh của Mĩ gạt Pháp ra khỏi miền Nam Việt Nam, Diệm hô khẩu
hiệu “đã thực, bài phong”, xây dựng chính thể Việt Nam cộng hòa hợp hiến, hợp
pháp, xây dựng quân đội hùng mạnh, tiến hành cuộc cách mạng điền địa lần nhất
mà thực chất là tước đoạt lại những ruộng đất cách mạng đã chia cho nông dân trả
về cho địa chủ, khôi phục giai cấp địa chủ, giai cấp tư sản phát triển thành chỗ dựa
giai cấp cho Việt Nam cộng hòa, lập đảng cần lao nhân vị và các tổ chức quần chúng
thuộc đảng này để làm chỗ dựa. Tiến hành chính sách tố cộng, diệt cộng kết hợp với
việc khơng chịu thi hành Hiệp định Giơnevre chia cắt lâu dài hai miền Nam, Bắc,
những hoạt động của địch trong thời gian này đã gây cho ta nhiều tổn thất lớn.
Trong thời kì này, chủ trương đấu tranh của Đảng ta là : chuyển hình thức,


phương pháp và tổ chức đấu tranh của CMMN yừ đấu tranh vũ trang sang đấu tranh
chính trị là chủ yếu, thực hiện thế giữ gìn lực lượng rồi chuyển dần sanh thế tiến
công, đánh bại “Chiến tranh đơn phương” của đế quốc Mĩ.
* Thời kì một (từ 7/1954 đến 7/1956) : Đảng ta chủ trương chuyển CMMN từ
đấu tranh bạo lực vũ trang kháng chiến chống Pháp sang đấu tranh chính trị là chủ
yếu để củng cố hịa bình, địi tổng tuyển cử thống nhất đất nước, chống khủng bố và
giữ gìn, bảo tồn lực lượng.
* Thời kì hai (từ 7/1956 đến cuối 1958) : đấu tranh chính trị là chính, xây
dựng, củng cố và phát triển lực lượng vũ trang, lập các chiến khu, đấu tranh vũ trang
ở mức độ thích hợp để bảo vệ cách mạng, chuẩn bị chuyển lên giai đoạn mới. Xác
định mối quan hệ chiến lược giữa hai miền và khẳng định cách mạng miền Nam phải
phát triển trên cơ sở là một căn cứ vững mạnh của hậu phương miền Bắc; hai là xác


định nhân dân miền Nam khơng có con đường nào khác ngồi con đường cách
mạng.
* Thời kì ba (từ 1/1959 đến 1960) : nổi dậy khởi nghĩa vũ trang đồng loạt bằng
cả lực lượng chính trị và vũ trang, kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang,
đánh đổ chính quyền địch ở cơ sở, giành quyền làm chủ, hình thành vùng giải phóng
rộng lớn, lập mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam. CMMN phát triển nhảy
vọt, chuyển hẳn từ thế giữ gìn lực lượng sang thế tiến cơng, đồng thời chấm dứt thời
kì tạm ổn định của địch, cuộc “Chiến tranh đơn phương” của địch bị thất bại.
Đặc biệt trong thời kì này, Nghị quyết 15 của Trung ương Đảng thể hiện sự chỉ
đạo đúng đắn về tình hình, nhiệm vụ của CMMN đã châm ngòi nổ cho phong trào
đồng khởi ở miền Nam đánh bại chiến lược tố cộng, diệt cộng của Mĩ - Diệm.
* Giai đoạn (Từ năm 1960 đến năm 1965) : là giai đoạn Đảng lãnh đạo
nhân dân đánh bại chiến tranh đặc biệt của Mĩ. chiến lược chiến tranh đặc biệt là
một hình thức chiến tranh thực dân mới trong chiến lược toàn cầu “phản ứng linh
hoạt của Mĩ” sử dụng 3 hình thức : Chiến tranh tổng lực, chiến tranh hạn chế, chiến
tranh dưới mức hạn chế. Với các thủ đoạn của Mĩ - Diệm như : tổ chức dồn dân, lập

