Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Phong trào Phật giáo Quảng Nam – Đà Nẵng năm 1963

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (260.41 KB, 8 trang )

Tạp chí Khoa học – Đại học Huế
ISSN 2588–1213
Tập 127, Số 6A, 2018, Tr. 47–54

PHONG TRÀO PHẬT GIÁO
QUẢNG NAM – ĐÀ NẴNG NĂM 1963
Từ Ánh Nguyệt*
Trường Đại học Kinh tế, Đại học Đà Nẵng, 71 Ngũ Hành Sơn, Đà Nẵng, Việt Nam

Tóm tắt.Trong lịch sử phát triển của Phật giáo Việt Nam, phong trào Phật giáo năm 1963 ghi một dấu ấn
hết sức quan trọng. Cùng với cả miền Nam, tăng ni, phật tử Quảng Nam – Đà Nẵng năm 1963 đã tiến
hành cuộc đấu tranh của với quy mô rộng lớn, đa dạng, phong phú về hình thức đấu tranh. Với mong
muốn hướng đến việc nghiên cứu phong trào Phật giáo miền Nam năm 1963 một cách có hệ thống và toàn
diện, tác giả của bài viết này xin được góp phần tìm hiểu ngun nhân và diễn biến phong trào Phật giáo
Quảng Nam – Đà Nẵng năm 1963.
Từ khóa.phong trào Phật giáo, Quảng Nam – Đà Nẵng, tăng ni, phật tử.

1.

Mở đầu
Phong trào Phật giáo miền Nam Việt Nam năm 1963 diễn ra đều khắp các địa phương

miền Nam, từ Bến Hải đến Cà Mau, nhất là ở các đô thị, dẫu rằng qui mô và cường độ khác
nhau. Tuy vậy, các cơng trình trước đây chỉ chú ý đến Huế và Sài Gòn mà hầu như bỏ qn các
địa phương khác, hoặc có đề cập nhưng cịn quá sơ lược. Bài viết này tập trung trình bày và
phân tích những đóng góp của Phật giáo Quảng Nam – Đà Nẵng trong cuộc đấu tranh địi tự
do tín ngưỡng, bình đẳng tơn giáo năm 1963, nhằm góp thêm cứ liệu, để có một cái nhìn tồn
diện về phong trào Phật giáo miền Nam Việt Nam năm 1963.

2.


Nội dung
Lún sâu một bước trong chính sách kỳ thị Phật giáo, ngày 6–5–1963, chính quyền Ngơ

Đình Diệm ban hành Cơng điện số 9195 về việc cấm treo cờ Phật giáo thế giới vào dịp Đại lễ
Phật đản năm 1963. Rồi tin chính quyền Ngơ Đình Diệm gây ra vụ thảm sát tại Đài phát thanh
Huế đêm 8–5–1963, làm 8 phật tử thiệt mạng và nhiều người khác bị thương; tiếp theo, ngày
10–5–1963, tăng ni, phật tử tổ chức mít-tinh tại chùa Từ Đàm (Huế), công bố bản tuyên ngôn
gồm 5 nguyện vọng1, với nội dung chủ yếu là yêu cầu chính quyền Ngơ Đình Diệm thực thi tự

11.

u cầu Chính phủ Việt Nam Cộng hịa thu hồi vĩnh viễn Cơng điện triệt giáo kỳ của Phật giáo,

*Liên hệ:
Nhận bài:26–09–2017; Hoàn thành phản biện: 05–11–2017; Ngày nhận đăng: 09–11–2017


Từ Ánh Nguyệt

Tập 127, Số 6A, 2018

do tín ngưỡng, bình đẳng tơn giáo, nhanh chóng truyền đi khắp cả nước và quốc tế. Giới lãnh
đạo Phật giáo miền Nam đã khẳng định mục tiêu và quyết tâm đấu tranh của mình: “Chúng tơi
sẵn sàng hy sinh cho đến lúc nào những nguyện vọng hợp lý trên đây được thực hiện” [1].
Tại Đà Nẵng, liên tục từ ngày 8 đến ngày 30–5–1963, nhiều cuộc mít tinh, hội thảo, phát
thanh lên án hành động dã man của chính quyền Ngơ Đình Diệm được tổ chức khắp các chùa
chiền, khuôn hội Phật giáo. Nhiều biểu ngữ bằng cả tiếng Anh và tiếng Việt được treo ở các
chùa với nội dung “chống đàn áp Phật giáo”, “Chống chế độ độc tài gia đình trị Ngơ Đình Diệm”phản
đối lên án sự bất cơng, tàn bạo của chính quyền Ngơ Đình Diệm [12]. Sau hơn một tháng đấu
tranh với chính quyền Ngơ Đình Diệm, giới lãnh đạo Phật giáo đã thực hiện nhiều hình thức và

