Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Ôn tập Triết học - GV. Vũ Tình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (154.69 KB, 15 trang )

ÔN TẬP TRIẾT HỌC - THẦY VŨ TÌNH
1.

Những hình thức lịch sử của phép biện chứng. Nội dung cơ bản của phép biện chứng duy vật và những yêu cầu
có tính ngun tắc mà phép biện chứng duy vật địi hỏi.
Phép biện chứng là học thuyết về các mối lien hệ về vận động và phát triển.
Căn cứ vào sự vận động và phát triển chia phép biện chứng thành 3 hình thức lịch sử:
- Phép biệc chứng chất phát: thể hiện rõ nét ở thời cổ đại, đặc trưng nhất là tính chất ngây thơ, chưa trả lời
được các câu hỏi: bản chất của mối lien hệ như thế nào?; nặng ở sự quan sát trực tiếp.
- Phép biện chứng duy tâm: học thuyết về các mối lien hệ về sự vận động và phát triển của các nhà Triết
học duy tâm, đạt đến đỉnh cao vào TK XIX, đặc biệt là Heghen. Đặc trưng là chur nghĩa duy tâm: các nhà
Triết học quan niệm sự vận động và phát triển thể hiên trong Thế giới tinh thần trước, sau đó mới thể hiện
ra bên ngồi.
Heghen: “các mối lien hệ sự vận động và phát triển thể hiện trong Thế giới tinh thần trước, sau đó tha hóa
ra bên ngồi”  lân đầu tiên trong lịch sử ơng đã thể hiện những nội dung cơ bản nhất biện chứng dưới
dạng học thuyết rất chặc chẽ thong qua nguyên lý, phạm trù  phép biện chứng của Heghen đã trở thành
1 trong những tiền đề lý luận để ra đời hình thức thứ 3: phép biện chứng duy vật.
- Phép biện chứng duy vật: trên cơ sở kế thừa những nội dung hợp lý phép biện chứng của Heghen. Đặc
trưng lớn nhất là tính chất duy vật trong học thuyết, nghĩa là: các mối lien hệ sự vận động và phát triển tự
tồn tại trong thế giới vật chất, khi con người nhận thức thì con người xây dựng học thuyết. Nếu khơng có
con người, hoặc khơng xây dựng học thuyết thì nó vẫn tồn tại.
Nội dung của phép biện chứng duy vật: có nhiều nhưng khái quát thành 2 nguyên lý, nguyên lý mối quan hệ
phổ biến được cụ thể hóa qua các quy luật khơng cơ bản/ các cặp phạm trù cơ bản (riêng – chung, nguyên
nhân – kết quả, tất nhiên – ngẫu nhiên, nội dung – hình thức, bản chất – hiện tượng, khả năng – hiện thực)
cho chúng ta hiểu tính đa dạng của các mối lien hệ, nguyên lý sự vận động và phát triển được cụ thể hóa qua
các quy luật cơ bản (quy luật 1: từ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất, quy luật 2: quy
luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập, quy luật 3: quy luật phủ định của phủ định)
Hai nguyên lý cơ bản của phép biện chứng duy vật :
Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến: PBCDV khẳng định rằng trong tự nhiên, xã hội và tư duy, khơng có sự
vật, hiện tượng nào tồn tại một cách riêng lẻ, cô lập tuyệt đối, mà trái lại chúng tồn tại trong sự liên hệ, ràng
buộc, phụ thuộc, tác động, chuyển hóa lẫn nhau.


Nguyên lý về phát triển: PBCDV khẳng định rằng mọi lĩnh vực trong thế giới (vô cơ và hữu cơ; tự nhiên,
xã hội và tư duy) đều nằm trong q trình phát triển khơng ngừng từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp,
từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện.
- Các quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật:
+ Quy luật chuyển hoá từ những biến đổi về lượng dẫn tới những biến đổi về chất và ngược lại: gọi là
quy luật lượng - chất. Quy luật này phản ánh cách thức, cơ chế của quá trình phát triển, là cơ sở phương pháp
luận chung để nhận thức và thúc đẩy quá trình phát triển của sự vật với 3 yêu cầu cơ bản là:
> Thường xuyên và tăng cường tích luỹ về lượng để tạo điều kiện cho sự thay đổi về chất. Chống chủ
nghĩa duy ý chí muốn đốt cháy giai đoạn.
> Khi lượng được tích luỹ đến giới hạn độ, phải mạnh dạn thực hiện bước nhảy vọt cách mạng, chống
thái độ bảo thủ, trì trệ.
> Vận dụng linh hoạt các hình thức nhảy vọt để đẩy nhanh quá trình phát triển.
+ Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập: còn được gọi là quy luật mâu thuẫn. Quy luật
này là hạt nhân của phép biện chứng, Nó vạch ra nguồn gốc, động lực của sự phát triển, phản ánh quá trình
đấu tranh giải quyết mâu thuẫn bên trong sự vật. Từ đó, phải vận dụng nguyên tắc mâu thuẫn mà yêu cầu cơ
bản của nó là phải nhận thức đúng đắn mâu thuẫn của sự vật, trước hết là mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn chủ
yếu, phải phân tích mâu thuẫn và q trình đấu tranh giải quyết mâu thuẫn. Đấu tranh là phương thức giải
quyết mâu thuẫn. Tuy nhiên, hình thức đấu tranh rất đa dạng. linh hoạt, tuỳ thuộc mâu thuẫn cụ thể và hoàn
cảnh lịch sử cụ thể.
+ Quy luật phủ định của phủ định: Quy luật này khái quát khuynh hướng phát triển tiến lên theo hình
thức xốy ốc thể hiện tính chất chu kỳ trong q trình phát triển.


Đó là cơ sở phương pháp luận của nguyên tắc phủ định biện chứng, chỉ đạo mọi phương pháp suy nghĩ và
hành động của con người. Phủ định biện chứng địi hỏi phải tơn trọng tính kế thừa, nhưng kế thừa phải có
chọn lọc, cải tạo, phê phán, chống kế thừa nguyên xi, máy móc và phủ định sạch trơn, chủ nghĩa hư vô với
quá khứ. Nguyên tắc phủ định biện chứng trang bị phương pháp khoa học để tiếp cận lịch sử và tiên đốn, dự
kiến những hình thái cơ bản của tương lai.
Tóm lại, mỗi nguyên lý, phạm trù, quy luật của phép biện chứng duy vật có ý nghĩa phương pháp luận
quan trọng. Vì vậy, chúng phải được vận dụng tổng hợp trong nhận thức khoa học thực tiễn cách mạng.

Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển của PBCDV là cơ sở lý luận của nguyên
tắc toàn diện, nguyên tắc lịch sử-cụ thể và nguyên tắc phát triển.
a) Nguyên tắc toàn diện trong nhận thức và thực tiễn
Nguyên tắc tồn diện địi hỏi chúng ta phải xem xét sự vật, hiện tượng với tất cả các mặt, các mối liên hệ;
đồng thời phải đánh giá đúng vai trò, vị trí của từng mặt, từng mối liên hệ; nắm được mối liên hệ chủ yếu có
vai trị quyết định. Đồng thời chống lại quan điểm phiến diện, một chiều (con gnuowif không bao giờ hiểu về
các mối lirn hệ, nhưng con người càng hiểu biết về các mối liên hệ thì càng ít sai lầm).
Sự vận dụng quan điểm tồn diện trong sự nghiệp cách mạng:
- Trong Cách mạng dân tộc dân chủ: Đảng ta vận dụng quan điểm toàn diện trong phân tích mâu thuẫn xã
hội, đánh giá so sánh lực lượng giữa ta với địch, tạo ra và sử dụng sức mạnh tổng hợp.
- Trong công cuộc đổi mới, Đảng ta tiến hành đổi mới toàn diện, triệt để; đồng thời phải xác định khâu
then chốt. Nắm vững mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế, đổi mới chính trị và đổi mới tư duy.
b) Nguyên tắc lịch sử-cụ thể trong nhận thức và thực tiễn
Nguyên tắc lịch sử-cụ thể đòi hỏi phải xem xét sự vật hiện tượng trong q trình vận động phát triển: nó ra
đời trong điều kiện như thế nào? trải qua những giai đoạn phát triển như thế nào? mỗi giai đoạn có tính tất
yếu và đặc điểm như thế nào? Đồng thời phải chống lại tư tưởng chung chung đại khái.
c) Nguyên tắc phát triển trong nhận thức và thực tiễn
Nguyên tắc phát triển đòi hỏi khi xem xét sự vật, hiện tượng phải nhìn thấy khuynh hướng biến đổi trong
tương lai của chúng: cái cũ, cái lạc hậu sẽ mất đi; cái mới, cái tiến bộ sẻ ra đời thay thế cái cũ, cái lạc hậu.
đồng thời chống lại tư tưởng bảo thủ, trì trệ.
2.

Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận với thực tiễn.
Hoạt động lý luận và hoạt động thực tiễn là hai dạng hoạt động của con người. Lý luận được hình thành khơng
phải ở bên ngồi thực tiễn mà trong mối liên hệ chặt chẽ với thực tiễn. Hai hoạt động này thống nhất không tách
rời nhau, gắn bó xâm nhập, làm cơ sở, tiền đề cho nhau phát triển. Giữa thực tiễn và lý luận có mối liên hệ biện
chứng với nhau, tác động qua lại lẫn nhau, và trong đó thực tiễn giữ vai trị quyết định.
Thực tiễn được định nghĩa là những hoạt động vật chất có mục đích, có tính lịch sử - XH của con người
nhằm biến đổi giới tự nhiên và xã hội. Do vậy, thực tiễn khơng phải là tồn bộ hoạt động của con người mà chỉ là
những hoạt động vật chất chứ không phải là hoạt động tinh thần hay còn gọi là hoạt động lý luận.

Hoạt động thực tiễn là quá trình tương tác giữa chủ thể (tức là con người) và khách thể (tức là giới tự
nhiên), là dạng hoạt động vật chất trong đó chủ thể chủ động làm biến đổi khách thể. Trong hoạt động thực tiễn,
con người phải sử dụng các phương tiện, công cụ vật chất cũng như sức mạnh vật chất của mình để tác động vào
tự nhiên, XH nhằm cải tạo, làm biến đổi chúng cho phù hợp với mục đích sử dụng của mình. Vì vậy, có thể nói
thực tiễn là phương thức tồn tại cơ bản nhất của con người và XH, là phương thức đầu tiên và chủ yếu của mối
quan hệ giữa con người và thế giới.
Hoạt động thực tiễn mang tính lịch sử - xã hội vì nội dung, phương pháp, phương tiện cũng như phạm vi
ảnh hưởng của nó phụ thuộc vào những điều kiện lịch sử nhất định. Tuy trình độ và các hình thức của hoạt động
thực tiễn có thay đổi qua các thời kỳ lịch sử khác nhau của XH, nhưng thực tiễn luôn luôn là dạng hoạt động cơ
bản và phổ biến của XH lồi người. Thực tiễn cũng có q trình vận động và phát triển của nó, trình độ phát triển
của thực tiễn nói lên trình độ chinh phục giới tự nhiên, trình độ làm chủ XH của con người.
Ø Hình thức cơ bản đầu tiên của thực tiễn là hoạt động sản xuất vật chất. Đây là hình thức ngun thuỷ
nhất và cơ bản nhất vì nó quyết định sự tồn tại và phát triển của XH loài người, quyết định các dạng khác của
hoạt động thực tiễn.


