Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Vị trí địa - chính trị của châu Vị Long trong tuyến phòng thủ biên cương phía Bắc của vương triều Lý

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (187.15 KB, 7 trang )

VỊ TRÍ ĐỊA - CHÍNH TRỊ CỦA CHÂU VỊ LONG
TRONG TUYẾN PHỊNG THỦ BIÊN CƯƠNG PHÍA BẮC
CỦA VƯƠNG TRIỀU LÝ
HÀ MẠNH KHOA*

1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên.*
Vào thế kỷ X, châu Vị Long có vị trí địa
- chính trị cực kỳ quan trọng của quốc gia
Đại Việt. Trước thế kỷ X, trong thời gian
phương Bắc đô hộ, nước ta bị chia thành
quận, huyện. Có thể nói, cương vực của các
huyện thời kỳ này rất rộng lớn, nhiều huyện
có diện tích lớn hơn một tỉnh ngày nay.
Địa hình Tun Quang (nói chung) và
Vị Long (nói riêng) khá phức tạp và mang
tính chuyển tiếp rõ rệt. Với hơn 70% diện
tích là núi, địa hình bị chia cắt bởi nhiều
dãy núi cao (dãy Cao Khánh ở phía bắc,
dãy Tam Đảo ở phía nam). Các dãy núi
chính thường có dạng xuôi theo đứt gãy
kiến tạo sông Hồng và sông Lô, song núi
không kéo thành mạch dài, mà bị chia cắt
thành các khối rời rạc để tạo ra những kiểu
cấu trúc vịng cung mà tiêu biểu là cánh
cung sơng Gâm. Phía bắc tập trung nhiều
dãy núi cao, sông ở đây cũng vì thế thường
dốc và lắm thác ghềnh. Xi về phía nam
núi càng thấp, mặc dù vẫn cịn những ngọn
núi nhơ cao, vách thẳng đứng, nhưng ở khu
vực này chủ yếu là đồi bát úp kiểu trung
du. Ở đây có nhiều cánh đồng bằng phẳng,


đó là bãi bồi bên sơng Lơ, sơng Phó Đáy
hoặc những thung lũng giữa núi khá rộng.
Trong Hồng Việt địa dư chí, Phan Huy
Chú đã miêu tả vùng đất Tuyên Quang với
*

TS. Viện Sử học, Viện Khoa học xã hội Việt Nam.

“núi khe chi chít, phần lớn là nơi rừng
thiêng nước độc,… so với các trấn ở cõi
ngồi thì đây là một vùng q xa xơi”1.
Trong Tun hành kí trình được viết vào
thế kỉ XIX cũng đã miêu tả khá chi tiết về
vùng đất Tuyên Quang:
“Triều ta đất gọi Tam Tuyên
Với Cao – Thái - Lạng về miền thượng du…
Đất đồn phong chướng xưa nay
Lên Tuyên là tiếng sợ thay cho người”.
…“Cảnh đâu có cảnh lạ lùng
Dễ thường nước nhược non bồng đâu đây
Nước xanh hoa rủ cành cây
Đá lô xô mọc chim bay lẩn chiều”2.
Những ngọn núi cao như núi Chặm
Chu, Pia Phương, Pia Hec, Khuổi Ma,
Khuẩy Phầy, Thanh Tương… thuộc các
huyện Hàm Yên, Chiêm Hóa, Nà Hang
cùng rất nhiều đèo dốc hiểm trở. Những
ngọn núi cao đã tạo thành nhiều hang
động, nhiều khe vực. Địa hình phức tạp,
núi non hiểm trở, sơng suối uốn khúc lắm

thác ghềnh tạo ra khơng ít khó khăn cho
nhân dân địa phương trong cuộc sống sinh
hoạt. Nhưng chính những dãy núi cao
trùng điệp, những khe vực hiểm trở ấy lại
là thành lũy ngăn bước quân giặc. Những
hang động lớn là nơi ẩn nấp, ém quân,
cũng là nơi cất giấu lương thực, vũ khí an