biện pháp đấu tranh nhằm thuyết phục chính quyền Ngơ Đình Diệm thỏa mãn năm nguyện
vọng đã đề ra, từ “Thỉnh nguyện thư”, “Rước linh” hàng tuần đến tuyệt thực, đàm phán,
nhưng vẫn không lay chuyển được chế độ bạo tàn Ngơ Đình Diệm. Ngày 11–6–1963, tại ngã tư
đường Lê Văn Duyệt – Phan Đình Phùng (nay là ngã tư đường Cách mạng tháng 8 và Nguyễn
Đình Chiểu, thành phố Hồ Chí Minh), Hồ thượng Thích Quảng Đức đã anh dũng tự thiêu
trước sự chứng kiến của hàng chục vạn tăng ni, phật tử cùng những quan sát viên báo chí quốc
tế. Khắp các đô thị miền Nam, phong trào Phật giáo lên cao cùng với dư luận quốc tế, đặc biệt
là Mỹ, lên án gay gắt chính quyền Ngơ Đình Diệm.
Để tránh một cuộc nổi dậy của Phật giáo, chính quyền Ngơ Đình Diệm phải chịu nhượng
bộ bằng việc ký kết Thông Cáo chung với Phật giáo vào 2 giờ sáng ngày 16–6–1963, thỏa mãn 5
nguyện vọng mà Phật giáo đề ra trong bản tuyên ngôn ngày 10–5–1963. Tuy nhiên, việc ký
Thơng Cáo chung chỉ là một kế hỗn binh, một sự nhượng bộ tạm thời để chuẩn bị cho cuộc
đàn áp quy mô lớn hơn, nhằm đè bẹp phong trào. Âm mưu này được tiết lộ trong bức mật điện
số 1342/VP-TT ngày 19–6–1963 của Văn phòng phủ Tổng thống: “Để tạm thời làm dịu tình hình và
khí thế đấu tranh quá quyết liệt của bọn tăng ni và Phật giáo phản động. Tổng thống và ông Cố vấn ra
lệnh nhún nhường họ, các nơi hãy theo đúng chủ trương trên mà đợi lệnh. Một số kế hoạch đối phó thích
nghi sẽ gửi đến sau”[10,Tr. 421]. Trong một cuộc họp của 18 tướng tá vào đầu tháng 7–1963, Ngơ
Đình Nhu tun bố: “Nếu chính phủ này khơng giải quyết vấn đề Phật giáo, nó sẽ bị lật đổ vì một cuộc
đảo chánh quân sự”. Theo Nhu, “bất cứ chính phủ nào thay thế chính phủ này trước hết phải đập tan
những người Phật giáo”[8,Tr. 182, 197].
Với bản chất thâm độc như vậy nên sau khi Thông Cáo chung được ký kết, chính quyền

2. Yêu cầu Phật giáo phải được hưởng quy chế đặc biệt như các Hội truyền giáo Thiên chúa đã được ghi trong dụ số
10,
3. Yêu cầu Chính phủ chấm dứt tình trạng bắt bớ, khủng bố tín đồ Phật giáo,
4. Yêu cầu cho Tăng, tín đồ Phật giáo được tự do truyền đạo và hành đạo,
5. Yêu cầu Chính phủ đền bồi một cách xứng đáng cho những kẻ bị giết oanvô tội và kẻ chủ mưu giết hại phải bồi đền
đúng mức.