Ø Hình thức cơ bản thứ hai của thực tiễn là hoạt động CT - XH nhằm cải tạo, biến đổi XH, phát triển các
quan hệ XH, chế độ XH. Đây là hình thức hoạt động thực tiễn cao nhất.
Ø Với sự ra đời và phát triển của khoa học làm xuất hiện hình thức cơ bản thứ ba của thực tiễn - hoạt
động thực nghiệm khoa học. Đây là hình thức hoạt động thực tiễn đặc biệt nhằm mục đích phục vụ nghiên cứu
khoa học và kiểm tra lý thuyết khoa học. Hình thức hoạt động này ngày càng trở nên quan trọng do sự phát triển
mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật hiện đại.
Ø Thực tiễn là cơ sở, nguồn gốc, động lực của lý luận. Bởi vì nó là nền tảng, là điểm xuất phát, là nơi diễn ra
hoạt động lý luận. Mặt khác hoạt động thực tiễn thúc đẩy cho hoạt động lý luận con người và thơng qua nó con
người phát triển bản chất, năng lực trí tuệ của mình. Thực tiễn cịn là mục đích của nhận thức, của lý luận bởi vì
hoạt động lý luận khơng phải chỉ để lý luận mà là cải tạo tự nhiên, xã hội nhằm phục vụ cho nhu cầu con người.
Thực tiễn phải được chỉ đạo, hướng dẫn bởi lý luận, khoa học, cách mạng. Nếu thực tiễn khơng có lý luận dẫn
đường thì thực tiễn sẽ trở nên mù qng. Cịn nếu thực tiễn được chỉ đạo bởi lý luận sai lầm và phản cách mạng
thì hậu quả sẽ khó lường.
Lý luận được hiểu là hệ thống những tri thức phản ánh những mối liên hệ bản chất, những tính quy luật

của thế giới khách quan. Lý luận được hiểu theo một cách khác là hệ thống hoá các khái niệm, phạm trù, nguyên
lý, quy luật; trong đó quy luật là cái cốt lõi, là sản phẩm của hoạt động nhận thức của con người.
Khác với các quan điểm duy tâm, tôn giáo Triết học Mác-Lênin khẳng định lý luận là kết quả của quá
trình nhận thức. Quá trình nhận thức đi từ nhận thức cảm tính đến nhận thức lý tính, từ trực quan sinh động đến
tư duy trừu tượng. Nhận thức cảm tính (trực quan sinh động ) là giai đoạn đầu, trình độ thấp của quá trình nhận
thức, bao gồm 3 hình thức cơ bản: cảm giác, tri giác và biểu tượng. Nhận thức lý tính (tư duy trừu tượng) là giai
đoạn cao, trình độ cao của quá trình nhận thức, bao gồm 3 hình thức cơ bản là khái niệm, phán đoán và suy luận.
Như vậy lý luận là kết quả của quá trình phát triển cao của nhận thức, là trình độ cao của nhận thức.
Ø Lý luận là kim chỉ nam cho hành động, soi đường, dẫn dắt, chỉ đạo thực tiễn. Lý luận xuất phát từ thực
tiễn, dựa trên cơ sở thực tiễn, đi sâu đi sát thực tiễn, coi trọng việc tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận phải liên
hệ với thực tiễn bởi vì chỉ có thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý để kiểm nghiệm lại lý luận đúng hay sai. Nếu lý
luận xa rời thực tiễn sẽ dẫn tới các sai lầm của bệnh chủ quan, giáo điều, máy móc, bệnh quan liêu. Tuy nhiên tự
bản thân lý luận luôn luôn phải đổi mới để theo kịp sự phát triển của thực tiễn để khỏi phải lạc hậu, lỗi thời và
phải làm vai trò hướng dẫn chỉ đạo và thúc đẩy hoạt động thực tiễn bởi vì chỉ có một lý luận khoa học, cách
mạng thì hoạt động thực tiễn mới đạt hiệu quả cao được. Lý luận có vai trò rất lớn đối với thực tiễn, tác động trở
lại thực tiễn, góp phần làm biến đổi thực tiễn thông qua hoạt động của con người.
Ý nghĩa của phương pháp luận trong thực tiễn nước ta:
a) Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cũng như các tri thức khoa học mà nhân loại
đã đạt được vào điều kiện cụ thể của nước ta
- Đảng ta lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho
hành động. Bởi vì, chủ nghĩa Mác-Lênin là lý luận cách mạng và khoa học, vạch ra quy luật và xu thế phát triển
tất yếu khách quan của xã hội loài người và con đường đấu tranh để cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới. Tư
tưởng Hồ Chí Minh là sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của nước
ta; là hệ thống quan điểm cơ bản của đường lối cách mạng Việt Nam; là sự kế thừa và phát huy những tinh hoa tư
tưởng của dân tộc và nhân loại; là đạo đức cách mạng của mọi người.
- Nắm vững bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin. Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa
Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh cho phù hợp với điều kiện nước ta hiện nay.
- Vận dụng sáng tạo các tri thức khoa học của nhân loại trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
nước ta.
b) Nghiên cứu tổng kết kinh nghiệm thực tiễn của Việt Nam và quốc tế để tiếp tục hoàn thiện lý luận về

chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
- Tổng kết kinh nghiệm thực tiễn để hoàn thiện lý luận về chủ nghĩa xã hội.
- Tổng kết kinh nghiệm thực tiễn để hoàn thiện con đường đi lên CNXH.
c) Trong giáo dục, đào tạo phải kết hợp lý luận với thực tiễn, học với hành
- Giáo dục – đào tạo phải đáp ứng nhu cầu phát triển xã hội
- Kết hợp lý luận với thực tiễn, học với hành.
d) Khắc phục bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều


- Bệnh giáo điều: Bệnh giáo điều là khuynh hướng cường điệu lý luận, coi thường thực tiễn, tách rời lý
luận khỏi thực tiễn.
- Chỉ căn cứ trên câu chữ trong sách vở, không nắm bắt được bản chất khoa học và cách mạng của chủ
nghĩa Mác-Lênin.
- Áp dụng lý luận một cách cứng nhắc khơng tính đến điều kiện cụ thể
- Áp dụng kinh nghiệm người khác một cách rập khn máy móc
Tác hại của bệnh giáo điều là biến chủ nghĩa xã hội khoa học thành những công thức xơ cứng, phiến diện,
cản trở quá trình đổi mới thường xuyên CNXH hiện thực.
Bệnh kinh nghiệm:Là khuynh hướng tư tưởng tuyệt đối hóa kinh nghiệm, coi thường lý luận. Người mắc
bệnh kinh nghiệm thường thỏa mãn với kinh nghiệm sẵn có của bản thân, khơng chịu khó học tập lý luận, không
tiếp thu và áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật vào trong công tác, xem thường gới trí thức, thiếu nhìn xa
trơng rộng, dễ bảo thủ trì trệ.
Nguyên nhân của bệnh kinh nghiệm và giáo điều là sự yếu kém về lý luận và thiếu hiểu biết thực tiễn,
chủ nghĩa cá nhân. Để khắc phục bênh giáo điều và bệnh kinh nghiệm, cần phải tăng cường nghiên cứu, đổi mới
công tác lý luận, tổng kết thực tiễn, từ bỏ lối nghiên cứu kinh viện, gắn lý luận với thực tiễn, tăng cường giáo dục
nâng cao trình độ lý luận cho cán bộ, đảng viên
3.

Nội dung cơ bản của lý luận Hình thái kinh tế - xã hội và ý nghĩa của lý luận này đối với sự nghiệp cách mạng
Việt Nam giai đoạn hiện nay.
Hình thái kinh tế - xã hội là phạm trù để chỉ 1 xã hội trọn vẹn trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể, có những quan

hệ sản xuất bị trình độ của lực lượng sản xuất quy định. Những quan hệ sản xuất tạo nên kết cấu kinh tế (cơ sở hạ
tầng) của xã hội và trên nó là kiến trúc thượng tầng.
Muốn tìm hiểu về hình thái kinh tế - xã hội (xã hội) thì phải hiểu về mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất cấu thành phương thức sản xuất.
Phương thức sản xuất: là cách thức sản xuất ra của cải vật chất trong 1 giai đoạn lịch sử cụ thể. Không chỉ dừng
lại ở việc sản xuất ra cái gì (kết quả) mà cái gì tạo ra cái đó (cách thức)
Bất kỳ 1 phương thức sản xuất nào cũng gồm lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
Lực lượng sản xuất là tất cả các yếu tố tham gia vào sản xuất
- Người lao động: người tham gia vào sản xuất thuộc 1 độ tuổi nhất định
- Tư liệu lao động: những phần thuộc tự nhiên tham gia vào quá trình sản xuất bao gồm tư liệu lao động (tư
công cụ lao động và phương tiện lao động) và đối tượng lao động.
o Cơng cụ lao động: vật đóng vai trị trung gian để truyền tải sức người lao động vào vật khác trong
quá trình sản xuất.
o Đối tượng lao động: là những vật nhận sự tác động của công cụ lao động
o Phương tiện lao động: những vật hỗ trợ con người trong quá trình sản xuất về mặt chuyên chở,
bảo quản.
 Người lao động đóng vai trị quyết định.
 Cơng cụ lao động là yếu tố quan trọng vì quy địng năng suất lao động và biểu hiện khả năng chinh phục
giới tự nhiên của con người.
 Lực lượng sản xuất là yếu tố động: thường xuyên thay đổi, mang tính cách mạng (mỗi khi cơng cụ lao
động cải biến, cái con người bỏ ra ít đi, thu về nhiều hơn)
Quan hệ sản xuất: là quan hệ giữa người với người trong q trình sản xuất, có 3 biểu hiện cơ bản:
- Quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất: trả lời cho câu hỏi “ai là người sở hữu?”
- Quan hệ quản lý va phân phối sản phẩm: “trong quá trình sản xuất ai được quản lý, ai được phân công
- Quan hệ phương pháp sản phẩm: “ ai là người quy định ai hưởng cái gì? Bao nhiêu?”
 Quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất: quyết định trong quan hệ sản xuất: có quyền quản lý, phân cơng lao
động; quyền phân phối sản phẩm  có quyền lực, quyền lợi.
- Nhìn chung tất cả quan hệ sản xuất ít thay dổi, người nắm tư liệu sản xuất không muốn thay đổi (yếu tố
tĩnh, bão thủ)
Mối quan hệ giữu lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất thể hiện qua quy luật “quan hệ sản xuất phù hợp với

trình độ của lực lượng sản xuất. Trình độ của lực lượng sản xuất được xét ở:
- Sức khỏe và trí tuệ của người lao động.