ấp chiến lược “tát nước bắt cá” được coi là quốc sách. Xây dựng quân đội Ngụy
theo hình thức 3 thứ quân : chủ lực, địa phương quân và tự vệ, phong tỏa chặt chẽ
biên giới trên bộ và trên biển để ngăn chặn miền Bắc chi viện cho miền Nam…
Đảng ta chủ trương tại Nghị quyết đại hội Đảng lần thứ III (9/1960) quyết định
thành lập mặt trận giải phóng ở miền nam làm ngọn cờ chính trị thu hút tất cả các lực
lượng yêu nước tiến bộ ở miền Nam đối lập với chính quyền Ngơ Đình Diệm. Quyết
định thành lập TW cục miền Nam, cơ quan lãnh đạo cao nhất ở miền Nam thay mặt
TW Đảng trực tiếp chỉ đạo CMMN. Quyết định thành lập quân giải phóng miền Nam
với hai lực lượng : Động viên lực lượng thanh niên yêu nước tại chỗ và chi viện quân
từ miền Bắc vào Nam.
- Tiếp theo Nghị quyết Bộ chính trị (1/1961) và Nghị quyết TW lần 9 (12/1963)
xác định : Trọng tâm của CMMN lúc này là chống quốc sách ấp chiến lược, đấu
tranh chống dồn dân lập ấp, tiếp tục phát triển lực lượng giải phóng và mở các trận
đánh từ cỡ tiểu đồn lên cấp trung đồn, song song với đấu tranh chính trị, tiến cơng
địch bằng ba mũi giáp cơng : chính trị, quân sự, binh vận; đánh địch ở cả ba vùng
chiến lược : rừng núi, đồng bằng và đô thị. CMMN đi từ khởi nghĩa chuyển lên thành
chiến tranh cách mạng, từng bước đánh bại “Chiến tranh đặc biệt” của Mĩ.
* Về quân sự : giành được thắng lợi Ấp Bắc (cỡ tiểu đồn), Đồng Xồi,
Ba Gia, Bình Giả điều này chứng tỏ quân Ngụy có khả năng thua quân giải phóng.
* Về chính trị : ta phát động phong trào đấu tranh chính trị ở thành phố
lớn như phong trào xuống đường của học sinh, sinh viên, phong trào đấu tranh của
Phật tử … Góp phần làm khủng hoảng bộ máy cầm quyền của VNCH, dẫn đến cuộc
đảo chính lật đổ Ngơ Đình Diệm, Ngơ Đình Nhu vào tháng 11/1963 và tiếp theo có
hơn 12 cuộc đảo chính lớn, nhỏ. Chứng tỏ ngụy quyền Sài Gịn có khả năng bị sụp
đổ, ta đã làm phá sản hoàn toàn kế hoạch quốc sách ấp chiến lược của địch.
* Giai đoạn (Từ năm 1965 đến năm 1968) : để cứu vãn tình hình, đế quốc
Mĩ đã ngoan cố và liều lĩnh thực hiện chiến lược “Chiến tranh cục bộ” ở miền Nam,
mở rộng chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân ở miền Bắc. Đảng phát
động toàn dân đánh Mĩ, cứu nước, đánh bại “Chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mĩ ở
miền Nam.