72

tồn của bà con các dân tộc mỗi khi có giặc
bên ngồi xâm lấn. Vị trí đắc địa ấy đã
được phát huy trong cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp của dân tộc sau này.
Vào thế kỷ X, cương vực châu Vị Long
ít nhất gồm ba huyện Chiêm Hóa, Hàm
n và Na Hang của tỉnh Tuyên Quang
ngày nay.
Tuyên Quang nằm ở trung tâm của lưu
vực sông Lô, sông Gâm chảy qua tỉnh theo
hướng bắc - nam và nhập vào sông Lô ở phía
tây bắc huyện Yên Sơn chỗ giáp ranh giữa ba
xã Phúc Ninh, Thắng Quân và Tân Long.
Tuyên Quang có diện tích 5.868 km², 1
thành phố và 6 huyện là Chiêm Hóa, Hàm
n, Lâm Bình, Nà Hang, Sơn Dương và
n Sơn. Trong đó ba huyện Chiêm Hóa,
Hàm Yên, Nà Hang vốn là đất của châu Vị
Long thời Lý. Huyện Chiêm Hóa có diện

tích 1.455 km 2, Hàm n có diện tích 907
km2, Nà Hang có diện tích 1.461 km2. Như
vậy, ba huyện này có tổng diện tích 3.823
km2 chiếm hơn 65% diện tích tồn tỉnh.
Trong thời kì phong kiến, trải qua các
triều đại từ Ngô, Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần,
Lê… Tuyên Quang là một vùng đất rộng
lớn và đến thế kỷ XIX, cương vực của
Tuyên Quang được sách Đại Nam nhất
thống chí, viết như sau: “Đơng tây cách
nhau 251 dặm, nam bắc cách nhau 384
dặm; phía đơng đến biên giới châu Bạchthơng tỉnh Thái-ngun 103 dặm, phía tây
đến địa giới huyện Trấn-n và châu Thủyvĩ tỉnh Hưng-hóa 148 dặm, phía nam đến
địa giới các tỉnh Hùng-quan và Sơn-dương
tỉnh Sơn-tây 37 dặm, phía bắc đến địa giới
phủ Khai-hóa tỉnh Vân-nam nước Thanh
347 dặm, phía đơng-nam đến địa giới tỉnh
Thái-ngun 74 dặm, phía tây-nam đến địa

Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam - 10/2012

giới tỉnh Hưng-hóa 74 dặm, phía đơng-bắc
đến địa giới nước Thanh 222 dặm, phía
tây-bắc đến địa giới tỉnh Hưng-hóa và địa
giới nước Thanh 229 dặm; từ tỉnh lị đi về
phía nam đến Kinh thành 1.399 dặm”3.
Trong bài kí “Tun Quang phong thổ kí”,
Nguyễn Văn Bân đã nhìn nhận: “Tun
Quang nằm về phía bắc miền thượng du,
có hình thế rồng cuộn hổ ngồi, giữ chắc

nơi biên ải, làm cho thế nước vững bền,
khiến cho đất đẹp một phương được nối
tiếp tiếng hay từ vạn cổ”4. Theo Đại Nam
nhất thống chí, Tun Quang trước thế kỷ
XX “Mặt ngồi khống chế tỉnh Vân-nam,
mặt trong liền Cao-bằng và Thái-ngun,
phía đơng suốt đến Sơn-tây và Hưng- hóa,
đều là miền thượng du xứ Bắc kì…, đấy là
phên giậu của trung châu, cũng là nơi địa
đầu quan yếu”5.
Với cương vực đó, từ xưa Tuyên Quang
(nói chung) và Vị Long (nói riêng) có vị trí
địa - chính trị rất quan trọng, được coi “là
chỗ biên thùy xa hơn nhiều”. Như vậy, rõ
ràng đây là một vùng đất trọng yếu của đất
nước, có vai trị quan trọng về chính trị ngoại giao và quân sự. Vùng đất Tuyên
Quang trong suốt thời kì phong kiến được
coi là phên giậu của quốc gia, là bức tường
thành để bảo vệ cho kinh thành trước thế
lực phong kiến phương Bắc và Vị Long
chính là “lõi” của vị trí địa-chính trị quan
trọng này.
2. Vị thế chính trị - kinh tế.
Về đơn vị “châu” ở nước ta có từ thời
thuộc Tùy. Thời gian tồn tại của nhà Tùy
không dài, chỉ khoảng 37 năm, tính từ năm
581 cho đến năm 618. Nhà Tùy tiến hành
chia lại các quận, huyện, lúc đầu quyết định
bỏ đơn vị hành chính cấp quận, đặt cấp châu.