- Hàm lượng kh trong công cụ lao động và phương tiện lao động
- Tính chất hợp lý trong khai thác đối tượng lao động
Trình độ của lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất
- Trình độ của lực lượng sản xuất như thế nào thì quan hệ sản xuất phải như thế vậy, tức là nó phải tương
ứng với trình độ của lực lượng sản xuất.
- Trình độ của lực lượng sản xuất thường xuyên phát triển, khi nó phát triển đến 1 mức độ nhất định thì
quan hệ sản xuất phải thay đổi theo cho phù hợp với trình độ mới của lực lượng sản xuất.
Quan hệ sản xuất tác động trở lại lực lượng sản xuất:
- Nếu quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ lực lượng sản xuất nó sẽ thúc đẩy lực lượng sản xuất phát
triển, sản xuất phát triển.
- Nếu quan hệ sản xuất khơng phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất, nó sẽ kìm hãm sự phát triển của
lực lượng sản xuất, kìm hãm phát triển
Quan hệ sản xuất được hình thành một cách khách quan trong quá trình sản xuất tạo thành quan hệ vật chất của
xã hội. Trên cơ sở quan hệ sản xuất hình thành nên các quan hệ về chính trị và tinh thần của xã hội. Hai mặt đó
của đời sống xã hội được khái quát thành cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của xã hội.
-

Cơ sở hạ tầng là toàn bộ những quan hệ sản xuất tạo nên kết cấu kinh tế của xã hội:
o Quan hệ sản xuất thống trị là quan hệ sản xuất của phương thức đương thời của xã hội đương thời,
giữ vai trò thống trị (quan hệ sản xuất thống trị nào thì chế độ xã hội đó) chi phối những quan hệ
sản xuất còn lại.
o Quan hệ sản xuất tàn dư: phương thức sản xuất cũ của xã hội cũ còn lại.
o Quan hệ sản xuất mầm mống: quan hệ sản xuất của xã hội tương lai.

-


Kiến trúc thượng tầng là hệ tư tưởng (các học thuyết) của xã hội và những thiết chế tương ứng với hệ tư
tưởng ấy.
o Thiết chế tương ứng với hệ tư tưởng: tổ chức người và các phương tiện vật chất mà các tổ chức sử
dụng để thực hiện hệ tư tưởng.

 Yếu tố giữ vai trò trong kiến trúc thượng tầng phụ thuộc từng vùng, từng nhà nước, từng giai đoạn.
Mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là mối quan hệ giữa kinh tế với đời sống tinh thần và cơ
cấu tổ chức trong xã hội đó
-

Cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng:
o Mỗi cơ sở hạ tầng sinh ra 1 kiến trúc thượng tầng tương ứng và quyết định tính chất của kiến trúc
thượng tầng.
o Khi cơ sở hạ tầng thay đổi, kiến trúc thượng tầng cũng thay đổi.

-

Kiến trúc thượng tầng cũng tác động trở lại cơ sở hạ tầng:
o Kiến trúc thượng tầng luôn cũng cố bảo vệ cơ sở hạ tầng đã sinh ra nó.
o Kiến trúc thượng tầng thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển kinh tế thơng qua đường lối, chủ
trương của nhà nước tác động của nó  các quan hệ sản xuất cấu thành cơ sở hạ tầng.

Mối quan hệ giữa kiến trúc thượng tầng và lực lượng sản xuất là gián tiếp thông qua quan hệ sản xuất.
Nguyên nhân động lực xã hội phát triển là lực lượng sản xuất phát triển, trong lực lượng sản xuất người lao động,
công cụ lao động là chủ thể.
Từ tất cả các nội dung trên ta thấy: hinh thái kinh tế - xã hội là 1 xã hội trọn vẹn, có cấu trúc phức tạp song có 3
yếu tố cơ bản của lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng.
Lực lượng sản xuất là yếu tố thường xuyên phát triển, khi nó phát triển đến 1 mức độ nhất định thì quan hệ sản
xuất phải thay đổi. quan hệ sản xuất thay đổi làm cơ sở hạ tầng thay đổi, cơ sở hạ tầng thay đổi dẫn đến sự thay



đổi của kiến trúc thượng tầng. đến đây tất cả các yếu tố tạo nên hình thái kinh tế - xã hội khác cao hơn, xã hội
này chuyển sang xã hội khác phát triển hơn.
-

Xã hội này là 1 chỉnh thể có cấu trúc phức tạp, các lĩnh vực của xã hội. hoạt động sản xuất tạo ra của cải
vật chất là hoạt động quyết định.

-

Sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội (sự phát triển của xã hội lồi người) là 1 q trình lịch sử tự nhiên, tức là sự phát triển này không phụ thuộc ý muốn chủ quan của con người mà tuân theo những
quy luật khách quan, trong đó quan trọng nhất là quy luật: lực lượng sản xuất – quan hệ sản xuất, quy luật
về cơ sở hạ tầng – kiến trúc thượng tầng.

-

Muốn cho xã hội phát triển, trước hết phải đầu tư vào người lao động và công cụ lao động) đồng thời
hoàn thiện quan hệ sản xuất va kiến trúc thượng tầng để tác động tích cực đến lực lượng sản xuất.

Vận dụng vào bối cảnh Việt Nam: nước ta thực hiện cách mạng trên 3 lĩnh vực (cụ thể: cách mạng về lực lượng
sản xuất thể hiện qua sự nghiệp CNH, HĐH; hoàn thiện quan hệ sản xuất thể hiện đanh từng bước phát huy vai
trò của nền kinh tế nhiều thành phần; kiến trúc thượng tầng hồn thiện chính sách người lao động, chính sách cán
bộ; kiến trúc thượng tầng từng bước hoàn thiện xây dựng hệ tư tưởng cách mạng nhân văn, về phương diện thiết
chế tương ứng, từng bước xây dựng đảng, nhà nước các tổ chức khác trong sạch, vững mạnh.
Câu 3. Phân tích nội dung cơ bản của cặp phạm trù “Cái chung và Cái riêng”? Ý nghĩa của cặp phạm trù
đó với hoạt động thực tiễn của đồng chí?
Khái niệm: - Cái riêng: Là một phạm trù triết học dùng để chỉ định sự vật, một hiện tượng, một quá trình riêng lẻ
nhất định.
- Cái chung: Là phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính, những mối liên hệ giống nhau được
lặp lại trong nhiều sự vật, hiện tượng hay quá trình riêng lẻ.

- Cái đơn nhất là phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính, những mối quan hệ giống nhau
được lập lại trong nhiều sự vật, hiện tượng hay quá trình riêng lẻ.
- Cái đơn nhất là phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính vốn có chỉ ở mọi sự vật hiện tượng,
khơng lặp lại ở các sự vật hiện tượng khác. Nhờ cái đơn nhất mà con người có thể phân biệt được cái riêng này
với cái riêng khác.
- Theo quan điểm của CNDVBC mối quan hệ biện chứng giữa cái riêng và cái chung thể hiện như sau:
Thứ nhất: Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng thơng qua cái riêng. Điều đó có nghĩa là cái chung thực sự tồn tại,
nhưng nó chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng chứ khơng tồn tại biệt lập, bên ngồi cái riêng.
Thứ hai: Cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ dẫn tới cái chung. Điều đó có ý nghĩa là cái riêng tồn tại độc lập
nhưng sự tồn tại độc lập đó khơng có nghĩa cái riêng hồn tồn cơ lập với cái khác. Ngược lại, bất kỳ cái riêng
nào cũng nằm trong mối liên hệ dẫn tới cái chung. Cái riêng khơng những chỉ tồn tại cái riêng hồn tồn cơ lập
với cái khác. Ngược lại, bất kỳ cái riêng nào cũng nằm trong mối liên hệ dẫn tới cái chung. Cái riêng không
những chỉ tồn tại trong mối liên hệ dẫn tới cái chung, mà thông qua hàng nghìn sự chuyển hóa, nó cịn liên hệ với
cái riêng thuộc loại khác.
Thứ ba: Cái chung là bộ phận của cái riêng cịn cái riêng khơng ra nhập hết vào cái chung vì bên cạnh các thuộc
tính được lặp lại các sự vật khác, tức là bên cạnh cái chung bất cứ cái riêng nào cũng còn chứa đựng những cái
đơn nhất tức là những nét, những mặt, những thuộc tính... chỉ vốn có ở nó và khơng tồn tại ở bất kỳ sự vật nào
khác. Cái riêng phong phú hơn cái chung, còn cái chung sâu sắc hơn cái riêng.
Thứ tư: Trong quá trình phát triển khách quan, trong những điều kiện nhất định cái đơn nhất có thể chuyển hóa
thành cái chung và ngược lại. Sự chuyển hóa từ cái đơn nhất thành cái chung đó là sự ra đời của cái mới. Sự
chuyển hóa từ cái chung thành cái đơn nhất đó là sự mất dần đi cái cũ.
• Ý nghĩa của việc nghiên cứu cặp phạm trù này.
Cái chung và cái riêng gắn bó chặt chẽ không thể tách rời nên:
- Không được tách cái chung ra khỏi cái riêng. Khơng được tuyệt đối hóa cái chung. Nếu tuyệt đối hóa cái chung
sẽ mắc phải quan điểm sai lầm tả khuynh giáo điều. Muốn tìm ra cái chung phải nghiên cứu từng cái riêng, thông
qua cái riêng. Phê phán quan điểm sai lầm của phái duy thực: cho rằng chỉ tồn tại cái chung không phụ thuộc vào


cái riêng và sinh ra cái riêng. Cái riêng thì hoặc là khơng tồn tại, hoặc nếu có tồn tại thì cũng là do cái chung sinh
ra va chỉ tạm thời. Cái riêng sinh ra và chỉ tồn tại trong một thời gian nhất định rồi mất đi, cái chung mới là cái

