Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

NHẬN THỨC KHOA HỌC 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (232.72 KB, 11 trang )

người và xã hội không thể tách rời tự nhiên, họ chỉ có thể tồn tại và phát triển dựa vào tự
nhiên và trên cơ sở làm biến đổi tự nhiên. Khơng có tự nhiên và xã hội thì con người không
thể tiến hành sản xuất được. Song, đến lượt mình, sản xuất xã hội lại trở thành điều kiện
tiên quyết để con người cải biến tự nhiên, biến đổi xã hội, trở thành nhân tố quyết định trực
tiếp sự tồn tại và phát triển của con người, của xã hội lồi người. Trình độ sản xuất của con
người càng cao (thì con người càng có điều kiện để thỏa mãn những nhu cầu vật chất của
mình và do vậy, cũng làm phong phú thêm đời sống xã hội, đời sống tinh thần của mình. Qua
đó, con người tự hồn thiện chính bản thân mình, phát triển chính mình và thúc đẩy xã hội
phát triển.
3. Ý nghĩa phương pháp luận
Trong q trình sản xuất vật chất con người ln ln tìm mọi cách để làm biến đổi tự
nhiên, biến đổi xã hội, đồng thời làm biến đổi bản thân mình. Chính sự phát triển khơng
ngừng của sản xuất vật chất đã quyết định sự biến đổi, phát triển các mặt của đời sống xã
hội, quyết định sự phát triển xã hội. Do đó, khi nghiên cứu các hiện tượng xã hội, chúng ta
phải xuất phát từ cơ sở sâu xa của nó, đó là sản xuất vật chất.
Page 310 of 487


 Câu 38: Phân tích nội dung quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất. Sự vận dụng quy luật này trong công
cuộc đổi mới ở nước ta?
1. Khái niệm phương thức sản xuất, lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất
a) Phương thức sản xuất là cách thức mà con người thực hiện trong quá trình sản xuất
ra của cải vật chất ở những giai đoạn phát triển nhất định của lịch sử xã hội lồi người.
Trong q trình sản xuất của mình, con người có những cách thức sản xuất ra những của cải
vật chất khác nhau. Chính sự khác nhau ấy đã tạo ra những đặc trưng riêng có cho mỗi kiểu
xã hội nhất định (xã hội cộng sản nguyên thủy, xã hội chiếm hữu nô lệ, xã hội phong kiến,
xã hội tư bản chủ nghĩa, xã hội xã hội chủ nghĩa…). Khi nghiên cứu xã hội lồi người,
C.Mác đã bắt đầu từ chính q trình sản xuất ấy qua những phương thức sản xuất kế tiếp
nhau. Phương thức sản xuất bao gồm hai mối quan hệ cơ bản: con người quan hệ với giới
tự nhiên, gọi là lực lượng sản xuất và con người quan hệ với nhau, gọi là quan hệ sản xuất.


Vậy, lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là gì?

Page 311 of 487


b) Lực lượng sản xuất là biểu hiện mối quan hệ giữa con người với giới tự nhiên. Con
người với trình độ khoa học kỹ thuật, kỹ năng, kỹ xảo của mình sử dụng những cơng cụ lao
động tác động vào giới tự nhiên nhằm cải biến những dạng vật chất của tự nhiên tạo ra
những sản phẩm vật chất phục vụ cho nhu cầu con người. Lực lượng sản xuất chính là sự
thể hiện năng lực thực tiễn của con người trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất. Lực
lượng sản xuất là sự kết hợp giữa người lao động với tư liệu sản xuất, trước hết là công cụ
lao động. Với cách hiểu như vậy, kết cấu của lực lượng sản xuất bao gồm những yếu tố cơ
bản sau:
+ Người lao động là con người biết sáng tạo, sử dụng công cụ lao động để sản xuất ra
những vật phẩm nhằm thoả mãn nhu cầu nào đó của con người trong đời sống xã hội. Chính
người lao động là chủ thể của quá trình lao động sản xuất, con người với sức mạnh, kỹ
năng, kỹ xảo của mình sử dụng những tư liệu sản xuất (trứơc hết là công cụ lao động) tác
động vào đối tượng lao động để sản xuất ra của cải vật chất. Người lao động được xem là
yếu quyết định của lực lượng sản xuất, V.I.Lênin đã từng khẳng định: “Lực lượng sản xuất