Mĩ đưa chiến lược “chiến tranh cục bộ” xuất phát từ : Do tương quan lực lượng
ở chiến trường miền Nam lúc này quân đội Ngụy đã thua nhưng chưa thua hẳn,
quân Giải phóng đã thắng nhưng chưa thắng hẳn, nên Mĩ đưa 700.000 quân Mĩ và
700.000 quân ngụy để tạo cán cân lực lượng nghiêng về phía Mĩ - Ngụy nhằm áp
đảo quân giải phóng thực hiện chiến lược ”tìm diệt” qn Giải phóng kết hợp với
“bình định” nơng thôn và mở rộng ném bom, bắn phá miền Bắc ngăn chặn không cho
miền Bắc chi viện cho miền Nam.
Từ năm 1965, đế quốc Mĩ đã tiến hành cuộc “Chiến tranh cục bộ” ở miền Nam;
đồng thời gây ra chiến tranh phá hoại ở miền Bắc. Âm mưu của Mĩ là 1. Chặn đứng
sự phát triển của CMMN, cứu nguy cho chế độ Sài Gịn, tìm diệt chủ lực qn Giải
phóng, giành lại thế chủ động trên chiến trường; 2. Bình định lại miền Nam, củng cố
hậu phương của chúng, ổn định Ngụy quyền, đồng thời phá hoại hậu phương miền
Bắc XHCN, ngăn chặn sự chi viện của miền Bắc cho miền Nam, làm lung lay quyết
tâm chống Mĩ của dân tộc ta , buộc ta phải kết thúc chiến tranh theo điều kiện của
Mĩ.
Hội nghị TW Đảng lần thứ 11 (3/1965) đã đề ra quyết tâm chiến lược đánh Mĩ
và thắng Mĩ, phát động toàn dân tiến hành chống Mĩ cứu nước.
Đảng ta đã chỉ đạo quân và dân miền Nam liên tiếp bẽ gãy các cuộc hành quân
“Tìm diệt” và “Bình định” của Mĩ-Ngụy. Sau trận đọ sức trực tiếp đầu tiên với quân Mĩ
ở Núi Thành (Quảng Nam) 5/1965, Vạn Tường (Quảng Ngãi) 8/1965 thắng lợi, một
cao trào đánh Mĩ diệt Ngụy đã dấy lên mạnh mẽ khắp chiến trường miền Nam. Mọi
cố gắng điên cuồng của Mĩ trong cuộc phản công mùa khô lần thứ nhất (1965-1966)
và thứ hai (1966-1967) d0ều bị thất bại. Mùa mưa 1967 buộc Mĩ - Ngụy phải chuyển
sang chiến lược phòng ngự. Lúc này 80% đất đai miền Nam thuộc quyền kiểm sốt
của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam. Phong trào đấu tranh chính trị
tiếp tục phát triển quyết liệt ở hầu hết thành thị.
12/1967, Bộ chính trị đã chủ trương chuyển cuộc chiến tranh CMMN sang thời
kì mới, tiến lên giành thắng lợi bằng quyết định tổng cơng kích - tổng khởi nghĩa,

giáng một địn quyết liệt vào ý chí xâm lược của đế quốc Mĩ. Cuộc tổng tiến công và
nổi dậy đã nổ ra vào dịp tết mậu thân (1968) ở Sài Gòn và 64 thành phố, thị xã, thị
trấn khác trên toàn miền Nam. Cuộc tập kích chiến lược này làm cho thế chiến lợc
của Mĩ bị đảo lộn, ý chí xâm lược bị lung lay và phải xuống thang chiến tranh, chấm
dứt không điều kiện ném bom miền Bắc, chấp nhận đàm phán với ta tại Pari. Đây là
thắng lợi có ý nghĩa chiến lược của CMMN, song về sau ta cũng bị những tổn thất về
địa bàn và lực lượng do có sai lầm trong đánh giá tình hình, chỉ đạo, xác định mục
tiêu và chỉ đạo thực hiện tổng cơng kích - tổng khởi nghĩa.
III. Nhận xét và đánh giá chung
Hội nghị BCH TW Đảng lần thứ 8 (khóa II tháng 8 năm 1955) đã xác định
“đường lối xây dựng miền Bắc và củng cố, phát triển chế độ dân chủ nhân dân, tiến
dần từng bước vững chắc lên XHCN” Đảng ta đã dựa trên các cơ sở lí luận và thực
tiễn như sau :
* Về lí luận : Một là đưa miền Bắc tiến lên là xuất phát từ xu thế thời đại quá
độ từ CNTB lên CNXH được mở đầu từ cách mạng tháng 10 Nga. Hai là vận dụng
sáng tạo lí luận cách mạng khơng ngừng của chủ nghĩa Mác Lênin. Ba là đưa miền
Bắc lên CNXH từng bước giải quyết vấn đề dân tộc theo quan điểm của GCCN. Về
mặt thực tiễn của cách mạng đã đặt ra giải quyết mâu thuẩn cơ bản của xã hội
miềm Bắc đó là “ai thắng ai” giữa hai con đường CNXH và CNTB, đồng thời từ yêu