tồn tại vĩnh viễn.
- Không được tách rời cái riêng ra khỏi cái chung, không được tuyệt đối hóa cái riêng. Nếu tuyệt đối hóa cái
riêng sẽ mắc phải quan điểm sai lầm hữu khuynh xét lại, phê phán quan điểm sai lầm của phái duy danh cho rằng
chỉ có cái riêng là tồn tại thực sự cịn cái chung chẳng qua chỉ là những tên gọi do lý trí đặt ra trong nhận thức và
hoạt động thực tiễn chúng ta phải biết phát hiện ra cái chung gắn liền với bản chất, quy luật vận động phát triển
của sự vật.
- Phải phát triển ra cái mới tiêu biểu cho sự phát triển và tạo điều kiện cho nó phát triển trở thành cái chung.
Ngược lại, hạn chế và đi đến xóa bỏ dần những cái cũ đã lỗi thời, lạc hậu.
Câu 4. Trình bày nội dung quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập ? Ý nghĩa của quy luật
đối với việc giải quyết những mâu thuẫn đang đặt ở địa phương, đơn vị đồng chí ?
Quy luật là những mối liên hệ mang tính bản chất, mối liên hệ tất nhiên lặp lại giữa các nhân tố, các thuộc tính
trong những sự vật hay là giữa các sự vật – hiện tượng với nhau. Quy luật gắn liền với nhận thức triết học và là
một trong những khai niệm trung tâm của tư duy khoa học, là đối tượng khám phá của mọi nhận thức khoa học.
Qui luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là một trong ba qui luật cơ bản của phép biện chứng duy vật,
nó vạch ra nguồn gốc sự phát triển của các sự vật, hiện tượng được coi là hạt nhân của phép biện chứng duy vật.
Mỗi sự vật, hiện tượng, quá trình đều là sự thống nhất của các mặt đối lập. Để hiểu rõ hơn qui luật này, ta cần
phải nắm được một số khái niệm cơ bản sau: Mặt đối lập là phạm trù dùng để chỉ những mặt tồn tại trong sự vật
có mang những đặc điểm, tính chất biến đổi theo khuynh hướng trái ngược nhau. Sự tồn tại của các mặt đối lập
trong sự vật là khách quan và phổ biến. Bất kỳ sự vật nào cũng có hai hoặc nhiều mặt đối lập; và cứ hai mặt đối
lập có liên hệ, tác động lẫn nhau thì tạo thành một mâu thuẫn biện chứng. Mâu thuẫn biện chứng là khái niệm
triết học dùng để chỉ sự liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau, bài trừ, phủ định lẫn nhau của các mặt đối lập biện
chứng. mâu thuẫn biện chứng trong tư duy là sự phản ánh mâu thuẫn biện chứng trong hiện thực khách quan và
là nguồn gốc phát triển của nhận thức. hai mặt đối lập tạo thành mâu thuẫn biện chứng tồn tại trong sự thống nhất
của các mặt đối lập. Heghen viết: “Mâu thuẫn, thực tế là cái thúc đẩy thế giới, là cội nguồn của tất cả vận động
và sự sống”. C.Mác đã luận chứng và viết: “Cái cấu thành bản chất của sự vận động biện chứng chính là sự cùng
nhau tồn tại của hai mặt mâu thuẫn, sự đấu tranh giữa hai mặt ấy và sự dung hợp của hai mặt ấy thành một phạm
trù mới”. hơn nữa, mâu thuẫn biện chứng chính là nguồn gốc của sự vận động và phát triển. Nhấn mạnh điều này,
V.I.Lênin đã viết: “Sự phát triển là một cuộc “đấu tranh” giữa các mặt đối lập”. Sự thống nhất của các mặt đối
lập là sự nương tựa lẫn nhau, tồn tại không tách rời nhau giữa các mặt đối lập, sự tồn tại của mặt này phải lấy sự
tồn tại của mặt kia làm tiền đề. Như vậy, cũng có thể xem sự thống nhất của hai mặt đối lập là tính khơng thể

tách rời của hai mặt đó. Giữa các mặt đối lập bao giờ cũng có những nhân tố giống nhau, đồng nhất với nhau.
Với ý nghĩa đó, “sự thống nhất của các mặt đối lập” còn bao hàm sự “đồng nhất” của các mặt đó. Sự thống nhất
của các mặt đối lập trong một sự vật còn biểu hiện là sự thẩm thấu vào nhau, tạo điều kiện, tiền đề cho nhau phát
triển. Trong tác phẩm Gia đình thần thánh, C.Mác và Ph.Ăngghen viết rằng, giai cấp vô sản và sự giàu có là hai
mặt đối lập. Hai cái như vậy hợp thành một khối thống nhất. Cả hai đều là hình thức tồn tại của quyền tư hữu. Sự
thống nhất của các mặt đối lập còn biểu hiện ở sự tác động ngang nhau của chúng. Song, đó chỉ là trạng thái vận
động của mâu thuẫn ở một giai đoạn phát triển, khi diễn ra sự cân bằng của các mặt đối lập. Khi nghiên cứu sự
thống nhất của các mặt đối lập trong xã hội tư bản, C.Mác và Ph. Ăngghen nói: Người tư hữu là mặt bảo thủ,
người vơ hữu là mặt phá hoại. người thứ nhất có hành động nhằm duy trì mâu thuẫn, người thứ hai có hành động
nhằm tiêu diệt mâu thuẫn. sau khi vạch rõ bản chất của mỗi mặt đối lập của xã hội tu bản, C.Mác và Ph.
Ăngghen đã không những chỉ rõ trạng thái của xã hội ấy là thống nhất, mà còn chỉ rõ trạng thái ấy là đấu tranh
giữa các măt đối lập. Đấu tranh giữa các mặt đối lập là sự tác động qua lại, theo xu hướng bài trừ và phủ định lẫn
nhau giữa các mặt đó. Không thể hiểu đấu tranh của các mặt đối lập chỉ là sự thủ tiêu lẫn nhau của các mặt đối
lập đó. Sự thủ tiêu lẫn nhau của các mặt đối lập chỉ là một trong những hình thức đấu tranh của các mặt đối lập.
tính đa dạng của hình thức đấu tranh của các mặt đối lập tuỳ thuộc vào tính chất, mối quan hệ, lĩmh vực tồn tại
của các mặt đối lập, cũng như điều kiện trong đó diễn ra cuộc đấu tranh giữa chúng. V.I.Lênin viết: “Sự thống
nhất (…) của các mặt đối lập có điều kiện, tạm thời, thoáng qua, tương đối. Sự đấu tranh của các mặt đối lập bài
trừ lẫn nhau là tuyệt đối, cũng như sự phát triển, sự vận động là tuyệt đối”.
Ý nghĩa phương pháp luận:


Phân tích mâu thuẫn phải xem xét mâu thuẫn một cách tồn diện và cụ thể. Bởi vì, khi sự vật khác nhau thì mâu
thuẫn của chúng cũng khác nhau; phải tìm cho ra mâu thuẫn cụ thể của từng sự vật để có biện pháp giải quyết
phù hợp. Trong cùng một sự vật có nhiều mâu thuẫn, mỗi mâu thuẫn có đặc điểm riêng; cho nên phải phân loại
các mâu thuẫn của sự vật để có biện pháp giải quyết phù hợp với từng loại mâu thuẫn. Quá trình phát triển mâu
thuẫn có nhiều giai đoạn; mỗi giai đoạn, bản thân mâu thuẫn và từng mặt của nó có đặc điểm riêng và cách giải
quyết cũng khác nhau…Thực hiện tốt yêu cầu này sẽ giúp chúng ta hiểu đúng mâu thuẫn của sự vật, hiểu đúng
xu hướng vận động, phát triển và điều kiện để giải quyết mâu thuẫn.
Giải quyết mâu thuẫn phải giải quyết đúng lúc, đúng chỗ và đủ điều kiện. Bởi vì, mâu thuẫn thường trải qua 3
giai đoạn: trong giai đoạn đầu chỉ mới xuất hiện sự khác nhau, hai mặt đối lập bắt đầu hình thành, đấu tranh thấp;

trong giai đoạn hai, xuất hiện mâu thuẫn và thể hiện rõ sự đối lập, đấu tranh giữa hai mặt dối lập trở nên gay gắt;
giai đoạn 3 là giai đoạn chuyển hoá, sự vật cũ mất đi, sự vật mới ra đời. Mỗi thời lịch sử đều có mâu thuẫn cơ
bản – mâu thuẫn giữa hai giai cấp cơ bản trong xã hội. Sự đấu tranh giữa các giai cấp ấy quyết định chiều hướng
của sự phát triển. Tuy nhiên, bên cạnh mâu thuẫn của những giai cấp cơ bản cịn có nhiều mâu thuẫn của các tầng
lớp khác, thậm chí ngay cả trong giai cấp vơ sản cũng có sự khác nhau…Tất cả những cái đó cần phải được tính
đến khi lựa chọn phương pháp và hình thức đấu tranh giai cấp, khi định ra chính sách. Trong cuộc đấu tranh thực
tế, nếu khơng nhìn thấy tất cả cái lưới mâu thuẫn phức tạp ấy, tức là giản đơn hoá bức tranh đúng đắn về đấu
trnah của các mặt đối lập. Việc hiểu đúng tính chất phức tạp và nhiều vẻ đó của các mâu thuẫn xã hội, có ý nghĩa
to lớn đối với sự hoạt động thực tiễn của Đảng giai cấp vô sản.
Câu 5. Trình bày nội dung quy luật: từ những thay đổi về lượng dẫn đến thay đổi về chất ? Ý nghĩa của
quy luật đó đối với việc xây dựng đội ngũ cán bộ ở địa phương, đơn vị đồng chí ?
Quy luật Lượng Chất là một trong ba quy luật cơ bản cơ bản của phép biện chứng duy vật, quy luật này chỉ ra
cách thức vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng.

Một số khái niệm:
o
Chất của sự vật là tổng hợp những thuộc tính khách quan vốn có của nó, nói lên nó là cái gì, để
phân biệt nó với các khác.
o
Lượng của sự vật, khơng nói lên sự vật đó gì mà chỉ nói lên con số của những thuộc tính cấu thành
nó, như về : độ lớn (to – nhỏ), quy mô (lớn – bé), trình độ (cao – thấp), tốc độ (nhanh – chậm), màu
sắc (đậm – nhạt)…
o
“Độ” là giới hạn mà ở đó đã có sự biến đổi về Lượng nhưng chưa có sự thay đổi về Chất.
o
Điểm nút là điểm giới hạn mà khi Lượng đạt tới sẽ làm thay đổi Chất của sự vật.
o
Bước nhảy là sự thay đổi về Chất qua điểm nút.
Sự phân biệt giữa Chất và Lượng chỉ là tương đối, cùng một sự vật, trong mối quan hệ này nó là Lượng,
trong mối quan hệ khác nó là Chất. Tính tương đối về sự phân biệt giữa Lượng và Chất, đòi hỏi tư duy con người

phải mềm dẻo khi nhận thức chúng, tùy theo mối quan hệ cụ thể, để xác định nó là Chất hay Lượng.