Vị trí địa - chính trị của châu Vị Long…

Nhưng chỉ ít năm sau, vào năm 607 dưới đời
Tùy Dưỡng Đế, nhà Tùy lại bỏ đơn vị hành
chính cấp châu và lập lại cấp quận.
Năm 679, Đường Cao Tông chia đất
Giao Châu ra làm 12 châu, trong đó có
Thang Châu ở miền đất Tuyên Quang.
Năm 905, Khúc Hạo nắm quyền cai
quản đất nước. Thực hiện quyền tự chủ,
ông đã cho chia lại các khu vực hành
chính, thay tồn bộ các châu, huyện do nhà
Đường cắt đặt trước đây thành những đơn
vị hành chính mới, gồm có: Lộ, Phủ, Châu
và Xã 6.
Năm 1002, Vua Lê Đại Hành tiến hành
sữa đổi các đơn vị hành chính trong cả
nước "đổi mười đạo làm lộ, phủ, châu"7.
Nhưng tên các lộ, phủ, châu và phạm vi
của từng đơn vị hành chính này ra sao thì
khơng thấy sử sách ghi rõ. Khi khảo cứu về
địa danh của đất nước qua các đời, Đào
Duy Anh nhận xét "nhà Lê đổi mười đạo
làm lộ, phủ, châu. Hiện nay khơng rõ danh
hiệu và vị trí các lộ, phủ, châu ấy như thế
nào"8. Lần theo những điều ghi chép ít ỏi
trong các sách như: Việt sử lược, Đại Việt
sử ký tồn thư, Khâm Định Việt sử thơng
giám cương mục, Lịch Triều hiến chương

loại chí, Đại Nam nhất thống chí, Phương
Đình địa dư chí... có nhắc đến các đạo, lộ,
phủ, châu... thời Tiền Lê, trong đó có
huyện Chiêm Hố, tỉnh Tun Quang ngày
nay gọi là Châu Vị Long9... và danh xưng
đó có lẽ tồn tại trong các triều Đinh - Tiền
Lê - Lý - Trần - Hồ. Đầu thế kỷ XV, khi
thuộc Minh, châu Vị Long mới đổi thành
châu Đại Man. Từ đó đến năm 1831, mới
đổi thành châu Chiêm Hố (nay là huyện
Chiêm Hoá) và đến năm 1943 lại chia
thành 2 huyện là Chiêm Hóa và Nà Hang10.

73

Đến nay, chúng ta chưa thể biết rõ
cương vực, quy mô tổ chức bộ máy chính
quyền các cấp hành chính thời đó ra sao.
Nhưng dù sao, vào thời Tiền Lê, bộ máy
hành chính nhà nước từ trung ương đến địa
phương đã bắt đầu được xác lập, thể hiện
chức năng quản lý của chính quyền nhà
nước ở trung ương đối với chính quyền cấp
địa phương là lộ, phủ, châu, chứng tỏ sự nỗ
lực của nhà Tiền Lê trong việc xây dựng nền
hành chính mới để tăng cường sự quản lý đất
nước và uy quyền của nhà nước quân chủ.
Đến thời Lý, năm 1010, Lý Thái Tổ đã
đổi 10 đạo thời Đinh, Lê thành 24 lộ, song
các nhà nghiên cứu mới xác định được danh

