Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

HƯỚNG DẪN ÔN TẬP THI HẾT HỌC PHẦN NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁCLÊNIN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (247.22 KB, 30 trang )

HỌC VIỆN ÂM NHẠC HUẾ

THS HOÀNG NGỌC VĨNH
HƯỚNG DẪN ÔN TẬP
THI HẾT HỌC PHẦN
NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN
CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN
TÀI LIỆU LƯU HÀNH NỘI BỘ
DÀNH CHO HỆ VỪA HỌC VỪA LÀM
CỦA HỌC VIỆN ÂM NHẠC HUẾ
HUẾ, 2013
1
Hệ thống ôn tập và thi hết học phần NNLCBCCNMLN gồm có: Học phần
NNLCBCCNMLN (1) và Học phần NNLCBCCNMLN (2). Đề thi mỗi học phần gồm 2 câu,
câu 1 thuộc khối kiến thức 1, câu 2 thuộc khối kiến thức 2. Thời gian làm bài 90 phút không kể
thời gian chép/phát đề. Sinh viên không được sử dụng tài liệu khi làm bài.
I. Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin (1)
Khối kiến thức 1:
1.1. Triết học là gì? Phân tích vấn đề cơ bản của triết học?
1.2. Phân tích định nghĩa vật chất của V.I.Lênin và ý nghĩa khoa học của định nghĩa
này?
1.3. Phân tích nội dung quy luật từ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về
chất và ngược lại? Ý nghĩa phương pháp luận của việc nghiên cứu quy luật này trong hoạt động
thực tiễn?
1.4. Phân tích nội dung quy luật phủ định của phủ định? Ý nghĩa phương pháp luận của
việc nghiên cứu quy luật này trong hoạt động thực tiễn?
1.5. Phân tích nội dung cặp phạm trù cái chung và cái riêng, từ đó rút ra ý nghĩa phương
pháp luận?
Khối kiến thức 2:
2.1. Phân tích nội dung quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và
trình độ của lực lượng sản xuất? Từ đó rút ra ý nghĩa của việc vận dụng quy luật này trong thực


tiễn ở nước ta hiện nay?
2.2. Khái niệm hình thái kinh tế-xã hội? Vì sao nói sự phát triển của các hình thái kinh
tế-xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên.
2.3. Phân tích quan điểm triết học Mác-Lênin về bản chất con người.
2.4. Phân tích mối quan hệ giữa quần chúng nhân dân và lãnh tụ trong sự phát triển lịch
sử, từ đó rút ra ý nghĩa của vấn đề này trong việc quán triệt bài học “lấy dân làm gốc”?
2.5. Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, từ đó rút ra ý
nghĩa phương pháp luận.
II. Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin (2)
Khối kiến thức 1
1.1. Trình bày điều kiện ra đời, tồn tại, đặc trưng và ưu thế của sản xuất hàng hoá?
1.2 Hàng hoá là gì? Hai thuộc tính của hàng hoá? Phân tích mối quan hệ giữa hai thuộc tính
của hàng hóa.
1.3. Phân tích lượng giá trị của hàng hóa và các nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị
hàng hóa?
1.4. Làm rõ nội dung và vai trò của quy luật giá trị? Ý nghĩa của việc nghiên cứu quy
luật giá trị đối với việc phát triển nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay?
1.5. Tư bản là gì? Mâu thuẫn của công thức chung của tư bản? Vì sao nói hàng hoá sức
lao động là chìa khoá để giải quyết mâu thuẫn của công thức chung của tư bản?
Khối kiến thức 2
2.1. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là gì? Phân tích những điều kiện khách
quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân?
2
2.2. Phân tích vai trò của Đảng cộng sản trong quá trình thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai
cấp công nhân?
2.3. Trình bày tính tất yếu, đặc điểm, thực chất, nội dung của thời kỳ quá độ từ CNTB
lên CNXH?
2.4. Dân tộc là gì? Phân tích những nguyên tắc cơ bản của Chủ nghĩa Mác – Lênin trong
việc giải quyết vấn đề dân tộc? Từ đó hãy giải thích cho thấy nguyên tắc nào là cơ bản nhất?
2.5. Vì sao dưới CNXH tôn giáo vẫn tồn tại? Những nguyên tác cơ bản củaChủ nghĩa

Mác – Lênin trong việc giải quyết vấn đề tôn giáo?
HƯỚNG DẪN CHI TIẾT
NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNI (1)
KHỐI KIẾN THỨC 1
1.1: Triết học là gì? Phân tích vấn đề cơ bản của triết học?
1. Khái niệm triết học:
“Triết” theo nguyên chữ Hán có nghĩa là trí (bao gồm sự hiểu biết sâu rộng về vũ trụ và
nhân sinh), theo chữ Hy Lạp là “yêu mến sự thông thái”. Khái niệm “triết học” có những biến
đổi nhất định trong lịch sử, nhưng lúc nào cũng bao hàm: yếu tố nhận thức (sự hiểu biết về vũ
trụ, về con người và sự giải thích bằng hệ thống tư duy) và yếu tố nhận định (đánh giá về đạo lý
để con người có thái độ và hành động).
Theo quan điểm mác–xít, triết học là một trong những hình thái ý thức xã hội; là học
thuyết về những nguyên tắc chung nhất của tồn tại, của nhận thức và của thái độ con người đối
với thế giới; là khoa học về những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy.
Đặc điểm nổi bật của triết học là cách nhìn chung về thế giới, là sự nghiên cứu thế giới
xét như một chỉnh thể, cho nên tri thức triết học trước hết là những tri thức phổ quát. Từ cách
xem xét đó, triết học có vai trò giải thích bản chất, nguyên nhân và những quy luật phát triển
của thế giới; vừa có vai trò vạch ra con đường, những phương tiện để nhận thức và cải tạo thế
giới.
Triết học chỉ xuất hiện khi có hai điều kiện: Về mặt nhận thức, triết học xuất hiện khi
năng lực tư duy trừu tượng của con người đạt đến trình độ nhất định, cho phép họ tổng kết và
khái quát những tri thức riêng lẻ thành hệ thống quan niệm, quan điểm chung. Về mặt xã hội,
triết học xuất hiện khi sản xuất vật chất của loài người phát triển đến trình độ làm nảy sinh quá
trình phân công lao động trí óc và lao động chân tay; nhưng quá trình phân công lao động này
trong thực tế chỉ diễn ra khi lịch sử nhân loại bước vào giai đoạn có phân chia giai cấp.
2. Vấn đề cơ bản của triết học:
Theo Ăng-ghen, vấn đề cơ bản của triết học là vấn đề về mối quan hệ giữa tồn tại và tư
duy, hay là vấn đề về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức. Vấn đề này có hai mặt:
- Mặt thứ nhất, đó là vấn đề giữa ý thức và vật chất, cái nào có trước? cái nào quyết
định cái nào? Tùy theo cách giải quyết vấn đề này mà triết học chia thành hai trào lưu chính:

chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm.
3
Chủ nghĩa duy vật cho rằng bản chất của thế giới là vật chất, nên vật chất có trước, tồn
tại độc lập với ý thức và quyết định ý thức; còn ý thức là thuộc tính, là sự phản ánh vật chất.
Chủ nghĩa duy vật trải qua nhiều giai đoạn phát triển với năm hình thức lịch sử cơ bản: duy vật
cổ đại (mộc mạc, chất phác), duy vật tầm thường thế kỷ V-XV, duy vật cơ học máy móc thế kỷ
XVII-XVIII, duy vật siêu hình thế kỷ XIX và duy vật mác-xít (biện chứng).
Chủ nghĩa duy tâm cho rằng ý thức (tinh thần) là bản chất của thế giới, nên ý thức là cái
có trước và quyết định vật chất; còn vật chất là cái có sau, là sự “biểu hiện” của ý thức. Chủ
nghĩa duy tâm có hai hình thức cơ bản: duy tâm chủ quan (coi ý thức là bản chất của thế giới,
nhưng đó là ý thức của con người nằm trong con người) và duy tâm khách quan (cũng coi ý
thức là bản chất của thế giới, nhưng đó là một thực thể tinh thần tồn tại bên ngoài con người và
độc lập với con người).
Nguồn gốc của chủ nghĩa duy vật: là sự phát triển của tri thức, của khoa học; là lợi ích
và cuộc đấu tranh của các giai cấp, các lực lượng xã hội tiến bộ, cách mạng ở mỗi giai đoạn
phát triển của lich sử. Nguồn gốc của chủ nghĩa duy tâm: là sự tuyệt đối hóa một hình thức hay
một giai đoạn của quá trình nhận thức dẫn đến tách nhận thức và ý thức khỏi thế giới hiện thực
khách quan; thông thường là lợi ích và sự phản kháng của các giai cấp, các lực lượng bảo thủ
trước tiến bộ xã hội.
- Mặt thứ hai, là vấn đề về khả năng nhận thức của con người.
Toàn bộ các nhà triết học duy vật và đa số những nhà triết học duy tâm đều thừa nhận
rằng thế giới có thể nhận thức được. Nhưng các nhà duy vật cho rằng, nhận thức là sự phản ánh
thế giới vật chất khách quan trong bộ óc con người. Còn các nhà duy tâm thì cho rằng, nhận
thức chỉ là sự ý thức về bản chất ý thức.
Trả lời vấn đề này còn có những nhà triết học theo nguyên tắc bất khả tri (không thể
biết). Những người này xuất phát từ việc tuyệt đối hóa tính tương đối của tri thức dẫn đến phủ
nhận khả năng nhận thức của con người.
- Bên cạnh những nhà triết học nhất nguyên (duy vật và duy tâm) giải thích thế giới từ
một bản nguyên, hoặc vật chất hoặc tinh thần, còn có những nhà triết học nhị nguyên luận. Nhị
nguyên luận cho rằng thế giới được sinh ra từ hai bản nguyên độc lập với nhau, bản nguyên vật