cầu của CMMN và cách mạng cả nước phù hợp với nguyện vọng của nhân dân ta,
có điều kiện to lớn do một Đảng CSVN lãnh đạo, chính quyền dân chủ nhân dân do
giai cấp cơng nhân lãnh đạo, có thể chuyển sang làm nhiệm vụ cách mạng XHCN,
có khối đại đoàn kết toàn dân dựa trên nền tảng liên minh cơng nơng trí thức, được
sự giúp đỡ của các nước XHCN anh em.
Từ những cơ sở lý luận và thực tiển trên, Đảng ta quyết định đưa miền Bắc
bước vào thời kỳ quá độ lên CNXH là tất yếu khách quan. Song miền Bắc xây dựng
CNXH trong một hoàn cảnh đặc biệt, có thuận lợi và khó khăn : đất nước còn bị tạm
chia cắt làm hai miền, miền Bắc cuộc cách mạng DTDC đã cơ bản hoàn thành và

bước vào thời kỳ quá độ tiến lên CNXH. Miền Nam tiếp tục làm cuộc cách mạng
DTDC. Do đó Đảng ta cùng một lúc phải thực hiện hai quy luật cách mạng XHCN và
CMDTDC, và đề ra đường lối cách mạng XHCN ở miền Bắc có tính đến tác động
cách mạng ở miền Nam. Song ở miền Bắc di lên CNXH từ một nền nông nghiệp phổ
biến là sản xuất nhỏ, cơ sở vật chất nghèo nàn lạc hậu, lại bị chiến tranh tàn phá
nặng nề và do hậu quả của chính sách vơ vét của thực dân Pháp để lại. Về cơng
nghiệp nhỏ bé với trình độ kỹ thuật lạc hậu, mất cân đối. Về văn hóa trình độ dân trí
thấp, những tập tục phong kiến vẫn tồn tại và phát triển…
Đứng trước tình hình đó, hội nghị Bộ chính trị tháng 9/1954 đã chỉ rõ cơng
việc trước mắt là ổn định đời sống nhân, chống chính sách cưỡng ép di cư vào Nam
của địch, hàn gắn vết thương chiến tranh, phục hồi kinh tế quốc dân. Trong đó phục
hồi và phát triển nông nghiệp là vấn đề trọng tâm. Đây là một chủ trương đúng đắn,
hơn nữa chỉ có thể khơi phục kinh tế mà trọng tâm là nơng nghiệp mới có thể tạo tiền
đề cho cơng cïc cải tạo nông nghiệp. Việc khôi phục kinh tế nông nghiệp có liên
quan mật thiết với việc giải quyết vấn đề ruộng đất, thực hiện khẩu hiệu “người cày
có ruộng” đã nêu trong cương lĩnh đầu tiên của Đảng. Do vậy việc cải cách ruộng đất
tiến hành đồng thời với cuộc khôi phục kinh tế và là nhiệm vụ cấp thiết của cách
mạng. Về chính sách cải cách ruộng đất ở vùng tự do đánh dấu sự kết thúc của cách
mạng DTDC để chuyển sang cách mạng XHCN, nhằm tăng cường củng cố khối liên
minh cơng nơng, xóa bỏ quan hệ sản xuất bóc lột phong kiến, giải phóng nguồn lực
sản xuất nơng nghiệp nơng thơn, cũng chính là góp phần khôi phục kinh tế và ổn
định đời sống cho nhân dân. Đảng ta chủ trương về đường lối : dựa hẳn vào bần cố
nơng, đồn kết chặt chẽ với trung nông, liên hiệp với phú nông, đánh đổ giai cấp địa
chủ, tiêu diệt chế độ phong kiến, từng bước có phân biệt; về phương châm : trên cơ
sở thỏa mãn nhu cầu về ruộng đất của nông dân cần chú trọng phân biệt đối đãi với
các hạng địa chủ, chiếu cố địa chủ kháng chiến một cách đích đáng nhằm thêm bạn
bớt thù.
Bên cạnh những thành tựu đạt được, Đảng ta đã thẳng thắn đánh giá sai lầm
nghiêm trọng kéo dài trong tổ chức, chỉ đạo thực hiện cải cách ruộng đất, cường
điệu tính chất đấu tranh giai cấp ở nông thôn, dẫn đến mở rộng quá mức đối tượng