Nội dung cơ bản của quy luật:
Sự vật, hiện tượng bao giờ cũng là thể thống nhất của hai mặt đối lập Lượng và Chất. Lượng nào Chất ấy,
Chất nào Lượng ấy. Khơng có Chất Lượng tách rời nhau.
Sự thống nhất giữa Chất và Lượng thể hiện trong một giới hạn nhất định gọi là “Độ”. Vậy, “Độ” là giới
hạn trong đó có sự thống nhất giữa Lượng và Chất.hay, “Độ” là giới hạn mà ở đó đã có sự biến đổi về Lượng
nhưng chưa có sự thay đổi về Chất. Sự vật, nó cịn là nó, nó chưa là cái khác.
Sự vật biến đổi khi chất lượng biến đổi. Nhưng chất là mặt tương đối ổn định, lượng là mặt biến động hơn.
Lượng biến đổi trong giới hạn “độ” thì sự vật chưa biến đổi. Nhưng, lượng biến đổi “vượt độ” thì nhất định gây
nên sự biến đổi về chất. Chất biến đổi thì sự vật biến đổi. Chất biến đổi gọi là “nhảy vọt”. Nhảy vọt là bước
ngoặc của sự biến đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất. Sự vật củ mất đi, sự vật mới ra đời. Nhảy vọt xảy ra
tại “điểm nút”. Điểm nút là tột định của giới hạn, tại đó diễn ra sự nhảy vọt.
Lượng biến đổi dẫn đến chất biến đổi phải có điều kiện. Khơng phải cứ tăng, giảm đơn thuần về lượng
trong bất kỳ điều kiện nào cũng đưa đến sự thay đổi về chất. Như nước sôi 100 0C bốc thành hơi, chỉ xảy ra trong
điều kiện áp suất bình thường.
Chất mới ra đời địi hỏi lượng mới, tương ứng với nó, đây chính là chiều ngược lại của quy luật. Thật vậy,
khi chất mới ra đời, chất mới lại quy định sự biến đổi về lượng. Sự quy định này thể hiện ở chổ: làm cho quy mô,
tốc độ, nhịp điệu, giới hạn vận động phát triển của lượng thay đổi.


Quy luật này có tính phổ biến. Được thể hiện trong mọi lĩnh vực của thế giới : cả tự nhiên, xã hội và tư
duy.
Tóm lại, quy luật “từ những thay đổi dần dần về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất và ngược lại” là thể
hiện mối quan hệ biện chứng giữa hai mặt lượng chất trong sự vật. Chất là mặt tương đối ổn định, lượng là mặt
thường xuyên biến đổi. Lượng biến đổi mâu thuẩn với khuôn khổ của chất củ, phá vỡ chất củ, chất mới ra đời với
lượng mới. Nhưng lượng mới lại tiếp tục biến đổi đến một giới hạn nào đó, lại phá vỡ chất đến nay đã củ đi, hiện
đang kìm hãm… Cứ thế quá trình tác động biện chứng giữa hai mặt lượng chất, tạo nên cách thức vận động và
phát triển của sự vật. Thể hiện sự thống nhất giữa tính liên tục và tính đứt đoạn của sự vận động, phát triển của sự
vật.

Thế giới sự vật, hiện tượng là đa dạng, phong phú, các bước nhảy cũng vậy. Có bước nhảy đột biến hoặc
dần dần, tồn cục hay cục bộ, tức là diễn ra với khoảng thời gian khác nhau, quy mơ khác nhau nhưng dù với
hình thức nào mỗi bước nhảy cũng là một sự thay đổi về chất.

Ý nghĩa phương pháp luận của quy luật lượng chất.
Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn, muốn thay đổi chất thì phải khơng ngừng tích lũy về lượng. Cần
tránh tư tưởng nơn nóng, vội vàng, thường khơng chú ý tích lũy về lượng.
Khi tích lũy đủ lượng phải chuyển sang thay đổi chất, từ tiến hóa sang cách mạng. Cần tránh những tư
tưởng ngại khó, ngại khổ, sợ sệt, không dám thực hiện những bước nhảy, kể cả khi có đầy đủ điều kiện.
Để sự biến đổi lượng đưa đến sự thay đổi chất phải biết sử dụng linh hoạt các bước nhảy. Trong đời sống
xã hội phải chú ý cả điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan, xác định rõ quy mô, nhịp điệu của bước nhảy
một cách khoa học, chống máy móc, giáo điều.
Câu 6. Thực tiễn là gì ? Trình bày vai trò của thực tiễn đối với nhận thức ? Liên hệ với cơng việc mà đồng
chí đang đảm nhận ?
- Khái niệm thực tiễn
Thực tiến la toàn bộ hoạt động vật chất có mục đích mang tính lịch sử- xã hội của con người nhằm cải biến
thế giới khách quan.
- Thực tiễn là hoạt động vật chất. Tất cả những hoạt động bên ngoài hoạt động tinh thần của con người đều là
hoạt động thực tiễn.
- Là hoạt động có mục đích. Khác hoạt đơng bản năng của động vật.
- Có tính lịch sử - xã hội: Là hoạt động của con người trong xã hội và trong những giai đoạn lịch sử nhất định.
- hoạt động thực tiễn rất đa dạng, cơ bản có 3 hình thức:
+ Hoạt động sản xuất vật chất
+ Hoạt động chính trị - xã hội.
+ Hoạt động thực nghiệm khoa học (Nhằm tạo ra môi trường giống hoặc gần giống môi trường sống bên ngồi:
hoạt động này ngày càng đóng vai trị quan trọng).
- Trong 3 hoạt động trên, hoạt động sản xuất vật chất có vai trị quan trọng nhất, là cơ sở cho các hoạt động khác
của con người và cho sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người.
- Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức
Thực tiễn và nhận thức không ngừng phát triển trong sự tác động lẫn nhau, trong đó thực tiễn đóng vai trị là cơ

sở, nguồn gốc, động lực, mục đích của nhận thức và là cơ sở của chân lý.
a) Thực tiễn là cơ sở, nguồn gốc, động lực của nhận thức
- Con người muốn tồn tại thì phải lao động sx để tạo ra những sản phẩm phục vụ cho con người, muốn lao động
sx con người phải tìm hiểu thế giới xung quanh. Vậy, hoạt động thực tiễn tạo ra động lực đầu tiên để con người
nhận thức thế giới.
- Trong hoạt động thực tiễn , con người dung cac song cụ, các phương tiện để tác động vào thế giới, làm thế giới
bộc lộ những đặc điểm, thuộc tính, kết cấu, quy luật vận động; con người nắm bắt lấy các đặc điểm thuộc tính đó,
dần dần hình thành tri thức về thế giới.
- Trong hoạt động thực tiễn, con ngườidần tự hồn thiện bản than mình, các giác quan của con người ngày càng
phát triển. do đó, làm tăng khả năng nhận thức của con người về thế giới.


- Trong bản thân nhận thức có động lực trí tuệ. Nhưng suy cho cùng thì đơng lực cơ bản của nhận thức là thực
tiễn. Trong hoạt động thực tiễn con người đã vấp phải nhiều trở ngại, khó khăn và thất bại. Điều đó buộc con
người phải giải đáp những câu hỏi do thực tiễn đặt ra. Ănghen nói: Chính thực tiễn đã “đặt hàng” cho cac nhà
khoa học phải giải đáp những bế tắc của thực tiễn (ngày càng nhiều ngành khoa học mới ra đời để đấp ứng yêu
cầu của thực tiễn như KH vật liệu mới, KH đại dương, KH vũ trụ…)
- Trong hoạt động thực tiễn, con người chế tạo ra các công cụ, phương tiện có tác dụng nối dài các giác quan,
nhờ vậy làm tăng khả năng nhận thức của con người về thế giới.
b) Thực tiễn là mục đích của nhận thức: Mục đích của mọi nhận thức khơng phải vì bản thân nhận thức, mà vì
thực tiễn nhằm cải biến giới tự nhiên, biến đổi xã hội vì nhu cầu của con người. Mọi lý luận khoa học chỉ có ý
nghĩa khi nó được ứng dụng vào thực tiễn.
c) Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý: Làm sao để nhận biết được nhận thức của con người đúng hay sai? Tiêu
chuẩn để đánh giá cuối cùng không nằm trong lý luận, trong nhận thức mà ở thực tiễn. Khi nhận thức được xác
nhận là đúng, nhận thức đó sẽ trở thành chân lý.
Tuy nhiên cũng có trường hợp khơng nhất thiết phải qua thực tiễn khiêpr nghiệm mới biết nhận thức đó là đúng
hay sai, mà có thể thơng qua quy tắc logic vẫn có thể biết được nhận thức đó là thế nào. Nhưng xét đến cùng thì
những ngun tắc đó cũng đã được chứng minh từ trong thực tiễn.
Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý vừa có tính tuyệt đối lại vừa có tính tương đối:
Tuyệt đối là ở chỗ: Thực tiễn là tiêu chuẩn khách quan để kiểm nghiệm chân lý, thực tiễn có khả năngg xác định

cái đúng, bác bỏ cái sai.
Là tương đối ở chỗ: Thực tiễn ngay một lúc không thể khẳng định được cái đúng, bác bỏ cái sai một cách tức thì.
Hơn nữa, bản thân thực tiễn khơng đứng n một chỗ mà biến đổi và phát triển liên tục, nên nó khơng cho phép
người ta hiểu biết bất kỳ một cái gì hóa thành chân lý vĩnh viễn.

Câu 7. Trình bày nguyên tắc về sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, từ đó rút ra quan điểm thực tiễn ?
Với cương vị cơng tác của mình đồng chí đã làm gì để đảm bảo ngun tắc đó đối với công việc của bản
thân ?
Đất nước Việt Nam bước vào thế kỷ XXI với những thành tựu to lớn đạt được trong 20 năm đổi mới. Có
được những kết qủa đó là do Đảng cộng sản Việt Nam đã vận dụng đúng đắn, sáng tạo lý luận của chủ
nghĩa Mac-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn cách mạng nước ta. Một trong những nguyên tắc lý
luận cơ bản mà Đảng ta đã vận dụng là nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn của triết học MacLênin.
Phạm trù Thực tiễn là một trong những phạm trù nền tảng, cơ bản của lý luận nhận thức Macxít nói riêng, chủ
nghĩa Mac-Lênin nói chung. Trong lịch sử Triết học, các nhà triết học duy vật trước Mác khơng thấy được vai trị
của hoạt động thực tiễn đối với nhận thức, lý luận nên quan điểm của họ mang tính chất trực quan. Các nhà triết
học duy tâm lại tuyệt đối hóa yếu tố tinh thần, tư tưởng của thực tiễn, họ hiểu họat động thực tiễn như là hoạt
động tinh thần, hoạt động của “ý niệm”, tư tưởng, tồn tại đâu đó ngồi con người, nói cách khác, họ gạt bỏ vai
trò thực tiễn trong đời sống xã hội. Mac-Ăngghen, những nhà sáng lập chủ nghĩa Mac đã khắc phục những hạn
chế trong quan điểm về thực tiễn của các nhà triết học trước và đưa ra quan điểm đúng đắn, khoa học về thực tiễn
và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức cũng như đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Với việc
đưa phạm trù thực tiễn vào lý luận, Mac- Ăngghen đã thực hiện bước chuyển biến cách mạng trong lý luận nói
chung và trong lý luận nhận thức nói riêng. Thực tiễn là hoạt động vật chất có mục đích mang tính lịch sử- xã
hội của con người nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội. Hoạt động thực tiễn là hoạt động bản chất của con người.
Nếu con vật chỉ hoạt động theo bản năng nhằm thích nghi một cách thụ động với thế giới bên ngồi, thì con
người nhờ hoạt động thực tiễn là hoạt động có mục đích, có tính xã hội của mình mà cải tạo thế giới để thỏa mãn
nhu cầu của mình, và để làm chủ thế giới. Trong qúa trình hoạt động thực tiễn con người đã tạo ra được một
“thiên nhiên thứ hai” của mình, một thế giới của văn hóa tinh thần và vật chất, những điều kiện mới cho sự tồn
tại và phát triển của con người vốn khơng có sẵn trong tự nhiên. Vì vậy, khơng có hoạt động thực tiễn, con người
và xã hội lồi người khơng thể tồn tại và phát triển được. Thực tiễn là phương thức tồn tại cơ bản của con người
và xã hội, là phương thức đầu tiên, chủ yếu của mối quan hệ giữa con người và thế giới. Thực tiễn có mối quan