chất sinh ra các hiện tượng vật chất, bản nguyên tinh thần sinh ra các hiện tượng tinh thần. Nhị
nguyên luận thể hiện lập trường dung hòa giữa duy vật và duy tâm, đó chỉ là khuynh hướng nhỏ
trong lịch sử triết học và trong cuộc đấu tranh triết học nó càng trở nên gần với chủ nghĩa duy
tâm.
1.2: Phân tích định nghĩa vật chất của V.I.Lênin và ý nghĩa khoa học của định
nghĩa này?
Tiếp thu tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen, trên cơ sở khái quát những thành tựu mới
nhất của khoa học tự nhiên cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, về mặt triết học trên cơ sở phê
phán những quan điểm duy tâm và siêu hình về vật chất, Lênin đã đưa ra định nghĩa về vật chất
như sau:
1. Nội dung định nghĩa vật chất của V.I.Lênin:
4
“Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho
con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại
không lệ thuộc vào cảm giác” (V.I.Lênin toàn tập, T.18, NXB Tiến bộ, Matxcơva, 1980, tr.151).
2. Phân tích định nghĩa vật chất của V.I.Lênin:
Trong định nghĩa trên, chúng ta cần phân tích những nội dung chủ yếu sau đây:
a. “Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan…”
- “Vật chất” là một phạm trù khái quát nhất, rộng nhất của lý luận nhận thức.
+ Phạm trù vật chất phải được xem xét dưới góc độ của triết học, chứ không phải dưới
góc độ của các khoa học cụ thể. Điều này sẽ giúp chúng ta tránh được sai lầm khi đồng nhất
phạm trù vật chất trong triết học với các khái niệm vật chất thường dùng trong các khoa học cụ
thể hoặc đời sống hằng ngày.
+ Không thể định nghĩa phạm trù vật chất theo phương pháp thông thường. Về mặt
nhận thức luận, Lênin chỉ có thể định nghĩa phạm trù vật chất trong quan hệ với phạm trù đối
lập của nó, đó là phạm trù ý thức (phương pháp định nghĩa thông qua cái đối lập với nó). (Xem
thêm chương khái niệm ở giáo trình Logic hình thức)
Khi định nghĩa vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan, Lênin
đã bỏ qua những thuộc tính riêng lẻ, cụ thể, nhiều màu, nhiều vẻ của các sự vật, hiện tượng, mà
nêu bật đặc tính cơ bản nhất, phổ biến nhất có ở tất cả các sự vật, hiện tượng trong thế giới hiện

thực khách quan. Đó là đặc tính “tồn tại với tư cách là thực tại khách quan”, tồn tại ở ngoài ý
thức con người và độc lập với ý thức. Đặc tính này là dấu hiệu cơ bản để phân biệt vật chất với
cái không phải là vật chất.
- Tính trừu tượng của phạm trù vật chất: Phạm trù vật chất khái quát đặc tính chung nhất
của mọi khách thể vật chất xét trong quan hệ với ý thức nên về hình thức nó là cái trừu tượng.
Vì thế, không được đồng nhất vật chất với các dạng cụ thể của nó giống như quan niệm của các
nhà duy vật trước Mác.
b. Thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác.
Trong phần này, Lênin đã giải quyết được những điều sau đây:
- Thứ nhất, Lênin đã giải quyết được mối quan hệ giữa tính trừu tượng và tính hiện thực
cụ thể cảm tính của phạm trù vật chất. Vật chất không phải tồn tại vô hình, thần bí mà tồn tại
một cách hiện thực, được biểu hiện cụ thể dưới dạng các sự vật, hiện tượng cụ thể mà các giác
quan của chúng ta có thể nhận biết một cách trực tiếp hay gián tiếp.
- Thứ hai, Lênin đã giải quyết được mặt thứ nhất của vấn đề cơ bản triết học trên lập
trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng. Thực tại khách quan đưa lại cảm giác cho con người,
chứ không phải cảm giác (ý thức) sinh ra thực tại khách quan. Điều đó có nghĩa là, vật chất là
cái có trước và đóng vai trò quyết định, nội dung khách quan của ý thức.
c. Thực tại khách quan được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn
tại không lệ thuộc vào cảm giác.
Đến đây, Lênin đã khẳng định rằng con người có khả năng nhận thức được thế giới hiện
thực khách quan. Tức là Lênin đã giải quyết được mặt thứ hai của vấn đề cơ bản triết học trên
lập trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng.
3. Ý nghĩa của định nghĩa vật chất của V.I.Lênin:
5
- Giải quyết một cách đúng đắn vấn đề cơ bản của triết học trên lập trường chủ nghĩa
duy vật và biện chứng.
- Khắc phục được những quan niệm trực quan, siêu hình, máy móc về vật chất của chủ
nghĩa duy vật trước Mác và những biến tướng của nó trong trào lưu triết học tư sản hiện đại.
- Chống lại tất cả các quan điểm duy tâm và tạo ra căn cứ vững chắc để nghiên cứu xã
hội.

- Khẳng định thế giới vật chất là khách quan và vô cùng, vô tận, luôn luôn vận động và
phát triển không ngừng nên nó đã có tác dụng định hướng, cổ vũ các nhà khoa học khi sâu vào
nghiên cứu thế giới vật chất, để ngày càng làm phong phú thêm kho tàng tri thức của nhân loại.
1.3: Phân tích nội dung quy luật từ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay
đổi về chất và ngược lại. Ý nghĩa phương pháp luận của việc nghiên cứu quy luật này
trong hoạt động thực tiễn.
I. Nội dung quy luật:
Mỗi sự vật, hiện tượng là sự thống nhất giữa hai mặt: chất lượng (chất) và số lượng
(lượng). Từ những thay đổi dần dần về lượng dẫn sẽ đến những thay đổi về chất và ngược lại;
là cách thức của sự vận động và phát triển.
1. Khái niệm chất và lượng
a. Khái niệm chất:
- Chất là tính quy định vốn có của các sự vật và hiện tượng, là sự thống nhất hữu cơ của
những thuộc tính, những yếu tố cấu thành sự vật, nói lên sự vật đó là gì, phân biệt nó với các sự
vật và hiện tượng khác.
- Phân biệt chất với tính cách là phạm trù triết học với chất hiểu theo khái niệm thường
dùng hàng ngày hoặc với khái niệm chất liệu.
- Phân biệt chất với thuộc tính. Mỗi chất gồm nhiều thuộc tính.
- Mỗi sự vật, hiện tượng có thể có một hoặc nhiều chất tuy theo những mối quan hệ xác
định
- Chất tồn tại khách quan.
- Chất biểu hiện tình trạng tương đối ổn định của sự vật, hiện tượng.
- Trong những trường hợp đặc biệt, chất là cái trừu tượng và dường như nằm ngoài sự
vật, hiện tượng.
b. Khái niệm lượng
- Lượng là tính quy định của sự vật, hiện tượng về mặt qui mô, trình độ, tốc độ phát
triển của nó, biểu thị bằng các con số, các thuộc tính, các yếu tố, cấu thành nó.
- Lượng không chỉ biểu hiện bằng các con số, các đại lượng xác định cụ thể, mà lượng
còn được nhận thức bằng khả năng trừu tượng hóa.
- Lượng là nhân tố quy định bên trong, nhưng đồng thời cũng có những lượng chỉ nói

lên nhân tố dường như bên ngoài sự vật.
- Lượng tồn tại khách quan.
- So với chất, lượng là cái thường xuyên biến đổi.
* Sự phân biệt giữa chất và lượng chỉ có ý nghĩa tương đối.
2. Tính thống nhất và mối quan hệ phổ biến của lượng và chất.
6
a. Khái niệm “Độ”
Mỗi sự vật là một thể thống nhất của hai mặt chất và lượng. Hai mặt đó không tách rời
nhau, mà tác động lẫn nhau một cách biện chứng.
- “Độ” là khái niệm nói lên mối quan hệ quy định lẫn nhau của chất và lượng. Nó là giới
hạn mà trong đó sự vật, hiện tượng vẫn còn là nó mà chưa biến thành cái khác. Trong giới hạn
“độ” lượng biến đổi nhưng chưa dẫn đến chuyển hóa về chất.
- Độ cũng biến đổi khi những điều kiện tồn tại của sự vật, hiện tượng biến đổi.
b. Những hình thức biến đổi từ lượng dẫn đến sự biến đổi về chất.
Ranh giới của lượng do chất quy định, nhưng sự chuyển hóa thì bao giờ cũng bắt đầu từ
sự thay đổi về lượng. Các hình thức cơ bản của sự chuyển hóa:
+ Tăng lên hoặc giảm đi đơn thuần về mặt số lượng
+ Sự dung hợp của nhiều lực lượng thành một hợp lực về căn bản khác với tổng số
những lực lượng cá biệt.
+ Thay đổi về kết cấu, tổ chức, qui mô của sự vật, hiện tượng.
- Khi lượng thay đổi vượt quá giới hạn của độ thì dẫn đến thay đổi về chất. Sự thay đổi
về chất được gọi là bước nhảy (có 4 loại bước nhảy cơ bản: bước nhảy toàn phần, bước nhảy
cục bộ, bước nhảy dần dần, bước nhảy đột biến), đó là bước ngoặt căn bản trong sự biến đổi
dần dần về lượng.
- Giới hạn mà ở đó xảy ra bước nhảy được gọi là điểm nút.
- Sự chuyển hóa đòi hỏi phải có điều kiện.
c. Ảnh hưởng của chất mới đối với sự biến đổi của lượng
Khi chất mới ra đời nó tạo ra một lượng mới phù hợp với nó để có một sự thống nhất
mới giữa chất và lượng. Sự quy định này được biểu hiện ở qui mô và nhịp điệu phát triển mới
của lượng.

Tóm lại, quy luật lượng-chất chỉ ra cách thức biến đổi sự vật, hiện tượng. Đó là quá
trình tác động lẫn nhau giữa hai mặt: chất và lượng. Lượng biến đổi mâu thuẫn với chất cũ, chất
mới ra đời với lượng mới. Lượng mới lại tiếp tục biến đổi đến giới hạn nào đó lại phá vỡ chất
đang kìm hãm nó, tạo nên chất mới với lượng mới. Như vậy phát triển là quá trình vô hạn, vừa
mang tính liên tục (biểu hiện ở sự biến đổi của lượng) vừa có tính gián đoạn (biểu hiện ở sự
thay đổi về chất).
II. Ý nghĩa phương pháp luận:
- Sự vận động và phát triển là kết quả của quá trình tích lũy về lượng. Trong hoạt động
thực tiễn cần chống lại hai khuynh hướng:
+ Tư tưởng chủ quan, duy ý chí, nôn nóng, chưa có sự tích lũy đầy đủ về lượng đã
muốn thực hiện bước nhảy về chất. Hoặc chỉ nhấn mạnh đến bước nhảy, xem nhẹ tích lũy về
lượng, dẫn đến các hành động phiêu lưu mạo hiểm.
+ Tư tưởng bảo thủ, trì trệ, ngại khó không dám thực hiện bước nhảy về chất. Hoặc chỉ
nhấn mạnh đến sự biến đổi dần dần về lượng, từ đó rơi vào chủ nghĩa cải lương và tiến hóa
luận.
- Cần có thái độ khách quan, khoa học và có quyết tâm thực hiện bước nhảy khi điều
kiện thực hiện bước nhảy đã chín muồi.
7
+ Cần phân biệt các bước nhảy trong tự nhiên và trong xã hội.
+ Phải nhận thức đúng đắn các bước nhảy khác nhau về qui mô, nhịp độ.
+ Chống chủ nghĩa giáo điều
1.4: Phân tích nội dung quy luật phủ định của phủ định. Ý nghĩa phương pháp
luận của việc nghiên cứu quy luật này trong hoạt động thực tiễn.
Quy luật phủ định của phủ định vạch rõ xu hướng đi lên của sự vật, hiện tượng trong
quá trình vận động, phát triển.
1. Phủ định biện chứng:
- “Phủ định”: là khái niệm nói lên quá trình vận động của sự vật, hiện tượng. Trong đó
sự vật, hiện tượng này thay thế cho sự vật, hiện tượng khác.
- “Phủ định biện chứng”: là phủ định mà trong đó cái mới ra đời thay thế cho cái cũ. Cái
mới làm tiền đề, tạo điều kiện cho sự phát triển của sự vật, hiện tượng. Phép biện chứng duy