đấu tranh, gây ra tình trạng đánh nhầm vào nội bộ nông dân, nhất là trung nông lớp
trên, phương pháp đấu tranh mang tính chất trừng trị, nhẹ tính chất giáo dục. Một số
nơi quán triệt đường lối và phương châm chỉ đạo không đúng, vị phạm nguyên tắc
tập trung dân chủ lãnh đạo, để cho đội cải cách quá nhiều quyền lực, vai trò cấp ủy
Đảng lu mờ. Nguồn gốc của sai lầm là do không xuất phát từ thực tiễn nước ta, đánh
giá không sát đúng những diễn biến của nông dân miền Bắc nhất là chế độ sở hữu
ruộng đất. Hội nghị Ban chấp hành TW Đảng lần thứ 10 (khóa II 9/1956) đã nghiêm
khắc kiểm điểm và kiên quyết sửa chữa sai lầm. Đến cuối năm 1957 công tác sữa
sai đã đem lại kết quả tốt, nơng thơn dần dần ổn định, nội bộ Đảng đồn kết, lòng tin


của quần chúng nhân dân với Đảng được khôi phục, sản xuất nông nghiệp đẩy
mạnh, khối liên minh công nông được củng cố.
Tiếp theo công cuộc cải tạo XHCN ở miền Bắc từ 1958 - 1960, Hội nghị lần thứ
14 của BCH TW Đảng (khóa II 1/1958) xác định “nhiệm vụ chung của toàn Đảng,
toàn dân là ra sức củng cố miền Bắc, đưa miền Bắc tiến dần lên CNXH…”, trọng tâm
trước mắt là đầy mạnh cải tạo XHCN đối với các thành phần kinh tế cá thể của nông
dân, thợ thủ công và cải tạo XHCN đối với thành phần kinh tế tư bản tư doanh, đồng
thời phải ra sức phát triển thành phần kinh tế quốc doanh, lực lượng lãnh đạo toàn
bộ nền kinh tế quốc dân.
Về cải tạo nông nghiệp Đảng chú trọng dựa trên 3 nguyên tắc : Tự nguyện,
nhận thức đựơc sự cần thiết tham gia vào hợp tác xã, quản lí dân chủ, là nơi thực
hiện quyền làm chủ của nhân dân lao động kết hợp hài hịa các lợi ích của cá nhân,
tập thể và xã hội. Hình thức bước đi tốc độ của quá trình cải tạo XHCN phải phù
hợp, từ thấp đến cao, tập dượt cho nông dân và thợ thủ công quen dần với cung
cách làm ăn tập thể, từ dần đổi công, hợp tác xã bậc thấp đến hợp tác xã bạâc cao.
Qui mô từ nhỏ đến lớn, tiến hành cải tạo hịa bình đối với cơng thương nghiệp tư
bản tư doanh vì : Xuất phát từ so sánh lực lượng giai cấp tư sản dân tộc Việt Nam
rất nhỏ bé về kinh tế, bạc nhược về chính trị, giai cấp tư sản dân tộc từng là bạn
đồng minh của gai cấp công nông trong CMDTDC. Nhằm lôi kéo giai cấp tư sản dân