hệ biện chứng với hoạt động nhận thức. Trong mối quan hệ với nhận thức, vai trò của thực tiễn được biểu hiện


trước hết ở chỗ, thực tiễn là cơ sở, động lực chủ yếu và trực tiếp của nhận thức, Ăngghen khẳng định “chính việc
người ta biến đổi tự nhiên, chứ khơng phải chỉ một mình giới tự nhiên, với tính cách giới tự nhiên, là cơ sở chủ
yếu nhất và trực tiếp của tư duy con người, và trí tuệ con người đã phát triển song song với việc người ta cải
biến tự nhiên”. Con người quan hệ với thế giới không phải bắt đầu bằng lý luận mà bằng thực tiễn. Chính từ
trong qúa trình hoạt động thực tiễn cải tạo thế giới mà nhận thức của con người được hình thành, phát triển.
Thơng qua hoạt động thực tiễn con người tác động vào thế giới buộc thế giới phải bộ lộ ra những thuộc tính,
những tính quy luật để con người nhận thức chúng. Thoát ly thực tiễn, nhận thức đã thốt ly khỏi mảnh đất hiện
thực ni dưỡng nó phát triển vì thế khơng thể đem lại những tri thức sâu sắc, xác thực, đúng đắn về sự vật, sẽ
khơng có khoa học, khơng có lý luận. Trong qúa trình hoạt động cải biến thế giới, con người cũng biến đổi ln
cả bản thân mình, thực tiễn rèn luyện các giác quan của con người làm cho chúng tinh tế hơn, trên cơ sở đó phát
triển tốt hơn. Nhờ đó con người ngày càng đi sâu vào nhận thức thế giới, khám phá những bí mật của nó, làm
phong phú và sâu sắc tri thức của mình về thế giới. Thực tiễn còn đề ra những nhu cầu, nhiệm vụ, phương hướng
phát triển của nhận thức, vì thế nó ln thúc đẩy sự ra đời của các ngành khoa học. Thực tiễn còn là cơ sở để chế
tạo cơng cụ, phương tiện máy móc mới, hỗ trợ con người trong qúa trình nhận thức, khám phá, chinh phục thế
giới. Ăngghen cho rằng, nhu cầu cấp thiết của thực tiễn, của sản xuất sẽ thúc đẩy nhận thức khoa học phát triển
nhanh hơn hàng chục trường đại học. Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức còn thể hiện ở chỗ, thực tiễn là tiêu
chuẩn của chân lý. Theo Mac và Ăngghen thì “Vấn đề tìm hiểu xem tư duy của con người có thể đạt tới chân lý
khách quan hay khơng, hồn tồn khơng phải là một vấn đề lý luận mà là một vấn đề của thực tiễn. Chính trong
thực tiễn mà con người phải chứng minh chân lý”. Tất nhiên, nhận thức xã hội cịn có tiêu chuẩn riêng, đó là tiêu
chuẩn lơ gic nhưng tiêu chuẩn lô gic không thể thay thế cho tiêu chuẩn thực tiễn, và xét đến cùng nó cũng phụ
thuộc vào tiêu chuẩn thực tiễn. Đó là tư tưởng cơ bản của Mac-Ăngghen khi đưa phạm trù thực tiễn vào nội dung
của lý luận nhận thức, tư tưởng đó đã được Lênin bảo vệ và phát triển sâu sắc hơn trong tác phẩm “Chủ nghĩa
duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán”, trong đó Lênin nhắc lại luận cương thứ hai của Mac về Phoi-ơbăc
và Người kết luận“Quan điểm về đời sống, về thực tiễn, phải là quan điểm thứ nhất và cơ bản của lý luận về
nhận thức”. Tư tưởng của Lênin về vai trò của thực tiễn đối với nhận thức vẫn đang là nguyên tắc phương pháp
luận quan trọng hướng dẫn chúng ta trong hoạt động thực tiễn, trong nghiên cứu khoa học. Nếu không bám sát
thực tiễn cuộc sống chúng ta sẽ không thể có lý luận, khơng thể có khoa học, khơng xác định nổi bất kỳ đề tài

khoa học nào với đúng nghĩacủa nó. Lý luận là sản phẩm cao của nhận thức của sự phản ánh hiện thực khách
quan. Trong hệ thống các khái niệm, phạm trù, các nguyên lý và các quy luật tạo nên lý luận, quy luật là hạt nhân
của lý luận, là sản phẩm của qúa trình nhận thức nên bản chất của lý luận là hình ảnh chủ quan của thế giới khách
quan, là sự phản ánh một cách gần đúng đối tượng nhận thức. Lý luận là trình độ cao hơn về chất so với kinh
nghiệm. Tri thức lý luận là tri thức khái quát tri thức kinh nghiệm. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Lý luận là
sự tổng kết những kinh nghiệm của loài người, là tổng hợp những tri thức về tự nhiên và xã hội tích trữ lại trong
qúa trình lịch sử”. Lý luận được hình thành trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm, nhưng không phải mọi lý luận đều
trực tiếp xuất phát từ kinh nghiệm. Do tính độc lập tương đối của nó, lý luận có thể đi trước những dữ kiện kinh
nghiệm mà vẫn không làm mất đi mối liên hệ giữa lý luận với kinh nghiệm. Khác với kinh nghiệm, lý luận mang
tính trừu tượng và khái quát cao nên nó đem lại sự hiểu biết sâu sắc về bản chất, về tính quy luật của các sự vật,
hiện tượng khách quan. Vì vậy, nhiệm vụ của nhận thức lý luận là đem quy sự vận động bề ngoài chỉ biểu hiện
trong hiện tượng về sự vận động bên trong thực sự. Chủ nghĩa Mac-Lênin xem xét lý luận và thực tiễn trong
sự thống nhất biện chứng. Thực tiễn là hoạt động vật chất còn lý luận là hoạt động tinh thần, nên thực tiễn đóng
vai trò quyết định trong quan hệ đối với lý luận. Lênin viết: “Thực tiễn cao hơn nhận thức (lý luận) nó có ưu
điểm khơng những của tính phổ biến mà của tính hiện thực trực tiếp”.Tính phổ biến của thực tiễn đối với nhận
thức (lý luận) thể hiện ở chỗ, thực tiễn là khâu quyết định đối với hoạt động nhận thức. Một lý luận được áp dụng
trong thời gian càng dài, khơng gian càng rộng thì hiệu qủa đạt được càng cao, càng khẳng định tính chân lý của
thực tiễn. Ngay cả một giả thiết khoa học muốn trở thành lý luận phải thông qua hoạt động thực nghiệm kiểm tra,
xác nhận. Như vậy, chỉ có qua hoạt động thực tiễn thì lý luận mới có giá trị tham gia vào qúa trình biến đổi hiện
thực. Hoạt động lý luận là hoạt động đặc biệt nó thống nhất hữu cơ với hoạt động thực tiễn. Vì vậy, khi nhấn
mạnh vai trò của thực tiễn đối với lý luận, chủ nghĩa Mac-Lênin cũng khẳng đinh tính tích cực của sự tác động
trở lại của lý luận đối với thực tiễn. Lênin khẳng định:“khơng có lý luận cách mạng thì khơng có phong trào
cách mạng”. Lý luận là “kim chỉ nam” cho hành động thực tiễn. Cố nhiên để có thể giải đáp được những vấn đề
của cuộc sống, lý luận phải khơng ngừng liên hệ bằng những hình thức khác nhau với thực tiễn. Cho nên, thực
chất vai trò của lý luận đối với thực tiễn là ở chỗ lý luận đem lại cho thực tiễn những tri thức đúng đắn về những


quy luật vận động và phát triển của thế giới khách quan. Lý luận có thể dự kiến được sự vận động của sự vật
trong tương lai, chỉ ra những phương hướng mới cho sự phát triển của thực tiễn. Lý luận khoa học làm cho con
người trở nên chủ động, tự giác, hạn chế tình trạng “mị mẫm”, tự phát. Vì vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh ví“khơng