Page 312 of 487


hàng đầu của tồn thể nhân loại là cơng nhân, là người lao động”(1). Trong quá trình sản xuất
vật chất, con người tích luỹ kinh nghiệm, phát minh và sáng chế kỹ thuật, nâng cao kỹ năng
lao động của mình, làm cho trí tuệ của con người ngày càng hồn thiện hơn, do đó hàm
lượng trí tuệ kết tinh trong sản phẩm ngày càng cao.
+ Tư liệu sản xuất là cái mà con người sử dụng nó trong q trình lao động sản xuất,
bao gồm tư liệu lao động và đối tượng lao động. Đây là yếu tố quan trọng không thể thiếu
được của lực lượng sản xuất.

- Tư liệu lao động là cái do con người sáng tạo ra như phương tiện lao động (hệ thống
giao thông vận tải, kho chứa, nhà xưởng, v.v.) và công cụ lao động. Công cụ lao động được
xem là yếu tố động và cách mạng, luôn luôn được con người sáng tạo, cải tiến và phát triển
trong q trình sản xuất, nó là “thước đo” trình độ chinh chinh phục tự nhiên của loài người
và là “tiêu chuẩn” để phân biệt các thời đại kinh tế khác nhau.
- Đối tượng lao động bao gồm những cái có sẵn trong tự nhiên mà người lao động đã
tác động vào nó và cả những cái đã trải qua lao động sản xuất, được kết tinh dưới dạng sản
(1)

V.I.Lênin. Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1977, t,38, tr. 430.

Page 313 of 487


phẩm. Sản xuất ngày càng phát triển, thì con người phải tìm kiếm, sáng tạo ra những đối
tượng lao động mới, bởi những cái có sẵn trong tự nhiên ngày càng bị con người khai thác
đến “cạn kiệt”.
Trong khi con người quan hệ với tự nhiên để tiến hành sản xuất thì con người cũng phải
quan hệ với nhau và được khái quát trong phạm trù quan hệ sản xuất.
Ngày nay, với cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật và cơng nghệ, lao động trí tuệ của
con người đóng vai trò chủ yếu trong lực lượng sản xuất. Sự phát triển của khoa học gắn
liền với sản xuất vật chất và là động lực thúc đẩy sản xuất phát triển. Dự báo hơn 100 năm
trước đây của C.Mác về vai trò động lực của khoa học đã và đang trở thành hiện thực. Trong
thời đại ngày nay, khoa học đã phát triển đến mức trở thành nhữmg mguyên nhân trực tiếp
của nhiều biến đổi to lớn trong sản xuất, tác động lên mọi mặt của đời sống xã hội. Nó vừa
là ngành sản xuất riêng, vừa thâm nhập vào các yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất, giữa
hai quá trình nghiên cứu khoa học và sản xuất đã đan xen với nhau, xâm nhập lẫn nhau,
khoảng cách thời gian từ nghiên cứu khoa học đến sản xuất được rút ngắn lại, đặc biệt
khoa học đã mang lại hiệu quả kinh tế vô cùng to lớn. Những phát minh khoa học trở thành
Page 314 of 487



xuất phát điểm cho sự ra đời của những ngành sản xuất mới, những thiết bị máy móc, cơng
nghệ, ngun, nhiên, vật liệu và năng lượng mới, đem lại sự thay đổi về chất của lực lượng
sản xuất. Chính vì vậy mà nhiều nhà nghiên cứu đã cho rằng; khoa học trong thời đại ngày
nay đã “trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp”, tạo thành cuộc cách mạng khoa học - công
nghệ và là đặc trưng cho lực lượng sản xuất hiện đại.
c) Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất, nó bao
gồm những mối quan hệ kinh tế cơ bản như: quan hệ đối với sở hửu tư liệu sản xuất, quan
hệ trong tổ chức và quản lý sản xuất, quan hệ trong phân phối sản phẩm sản xuất ra.
Trong ba mối quan hệ kinh tế cơ bản ấy thì quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất giữ vai
trò quyết định đối với các quan hệ khác. Trong lịch sử phát triển của xã hội loài người đã
từng tồn tại hai loại hình sở hữu cơ bản đối với tư liệu sản xuất: sở hữu tư nhân (tư hữu)
và sở hữu công cộng (công hữu). Quan hệ sản xuất là do con người ta quy định với nhau
nhưng nội dung của nó lại mang tính khách quan, khơng phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của
một ai hay một tổ chức nào. Trong tác phẩm Lao động làm thuê và tư bản, C.Mác đã khẳng
định: “Trong sản xuất, người ta không chỉ quan hệ với giới tự nhiên. Người ta không thể sản
Page 315 of 487