vật cho rằng: sự diệt vong của cái cũ và sự ra đời của cái mới, sự thoái hóa và sự phát triển có
liên hệ nội tại với nhau. Không có mặt này cũng không có mặt kia.
“Phủ định trong phép biện chứng không chỉ có ý nghĩa đơn giản là nói không hoặc giả
là tuyên bố rằng một sự vật không tồn tại, hay phá hủy sự vật ấy theo một cách nào đó… Cho
nên phải thiết lập sự phủ định thứ nhất như thế nào cho sự phủ định lần thứ hai vẫn có khả năng
thực hiện được hay trở thành có khả năng thực hiện được” (Ăngghen “Chống Đuy-rinh”, Nxb
Sự thật, Hà Nội, 1976, tr. 230-321).
- Đặc trưng của phủ định biện chứng:
Thứ nhất: Tính khách quan
Thứ hai: Tính kế thừa
Phủ định biện chứng là kết quả của sự tự thân phát triển trên cơ sở những mâu thuẫn
vốn có của sự vật và hiện tượng nên nó không thể là một sự phủ định tuyệt đối, một sự phủ
định sạch trơn.
Phép biện chứng duy vật coi sự kế thừa là nội dung cơ bản của phủ định biện chứng.
2. Nội dung quy luật:
Tất cả mọi sự vật, hiện tượng đều luôn luôn vận động, phát triển, quá trình đó cũng là
quá trình phủ định lẫn nhau của các mặt đối lập. Khuynh hướng tất yếu của sự vận động là: cái
mới thay thế cho cái cũ, cái mới làm tiền đề tạo điều kiện cho sự phát triển của sự vật, hiện
tượng. Nhưng sự phát triển có tính chu kỳ.
a. Tính chu kỳ của sự phát triển:
Từ một điểm xuất phát (A) qua một số lần phủ định biện chứng (B(n)) sự vật dường như
lặp lại điểm xuất phát (A’) nhưng trên cơ sở cao hơn.
┤A → B
(n)
→A’├ →
- Sự phủ định biện chứng lần thứ nhất (B) là bước trung gian trong sự phát triển. Trình
độ mới của (A) phải qua (B) mà được thực hiện chứ không phải (B) là giai đoạn cao hơn (A).
- Sự phủ định biện chứng lần thứ hai (A’) là phủ định của phủ định.
- (A’) là giai đoạn kết thúc của một chu kỳ phát triển đồng thời lại là điểm xuất phát của
một chu kỳ phát triển mới.

8
- Để hoàn thành một chu kỳ phát triển, sự vật hiện tượng phải trải qua ít nhất hai lần
phủ định biện chứng.
b. Hình thức và khuynh hướng của sự phát triển:
Quy luật phủ định của phủ định khái quát tính tất yếu tiến lên của sự vận động của sự
vật và hiện tượng. Sự phát triển đi lên đó không diễn ra theo con đường thẳng mà theo đường
“xoáy ốc”.
Lênin viết: “Một sự phát triển hình như diễn lại những giai đoạn đã qua nhưng dưới một
hình thức khác ở một trình độ cao hơn (phủ định của phủ định), một sự phát triển có thể nói là
theo đường xoáy ốc chứ không theo đường thẳng (Lênin toàn tập, T.26, Nxb Tiến bộ,
Maatsxcơva, 1981, tr.65).
- “Đường xoáy ốc” biểu hiện các mặt của quá trình phát triển biện chứng: tính kế thừa,
tính lặp lại, tính tiến lên của sự vận động.
- “Đường xoáy ốc” thể hiện tính phức tạp trong quá trình biến đổi, phủ định của sự vật.
Mỗi vòng mới của đường xoáy ốc thể hiện tính vô tận của sự phát triển từ thấp đến cao.
3. Ý nghĩa phương pháp luận:
- Quy luật phủ định của phủ định giúp ta hiểu rằng quá trình phát triển không diễn ra
theo đường thẳng mà rất quanh co, phức tạp, phải trải qua nhiều lần phủ định biện chứng, nhiều
khâu trung gian.
- Là cơ sở lý luận để hiểu về sự ra đời của cái mới: trong thực tiễn xã hội, các quá trình
diễn ra phức tạp, nhưng cái cũ nhất định sẽ mất đi, cái mới nhất định sẽ xuất hiện. Cái mới ra
đời trên cơ sở kế thừa những yếu tố tích cực của cái cũ. Phải biết phát hiện cái mới, duy trì và
phát triển cái mới.
- Phải có cách nhìn biện chứng khi phê phán cái cũ, kế thừa những yếu tố hợp lý của cái
cũ. Tránh nhìn đơn giản trong việc nhận thức các sự vật, hiện tượng, đặc biệt là các hiện tượng
xã hội. Cần chống lại hai khuynh hướng: kế thừa không chọn lọc hoặc phủ định sạch trơn.
1.5: Phân tích nội dung cặp phạm trù cái chung và cái riêng, từ đó rút ra ý nghĩa
phương pháp luận
1. Khái niệm cái chung, cái riêng, cái đơn nhất.
Cái chung là phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính, những mối

liên hệ giống nhau ở nhiều sự vật, hiện tượng hay quá trình riêng lẻ.
Cái riêng là phạm trù triết học dùng để chỉ một sự vật, một hiện tượng, một quá trình
riêng lẻ nhất định.
Cái đơn nhất là phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính chỉ có ở
một kết cấu vật chất nhất định, mà không lặp lại ở kết cấu khác.
2. Mối quan hệ biện chứng giữa cái chung và cái riêng:
Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng cả cái riêng và cái chung đều tồn tại khách quan
và quan hệ biện chứng với nhau.
- Cái chung thì tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng. Điều đó có nghĩa là cái
chung thực sự tồn tại, nhưng chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng. Không có cái
chung thuần túy, trừu tượng tồn tại bên ngoài cái riêng.
9
- Cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ đưa đến cái chung, bao hàm cái chung. Điều đó
cho thấy là cái riêng tồn tại độc lập nhưng sự tồn tại độc lập đó không có nghĩa là cái riêng
hoàn toàn cô lập với cái khác mà bất cứ cái riêng nào cũng nằm trong mối liên hệ đưa tới cái
chung. Cái riêng không những chỉ tồn tại trong mối liên hệ dẫn tới cái chung mà thông qua
hàng nghìn sự chuyển hóa, nó còn liên hệ với cái riêng loại khác.
- Cái chung là bộ phận của cái riêng, còn cái riêng không gia nhập hết vào cái chung vì
vậy cái riêng phong phú hơn cái chung. Bởi ngoài những đặc điểm gia nhập vào cái chung, cái
riêng còn giữ lại những đặc điểm riêng biệt mà chỉ nó mới có. Trong khi đó, cái chung phải là
cái sâu sắc hơn vì nó phản ánh những mối liên hệ ở bên trong, phổ biến tồn tại trong cái riêng
cùng loại, nó gắn liến với các cái riêng, quy định sự tồn tại và phát triển của sự vật.
- Trong quá trình phát triển khách quan của sự vật, trong những điều kiện nhất định cái
đơn nhất có thể biến thành cái chung và ngược lại cái chung có thể biến thành cái đơn nhất. Sỡ
dĩ có tình trạng này là do trong hiện thực cái mới không bao giờ xuất hiện đầy đủ ngay trong
một lúc mà lúc đầu xuất hiện dưới dạng đơn nhất cá biệt. Nhưng theo quy luật, cái mới nhất
định sẽ phát triển mạnh lên, ngày càng trở nên hoàn thiện tiến tới trở thành cái chung. Ngược
lại, cái cũ ngày càng mất dần đi từ chỗ là cái chung biến dần thành cái đơn nhất.
- Trong phạm vi khái quát của con người, cái được xem là cái chung trong quan hệ này
lại có thể được xem là cái riêng, cái đơn nhất trong quan hệ khác.

3. Ý nghĩa phương pháp luận:
- Không được tuyệt đối hóa cái chung hay cái riêng mà phải thấy được mối quan hệ
biện chứng giữa chúng. Nếu tuyệt đối hóa cái chung thì sẽ dẫn đến giáo điều chủ nghĩa, rập
khuôn một cách máy móc. Ngược lại nếu tuyệt đối hóa cái riêng thì sẽ dẫn đến chủ nghĩa kinh
nghiệm, chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa tập thể phường hội, địa phương chủ nghĩa và chủ nghĩa
dân tộc hẹp hòi.
- Trong nhận thức và thực tiễn để phát hiện cái chung cần phải xuất phát từ những cái
riêng, từ những sự vật, hiện tượng quá trình riêng lẻ cụ thể chứ không được xuất phát từ ý
muốn chủ quan của chủ thể, và để giải quyết những vấn đề riêng một cách có hiệu quả thì
không lảng tránh việc giải quyết những vấn đề chung, để tránh tình trạng sa vào mò mẫm tùy
tiện.
- Trong hoạt động thực tiễn cần tạo mọi điều kiện thuận lợi cho cái đơn nhất chuyển hóa
thành cái chung nếu cái đơn nhất đó có lợi, và cũng phải tạo điều kiện để cái chung chuyển hóa
thành cái đơn nhất nếu cái chung đó là lạc hậu.
KHỐI KIẾN THỨC 2
2.1: Phân tích nội dung quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất
và trình độ của lực lượng sản xuất. Từ đó rút ra ý nghĩa của việc vận dụng quy luật này
trong thực tiễn ở nước ta hiện nay.
Bất cứ phương thức sản xuất ở một giai đoạn phát triển lịch sử nào cũng đều bao gồm
hai mặt: Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Lực lượng sản xuất - là biểu hiện mối quan hệ
giữa người và tự nhiên trong quá trình sản xuất; quan hệ sản xuất - là biểu hiện mối quan hệ
giữa người với người trong quá trình sản xuất. C.Mác đã chỉ rõ: “Trong sản xuất, con người
10
không chỉ có quan hệ với tự nhiên mà còn phải có những mối liên hệ và quan hệ nhất định với
nhau, và chỉ trong phạm vi những mối liên hệ và quan hệ xã hội đó thì mới có tác động vào tự
nhiên, vào sản xuất được”.
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của phương thức sản xuất, chúng
phản ánh hai mối quan hệ khác nhau, đặc trưng phát triển không giống nhau, nhưng chúng có
mối liên hệ hữu cơ không thể tách rời và tác động biện chứng lẫn nhau hình thành quy luật xã
hội phổ biến của toàn bộ lịch sử loài người: Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với

tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Quy luật này vạch rõ sự quy định, phụ thuộc lẫn
nhau giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, trong đó lực lượng sản xuất giữ vai trò quyết
định.
- Kết cấu của lực lượng sản xuất:
Lực lượng sản xuất bao gồm ba yếu tố cấu thành: Người lao động (lứa tuổi, sức khỏe,
trình độ, kinh nghiệm, kỹ năng, kỹ xảo, năng lực), tư liệu sản xuất và khoa học kỹ thuật công
nghệ. Trong đó người lao động là nhân tố quyết định của lực lượng sản xuất.
- Tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất:
Tính chất của lực lượng sản xuất là tính chất của tư liệu sản xuất và của lao động, là kết
tinh sức lao động xã hội trong từng đơn vị sản phẩm do quá trình sản xuất tạo ra. Nếu công cụ
thủ công thì lực lượng sản xuất có tính chất cá nhân, nếu công cụ là máy móc thì lực lượng sản
xuất mang tính chất xã hội hóa.
Trình độ của lực lượng sản xuất là trình độ phát triển của công cụ lao động, của kỹ
thuật, trình độ kinh nghiệm, kỹ năng lao động của người lao động, qui mô sản xuất, trình độ
phân công lao động xã hội…
- Quan hệ sản xuất hình thành, biến đổi và phát triển dưới ảnh hưởng quyết định
của lực lượng sản xuất.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử khẳng định rằng sự thay đổi và phát triển của bất cứ một phát
triển sản xuất nào bao giờ cũng bắt đầu bằng sự thay đổi và phát triển của các lực lượng sản
xuất.
Trong quá trình sản xuất để đạt được năng suất lao động cao hơn, con người luôn luôn
tìm cách cải tiến công cụ lao động và chế tạo ra những công cụ lao động mới tinh xảo hơn.
Cùng với sự biến đổi và phát triển của công cụ lao động, kinh nghiệm sản xuất, kỹ năng lao
động, kiến thức khoa học, của người lao động cũng không ngừng tăng lên.
Mặt khác, trong cấu trúc của phương thức sản xuất thì lực lượng sản xuất là nội dung
còn quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của nó, trong mối quan hệ đó nội dung là quyết định.
Nội dung biến đổi kéo theo sự biến đổi của hình thức.
Do đó lực lượng sản xuất là yếu tố động nhất, không ổn định nhất, yếu tố cách mạng
nhất của quá trình sản xuất vật chất. Sự biến đổi của lực lượng sản xuất, trước hết là sự biến đổi
của công cụ sản xuất đã dẫn đến sự biến đổi trong các quan hệ sản xuất giữa người và người.

Điều đó cho thấy công cụ sản xuất không những là thước đo trình độ phát triển của các lực
lượng sản xuất, mà còn là dấu hiệu báo trước quan hệ xã hội, quan hệ kinh tế giữa người với
người cũng biến đổi theo. C.Mác viết: “Phương thức sản xuất, những quan hệ trong đó các lực
lượng sản xuất phát triển, đều không phải là những quy luật vĩnh viễn, mà chúng thích ứng với
11
sự phát triển nhất định của con người và của những lực lượng sản xuất của con người, và một
sự thay đổi trong lực lượng sản xuất của con người tất phải dẫn đến một sự thay đổi trong
những quan hệ sản xuất của con người” (C.Mác, Ăngghen tuyển tập, Nxb Sự thật, Hà Nội,
1980, T.1, tr.396).
Điều đó chứng tỏ sự phát triển của lực lượng sản xuất thì quan hệ sản xuất cũng phát
triển theo cho phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Sự phù hợp đó là động
lực nội tại thúc đẩy lực lượng sản xuất tiếp tục phát triển. Tuy nhiên, lực lượng sản xuất có xu
hướng phát triển nhanh hơn, còn quan hệ sản xuất lại tương đối ổn định. Khi lực lượng sản xuất
phát triển lên một trình độ mới, quan hệ sản xuất không còn phù hợp với nó nữa, trở thành
chướng ngại đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất, làm nảy sinh mâu thuẫn gay gắt giữa
hai mặt của phương thức sản xuất. Một cách tất yếu là quan hệ sản xuất cũ bị xóa bỏ, quan hệ
sản xuất mới hình thành phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất đã phát triển,
mở đường cho lực lượng sản xuất tiếp tục phát triển.
Quan hệ sản xuất cũ bị xóa bỏ, quan hệ sản xuất mới hình thành, cũng đồng thời sự diệt
vong của phương thức sản xuất lỗi thời và sự ra đời của phương thức sản xuất mới. Trong xã
hội có giai cấp đối kháng, mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất mới và quan hệ sản xuất lỗi thời
là cơ sở khách quan của cuộc đấu tranh giai cấp, đồng thời là tiền đề của các cuộc cách mạng
xã hội.
Sự tác động của quy luật nói trên trong lịch sử đã làm cho xã hội chuyển từ hình thái
kinh tế-xã hội thấp lên hình thái kinh tế-xã hội cao hơn một cách biện chứng.
- Sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất:
Trong cấu trúc của phương thức sản xuất thì quan hệ sản xuất là hình thức xã hội mà lực
lượng sản xuất luôn luôn phải dựa vào để phát triển. Tất nhiên quan hệ sản xuất thường xuyên
tác động trở lại với lực lượng sản xuất: có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của lực
lượng sản xuất. Theo tính tất yếu khách quan, quan hệ sản xuất lỗi thời sẽ bị thay thế bằng một

quan hệ sản xuất mới phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất.
Quan hệ sản xuất có thể tác động trở lại đối với lực lượng sản xuất, bởi vì quan hệ sản
xuất quy định tính mục đích của quá trình sản xuất vật chất, quy định hệ thống tổ chức quản lý
sản xuất và quản lý xã hội, quy định phương thức phân phối của cải mà người lao động trực
tiếp được hưởng. Tất cả những yếu tố nói trên lại ảnh hưởng và quy định thái độ của quần
chúng lao động - lực lượng sản xuất chủ yếu của xã hội.
Quan hệ sản xuất tác động trở lại lực lượng sản xuất theo chiều hướng tích cực, khi
quan hệ sản xuất là một hệ thống hoàn chỉnh gồm cả ba mối quan hệ: sở hữu tư liệu sản xuất, tổ
chức và quản lý sản xuất, phân phối sản phẩm, đều phù hợp với tính chất (trình độ) của lực
lượng sản xuất.
Sự tác động của quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực
lượng sản xuất vào lịch sử đã đưa xã hội loài người phát triển qua các phương thức sản xuất:
công xã nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa
trong tương lai.
12
Lịch sử xã hội loài người nói chung phát triển tuần tự từ thấp lên cao, nhưng thực tiễn
lịch sử đã chứng minh rằng nhiều nước đã bỏ qua một số phương thức sản xuất để tiến lên
phương thức sản xuất cao hơn.
Ở Việt Nam, để xây dựng phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa, chúng ta chủ trương
phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần với cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Như vậy việc bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ
nghĩa về thực chất là bỏ qua chế độ chính trị tư bản, chúng ta lại kế thừa những giá trị của chủ
nghĩa tư bản với tư cách là lực lượng sản xuất, để hướng nền sản xuất đi lên sản xuất lớn xã hội
chủ nghĩa.
2.2. Khái niệm hình thái kinh tế-xã hội? Vì sao nói sự phát triển của các hình thái
kinh tế-xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên.
- Khái niệm hình thái kinh tế-xã hội:
Hình thái kinh tế-xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử dùng để chỉ xã
hội ở từng giai đoạn phát triển lịch sử nhất định, với những quan hệ sản xuất của nó (cơ sở hạ
tầng) thích ứng với lực lượng sản xuất ở một trình độ nhất định và với một kiến trúc thượng

tầng được xây dựng trên những quan hệ sản xuất đó.
Hình thái kinh tế-xã hội là một hệ thống, một chỉnh thể toàn vẹn có cơ cấu phức tạp,
trong đó có những mặt cơ bản nhất là lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng
tầng.
Lực lượng sản xuất – là quan hệ giữa người với tự nhiên trong quá trình sản xuất - là
nền tảng vật chất-kỹ thuật của mỗi hình thái kinh tế-xã hội. Xét đến cùng, lực lượng sản xuất
quyết định sự hình thành và phát triển của mỗi hình thái kinh tế-xã hội. Bản thân các lực lượng
sản xuất không phải là sản phẩm riêng của một thời đại nào mà là sản phẩm của cả một quá
trình phát triển liên tục từ thấp lên cao qua các thời đại, là sự tiếp biến không ngừng của lịch sử.
Quan hệ sản xuất - quan hệ giữa người và người trong quá trình sản xuất - là những
quan hệ cơ bản, ban đầu và quyết định tất cả các quan hệ xã hội khác, không có những mối
quan hệ đó thì không thành xã hội và không có quy luật xã hội. Quan hệ sản xuất là tiêu chuẩn
khách quan để phân biệt xã hội cụ thể này với xã hội cụ thể khác.
Những quan hệ sản xuất là bộ xương của cơ thể xã hội hợp thành cơ sở hạ tầng và trên
đó dựng lên một kiến trúc thượng tầng tương ứng mà chức năng xã hội của nó là bảo vệ, duy trì
và phát triển cơ sở hạ tầng sinh ra nó.
Ngoài các quan hệ cơ bản: lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất, kiến trúc thượng tầng,
trong mỗi hình thái kinh tế-xã hội còn có những quan hệ dân tộc, gia đình,
- Sự phát triển của các hình thái kinh tế–xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên.
C.Mác viết: “Tôi coi sự phát triển của những hình thái kinh tế-xã hội là một quá trình
lịch sử tự nhiên” (C.Mác, Tư bản, quyển 1, T.1, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1973, tr.20).
Hình thái kinh tế-xã hội được xem như là một cơ thể, một hệ thống hoàn chỉnh luôn
luôn vận động và phát triển. Đó là hệ thống các quan hệ xã hội, bao gồm những quan hệ vật
chất và quan hệ tư tưởng. Quan hệ tư tưởng được xây dựng trên những quan hệ vật chất-quan
hệ hình thành ngoài ý chí và ý thức của con người, như một kết quả của sự hoạt động của con
người để đảm bảo sự sinh tồn của mình.
13
Học thuyết hình thái kinh tế–xã hội cho phép đi sâu vào bản chất của quá trình lịch sử,
hiểu được logic khách quan của quá trình đó, nhìn thấy sự phát triển của xã hội loài người như
là một quá trình lịch sử tự nhiên, một quá trình diễn ra nhiều mặt và chứa đầy mâu thuẫn, quá