tộc Việt Nam đi theo cách mạng liên minh chống đến quốc, cho phép ta sử dụng kinh
nghiệm quản lí trình độ chun mơn, vốn thị trường của giai cấp tư sản để khôi phục
chủ trương chính sách của Đảng.
Đến cuối năm 1960 miền Bắc cơ bản đã hoàn thành cải tạo XHCN, Hội nghị
Ban chấp hành TW Đảng (khóa III) đã ghi nhận “phong trào hợp tác hóa nơng nghiệp
đã phát triển nhanh và lành mạnh, nói chung là tốt”. Bên cạnh những ưu điểm,
phong trào hợp tác hóa cũng bộc lộ những khuyết điểm và yếu kém : Các nguyên tắc
và phương châm chỉ đạo trong cải taọ không được tôn trọng triệt để, cơng tác quản lí
cịn nhiều yếu kém, sai sót, một số cán bộ đảng viên, xã viên vi phạm kỉ luật ….
Tháng 11/1960 đã cải tạo 2.097 cơ sở thương nghiệp tư bản tư doanh, giải
phóng được hơn 1 vạn lực lượng lao động cơng nhân khỏi ách bóc lột của giai cấp
tư sản, song cũng cần nhận thức rằng việc sớm xóa bỏ nền kinh tế nhiều thành phần
và “trong sản xuất kinh doanh không áp dụng những quy luật của sản xuất hàng hóa
đã tác dụng tiêu cực khơng ít đến đời sống kinh tế, hạn chế việc phát triển LLSX”.
Về cải tạo XHCN đối với thợ thủ công và những người buôn bán nhỏ, đến cuối
năm 1960 có 88% thợ thủ cơng gia nhập các HTX tiểu thủ công nghiệp bậc thấp và
bậc cao, 45% người buôn bán nhỏ được tổ chức vào hợp tác xã mua bán …. Khuyết
điểm của cải tạo thự thủ công và người bn bán nhỏ là mang tư tưởng nóng vội,
mệnh lệnh, gị ép, khơng tính đến u cầu xã hội và hiệu quả thực tế, dẫn đến khơng
ít hợp tác xã làm ăn thua lỗ, tan rã.
Qua công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc rút ra các kết quả và sai
lầm như sau :
- Kết quả đạt được : Trước hết thông qua cải tạo xã hội chủ nghĩa xóa bỏ
quan hệ sản xuất bóc lột và từng bước hình thành quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa. Thứ hai làm thay đổi kết cấu gai cấp trong xã hội, thay đổi quan hệ giữa con
người với nhau theo hướng tiến bộ. Thứ ba là góp phần hình thành nền văn hóa mới
và con người mới XHCN. Thứ tư là góp phần xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa


xã hội, động viên được sức của, sức người cho cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu

nước.
- Những sai lầm : Nhận thức và vận dụng lí luận của Đảng ta khơng thừa
nhận CNXH cịn tồn tại nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận dụng khơng
đúng luật QHSX, cho rằng QHSX đi trước nhằm chủ động kéo theo LLSX (coi quan
hệ sản xuất qui định lực lượng sản xuất) dẫn đến QHSX kiềm hãm LLSX. Trong
QHSX đồng nhất sở hữu, đưa mở rộng sở hữu mà không là rõ được trình độ LLSX
đến đâu, khơng phát huy được dân chủ trong quản lí, sản xuất, kinh doanh, khơng
quan tâm đúng mức lơị ích của người lao động dẫn đến càng mở rộng QHSX càng
triệt tiêu sức sản xuất xã hội, sai lầm trong chỉ đạo là nóng vội và chủ quan.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (9/1960) được triệu tập tại Hà
Nội, là “Đại hội xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh hịa bình thống
nhất thống nhất nước nhà. Đại hội đã đề ra nhiệm vụ chiến lược cho hai miền Nam,
Bắc : “Miền Bắc xây dựng chủ nghĩa xã hội là nhiệm vụ quyết định nhất đối với tồn
bộ tiến trình cách mạng Việt nam. Miền Nam tiến hành CMDTDC là trực tiếp đánh đổ
đế quốc và tay sai giải phóng miền Nam bảo vệ miền Bắc thống nhất nước nhà. Hai
nhiệm vụ chiến lược đó có quan hệ khắng khít với nhau và hỗ trợ cho nhau phát
triển. Đại hội nêu 3 đặc điểm cần quán triệt trong quá trình cải tạo và xạy dựng
CNXH ở miền Bắc là : nền kinh tế lạc hậu, sản xuất nhỏ; nước nhà tạm chi làm 2
miền; có sự giúp đỡ của các nước XHCN. Để triển khai chỉ đạo thực hiện Nghị
quyết đại hội III của Đảng, Ban chấp hành TW Đảng (khóa III) đã tổ chức nhiều hội
nghị chuyên đề về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng về sản xuất nông nghiệp, công
nghiệp, về lưu thông phân phối... Đại hội III đã ra kế hoạch phát triển kinh tế - văn
hóa - xã hội từ 1961 đến 1965, trong kế hoạch này chỉ có được 4 năm hịa bình để
thực hiện (từ ngày 5 tháng 8 năm 1964 đế quốc Mĩ đã huy động không quân, hải
quân đánh phá miền Bắc) nhưng kế hoạch cũng đã đạt được một số thành tích quan
trọng : bộ mặt xã hội miền Bắc có những thay đổi về đời sống vật cất, tinh thần, bình
quân thu nhập quốc dân tăng 6,1%, thu nhập đầu người tăng 3,4%...
Đồng thời, Đảng cũng đã kịp thời chuyển hướng chỉ đạo quá trình tiếp tục xây
dựng miền Bắc xã hội chủ nghĩa, làm tròn trách nhiệm hậu phương cùng miền Nam
đánh thắng đế quốc Mĩ xâm lược và tay sai (1965 -1968)