có lý luận thì lúng túng như nhắm mắt mà đi”. Tuy nhiên cũng phải thấy rằng, do tính gián tiếp, tính trừu tượng
cao trong sự phản ánh hiện thực nên lý luận có khả năng xa rời thực tiễn và trở thành ảo tưởng. Vì thế, khơng
được cường điệu vai trị của lý luận, mặt khác không được xem nhẹ thực tiễn và tách rời lý luận với thực tiễn.
Điều đó cũng có nghĩa là phải quán triệt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong nhận thức khoa
học và hoạt động cách mạng. Trong Triết học Macxit và trong chủ nghĩa Mac-Lênin, sự thống nhất giữa lý luận
và thực tiễn như một thuộc tính vốn có, một địi hỏi nội tại. Ngun tắc này có ý nghĩa to lớn rong việc nhận thức
khoa học và hoạt động thực tiễn. Hoạt động lý luận và hoạt động thực tiễn thống nhất với nhau dưới nhiều hình
thức và trình độ biểu hiện khác nhau. Lý luận bắt nguồn từ thực tiễn, phản ánh (khái quát) những vấn đề của đời
sống sinh động. Nhưng thước đo tính cao thấp của lý luận với thực tiễn biểu hiện trước hết ở chỗ lý luận đó phải
hướng hẳn về đời sống hiện thực, để giải quyết những vấn đề do chính sự phát triển của thực tiễn đặt ra, và như
vậy, lý luận góp phần thúc đẩy thực tiễn phát triển, bởi vì ở bên ngồi sự thống nhất lý luận và thực tiễn, tự thân
lý luận không thể biến đổi được hiện thực, nói cách khác, hoạt động lý luận khơng có mục đích tự thân mà vì
phục vụ thục tiễn, để cải tạo thực tiễn. Thực chất của sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là phải quán triệt
được thực tiễn là cơ sở, là động lực, mục đích của lý luận, của nhận thức, là tiêu chuẩn của chân lý (lý luận). Như
trên đã nói, lý luận đích thực bao giờ cũng bắt nguồn từ thực tiễn, do thực tiễn quy định. Thực tiễn quy định lý
luận thể hiện ở nhu cầu, nội dung, phương hướng phát triển của nhận thức, lý luận. Thực tiễn biến đổi thì lý luận
cũng biến đổi theo, nhưng lý luận cũng tác động trở lại thực tiễn bằng cách soi đường, chỉ đạo, dẫn đắt thực tiễn.
Trên cơ sở nhận thức và vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn phải chống bệnh kinh nghiệm
và bệnh giáo điều. Chúng ta coi trọng kinh nghiệm thực tiễn và khơng ngừng tích luỹ vốn kinh nghiệm q báu
đó.Song chỉ dừng lại ở trình độ kinh nghiệm, thỏa mãn với vốn kinh nghiệm của bản thân, coi kinh nghiệm là tất
cả, tuyệt đối hóa kinh nghiệm đồng thời coi nhẹ lý luận, ngại học tập, nghiên cứu lý luận, ít am hiểu lý luận,
không quan tâm tổng kết kinh nghiệm để đề xuất lý luận thì sẽ rơi vào lối suy nghĩ giản đơn, tư duy áng chừng,
đại khái, phiến diện thiếu tính lơ gic, tính hệ thống, do đó, trong hoạt động thực tiễn thì mị mẫm, tuỳ tiện, thiếu
tính đồng bộ về lý luận trong tất cả các lĩnh vực do vậy đễ rơi vào bệnh kinh nghiệm chủ nghiã. Mặt khác, thái
độ thực sự coi trọng lý luận đòi hỏi phải ngăn ngừa bệnh giáo điều. Nết tuyệt đối hóa lý luận, coi lý luận là bất di
bất dịch, việc nắm lý luận chỉ dừng lại ở những nguyên lý chung chung trừư tượng không chú ý đến những hoàn
cảnh lịch sử cụ thể của sự vận dụng lý luận thì dễ mắc bệnh giáo điều. Thực chất những sai lầm của bệnh kinh
nghiệm và bệnh giáo điều đều là vi phạm nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn. Để ngăn ngữa, khắc
phục có hiệu qủa hai căn bệnh trên phải coi trọng cả lý luận và thực tiễn. Nguyên tắc thống nhất lý luận và thực
tiễn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với việc nghiên cứu, giải quyết các vấn đề của qúa trình phát triển xã hội,

nhất là trong thời đại ngày nay khi thực tế cuộc sống đang đặt ra và đòi hỏi phải giải quyết rất nhiều những vấn
đề lý luận và thực tiễn nảy sinh của việc xây dựng, phát triển dời sống kinh tế, văn hóa của xã hội. Hơn lúc nào
hết lý luận Mac – Lênin trong sự thống nhất cao với thực tiễn phải thể hiện vai trị hướng dẫn, chỉ đạo trong cơng
việc, giải quyết những vấn đề cấp bách và trọng đại do cuộc sống hiện thực đặt ra cho chúng ta trong cơng cuộc
cơng nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước hiện nay. Những thành qủa mà chúng ta có được ngày hôm nay là kết
qủa của sự năng động, sáng tạo của Đảng, Nhà nước ta trong qúa trình vận dụng nguyên tắc thông nhất giữa lý
luận và thực tiễn vào hoàn cảnh lịch sử Việt nam trong thời kỳ qúa độ lên chủ nghĩa xã hội.
Câu 8. Trình bày nội dung quy luật “về sự phù hợp của Quan hệ sản xuất đối với trình độ của lực lượng
sản xuất” ? Đảng Cộng sản Việt Nam đã vận dụng quy luật đó như thế nào đối với tiến trình đổi mới ở
nước ta ? Trên cương vị cơng tác của mình đồng chí đã làm gì để thúc đẩy q trình đó ?
Khái
niệm
lực
lượng
sản
xuất,
quan
hệ
sản
xuất
Lực lượng sản xuất là phương thức kết hợp giữa người lao động với tư liệu sản xuất, tri thức, năng lực, kỹ năng
kinh
nghiệm
của
họ
tạo
ra
một
sức
sản

xuất
trong
sản
xuất
vật
chất.
- Lực lượng sản xuất bao gồm tư liệu sản xuất và người lao động với trình độ tri thức, kỹ năng, kinh nghiệm sản
xuất

thói
quen
lao
động.
- Lực lượng sản xuất là những nhân tố có tính sáng tạo và tính sáng tạo đó có tính lịch sử. Các yếu tố của lực
lượng sản xuất có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, trong đó người lao động giữ vai trị quyết định, cơng cụ lao
động thể hiện trình độ phát triển của lực lượng sản xuất (trình độ chinh phục tự nhiên của con người).


- Ngày nay, khoa học công nghệ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Những thành tựu của khoa học cơng nghệ
được ứng dụng rộng rãi, nhanh chóng, thúc đẩy quá trình sản xuất phát triển mạnh mẽ.
Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất (sản xuất và tái sản xuất xã hội).
Quan hệ sản xuất bao gồm: quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất, quan hệ tổ chức và quản lý quá trình sản xuất,
quan hệ trong phân phối kết quả của q trình sản xuất đó. Những quan hệ sản xuất này tồn tại trong mối quan hệ
thống nhất và chi phối, tác động lẫn nhau trên cơ sở quyết định của quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất.
- Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là mối quan hệ thống nhất biện chứng, trong đó lực
lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất và quan hệ sản xuất tác động trở lại lực lượng sản xuất. Mối quan hệ
thống nhất giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tuân theo nguyên tắc khách quan. Quan hệ sản xuất phải
phụ thuộc vào thực trạng phát triển của lực lượng sản xuất trong mỗi giai đoạn lịch sử xác định; bởi vì, quan hệ
sản xuất chỉ là hình thức kinh tế - xã hội của q trình sản xuất, cịn lực lượng sản xuất là nội dung vật chất, kỹ

thuật của quá trình đó. Tuy nhiên, quan hệ sản xuất, với tư cách là hình thức kinh tế - xã hội của quá trình sản
xuất, nó ln ln có khả năng tác động trở lại sự vận động, phát triển của lực lượng sản xuất. Sự tác động này
có thể diễn ra theo chiều hướng tích cực hoặc tiêu cực. Điều đó phụ thuộc vào tính phù hợp hay khơng phù hợp
của quan hệ sản xuất với thực trạng và nhu cầu khách quan của sự vận động, phát triển lực lượng sản xuất Nếu
“phù hợp” sẽ có tác dụng tích cực và ngược lại, “khơng phù hợp” sẽ có tác dụng tiêu cực.
- Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là mối quan hệ thống nhất có bao hàm khả năng
chuyển hóa thành các mặt đối lập và phát sinh mâu thuẫn. Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất là mối quan hệ mâu thuẫn biện chứng giữa nội dung vật chất, kỹ thuật với hình thức kinh tế - xã hội của quá
trình sản xuất. Sự vận động của mâu thuẫn này là một quá trình đi từ sự thống nhất đến những khác biệt và đối
lập xung đột từ đó làm xuất hiện nhu cầu khách quan phải được giải quyết theo nguyên tắc quan hệ sản xuất phải
phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Sự vận động của mâu thuẫn này cũng tuân theo quy luật “từ
những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất và ngược lại”, quy luật “phủ định của phủ định”,
khiến cho quá trình phát triển của nền sản xuất xã hội vừa diễn ra với tính chất tiệm tiến, tuần tự, lại vừa có tính
nhảy vọt với những bước đột biến, kế thừa và vượt qua của nó ở trình độ ngày càng cao hơn.
Sự
vận
dụng
quy
luật
này

nước
ta
Từ một nền nông nghiệp lạc hậu, sản xuất nhỏ là chủ yếu, nước ta đi lên CNXH. Kinh nghiệm thực tế chỉ rõ, lực
lượng sản xuất bị kiềm hãm không chỉ trong trường hợp quan hệ sản xuất lạc hậu, mà ngay khi quan hệ sản xuất
phát triển không đồng bộ và có những yếu tố đi quá xa so với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Thực tế lực lượng sản xuất nước ta còn thấp kém lại phát triển không đồng đều, cho nên cần phải coi trọng những
hình thức kinh tế trung gian, quá độ từ thấp đến cao, từ quy mô nhỏ đến quy mô lớn. Để xây dựng phương thức
sản xuất XHCN, Đảng ta chủ trương xây dựng một nền kinh tế thị trường định hướng XHCN nhằm phát huy mọi
tiềm năng của các thành phần kinh tế, phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất để xây dựng cơ sở kinh tế của

CNXH. Từng bước xã hội hóa XHCN, q trình đó khơng phải bằng gị ép, mà được thực hiện từng bước thơng
qua sự hỗn hợp các hình thức sở hữu như công ty cổ phần, chủ nghĩa tư bản nhà nước, các hình thức hợp tác,…
để dần dần hình thành các tập đồn kinh tế lớn, trong đó, kinh tế nhà nước và tập thể đóng vai trị là nền tảng.
Chúng ta chỉ bỏ qua những gì của xã hội cũ khơng cịn phù hợp, thực hiện chủ trương chuyển hóa cái cũ thành
cái mới theo định hướng XHCN.
Câu 9. Trình bày mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng ? Mối quan hệ đó
được thể hiện trong đường lối đổi mới ở nước ta như thế nào ?
- Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng
Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là hai mặt của đời sống xã hội, chúng thống nhất biện chứng với nhau,
trong đó cơ sở hạ tầng đóng vai trò quyết định đối với kiến trúc thượng tầng.
- Mỗi cơ sở hạ tầng sẽ hình thành nên một kiến trúc thượng tầng tương ứng với nó. Tính chất của kiến trúc
thượng tầng là do tính chất của cơ sở hạ tầng quyết định. Trong xã hội có giai cấp, giai cấp nào thống trị về kinh
tế thì cũng chiếm địa vị thống trị về mặt chính trị và đời sống tinh thần của xã hội. Các mâu thuẫn trong kinh tế,
xét đến cùng, quyết định các mâu thuẫn trong lĩnh vực chính trị tư tưởng; cuộc đấu tranh giai cấp về chính trị tư
tưởng là biểu hiện những đối kháng trong đời sống kinh tế. Tất cả các yếu tố của kiến trúc thượng tầng như nhà
nước, pháp quyền, triết học, tôn giáo, v.v.. đều trực tiếp hay gián tiếp phụ thuộc vào cơ sở hạ tầng, do cơ sở hạ