trình vận động hợp với quy luật khách quan. Đó là những quy luật nội tại, tự thân trong cấu trúc
của hình thái kinh tế-xã hội, quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình
độ của lực lượng sản xuất, quy luật cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng.
Lịch sử phát triển của xã hội loài người đã và đang trải qua năm hình thái kinh tế-xã hội
khác nhau: cộng sản nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và cộng sản
chủ nghĩa. Chủ nghĩa duy vật lịch sử cho rằng, mỗi hình thái kinh tế-xã hội đều có những quy
luật riêng của nó khi nó phát sinh, phát triển và chuyển sang một hính thái khác cao hơn. Đồng
thời cũng khẳng định đến sự tồn tại của những quy luật phản ánh những đặc điểm chung của
mọi hình thái kinh tế-xã hội, những quy luật phổ biến phát huy tác dụng trong tất cả các giai
đoạn phát triển của lịch sử, trong tất cả các hình thái kinh tế-xã hội.
Trong các quy luật khách quan chi phối sự vận động phát triển của các hình thái kinh tế-
xã hội, quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản
xuất có vai trò quyết định nhất. Con người làm ra lực lượng sản xuất bằng năng lực thực tiễn
của mình. Tuy nhiên, năng lực thực tiễn lại bị quy định bởi nhiều điều kiện khách quan. Mỗi
thế hệ làm ra lực lượng sản xuất của mình phải dựa trên những lực lượng sản xuất đã đạt được
của thế hệ trước ở hình thái kinh tế-xã hội trước đó. Vì vậy, bản thân các lực lượng sản xuất
không phải là sản phẩm riêng của thời đại nào, mà là sản phẩm của cả một quá trình phát triển
liên tục từ thấp lên cao qua các hình thái kinh tế-xã hội. Nhưng, chính tính chất và trình độ của
lực lượng sản xuất đã quy định một cách khách quan tính chất và trình độ của quan hệ sản xuất,
do đó, xét đến cùng lực lượng sản xuất quyết định quá trình vận động phát triển của hình thái
kinh tế-xã hội như một quá trình lịch sử tự nhiên.
Sự vận động phát triển thay thế nhau của các hình thái kinh tế-xã hội từ thấp lên cao
trước hết được giải thích bằng sự tác động của quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với
tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất, một mặt của phương thức sản
xuất, là yếu tố đảm bảo tính kế thừa trong sự phát triển tiến lên của lịch sử. Quan hệ sản xuất là
mặt thứ hai của phương thức sản xuất biểu hiện tính gián đoạn trong sự phát triển của lịch sử.
Lịch sử loài người là lịch sử phát triển và thay thế nhau của các hình thái kinh tế-xã hội,
nhưng lịch sử cụ thể vô cùng phong phú, không thể xem quá trình lịch sử là một công thức
hoặc như một đường thẳng. Thực tế lịch sử diễn ra những hình thức quá độ khác nhau của các
dân tộc, một số dân tộc phải trải qua tuần tự các hình thái kinh tế-xã hội, một số dân tộc lại bỏ

qua một số hình thái để đạt được những bước phát triển nhanh hơn.
Nhân loại hiện nay đang và sẽ trải qua hình thái kinh tế-xã hội cộng sản chủ
nghĩa. Hình thái kinh tế-xã hội cộng sản chủ nghĩa có ba giai đoạn phát triển: Thời kỳ quá độ từ
tư bản chủ nghĩa lên chủ nghĩa xã hội; Chủ nghĩa xã hội; Chủ nghĩa cộng sản.
2.3. Phân tích quan điểm triết học Mác-Lênin về bản chất con người.
Thực chất của việc nghiên cứu bản chất con người là quá trình con người tự lấy mình
làm đối tượng nghiên cứu và trả lời câu hỏi con người là gì, vai trò con người trong thế giới
như thế nào?
14
1. Quan niệm chung về con người trong triết học trước Mác.
Có nhiều khoa học nghiên cứu về con người, và tiếp cận theo cách riêng của mình. Tuy
nhiên, nếu có khoa học chuyên ngành nhận thức con người bằng cách chia hệ thống yếu tố thì
ngược lại, triết học nghiên cứu con người bằng cách tổng hợp các yếu tố thành hệ thống.
Trong sự phát triển của triết học, có nhiều quan niệm khác nhau về bản chất con người.
Các nhà triết học thời cổ đại xem con người là vũ trụ thu nhỏ. Triết học tôn giáo xem con người
là một thực thể nhị nguyên, là sự kết hợp giữa tinh thần và thể xác. Các học thuyết triết học duy
tâm tuyệt đối hóa hoạt động của đời sống tinh thần, điển hình là hệ thống triết học duy tâm của
Hêghen. Ông cho rằng con người là hiện thân của ý niệm tuyệt đối, là bước cuối cùng của cuộc
diễn hành của ý niệm tuyệt đối trên trái đất. Phơbách, một nhà triết học duy vật siêu hình, đã
tuyệt đối hóa mặt sinh học của con người, chia cắt con người khỏi đời sống xã hội. Vì vậy, ông
cũng không giải thích được bản chất thực sự của con người.
Như vậy, triết học trước Mác về căn bản đã giải thích bản chất con người trên lập
trường duy tâm, do đó, không giải thích được nguồn gốc, bản chất thật sự của tồn tại người.
Mặc dù vậy, nó vẫn đóng góp được những thành tựu làm tiền đề cho khoa học nghiên cứu con
người.
2. Quan niệm của triết học Mác-Lênin về bản chất con người.
- Trên cơ sở tiếp thu có phê phán tư tưởng về con người của các nhà triết học trước đó
trong lịch sử, C.Mác đã khẳng định rằng: “Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là
tổng hòa những quan hệ xã hội” (Luận cương về Phoiơbắc).
- Dựa vào những thành tựu của khoa học hiện đại, triết học Mác-Lênin xem sự tồn tại

của con người và xã hội loài người bị quy định bởi:
+ Thứ nhất: các quy luật sinh vật học tạo thành phương diện sinh học của con người,
như quy luật về sự phù hợp giữa cơ thể với môi trường, về quá trình trao đổi chất, về biến dị, di
truyền và sự tiến hóa…
+ Thứ hai: các quy luật tâm lý-ý thức hình thành và hoạt động trên nền tảng sinh học
của con người, như quy luật hình thành tư tưởng, tình cảm, khát vọng, mục tiêu, lý tưởng, niềm
tin, ý chí…
+ Thứ ba: các quy luật xã hội đang quy định mối quan hệ giữa con người với con người,
như quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản
xuất, biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, các quy luật về giai cấp và đấu
tranh giai cấp…
Trong đời sống con người, ba hệ thống quy luật trên không tách biệt nhau, mà chúng
hòa vào nhau, tác động lẫn nhau, tạo nên bản chất con người trong sự thống nhất của con người
tự nhiên (cái sinh học) và con người xã hội (cái xã hội) trong một con người hiện thực.
- Bản chất tự nhiên của con người được biểu hiện ra bên ngoài là các nhu cầu tất yếu
khách quan:
+ Nhu cầu ăn, mặc, ở, sinh hoạt văn hóa tinh thần.
+ Nhu cầu tái sản xuất xã hội.
+ Nhu cầu tình cảm, nhu cầu hiểu biết.
15
- Bản chất xã hội của con người được hình thành trong quan hệ con người với con
người và con người với tự nhiên. Để duy trì sự tồn tại của mình, con người phải lao động. Vì
vậy, lao động là yếu tố quyết định sự hình thành bản chất xã hội của con người. Bởi vì:
+ Thứ nhất: Lao động là nguồn gốc của nền văn minh vật chất và tinh thần.
+ Thứ hai: Lao động là nguồn gốc trực tiếp của sự hình thành ý thức.
+ Thứ ba: Trong lao động, con người quan hệ với nhau trong lĩnh vực sản xuất, phân
phối, trao đổi, tiêu dùng, để từ đó, hình thành các quan hệ xã hội khác trong đời sống tinh thần.
- Cần phải thấy rằng, không thể tách rời bản chất tự nhiên và bản chất xã hội, mà chúng
là một thực thể thống nhất, trong đó, xã hội là phương thức cho con người thỏa mãn nhu cầu
sinh học và nhu cầu sinh học càng thỏa mãn, con người càng trở nên là con người văn hóa, văn

minh, ngày càng “người” hơn.
- Nhu cầu tự nhiên là mục đích của sự phát sinh những nhu cầu xã hội. Điều đó, có
nghĩa rằng sản xuất ra đời sống vật chất là cơ sở quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội
loài người và con người.
3. Một số kết luận:
- Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa các quan hệ xã hội. Điều
đó có nghĩa phải thừa nhận tính thống nhất không thể tách rời giữa con người sinh học và con
người xã hội. Bản chất con người không là cái bẩm sinh mà luôn xuất hiện, tồn tại và phát triển
dựa trên nền tảng tự nhiên của con người.
- Nhu cầu tự nhiên và nhu cầu xã hội ngày càng phát triển. Vì vậy, bản chất con người
không phải sinh ra một lần là xong, mà nó gắn liền với quá trình phát triển của lịch sử-xã hội,
gắn với quá trình con người không ngừng tự hoàn thiện mình.
- Bởi vậy, con người là sản phẩm của lịch sử, vừa là chủ thể sáng tạo ra lịch sử. Tạo ra
những điều kiện lịch sử, những tiền đề kinh tế-xã hội cho sự phát triển toàn diện của con người
là mục đích vươn tới của chính bản thân con người.
2.4. Phân tích mối quan hệ giữa quần chúng nhân dân và lãnh tụ trong sự phát
triển lịch sử, từ đó rút ra ý nghĩa của vấn đề này trong việc quán triệt bài học “lấy dân
làm gốc”.
1. Các khái niệm:
- Khái niệm quần chúng nhân dân.
Là bộ phận dân cư có cùng chung lợi ích căn bản liên kết lại thành tập thể dưới sự lãnh
đạo của một thủ lĩnh, tổ chức hay đảng phái nhằm giải quyết những vấn đề kinh tế, chính trị, xã
hội của thời đại họ.
Khái niệm quần chúng nhân dân luôn được xác định bởi:
+ Những người lao động sản xuất ra của cải vật chất - hạt nhân cơ bản của quần chúng
nhân dân.
+ Những bộ phận dân cư chống lại giai cấp thống trị, áp bức bóc lột đối kháng với nhân
dân.
+ Những giai cấp, những tầng lớp thúc đẩy sự tiến bộ xã hội.
- Khái niệm vĩ nhân-lãnh tụ:

16
Vĩ nhân-lãnh tụ là những cá nhân kiệt xuất, vĩ nhân, những người nắm bắt được vấn đề
căn bản nhất trong một lĩnh vực nhất định của hoạt động lý luận, khoa học và thực tiễn, có thể
là những anh hùng, nhà khoa học hay nhà hoạt động chính trị lỗi lạc, nguyện hy sinh quên mình
cho lợi ích của quần chúng nhân dân.
Có thể khái quát vĩ nhân-lãnh tụ là những người có phẩm chất cơ bản sau đây:
+ Có tri thức khoa học uyên bác, nắm được xu thế vận động của dân tộc, quốc tế và thời
đại.
+ Có khả năng tập hợp quần chúng nhân dân, thống nhất ý chí và hành động của họ
hướng vào một nhiệm vụ cụ thể của dân tộc, quốc tế hay thời đại.
+ Nguyện hy sinh quên mình cho lợi ích dân tộc, quốc tế và thời đại.
2. Mối quan hệ giữa quần chúng nhân dân và vĩ nhân-lãnh tụ trong sự phát triển
của lịch sử.
Trước những bước ngoặt của dân tộc, quốc tế và thời đại, sự xuất hiện quần chúng nhân
dân và vĩ nhân-lãnh tụ là tất yếu khách quan. Không có quần chúng nhân dân, không có vĩ
nhân-lãnh tụ thì không có phong trào cách mạng. Song, vai trò của quần chúng nhân dân và vĩ
nhân-lãnh tụ khác nhau:
- Quần chúng nhân dân là người sáng tạo ra lịch sử, là chủ thể của lịch sử, bởi vì:
+ Quần chúng nhân dân là người trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất và của cải tinh
thần.
+ Là chủ thể của hoạt động cải tạo các quá trình kinh tế, chính trị, xã hội.
+ Lợi ích của quần chúng nhân dân vừa là điểm khởi đầu, vừa là mục đích cuối cùng
của các hành động cách mạng.
- Trong mối quan hệ với quần chúng nhân dân, vĩ nhân-lãnh tụ có chức năng chủ yếu là:
+ Nắm bắt xu thế của dân tộc, quốc tế và thời đại trên cơ sở hiểu biết những quy luật
khách quan của các quá trình kinh tế, chính trị, xã hội.
+ Định hướng chiến lược, hoạch định chương trình hành động cách mạng.
+ Tổ chức lực lượng, giáo dục thuyết phục quần chúng thống nhất hành động để hướng
vào giải quyết những vấn đề then chốt nhất.
- Từ chức năng trên, quy định vai trò của vĩ nhân-lãnh tụ là:

+ Vĩ nhân-lãnh tụ là người có thể thúc đẩy nhanh tiến trình cách mạng, đem lại hiệu quả
cao nhất cho hoạt động của quần chúng nhân dân, nếu vĩ nhân-lãnh tụ hiểu và vận dụng đúng
đắn các quy luật khách quan. Song, vĩ nhân-lãnh tụ cũng là người có thể làm suy giảm hiệu quả
của hành động cách mạng của quần chúng nhân dân nếu vĩ nhân-lãnh tụ thiếu tài, kém đức, và
do đó lịch sử có thể phải trải qua những bước quanh co.
+ Không có vĩ nhân-lãnh tụ cho mọi thời đại. Mỗi vĩ nhân-lãnh tụ chỉ có thể là vĩ nhân-
lãnh tụ của thời đại mình. Sau khi hoàn thành chức năng lãnh đạo quần chúng nhân dân, vĩ
nhân-lãnh tụ đi vào lịch sử như những vĩ nhân, sống trong tâm tưởng, trong giá trị tinh thần của
các thời đại sau.
+ Vĩ nhân-lãnh tụ thường là người sáng lập ra các tổ chức chính trị-xã hội, là linh hồn
của tổ chức đó.
3. Ý nghĩa của vấn đề này trong việc quán triệt bài học “lấy dân làm gốc”.
17
- Vấn đề trên đặt cơ sở khoa học cho ta hiểu đầy đủ vai trò, sức mạnh của quần chúng
nhân dân, cách mạng là ngày hội của quần chúng nhân dân. “Dễ trăm lần không dân cũng chịu,
khó vạn lần dân liệu cũng xong”. Liên hệ mật thiết với quần chúng nhân dân, Đảng ta lãnh đạo
cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
- Nó là cơ sở lý luận khoa học giúp chúng ta tránh hai khuynh hướng sai lầm: không
thấy vai trò của quần chúng nhân dân, coi thường quần chúng nhân dân hoặc đề cao quá mức
dẫn đến sùng bái vai trò của vĩ nhân-lãnh tụ.
- Vì vậy, cần phải thấy mối quan hệ biện chứng của vai trò đó là quần chúng nhân dân là
chủ thể sáng tạo lịch sử, vĩ nhân-lãnh tụ là người định hướng và thúc đẩy sự phát triển của lịch
sử. Điều đó, càng trở nên có ý nghĩa trong sự nghiệp đổi mới xây dựng đất nước, thực hiện
công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay.
2.5. Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, từ đó
rút ra ý nghĩa phương pháp luận.
Tồn tại xã hội là toàn bộ đời sống vật chất và những điều kiện sinh hoạt vật chất của xã
hội. Kết cấu của tồn tại xã hội gồm ba yếu tố: Điều kiện tự nhiên, điều kiện dân số và phương
thức sản xuất do phương thức sản xuất quyết định.
Ý thức xã hội là toàn bộ đời sống tinh thần của xã hội, là sự phản ánh tồn tại xã hội

trong những giai đoạn phát triển khác nhau của lịch sử.
Giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội có mối quan hệ biện chứng trong đó tồn tại xã hội
giữ vai trò quyết định và ý thức xã hội tác động trở lại đối với tồn tại xã hội.
Tính quyết định của tồn tại xã hội thể hiện ở: Tồn tại xã hội có trước, ý thức xã hội có
sau; tồn tại xã hội thế nào thì ý thức xã hội thế đó; tồn tại xã hội biến đổi, đặc biệt là sự biến đổi
của phương thức sản xuất dẫn đến sự biến đổi của ý thức xã hội. Vì vậy, không thể tìm nguồn
gốc của tư tưởng lý luận trong óc người mà phải tìm nó trong hiện thực vật chất. Không thể giải
thích một cách đầy đủ sự biến đổi của một thời đại nào nếu chỉ căn cứ vào ý thức của thời đại
đó. Tuy vậy, không phải bất cứ ý thức xã hội nào cũng trực tiếp phản ánh những quan hệ kinh tế
của thời đại nó, mà chỉ xét đến cùng thì những quan hệ kinh tế mới được phản ánh bằng cách
này hay cách khác trong những tư tưởng đó.
Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội thể hiện những mặt sau:
- Ý thức xã hội thường có tính lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội. Thông thường đó là
thói quen, tập quán, truyền thống, niềm tin tôn giáo, Tính lạc hậu của ý thức xã hội bao giờ
cũng cản trở đối sự phát triển của tồn tại xã hội.
- Những tư tưởng tiến bộ, khoa học thường vượt trước tồn tại xã hội, nó có vai trò định
hướng, hướng dẫn cho hoạt động thực tiễn.
- Sự phát triển của ý thức xã hội luôn có tính kế thừa. Vì thế không thể chỉ dựa vào tồn
tại xã hội, vào quan hệ kinh tế của một thời đại để giải thích nội dung ý thức của thời đại đó mà
còn phải dựa vào quan hệ kế thừa của ý thức xã hội nữa.
- Trong sự phát triển, các hình thái ý thức xã hội luôn có sự tác động qua lại lẫn nhau.
Chính vậy, có những tính chất, những mặt của ý thức xã hội hoặc của mỗi hình thái ý thức xã
hội không thể giải thích được một cách trực tiếp bằng tồn tại xã hội hoặc bằng các quan hệ vật
chất.
18
- Sự tác động trở lại của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội diễn ra theo hai hướng tích
cực hoặc tiêu cực tùy thuộc vào ý thức xã hội là tiến bộ, khoa học hay lạc hậu, phản tiến bộ,
phản khoa học.
Tuy vậy, vai trò của ý thức xã hội đối với tồn tại luôn phụ thuộc vào tính chất của các
quan hệ kinh tế mà trên đó nảy sinh những tồn tại nhất định, và vai trò lịch sử của giai cấp

giương cao ngọn cờ tư tưởng đó, phụ thuộc vào mức độ phản ánh đúng đắn của tư tưởng đối
với nhu cầu phát triển xã hội, phụ thuộc vào mức độ thấm nhuần, mở rộng tư tưởng trong quần
chúng nhân dân.
Ý nghĩa phương pháp luận của vấn đề này:
Nếu chỉ thấy tính quyết định của tồn tại xã hội một cách may móc sẽ rơi vào duy vật
tầm thường. Ngược lại, nếu tuyệt đối hóa vai trò của ý thức xã hội sẽ rơi vào chủ nghĩa duy
tâm. Trong hoạt động thực tiễn và nhận thức phải luôn đấu tranh khắc phục cả hai khuynh
hướng đó. Trong cải tạo xã hội cũ, xã hội xã hội mới phải tiến hành cả trên hai lĩnh vực tồn tại
xã hội và ý thức xã hội.
19
NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN (2)
KHỐI KIẾN THỨC 1
1.1. Trình bày điều kiện ra đời, tồn tại, đặc trưng và ưu thế của sản xuất hàng hoá?
1. Khái niệm sản xuất hàng hóa: Là kiểu tổ chức kinh tế mà sản phẩm được sản xuất ra để
trao đổi hoặc mua bán trên thị trường.
2. Điều kiện ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hóa.
Thứ nhất: Có sự phân công lao động xã hội. Tức phải chuyên môn hóa trong sản xuất
hàng hóa: Mỗi người hoặc mỗi bộ phận người lao động chỉ sản xuất một loại hàng hóa nhất định.
Thứ hai: Có sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế giữa những người sản xuất hàng hóa.
Tức do quan hệ sở hữu khác nhau đối với tư liệu sản xuất làm cho những người sản xuất độc lập,
đối lập nhau nhưng lại cùng nằm trong một hệ thống phân công lao động xã hội phải phụ thuộc lẫn
nhau về sản xuất và tiêu dùng.
Tóm lại, điều kiện ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hóa là những người sản xuất hàng hóa
phải độc quyền đối với sản phẩm do quá trình sản xuất của mình tạo ra.
3. Đặc trưng và ưu thế của sản xuất hàng hoá.
Thứ nhất: Sản xuất hàng hoá là sản xuất cho thị trường trên cơ sở khai thác những lợi thế
về tự nhiên, xã hội, kỹ thuật của từng người, từng cơ sở sản xuất, từ đó tạo ra động lực thúc đẩy sản
xuất phát triển. Tức sự gia tăng không hạn chế nhu cầu của thị trường là một động lực thúc đẩy sản
xuất phát triển.
Thứ hai: Cạnh tranh đòi hỏi phải cải tiến kỹ thuật, tăng năng suất lao động, nâng cao chất