48



Jos.hueuni.edu.vn

Tập 127, Số 6A, 2018

Ngơ Đình Diệm bằng nhiều thủ đoạn gây ra hàng loạt vụ vi phạm. Ở Quảng Nam, sau khi bản
Thơng Cáo chung được ký kết, chính quyền chỉ cho phép Giáo Hội Quảng Nam phổ biến xuống
khuôn hội mà thôi. Họ viện lý do là không bảo đảm an ninh. Chính quyền cịn âm thầm ra lệnh
cho các cơ quan hữu trách ngăn cản sự đi lại của Giáo Hội Quảng Nam và đạo hữu. Ngoài ra,
chính quyền cịn cho phổ biến bản thơng cáo số 3 và số 4 của Tổng Đoàn Thanh Niên Cộng Hịa
để chống đối lại bản Thơng Cáo chung và cố ý xuyên tạc những điều được ghi trong bản Thông
Cáo chung, gây hoang mang trong quần chúng [6,Tr. 287].
“Chiến tranh một phía” từ phía chính quyền Ngơ Đình Diệm khơng cho phép giới lãnh đạo
Phật giáo hịa hỗn được nữa, buộc họ phải phát động trở lại cuộc đấu tranh.Ngày 14–7–1963,
Hịa thượng Thích Tịnh Khiết gởi Thơng bạch kêu gọi tồn thể Tăng tín đồ “nhất tề thực hiện
phong trào”[11].
Hưởng ướng lời kêu gọi đó, ngày 28–6–1963, Giáo Hội Quảng Nam triệu tập toàn thể Chư
Tăng và Phật giáo đồ toàn tỉnh về tại chùa Tỉnh hội để cử hành lễ cầu nguyện và sau đó mở một
cuộc mít tinh rộng rãi, kêu gọi tồn thể Tăng Ni và Tín đồ nhiệt liệt hưởng ứng phong trào đấu
tranh mất còn của Phật giáo. “Một cuộc biểu tình vĩ đại được tổ chức ngày 29–6–1963 đã diễn qua các
đường phố ở Hội An, đến Tỉnh đường Quảng Nam dâng kiến nghị địi Chính Phủ thỏa mãn những
nguyện vọng chân chính của Phật giáo Việt Nam. Số tham dự có trên 10.000 người” [6,Tr. 286].Ngồi
cuộc biểu tình trên, Giáo Hội Quảng Nam cịn lần lượt tổ chức những cuộc biểu tình thành từng
nhóm khắp ngõ đường.
Sau cuộc biểu tình nói trên, “một cuộc tuyệt thực được tổ chức trước Tòa Hành Chánh Quảng
Nam trong bảy ngày, trong đó có các thầy: Thích Chân Phát, Thích Trí Minh, Thích Minh Thế, Thích
Hành Sơn“[6,Tr. 286]. Ngày 15–7–1963, một cuộc tuyệt thực khác cũng được tổ chức trong thời
gian 50 tiếng đồng hồ, gồm có Thầy Thích Như Vạn và Thầy Thích Long Trí. Ngồi ra, đạo hữu
còn thay phiên nhau lần lượt tuyệt thực để địi chính quyền giải quyết thỏa đáng những

nguyện vọng.“Cuộc tuyệt thực này đã làm rung chuyển lòng người từ hàng phật tử cho đến ngồi
nhân dân, lịng phẫn uất lên cao độ, do đó đồng bào các giới đã tham gia cuộc đấu tranh quyết liệt“[6,Tr.
286].Ngày 30–7–1963, nhân ngày lễ Chung thất của Hồ thượng Thích Quảng Đức, giới lãnh
đạo Phật giáo đã ra thông báo vạch rõ thực trạng xã hội miền Nam dưới chế độ Ngơ Đình Diệm
“Sự suy đồi của nền đạo đức dân tộc… nền đạo giáo vẫn bị hăm doạ, quốc gia lâm vào tình trạng chia rẽ
đổ nát, người làm, kẻ hưởng, nỗi bất bình đạn khói khơng sao kể xiết“và kêu gọi mọi tầng lớp đồng
bào hãy đình cơng, bãi thị phản đối thái độ ngoan cố độc ác của chính quyền Ngơ Đình Diệm
đối với Phật giáo [3,Tr. 228].
Cùng với cả miền Nam hưởng ứng lời kêu gọi trên, tại Đà Nẵng, ngày 30–7–1963, hơn 200
tăng ni, phật tử đã đến chùa Tỉnh hội dự lễ cầu siêu cho Hoà thượng Thích Quảng Đức [4].
Trong 3 ngày 29, 30 và 31–7–1963, tại Hội An cuộc lễ cầu siêu Tuần Chung thất của Hồ thượng
Thích Quảng Đức được tổ chức. Trong 2 ngày đầu 29 và 30–7–1963, phật tử bị đàn áp lẻ tẻ,
49