hiệu và vị trí của khoảng 20 lộ (xem Đào
Duy Anh - Đất nước Việt Nam qua các
đời). Các lộ ở trung châu cũng gọi là phủ.
Những địa phương miền núi thì chia thành
châu. Tại các châu thuộc miền núi thì các tù
trưởng được làm Châu mục thế tập. Thời
Lý, quan lại đứng đầu cấp phủ, lộ thời kỳ
này là Tri phủ, Phán phủ11. Đứng đầu cấp
châu là Tri châu, có những châu ở xa (biên
giới) nhà Lý đều đặt chức Quan mục, thường dùng những hào trưởng (hay tù trưởng
- TG) tại địa phương để giữ những chức
đó12. Đối với những miền biên viễn xa triều
đình, một mặt nhà Lý đã dùng chính sách
“Ki mi” để ràng buộc và một mặt dùng các
tù trưởng người địa phương theo chế độ thế
tập để cai quản. Vào thời kỳ này, ở châu
Qui Hố và châu Đăng có họ Lê, ở châu
Lạng có họ Thân, ở châu Vị Long có họ Hà,
ở châu Phú Lương có họ Dương, châu
Quảng Nguyên có họ Nùng v.v.. Chính sách
của nhà Lý là cho phép họ thực sự được
quản lý vùng đất của mình theo chế độ thế
tập, nhưng phải thần phục triều đình và phải
giữ chế độ cống phú đều đặn.


74

Tuy vậy, những người đứng đầu các
châu này luôn “nổi dậy” chống lại triều

đình. Trên thực tế, về mặt quản lý hành
chính thì chính quyền địa phương ở các
châu xa miền biên viễn vẫn thuộc quyền tự
quản hay tự trị của các tù trưởng hoặc châu
mục. Vì vậy, đơi khi do sự bất bình nào
đấy, tù trưởng các địa phương đã nổi dậy
chống lại triều đình, thành xu hướng cát cứ
hoặc tách ra thành lập vương quốc riêng.
Dưới thời Lý, mỗi khi có tù trưởng địa
phương nổi dậy, ảnh hưởng đến sự an bình
của cộng đồng dân tộc, buộc triều đình
phải dùng đến biện pháp bình định hoặc
đánh dẹp khi cần thiết.
Vào đầu triều Lý, trong vòng 50 năm
đầu, tương ứng với hai đời vua Lý Thái Tổ
(1010-1028), Lý Thái Tơng (1028-1054),
đã có khá nhiều cuộc nổi dậy mà biên niên
sử thường ghi là những cuộc làm phản.
Trước những cuộc “làm phản” này, các
vua Lý thường phải thân chinh đi hoặc cử
quần thần đi đánh. Dưới triều vua Lý Thái
Tổ, trong vòng 18 năm biên niên sử ghi lại
10 vụ nổi dậy vào các năm 1011, 1012,
1013,1014, 1015, 1022, 1024, 1026, 1027,
1028 13. Trong số 10 vụ chỉ có 2 vụ là ở
châu Hoan, châu Ái, còn lại đều xảy ra ở
vùng núi phía bắc và đơng bắc như ở các
châu Vị Long, Đơ Kim, Thường Tân
(Tun Quang), Bình Dương (Hà Giang),
Thất Nguyên (Thất Khê, Lạng Sơn)... Sang

thời Lý Thái Tơng, tính trong 26 năm, đã
có tới 16 lần có các vụ nổi loạn và dẹp loạn
vào những năm 1029, 1036, 1037, 1038,
1041, 1042, 1044, 1048, 1050, 1052,
1053 14. Trong số 16 vụ nổi loạn và dẹp loạn
này thì cũng chỉ có 2 cuộc nổi dậy ở châu
Hoan và châu Ái, còn đại bộ phận vẫn là các
cuộc nổi dậy của những tộc người ở vùng biên
giới phía bắc.

Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam - 10/2012

Ở khu vực châu Vị Long, năm 1013, tù
trưởng là Hà Trắc Tuấn châu Vị Long nổi
dậy. Lý Thái Tổ phải thân chinh đi đánh. Hà
Trắc Tuấn bị thất bại, phải bỏ trốn vào rừng
núi. Đến năm 1015, Hà Trắc Tuấn lại nổi
dậy. Vua Lý sai Dực Thánh vương và Vũ
Đức vương đem quân đàn áp và khi bắt được
Hà Trắc Tuấn cuộc nổi dậy mới chấm dứt.
Để góp phần vào việc củng cố khối đoàn
kết dân tộc, bảo vệ quốc gia thống nhất vừa
giành được, nhà Lý đã có nhiều biện pháp
cũng như chính sách khá là mềm mỏng để
thắt tình đồn kết giữa các dân tộc sống
trong ngôi nhà chung của quốc gia Đại Việt.
Để tranh thủ tầng lớp thống trị miền núi,
các vua nhà Lý đã dùng quan hệ hôn nhân
ràng buộc những châu mục và tù trưởng có
thế lực.

Vua Lý Thái Tổ gả con gái cho tù trưởng
động Giáp ở Lạng Châu (thuộc vùng Bắc
Giang và Nam Lạng Sơn bây giờ) là Giáp
Thừa Quý. Sau Thừa Quí đổi họ Giáp ra họ
Thân. Con trai của Thừa Quý là Thân Thiệu
Thái được tiếp nối làm Châu mục Lạng
Châu. Đến thời Lý Thái Tông, Thân Thiệu
Thái lại được nhà vua gả Cơng chúa Bình
Dương cho vào năm 102915. Cháu của Thân
Thừa Quý, tức con trai của Thân Thiệu Thái
và công chúa Bình Dương là Thân Đạo
Nguyên, năm 1066 lại được kết hôn với
công chúa Thiên Thành16.
Năm 1036, vua Lý Thái Tông gả hai
công chúa cho hai châu mục người Mường
là công chúa Kim Thành17 cho Châu mục
Châu Phong (vùng Phú Thọ và Sơn Tây
xưa) là Lê Tông Thuận18 và công chúa
Trường Ninh cho Châu mục châu Thượng
Oai (vùng Hồ Bình) là Hà Thiện Lãm19.
Không chỉ gả con cho các châu mục để
ràng buộc mà Lý Thái Tơng cịn lấy con


Vị trí địa - chính trị của châu Vị Long…

gái của Đào Đại Di ở châu Chân Đăng
(vùng Hưng Hoá) làm phi cho mình. Và
vua Lý Thánh Tơng cịn đem con gái nuôi
là công chúa Ngọc Kiều (con gái của

Phụng Càn vương Lý Nhật Trung) gả cho
châu mục châu Chân Đăng họ Lê.
Theo văn bia “Bảo Ninh sùng phúc tự”:
“Ông nội của Thái phó được cưới con gái
thứ 3 của Lý Thái Tổ Hoàng làm phu
nhân”20. Nếu sự ghi chép trong văn bia
trên là chính xác thì góp phần khẳng định
một trong những chính sách chiến lược
“nhu viễn” của nhà Lý do Lý Thái Tổ
thực hiện là “dùng quan hệ hôn nhân” để
lôi kéo và ràng buộc các thế lực vùng (nhất
là vùng biên viễn) trong sự nghiệp xây
dựng và phát triển quốc gia Đại Việt. Sử
liệu cho biết Lý Thái Tổ lên ngôi năm
1010 và mất năm 1028. Như vậy, trước khi
qua đời năm 1028, Lý Thái Tổ đã gả 2 con
gái cho tù trưởng động Giáp ở Lạng Châu
là Thân Thừa Q và “Ơng nội của Thái
phó châu Vị Long”.
Việc gả cơng chúa cho các châu mục
vẫn cịn được tiếp tục vào các đời vua sau
đó, nhưng ít có dịng họ nào ở nước ta thời
bấy giờ như họ Thân ở Lạng Châu và họ
Hà ở Châu Vị Long được các Vua Lý dùng
quan hệ “hôn nhân” để gắn kết nhằm mục
đích xây dựng và phát triển đất nước.
Sau những đóng góp của dịng họ Hà
cai quản châu Vị Long trong việc xây dựng
và phát triển vùng đất này và thể hiện rõ
nhất trong cuộc tham gia cuộc tấn công tự