lượng sản phẩm nhằm tiêu thụ được hàng hóa để nâng cao lợi nhuận. Nghĩa là cạnh tranh đã thúc
đẩy lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ.
Thứ ba: Sản xuất hàng hóa phát triển theo tính chất “mở”- giao lưu trong nước và quốc tế
ngày càng phát triển. Tức sản xuất hàng hóa là nhằm tạo điều kiện ngày càng nâng cao đời sống
vật chất, tinh thần của nhân dân.
Tuy nhiên, bên cạnh mặt tích cực, sản xuất hàng hoá cũng có những mặt trái của nó như
phân hoá giàu - nghèo giữa những người sản xuất hàng hoá, tiềm ẩn những khả năng khủng hoảng,
phá hoại môi trường sinh thái, vv…
1.2. Hàng hoá là gì? Hai thuộc tính của hàng hoá? Phân tích mối quan hệ giữa hai
thuộc tính của hàng hóa.
1. Khái niệm hàng hóa:
- Khái niệm hàng hóa: Hàng hóa là sản phẩm của lao động có thể thỏa mãn những nhu cầu
nhất định nào đó của con người thông qua trao đổi, mua bán.
Không phải bất kỳ sản phẩm nào cũng là hàng hóa. Những vật phẩm đi vào tiêu dùng
không thông qua trao đổi hoặc mua bán thì không phải là hàng hóa: Hàng hóa là hình thái biển hiện
phổ biến nhất của của cải trong xã hội tư bản chủ nghĩa; Hàng hóa là hình thái nguyên tố của của
cải, là tế bào kinh tế chứa đựng mọi mầm mống mâu thuẫn của phương thức sản xuất ta bản chủ
nghĩa; Phân tích hàng hóa là phân tích giá trị - cơ sở của tất cả các phạm trù chính trị kinh tế học
của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
20
- Phân biệt các loại hàng hóa: Hữu hình (vật phẩm) và vô hình (biểu hiện thông qua vật
ngang giá – sức lao động).
2. Hai thuộc tính của hàng hoá: Giá tri sử dụng và giá trị của hàng hóa
* Giá trị sử dụng của hàng hoá:
- Khái niệm: Giá trị sử dụng là một phạm trù vĩnh viễn, trước hết là một vật nhờ có những
thuộc tính của nó mà thỏa mãn một loại nhu cầu nào đó của con người (trực tiếp là tư liệu sinh hoạt,
gián tiếp là tư liệu sản xuất). Là công dụng sử dụng của hàng hóa do thuộc tính tự nhiên của vật thể
hàng hóa quyết định.
- Đặc điểm của giá trị sử dụng: Một hàng hóa có thể có nhiều giá trị sử dụng được phát hiện
dần trong quá trình phát triển của KHKT-CN; Chỉ trong sử dụng hay tiêu dùng giá trị sử dụng mới

được thể hiện; Giá trị sử dụng là cấu nội dung vật chất của của cải; Đã là hàng hóa thì nhất thiết nó
phải có giá trị sử dụng, nhưng không phải vật có giá trị sử dụng nào cũng là hàng hóa. Một vật chỉ
trở thành hàng hóa khi giá trị sử dụng của nó được phải được sản xuất ra để bán, để trao đổi, tức vật
đó phải có giá trị trao đổi.
* Giá trị của hàng hoá:
- Khái niệm: Giá trị của hàng hóa là lao động xã hội của người sản xuất kết tinh trong
hoàng hóa.
Giá trị trao đổi trước hết biểu hiện ra như là một quan hệ về số lượng, là một tỷ lệ theo đó
những giá trị sử dụng loại này được trao đổi với những giá trị sử dụng loại khác.
Để trao đổi được thì giữa các giá trị sử dụng khác nhau đó phải có cái chung mà các giá trị
sử dụng khác nhau phải được quy thành cái chúng đó: Chúng là sản phẩm của lao động. Tức là sự
hao phí lao động của con người – sức lạo động của con người kết tinh trong sản phẩm.
- Đặc điểm giá trị hàng hóa: Giá trị là một phạm trù lịch sử vì hao phí lao dộng của con
người kết tinh trong sản phẩm khong phải lúc nào cũng là giá trị. Chỉ khí nào người ta làm ra sản
phẩm để trao đổi thì hao phí lao động đó mới mạng hình thái giá trị. Hàng hóa bao giờ cũng phải có
đủ hai thuộc tính – thuộc tính tự nhiên là giá trị sử dụng và thuộc tính xã hội là hao phí lao động
kết tinh trong nó (giá trị).
3. Mối quan hệ giữa hai thuộc tính.
Mặt thống nhất thể hiện ở chỗ: đã là hàng hóa thì phải có đầy đủ 2 thuộc tính, nếu thiếu
một trong hai thuộc tính đó vật phẩm sẽ không phải là hàng hoá.
Mâu thuẫn giữa hai thuộc tính của hàng hoá thể hiện ở chỗ:
Thứ nhất, với tư cách là giá trị sử dụng thì các hàng hoá không đồng nhất về chất. Nhưng
ngược lại, với tư cách là giá trị thì các hàng hoá lại đồng nhất về chất, tức là đều có sự kết tinh của
lao động, hay là lao động đã được vật hoá.
Thứ hai, tuy giá trị sử dụng và giá trị cùng tồn tại trong một hàng hoá, nhưng quá trình
thực hiện chúng lại tách rời nhau về cả không gian và thời gian: giá trị được thực hiện trước, trong
lĩnh vực lưu thông, còn giá trị sử dụng được thực hiện sau, trong lĩnh vực tiêu dùng. Do đó, nếu giá
trị của hàng hoá không được thực hiện thì sẽ dẫn đến khủng hoảng sản xuất thừa.
Như vậy, mâu thuẫn giữa giá trị sử dụng và giá trị của hàng hoá cũng chính là một trong
những nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng sản xuất thừa.

21
1.3. Phân tích lượng giá trị của hàng hóa và các nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá
trị hàng hóa?
1. Lượng giá trị hàng hóa
Giá trị hàng hóa bao gồm cả chất và lượng: Chất giá trị hàng hóa là do lao động trừu
tượng của người sản xuất hàng hóa kết tinh trong hàng hóa. Lượng giá trị của hàng hóa là do
lao động hao phí để sản xuất ra hàng hóa đó quyết định.
a. Thước đo lượng giá trị hàng hóa:
Mỗi chủ thể kinh doanh có 1 lượng hao phí lao động thực tế nhất định trong quá trình
sản xuất hàng hóa, đó là thời gian lao động cá biệt. Thời gian này xác định giá trị cá biệt của
hàng hóa. Trên thị trường không thể dựa vào giá trị cá biệt của hàng hóa để trao đổi, mà phải
dựa vào giá trị xã hội của hàng hóa. Giá trị xã hội của hàng hóa được tính bằng thời gian lao
động xã hội cần thiết để sản xuất hàng hóa. => Thước đo lượng giá trị của hàng hóa được tính
bằng thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra hàng hóa.
Thời gian lao động xã hội cần thiết là thời gian cần thiết để sản xuất ra một hàng hóa
trong điều kiện bình thường của xã hội (với một trình độ kỹ thuật trung bình, trình độ khéo léo
trung bình và cường độ lao động trung bình so với hoàn cảnh xã hội nhất định).
Thông thường thời gian lao động xã hội cần thiết được xác định theo thời gian lao động
cá biệt của những người sản xuất và cung ứng tuyệt đại bộ phận loại hàng hóa đó trên thị
trường.
2. Các nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị hàng hóa
- Thứ nhất là năng suất lao động:
Năng suất lao động là năng lực sản xuất của lao động, được tính bằng số lượng sản
phẩm sản xuất ra một đơn vị thời gian hoặc số lượng thời gian cần thiết để sản xuất ra một đơn
vị sản phẩm.
Có hai loại năng suất lao động: Năng suất lao động cá biệt và năng suất lao động xã hội.
Trên thị trường hàng hóa được trao đổi không phải theo giá trị cá biệt mà là giá trị xã hội =>
Năng suất lao động xã hội có ảnh hưởng đến giá trị xã hội của hàng hóa.
Khi năng suất lao động xã hội tăng lên thì thời gian lao động cần thiết để sản xuất ra 1
đơn vị hàng hóa giảm xuống, do đó lượng giá trị của 1 đơn vị hàng hóa giảm xuống (và ngược

lại). Lượng giá trị của hàng hóa tỷ lệ thuận với số lượng lao động xã hội cần thiết kết tinh
troang hàng hóa và tỷ lệ nghịch với năng suất lao động xã hội => Muốn giảm giá trị của hàng
hóa thì phải tăng năng suất lao động xã hội.
Năng suất lao động phụ thuộc vào nhiều yếu tố: Trình độ khéo léo của người lao động;
Sự phát triển của KHKT-CN và trình độ ứng dụng tiến bộ KHKT vào sản xuất; Sự kết hợp xã
hội của sản xuất; Hiệu quả của TLSX và các điều kiện tự nhiên.
Cường độ lao động là khái niệm nói lên mức độ khẩn trương, là sự căng thẳng mệt
nhọc của người lao động. Khi cường độ lao động tăng thì lượng hao phí trong cùng một đơn vị
thời gian tăng, lượng sản phẩm được tạo ra tăng nhưng lượng giá trị của một đơn vị sản phẩm
thì không đổi. Về bản chất tăng cường độ lao động cũng giống như kéo dài thời gian lao động.
Thứ hai, mức độ phức tạp của lao động: Mức độ phức tạp của lao động cũng ảnh
hưởng nhất định đến lượng giá trị của hàng hóa.
22
+ Lao động giản đơn là sự hao phí lao động một cách giản đơn mà bất kỳ một người
bình thường nào có khả năng lao động cũng thực hiện được.
+ Lao động phức tạp là lao động đòi hỏi phải được đào tạo, huấn luyện thành lao động
lành nghề.
Trong cùng 1 thời gian, lao động phức tạp tạo ra nhiều giá trị hơn lao động giản đơn.
Tuy nhiên, để tiến hành trao đổi hàng hóa, mọi lao động phức tạp được quy thành lao động
giản đơn trung bình trên cơ sở lao động phức tạp bằng bội số của lao động giản đơn hay bằng
lao động giản đơn nhân bội lên.
Lượng giá trị của hàng hóa vì thế được đo bằng thời gian lao động xã hội cần thiết, giản
đơn trung bình.
Cấu thành lượng giá trị của hàng hóa là W = c + v + m. Trong đó c là giá trị cũ (lao
động cụ thể của người sản xuất bảo tồn và di chuyển giá trị của tư liệu sản xuất vào sản phẩm);
v + m là giá trị mới trong sản phẩm (lao động trừu tượng – hao phí lao động sống trong quá
trình sản xuất ra sản phẩm – làm tăng thêm giá trị cho sản phẩm).
1.4. Làm rõ nội dung và vai trò của quy luật giá trị? Ý nghĩa của việc nghiên cứu
quy luật giá trị đối với việc phát triển nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay?
Sản xuất hàng hóa chịu sự tác động của nhiều quy luật kinh tế chung như: Quy luật về