IV. Tóm lại : Việc Đảng ta chủ trương đưa miền Bắc vào thời kì quá độ lên
CNXH đồng thời với việc tiến hành cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam là sự tìm
tịi, sáng tạo đầy tinh thần dũng cảm, quyết đốn và độc lập suy nghĩ. thắng lợi xây
dựng CNXH ở miền Bắc đã xoá bỏ căn bản chế độ người bóc lột người, sản xuất
XHCN bước đầu được xác lập, đánh thắng chiến tranh phá hoại miền Bắc bằng
không quân và hải quân, làm tròn nhiệm vụ chi viện cho tiền tuyến lớn miền Nam và
giúp đỡ cách mạng Lào, Campuchia; sự nghiệp giáo dục, văn hóa, y tế phát trển
mạnh mẽ, đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân ngày càng được cải thiện.
Thành tựu nêu trên tuy còn thấp so với mục tiêu của CNXH, nhưng trong hịan
cảnh lúc đó thì nó đã đưa lại những biến đổi lớn ở miền Bắc, đã tỏ rõ tính ưu việt của
chế độ XHCN trước cuộc chiến tranh tàn khốc.
Tuy vậy, nền kinh tế miền Bắc vẫn mang tính sản xuất nhỏm cơ sở vật chất, kĩ
thuật còn thấp kém. Các ngành cơng nghiệp then chốt cịn nhỏ bé, chưa đủ sức làm
nền tảng cho nền kinh tế quốc dân. Quan hệ sản xuất mới chưa được củng cố vững
chắc, cịn bộc lộ nhiều hạn chế, nơng nghiệp chưa đáp ứng được nhu cầu về lương
thực, thực phẩm cho nhân dân và nguyên liệu cho công nghiệp. Lao động thủ công


còn chiếm 80% lực lượng lao động xã hội, năng suất lao động xã hội chưa bảo đảm
được các nhu cầu của nhân dân.
Ngun nhân trên có nhiều lí do bao gồm cả yếu tố khách quan và chủ quan :
* Về khách quan : Miền Bắc đi lên xây dựng CNXH trong điều kiện xuất phát
điểm nền kinh tế yếu kém, do chính sách bóc lột của thực dân Pháp. Mặt khác chúng
ta tiến hành xây dựng kinh tế trong điều kiện đất nước có chiến tranh, phải tập trung
sức người, sức của cho giải phóng miền Nam và chống chiến tranh phá hoại miền
Bắc.
* Về chủ quan : Đảng và Nhà nước ta đã mắc một số sai lầm, khuyết điểm,
nghiêm trọng như chính sách cải cách ruộng đất, là bắt nguồn từ những nhận thức
còn đơn giản, duy ý, chí chưa nắm đúng qui luật vận động đi lên CNXH ở một nước
vốn là thuộc địa, nền sản xuất nhỏ mang tính tự cung tự cấp. Nó cịn phản ánh

phương pháp tư duy giáo điều, rập khn mơ hình xây dựng CNXH của Liên Xơ,
chưa xuất phát đầy đủ từ hoàn cảnh điều kiện cụ thể của thực tiễn đất nước ta.
Những thành công và chưa thành cơng trên đều là những bài học và kinh
nghiệm q báu cho quá trình đổi mới hiện nay vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng văn minh tiến lên CNXH



×