vệ vào đất châu Ung nhà Tống năm 1074,
năm 1082, vua Lý Nhân Tông đã gả công
chúa Khâm Thánh cho châu mục châu Vị
Long (thuộc vùng Chiêm Hoá Tuyên
Quang ngày nay) là Hà Di Khánh21. Qua
đó, phần nào đã nói lên thế và lực cũng như

75

vai trị và vị trí uy tín của dịng họ này đối với
quốc gia Đại Việt ở thế kỷ X.
Với chính sách mềm mỏng và khôn
khéo trên đây của các vua nhà Lý, đã đưa
đến kết quả là phần nhiều các bộ lạc miền
núi đã qui phục triều đình. Nhiều thủ lĩnh,
nhiều tù trưởng đã theo về với triều đình và
trở thành chân tay đắc lực của chính quyền
trung ương, như họ Thân ở Lạng Châu, họ
Hà ở Vị Long v.v.. Đồng bào các dân tộc ở
các châu “miền biên viễn” tuy ít người,
nhưng thực sự đã cùng với nhà Lý góp
phần khơng nhỏ vào sự nghiệp xây dựng
quốc gia Đại Việt vững mạnh.
Sử liệu còn cho biết, châu Vị Long còn
là một tụ điểm thương mại lớn. Vào thế kỷ
X, khi thương nhân nước ngồi đến vùng
này bn bán sai qui định đã bị Nhà nước
cho thu giữ hàng hoá. Sử ghi, vào năm
Nhâm Tý (1012) “người Man (Nam Chiếu)
sang quá cột đồng, đến bến Kim Hoa và

châu Vị Long (thuộc Chiêm Hố, Hà
Giang) để bn bán. Vua sai người bắt
được người Man và hơn 1 vạn con
ngựa”22. Như vậy, châu Vị Long thời kỳ
này khơng chỉ là vùng đất có vị trí chiến
lược quan trọng của Đại Việt, có các thế
lực “tù trưởng” hay “thủ lĩnh vùng” có
tiềm lực kinh tế và chính trị mà điển hình
là dịng họ Hà đang cai quản đất này mà ở
đó cịn là một trung tâm trao đổi hàng hóa.
Chính vì có vị trí địa - chính trị quan
trọng, nên từ thời Lý châu Vị Long (thế kỷ
X) đến ngày nay, huyện Chiêm Hóa ln là
vùng đất in đậm những dấu ấn lớn lao của
lịch sử. Trong thời kỳ kháng chiến chống
Pháp (1945-1954), tháng 2 năm 1951, thơn
Phú An, xã Kim Bình, huyện Chiêm Hóa
được chọn là nơi tiến hành Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ II từ ngày 11 đến 19


76

Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam - 10/2012

tháng 2 năm 1951. Nơi đây, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã ở, làm việc và tiếp khách
trong thời gian diễn ra Đại hội Đại biểu
toàn quốc lần thứ II của Đảng. Đó là mốc
son khẳng định vị trí chiến lược quan trọng

của vùng đất này trong sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc.

10. Trước năm 1976, Chiêm Hóa thuộc tỉnh Tuyên

Từ châu Vị Long thế kỷ X đến huyện
Chiêm Hóa ngày nay, cương vực có thể đổi
thay, nhưng vị trí địa – chính trị của vùng
đất này đối với tỉnh Tun Quang nói riêng
và cả nước nói chung vẫn cịn nguyên
những giá trị bền vững trong sự nghiệp xây
dựng và phát triển của thời kỳ đổi mới và
hội nhập.