tầng
quyết
định.
- Khi cơ sở hạ tầng thay đổi thì sớm hay muộn, kiến trúc thượng tầng cũng thay đổi theo. C.Mác viết: "Cơ sở
kinh tế thay đổi thì tồn bộ kiến trúc thượng tầng đồ sộ cũng bị đảo lộn ít nhiều nhanh chóng".
Q trình đó diễn ra khơng chỉ trong giai đoạn thay đổi từ hình thái kinh tế - xã hội này sang hình thái kinh tế xã hội khác, mà còn diễn ra ngay trong bản thân mỗi hình thái kinh tế - xã hội. Tuy sự thay đổi của kiến trúc
thượng tầng cũng gắn với sự phát triển của lực lượng sản xuất, nhưng lực lượng sản xuất không trực tiếp làm
thay đổi kiến trúc thượng tầng. Sự phát triển của lực lượng sản xuất chỉ trực tiếp làm thay đổi quan hệ sản xuất,
tức trực tiếp làm thay đổi cơ sở hạ tầng và thông qua đó làm thay đổi kiến trúc thượng tầng. Sự thay đổi cơ sở hạ
tầng dẫn đến làm thay đổi kiến trúc thượng tầng diễn ra rất phức tạp. Trong đó có những yếu tố của kiến trúc
thượng tầng thay đổi nhanh chóng cùng với sự thay đổi cơ sở hạ tầng như chính trị, pháp luật, v.v.. Trong kiến
trúc thượng tầng, có những yếu tố thay đổi chậm như tơn giáo, nghệ thuật, v.v.. hoặc có những yếu tố vẫn được

kế thừa trong xã hội mới. Trong xã hội có giai cấp, sự thay đổi đó phải thơng qua đấu tranh giai cấp, thông qua
cách
mạng

hội.
Tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng
Tất cả các yếu tố cấu thành kiến trúc thượng tầng đều có tác động đến cơ sở hạ tầng. Tuy nhiên, mỗi yếu tố khác
nhau có vai trị khác nhau, có cách thức tác động khác nhau. Trong xã hội có giai cấp, nhà nước là yếu tố có tác
động mạnh nhất đối với cơ sở hạ tầng vì đó là bộ máy bạo lực tập trung của giai cấp thống trị về kinh tế. Các yếu
tố khác của kiến trúc thượng tầng như triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật, v.v... cũng đều tác động đến cơ sở
hạ tầng, nhưng chúng đều bị nhà nước, pháp luật chi phối. Trong mỗi chế độ xã hội, sự tác động của các bộ phận
của kiến trúc thượng tầng không phải bao giờ cũng theo một xu hướng. Chức năng xã hội cơ bản của kiến trúc
thượng tầng thống trị là xây dựng, bảo vệ và phát triển cơ sở hạ tầng đã sinh ra nó, chống lại mọi nguy cơ làm
suy yếu hoặc phá hoại chế độ kinh tế đó. Một giai cấp chỉ có thể giữ vững được sự thống trị về kinh tế chừng nào
xác
lập

củng
cố
được
sự
thống
trị
về
chính
trị,

tưởng.
Sự tác động của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng diễn ra theo hai chiều. Nếu kiến trúc thượng tầng tác
động phù hợp với các quy luật kinh tế khách quan thì nó là động lực mạnh mẽ thúc đẩy kinh tế phát triển; nếu tác

động ngược lại, nó sẽ kìm hãm phát triển kinh tế, kìm hãm phát triển xã hội. Tuy kiến trúc thượng tầng có tác
động mạnh mẽ đối với sự phát triển kinh tế, nhưng không làm thay đổi được tiến trình phát triển khách quan của
xã hội. Xét đến cùng, nhân tố kinh tế đóng vai trò quyết định đối với kiến trúc thượng tầng. Nếu kiến trúc thượng
tầng kìm hãm phát triển kinh tế thì sớm hay muộn, bằng cách này hay cách khác, kiến trúc thượng tầng cũ sẽ
được thay thế bằng kiến trúc thượng tầng mới tiến bộ để thúc đẩy kinh tế tiếp tục phát triển.
- Gợi ý liên hệ như sau: Gắn liền với phát triển kinh tế, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phải khơng ngừng đổi mới hệ thống chính trị, nâng cao
vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nâng cao vai trò
của các tổ chức quần chúng, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc. Đồng thời với phát triển kinh tế, phải phát triển văn hóa, xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc
dân tộc nhằm không ngừng nâng cao đời sống tinh thần của nhân dân; phát triển giáo dục và đào tạo nhằm nâng
cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài; giải quyết tốt các vấn đề xã hội, thực hiện công bằng xã hội
nhằm thực hiện mục tiêu: "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh". Tóm lại, học thuyết hình
thái kinh tế - xã hội là một học thuyết khoa học. Trong điều kiện hiện hiện nay, học thuyết đó vẫn giữ nguyên giá
trị. Nó đưa lại một phương pháp thực sự khoa học để phân tích các hiện tượng trong đời sống xã hội để từ đó
vạch ra phương hướng và giải pháp đúng đắn cho hoạt động thực tiễn. Học thuyết đó đã được Đảng ta vận dụng
một cách sáng tạo trong điều kiện cụ thể của nước ta, vạch ra đường lối đúng đắn cho sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc. Nghị quyết Đại hội IX đã chỉ ra: "Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2001 - 2010 nhằm:
đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, tạo nền
tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nguồn lực con
người, năng lực khoa học và công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế, quốc phòng, an ninh được tăng cường;
thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được hình thành về cơ bản; vị thế của nước ta trên trường
quốc tế được nâng cao".
Câu 10. Tại sao nói :”Sự phát triển của những hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử tự
nhiên” ? Vấn đề “bỏ qua” chế độ CNTB ở nước ta được hiểu như thế nào ?


Phạm trù hình thái kinh tế - xã hội giữa các mặt trong đời sống xã hội thống nhất biện chứng với nhau tạo thành
các xã hội cụ thể tồn tại trong từng giai đoạn lịch sử nhất định. Các xã hội cụ thể đó được chủ nghĩa duy vật lịch
sử khái quát thành phạm trù hình thái kinh tế - xã hội. Hình thái kinh tế - xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa

duy vật lịch sử dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định, với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng
cho xã hội đó, phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất, và với một kiến trúc thượng tầng
tương ứng được xây dựng trên những quan hệ sản xuất ấy. Hình thái kinh tế - xã hội là một hệ thống hồn chỉnh,
có cấu trúc phức tạp, trong đó có các mặt cơ bản là lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng
tầng. Mỗi mặt của hình thái kinh tế - xã hội có vị trí riêng và tác động qua lại lẫn nhau, thống nhất với nhau. Lực
lượng sản xuất là nền tảng vật chất - kỹ thuật của mỗi hình thái kinh tế - xã hội. Hình thái kinh tế - xã hội khác
nhau có lực lượng sản xuất khác nhau. Suy đến cùng, sự phát triển của lực lượng sản xuất quyết định sự hình
thành, phát triển và thay thế lẫn nhau củacác hình thái kinh tế - xã hội. Các quan hệ sản xuất tạo thành cơ sở hạ
tầng của xã hội và quyết định tất cả mọi quan hệ xã hội khác. Mỗi hình thái kinh tế - xã hội có một kiểu quan hệ
sản xuất đặc trưng cho nó. Quan hệ sản xuất là tiêu chuẩn khách quan để phân biệt các chế độ xã hội. . Kiến trúc
thượng tầng được hình thành và phát triển phù hợp với cơ sở hạ tầng, nhưng nó lại là cơng cụ để bảo vệ, duy trì
và phát triển cơ sở hạ tầng đã sinh ra nó. Ngồi các mặt cơ bản đã nêu trên, các hình thái kinh tế - xã hội cịn có
quan hệ về gia đình, dân tộc và các quan hệ xã hội khác. Các quan hệ đó đều gắn bó chặt chẽ với quan hệ sản
xuất, biến đổi cùng với sự biến đổi của quan hệ sản xuất.
Vấn đề “bỏ qua” chế độ CNTB ở nước ta : Lãnh đạo công cuộc đổi mới, nhận thức của Đảng về con đường
quá độ lên CNXH của nước ta có những đổi mới sâu sắc. Nếu trước đây thường nói, nước ta quá độ lên CNXH
"bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa", thì từ Đại hội lần thứ IX trong các văn kiện chính thức của Đảng,
Nhà nước diễn đạt là: Nước ta quá độ lên CNXH "bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa". Việc "bỏ qua chế độ tư bản
chủ nghĩa" được giải thích rõ về hai phương diện: Thứ nhất, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa (TBCN) là "bỏ qua
việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa". Thứ hai, trong khi
bỏ qua những mặt đó, cần "tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ
nghĩa, đặc biệt về khoa học-công nghệ để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại".
Nhận thức trên đây là kết quả của sự đổi mới tư duy về CNXH, về mối quan hệ giữa CNXH và CNTB. Tư duy
"cũ" hiểu sự ra đời của CNXH là kết quả của sự phủ định triệt để CNTB, từ đó có nơi có lúc cho rằng cái gì càng
xa với CNTB thì càng gần với CNXH. Tư duy mới phân biệt sự khác nhau về chất giữa CNXH và CNTB, nhưng
đặt CNXH và CNTB vào lịch trình chung của sự tiến hóa nhân loại qua năm hình thái kinh tế - xã hội để xác
định vị trí của CNTB như là một giai đoạn phát triển cao của văn minh nhân loại và là nấc thang cận kề để lồi
người từ đó bước sang nấc thang cao hơn là CNXH. Trong thời đại ngày nay, trên phạm vi thế giới, sự nghiệp
giải phóng những người lao động bị áp bức, bóc lột, sự nghiệp giải phóng xã hội khỏi tình trạng bế tắc địi hỏi
thay thế CNTB bằng một chế độ xã hội tiến bộ hơn. Sự phủ định CNTB là một tất yếu lịch sử và đã thành hiện

thực từ Cách mạng XHCN Tháng Mười Nga (1917). Dù hiện nay CNXH thế giới đang lâm vào khủng hoảng, xu
hướng đó khơng hề thay đổi. Ở nước ta tiến trình của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân kéo dài 30 năm
đã đem lại những thành tựu to lớn, tạo nên những tiền đề để nước ta bước vào thời kỳ quá độ lên CNXH. Những
thành tựu và những tiền đề đó (nhất là những thành tựu trong lĩnh vực xây dựng kiến trúc thượng tầng và những
tiền đề về chính trị, xã hội), không dung nạp sự thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng TBCN.
Thậm chí, những thành tựu đó sẽ bị hủy hoại, những tiền đề đó sẽ bị phủ định, nếu đất nước đi theo con đường
TBCN.



×