xuất được nếu không kết hợp với nhau theo một cách nào đó để hoạt động chung và để trao
đổi hoạt động với nhau. Muốn sản xuất được, người ta phải có những mối liên hệ và quan
hệ nhất định với nhau; và quan hệ của họ với giới tự nhiên, tức là việc sản xuất”(1). Quan hệ
sản xuất được xem là hình thức xã hội của một quá trình sản xuất. Ba mối quan hệ cơ bản
của quan hệ sản xuất thống nhất với nhau, tạo thành một hệ thống tương đối ổn định so với
sự vận động và phát triển liên tục của lực lượng sản xuất.
Như vậy, lực lượng sản xuất và quan hê sản xuất là hai mặt thống nhất trong phương
thức sản xuất, sự tác động biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất biểu
hiện quy luật chung chi phối sự vận động và phát triển của lịch sử xã hội loài người.
2. Nội dung quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển của lực

lượng sản xuất
Biện chứng vốn có giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là một tất yếu khách
quan. Sản xuất vật chất của xã hội ln ln có khuynh hướng phát triển. Sự phát triển đó,

(1)

C.Mác và Ph.Angghen, Tồn tập, T. 6. Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1993, tr. 552.

Page 316 of 487


xét cho đến cùng, bao giờ cũng bắt đầu từ sự phát triển của lực lượng sản xuất, trước hết là
công cụ lao động.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất được thể hiện qua các trình độ khác nhau. Nói đến
trình độ của lực lượng sản xuất là nói đến trình độ của cơng cụ lao động (thủ cơng, cơ khí,
cơng nghiệp hiện đại…), trình độ của người lao động (kinh nghiệm, kỹ năng, kỹ xảo, trình
độ ứng dụng khoa học-kỹ thuật và cơng nghệ vào q trình sản xuất, trình độ tổ chức và
phân cơng lao động xã hội…). Chính trình độ của lực lượng sản xuất đã quy định tính chất
của lực lượng sản xuất và được biểu hiện một cách rõ nét nhất ở sự phân cơng lao động xã
hội.
Khi trình độ của lực lượng sản xuất chủ yếu là thủ cơng thì lao động của con người cịn
mang tính cá nhân riêng lẻ, một người có thể sử dụng được rất nhiều cơng cụ lao động khác
nhau trong quá trình sản xuất để tạo ra sản phẩm. Với trình độ của lực lượng sản xuất như
vậy thì tính chất của lực lượng sản xuất chủ yếu là mang tính cá nhân. Khi sản xuất đạt tới
trình độ cơ khí, máy móc cơng nghiệp thì một người không thể đảm nhận được tất cả các
khâu của quá trình sản xuất, mà mỗi người chỉ đảm trách được một khâu nào đó trong dây
Page 317 of 487


chuyền sản xuất. Q trình sản xuất ấy địi hỏi phải có nhiều người tham gia, sản phẩm

làm ra là sự kết tinh lao động của nhiều người. Với trình độ của lực lượng sản xuất như
vậy thì tính chất của lực lượng sản xuất là mang tính xã hội.
Chính sự phát triển của lực lượng sản xuất qua các trình độ khác nhau đã quy định và
làm thay đổi quan hệ sản xuất cho phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
ấy.
Khi một phương thức sản xuất mới ra đời thì quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất, nhưng lực lượng sản xuất, trước hết là công cụ lao động
lại là yếu tố động, nó ln ln được con người cải tiến và phát triển, đã dẫn đến mâu
thuẫn với quan hệ sản xuất hiện có và khi ấy xuất hiện sự đòi hỏi khách quan phải xố bỏ
quan hệ sản xuất cũ, thay thế vào đó quan hệ sản xuất mới. Như vậy, sự phù hợp của quan
hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là sự phù hợp trong mâu thuẫn;
mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất là nội dung thường xuyên biến đổi (động) với quan hệ
sản xuất là hình thức xã hội lại tương đối ổn định (tĩnh).