Quan chức chí, Tập II, Sđd, tr.7 và 30.

________________

16. Việt Sử lược, Sđd, tr. 101.

Chú thích

17. Việt sử lược chép là cơng chúa Khánh Thành

1. Phan Huy Chú, 1997. Hoàng Việt địa dư chí, Nxb.

Quang, năm 1976, Hà Giang và Tuyên Quang sáp
nhập thành Hà Tuyên, Chiêm Hoá thuộc tỉnh Hà
Tuyên. Năm1991, tỉnh Hà Giang tách khỏi Hà
Tuyên, Chiêm Hóa trở thành huyện của tỉnh Tuyên

Quang gồm 28 xã và 01 thị trấn.
11. Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương loại chí,

12. Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương loại chí,
Quan chức chí, Tập II, Sđd, tr.7 và 31.
13. Tồn thư, bản kỷ, Quyển II, Tập I, Sđd, tr. 243- 257.
14. Toàn thư, bản kỷ, Tập I, Sđd, tr. 259- 280.
15. Toàn thư, bản kỷ, Tập I, Sđd, tr. 259.

(tr. 81, Sđd ).

Thuận Hóa, Thành phố Thừa Thiên - Huế, tr. 124.

18. Toàn thư, bản kỷ, Tập I, Sđd, tr. 265.

2. Tuyên hành kí trình. Tư liệu Viện Sử học.

19. Tồn thư, bản kỷ, Tập I, Sđd, tr. 265.

3. Đại Nam nhất thống chí, 1971. Nxb. Khoa học
xã hội, Hà Nội, tr. 317.

20. Xem thêm: Đinh Khắc Thuân “Văn bản và giá

4. Nguyễn Văn Bân, Tuyên Quang phong thổ kí,
Tư liệu Viện Sử học.
5. Đại Nam nhất thống chí, Sđd, tr. 324.

trị sử liệu văn bia Bảo Ninh Sùng Phúc, tỉnh Tuyên
Quang”. Bia này đang hiện diện tại thôn Làng Tạc,

xã An Nguyên, huyện Chiêm Hóa và Nguyễn
Minh Tường “Về sự nghiệp của Thái phó Hà Di
Khánh vị Phị mã, em vua Lý Nhân Tông”, tham

6. Khâm định việt sử thông giám cương mục, 1998.

luận trong “Hội Thảo khoa học về các danh nhân

Tiền biên, q.5, T.I., Bản dịch của Viện Sử học, Nxb.

họ Hà châu Vị Long - Tuyên Quang và giá trị tấm

Giáo dục, tr. 213.

bia Bảo Ninh Sùng Phúc tự”, tổ chức tại Thành

7. Đại Việt Sử ký toàn thư, 1983. Tập I, Bản dịch

phố Tuyên Quang, tháng 8/2012. Còn trong “Đại

Nxb. Khoa học xã hội, tr. 178.

Việt Sử ký tồn thư” khơng thấy ghi Vua Lý Thái

8. Đào Duy Anh, 1994. Đất nước Việt Nam qua
các đời, Nxb. Thuận Hóa, Huế, tr. 115.
9. Xem thêm: Vũ Văn Quân, Nước Đại Cồ Việt
thời Tiền Lê. Tham luận hội thảo khoa học "Lê
Hồn và bối cảnh định đơ Thăng Long" do Hội Sử
học Hà Nội tổ chức năm 2007.


Tổ gả công chúa chỉ ghi sự việc này từ đời vua Lý
Thái Tơng. Theo tơi Ơng nội của Thái phó tức là
ơng nội của Hà Di Khánh.
21. Tồn thư, bản kỷ, Tập I, Sđd, tr. 294; Việt sử
lược, Sđd, tr. 114.
22. Toàn thư, bản kỷ, Quyển II, Tập I, Sđd, tr. 245.


Vị trí địa - chính trị của châu Vị Long…

77



×