sự phù hợp của QHSX với tính chất và trình độ của LLSX; Quy luật tiết kiệm thời gian lao
động; Quy luật tăng năng suất lao động Nhưng cơ sở cho sự chi phối nền sản xuất hàng hóa là
quy luật giá trị.
Quy luật giá trị là quy luật kinh tế cơ bản của sản xuất và trao đổi hàng hóa. Ở đâu có
sản xuất và trao đổi hàng hóa thì ở đó có quy luật giá trị hoạt động.
1. Nội dung của quy luật giá trị
Quy luật giá trị yêu cầu việc sản xuất và trao đổi hàng hóa phải dựa trên cơ sở giá trị
của hàng hóa, tức là trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết. Cụ thể là:
+ Trong sản xuất, do giá trị của hàng hóa không được quyết định bởi hao phí lao động
cá biệt của từng người lao động mà được quyết định bởi hao phí lao động xã hội cần thiết, nên
quy luật giá trị đòi hỏi người sản xuất phải căn cứ vào hao phí lao động xã hội cần thiết và luôn
có ý thức tìm cách hạ thấp hao phí lao động cá biệt xuống nhỏ hơn, hoặc bằng hao phí lao động
xã hội cần thiết.
+ Trong lưu thông, Trao đổi hàng hóa cũng phải trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần
thiết, nghĩa là việc trao đổi phải thực hiện theo nguyên tắc ngang giá.
+ Sự vận động của quy luật giá trị thông qua sự vận động của giá cả hàng hóa. Giá trị là
cơ sở của giá cả. Giá cả là biểu hiện bằng tiền của giá trị. Vì thế giá cả phụ thuộc vào giá trị.
Hàng hóa nào nhiều giá trị thì giá cả sẽ cao và ngược lại.
+ Ngoài giá tri, giá cả còn phụ thuộc các nhân tố khác như cạnh tranh, cung cầu, sức
mua của đồng tiền. Sự tác động này làm cho giá cả trên thị trường tách rời với giá trị và lên
xuống xoay quanh trục giá trị của hàng hóa. Cơ chế tác động của quy luật giá trị đối với nền
kinh tế hàng hóa là thông qua sự lên xuống của giá cả trên thị trường xoay quanh trục giá trị
của hàng hóa.
23
2. Tác dụng của quy luật giá trị
Trong sản xuấ hàng hóa, quy luật giá trị có ba tác động chủ yếu:
- Điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hóa.
+ Điều tiết sản xuất tức là điều hòa, phân bổ các yếu tố sản xuất giữa các ngành, các
lĩnh vực của nền kinh tế. Tác động này thông qua sự biến động của giá cả hàng hóa trên thị
trường dưới tác động của quy luật cung cầu. Ngành nào cung < cầu thì giá cả hàng hóa ngành

đó sẽ lên cao, nhờ đó mà mở rộng sản xuất. Ngược lại ngành nào cung > cầu thì giá cả hàng
hóa của ngành đó sẽ thấp hơn, vì thế buộc phải thu hẹp sản xuất.
+ Điều tiết lưu thông của quy luật giá trị cũng thông qua giá cả trên thị trường. Biến
động của giá cả thị trường có tác dụng thu hút hàng hóa từ nơi giá cả thấp đến nơi giá cả cao
làm cho hàng hóa lưu thông thông suốt.
Biến động của giá cả trên thị trường không những chỉ rõ sự biến động về kinh tế mà còn
có tác dụng điều tiết nền kinh tế hàng hóa.
- Kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất, tăng năng suất lao động, thúc đẩy
lực lượng sản xuất phát triển. Trong sản xuất hàng hóa, người nào có hao phí lao động cá biệt
nhỏ hơn hao phí lao động xã hội cần thiết của hàng hóa sẽ ở thế có lợi, sẽ thu được lãi cao,
hoặc ngược lại. Để giành lợi thế cạnh tranh và tránh nguy cơ vỡ nợ, phá sản người sản xuất
hàng hóa phải hạ thấp lao động cá biệt của mình ít nhất là bằng hao phí lao động xã hội cần
thiết. Vì thế họ phải luôn tìm cách cải tiến kỹ thuật, cải tiến tổ chức quản lý, thực hiện tiết kiệm
chặt chẽ, tăng năng suất lao động. Sự cạnh tranh này mang tính xã hội là sự thúc đẩy lực lượng
sản xuất phát triển.
- Thực hiện sự lựa chọn tự nhiên và phân hóa những người sản xuất hàng hóa thành
giàu, nghèo. Quá trình cạnh tranh theo đuổi giá trị kết quả là người có điều kiện thuận lợi, có
trình độ, kiến thức cao, trang bị kỹ thuật tốt sẽ phát tài, giàu lên nhanh chóng. Hoặc ngược lại
sẽ thua lỗ và trở thành nghèo khó.
Những tác động của quy luật giá trị trong nền kinh tế hàng hóa một mặt chi phối sự lựa
chọn tự nhiên đào thải các yếu kém, kích thích nhân tố tích cực phát triển. Mặt khác phân hóa
xã hội thành giàu nghèo tạo ra bất bình đẳng xã hội.
3. Ý nghĩa thực tiễn
- Cần nhận thức sự tồn tại khách quan và phạm vi hoạt động rộng lớn, lâu dài của quy
luật giá trị trong nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần ở nước ta.
- Cần vận dụng tốt cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước để phát huy vai trò tích
cực của nó, thúc đẩy sản xuất phát triển, bảo đảm sự công bằng xã hội.
- Kinh tế thị trường tự nó sẽ đưa nước ta lên CNTB. Vì thế nền kinh tế thị trường ở
nước ta nhất thiết phải có sự quản lý của Nhà nước định hướng XHCN. Hiện nay do quản lý
Nhà nước chưa tốt đã và đang dẫn đến sự chệch hướng XHCN.

1.5. Tư bản là gì? Mâu thuẫn của công thức chung của tư bản? Vì sao nói hàng
hoá sức lao động là chìa khoá để giải quyết mâu thuẫn của công thức chung của tư bản?
1. Công thức chung của tư bản:
24
Trong lưu thông hàng hóa giản đơn H-T-H, T không phải là tư bản. Ở đây T chỉ là
phương tiện để đạt tới một mục đích bên ngoài lưu thông.
Chỉ trong lưu thông T-H-T thì T mới là tư bản. Ở đây T vừa là điểm khởi vừa là điểm
kết thúc của quá trình lưu thông, H chỉ là khâu trung gian. Tiền ở đây không chi ra dứt khoát
mà chỉ ứng ra rồi thu về nhiều hơn.
Mục đích của lưu thông tư bản T-H-T không phải là giá trị sử dụng mà là giá trị, hơn
nữa là giá trị tăng thêm. Chính vì thế công thức chung của tư bản là T-H-T’, trong đó
T’=T+∆T. ∆T là số tiền trội hơn so với số tiền đã ứng ra (giá trị thặng dư). T-H-T’ đúng cho
vận động của tư bản: Với tư bản công nghiệp là những giai đoạn T-H và H-T’, còn tư bản cho
vay lấy lãi là từ công thức chung được rút gọn thành T-T’.
Như vậy: “Tư bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư (GTTD)”.
Sau khi nghiên cứu quá trình sản xuất giá trị thặng dư trong CNTB, có thể định nghĩa
đầy đủ: “Tư bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư bằng cách bóc lột lao động không công của
công nhân làm thuê”.
2. Mâu thuẫn của công thức chung của tư bản:
- Công thức chung của tư bản: T-H-T' (T’ = T + ∆T). Vậy ∆T xuất hiện từ đâu?
+ Trong lưu thông:
Trong lưu thông, dù trao đổi ngang giá hay không ngang giá thì cũng không tạo ra ∆T
* Trường hợp trao dổi ngang giá: Chỉ là sự thay đổi của hình thái giá trị từ T-H và từ H-
T nhưng tổng giá trị và phần giá trị của mỗi bên tham gia trao đổi trước và sau đều không thay
đổi. Tuy nhiên, về giá trị sử dụng thì đôi bên đều có lợi.
* Trường hợp trao đổi không ngang giá, có thể có ba trường hợp xảy ra:
Thứ 1, Trong trường hợp nhà tư bản bán hàng hóa cao hơn giá trị, nhưng đến lượt anh
ta lại là người đi mua (vì không có ai chỉ bán mà không mua) thì phải mua hàng hóa cao hơn
giá trị ấy. Hành vi bán hàng hóa cao hơn giá trị không mạng lại bất cứ chút thặng dư (∆T) nào.
Thứ 2, Trường hợp nhà tư bản cố mua hàng hóa thấp hơn giá trị cũng không mang lại

chút thặng dư (∆T) nào. Vì đến khi anh ta bán cũng buộc phải bán hàng hóa thấp hơn giá trị.
Thứ 3, nếu xã hội có một số kẻ lường gạt chuyên mua rẻ, bán đắt thì cái ∆T hắn có là do
chiếm đoạt của người khác mà có. Cái hắn được là cái người khác mất đi, nhưng trong toàn xã
hội thì tổng giá trị của hàng hóa là không thay đổi.
Như vậy, trong lưu thông dù trao đổi ngang giá hay không ngang giá đều không tạo ra
giá trị thặng dư cho các nhà tư bản.
+ Ngoài lưu thông:
Nếu người trao đổi vẫn đứng 1 mình với hàng hóa của anh ta, thì giá trị của hàng hóa ấy
không hề tăng lên.
Nếu người sản xuất muốn sáng tạo thêm thặng dư thì phải bằng lao động của chính
mình. Chẳng hạn da thuộc phải trở thành giày da, ở đó giày da có giá trị lớn hơn da thuộc vì nó
đã thu hút nhiều lao động vào trong giày da. Còn giá trị của da thuộc vẫn không đổi.
25

×