Page 318 of 487


Thông qua sự tác động nội tại của phương thức sản xuất đã dẫn đến quan hệ sản xuất
cũ được thay thế bằng quan hệ sản xuất mới, cũng có nghĩa là phương thức sản xuất cũ mất
đi, phương thức sản xuất mới tiến bộ hơn, cao hơn ra đời. Trong tác phẩm Sự khốn cùng
của triết học, C.Mác đã kết luận: “Do có được những lực lượng sản xuất mới, lồi người
thay đổi phương thức sản xuất của mình và do thay đổi phương thức, cách kiếm sống của
mình, loài người thay đổi tất cả những quan hệ xã hội của mình. Cái cối xay quay bằng tay,
đưa lại xã hội có lãnh chúa, cái cối xay chạy bằng máy hơi nước, đưa lại xã hội có nhà tư
bản cơng nghiệp”(1). Lịch sử phát triển của xã hội lồi người đã chứng minh kết luận ấy.
Khi lực lượng sản xuất ở trình độ thấp, cơng cụ lao động cịn thô sơ, chủ yếu là đồ đá,
cung tên, với người lao động chỉ biết săn bắt, lượm hái thì con người muốn duy trì sự sống,
chống lại những tai hoạ của tự nhiên họ phải lao động sản xuất theo cộng đồng, do đó quan
hệ sản xuất lúc này phải là quan hệ sản xuất dựa trên chế độ công xã ngun thủy. Song,
lồi người, vì sự tồn tại và phát triển của mình họ phải tìm cách cải tiến công cụ lao động,

phát triển lực lượng sản xuất. Sự ra đời của công cụ bằng kim loại, thủ công với con người
(1)

C.Mácvà Ph.Ăngghen, Tồn tập, T.4, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội 1997, tr. 187.

Page 319 of 487


lao động đã biết trồng trọt và chăn nuôi, sản xt theo từng gia đình có năng suất lao động
cao hơn, loài người bắt dầu sản xuất ra những sản phẩm thặng dư, do đó quan hệ sản xuất
dựa trên chế độ công xã nguyên thủy tan rã và quan hệ sản xuất mới dựa trên chế độ tư hữu
chủ nô ra đời. Sự xuất hiện của quan hệ sản xuất dựa trên chế độ tư hữu chủ nô bước đầu
phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất lúc bấy giờ đã làm cho sản xuất phát triển.
Nhưng, lồi người vẫn tiếp tục cải tiến cơng cụ lao động, phát triển lực lượng sản xuất;
đất đai ngày càng được khai phá nhiều hơn, cùng với đó là sự xuất hiện của những ngành
nghề tiểu, thủ công nghiệp mới, với sự giao lưu buôn bán các sản phẩm làm ra phát triển
hơn. Do đó, quan hệ sản xuất dựa trên chế độ tư hữu chủ nơ khơng cịn phù hợp với trình
độ của lực lượng sản xuất nữa, lúc này xuất hiện sự đòi hỏi phải thay thế quan hệ sản
xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới dựa trên chế độ tư hữu địa chủ. Nhưng, lực lượng sản
xuất vẫn khơng dừng lại ở đó. Lồi người vẫn tiếp tục cải tiến công cụ lao động, phát triển
lực lượng sản xuất. Khi công cụ lao động bằng máy móc cơng nghiệp ra đời cùng với người
lao động là những người cơng nhân trong các nhà máy, xí nghiệp, phân cơng lao động đã
mang tính xã hội. Do đó, quan hệ sản xuất dựa trên chế độ tư hữu địa chủ cần phải được
Page 320 of 487



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×