Từ Ánh Nguyệt

Tập 127, Số 6A, 2018

nhưng đến ngày thứ 3 thì bị đàn áp một cách dữ dội. Vào ngày 31–7–1963, Tỉnh hội Phật giáo
Quảng Nam thỉnh di ảnh Thích Quảng Đức đến tịnh xá Ngọc Châu (cách chùa Tỉnh hội 4 km)
để làm lễ. Mọi người chắp tay yên lặng đi đến ngã tư Phan Chu Trinh và Lê Lợi (cách chùa Tỉnh
hội 500m) thì bị cảnh sát dã chiến, bảo an… giăng dây thép gai và xe GMC cản đường rồi dùng
báng súng, lưỡi lê, dao găm đánh đập một cách tàn nhẫn, cuộc đàn áp diễn ra trong 3 giờ đã
làm cho nhà sư Thích Long Trí và 55 phật tử bị thương [6,Tr. 288]. Về sự kiện này, tài liệu chính
quyền Sài Gịn đã viết: “Hồi 14 giờ ngày 31 tháng 7 năm 1963, trên 400 thanh niên phật tử và tín đồ
họp thành đồn, có một tốn gọi là “thanh niên phật tử hy sinh“ do sư Thích Long Trí dẫn đầu, dự định
đi từ chùa Tỉnh hội đến tịnh xá Ngọc Châu, cách tỉnh lỵ 3 cây số. Khi qua đường Phan Chu Trinh, đồn
người dùng máy ghi âm cổ võ và hơ khẩu hiệu quá khích, lực lượng trật tự tại địa phương được phái đến
can thiệp ơn hồ và xe thơng tin đến giải thích. Sư Thích Long Trí và 4 người khác cũng bị trầy trợt vì

dây kẽm gai“[4].
Để phản đối hành động đàn áp dã man của chính quyền Ngơ Đình Diệm với tín đồ phật
tử tại Hội An, nhà sư Thích Mật Nguyện sau khi từ Hội An về Huế, ngày 02–8–1963, đã triệu
tập một cuộc hội nghị tại chùa Từ Đàm, Huế để phổ biến tình hình Phật giáo ở Hội An. Hội
nghị đồng ý tổ chức một cuộc biểu tình tại Huế để phản đối chính quyền Ngơ Đình Diệm đàn
áp đồng bào phật tử ở Hội An và kêu gọi các phật tử đến tuyệt thực tại chùa Từ Đàm và Diệu
Đế trước khi phát động cuộc biểu tình. Tại các chùa Từ Đàm và Diệu Đế có treo biểu ngữ với
nội dung “Chúng tơi tuyệt thực để phản đối sự đàn áp dã man các tăng ni và Phật giáo đồ tại Hội An
ngày 31 tháng 7 năm 1963“[5]. Tiếp theo ngày 4–8–1963, tại chùa Từ Đàm tổ chức lễ cầu an cho số
người bị thương tại Hội An ngày 31–7–1963 và sau đó các sinh viên và gia đình phật tử đã xin
cấp trị sự Phật giáo Trung phần cho phát nguyện tuyệt thực dài hạn và tổ chức biểu tình [5].
Trong lúc cuộc đấu tranh của Phật giáo đang phục hồi và phát triển mạnh thì Đại sứ Mỹ
Frederick E. Nolting trong một cuộc trả lời phỏng vấn của Don Bakev (UPI) đã bào chữa cho
chính quyền Ngơ Đình Diệm. Nolting nói: “Hơn hai năm tôi sống tại Việt Nam, tôi chưa bao giờ
nhận thấy dấu hiệu nào chứng tỏ có sự kỳ thị tơn giáo”[15,Tr. 298]. Ngày 08–3–1963, trong một cuộc
nói chuyện với phụ nữ bán quân sự, Trần Lệ Xuân, vợ Ngơ Đình Nhu lên tiếng cơng kích, nhục
mạ Phật giáo, rằng: “Hoạt động của Phật giáo là hình thức phản bội xấu xa”[8,Tr. 196]. Về việc Hồ
thượng Thích Quảng Đức tự thiêu, Trần Lệ Xuân cho rằng “nướng sư”, Lệ Xn nói:“Tơi cịn
đánh sư gấp 10 lần như thế nữa à, phương pháp giải quyết vấn đề Phật giáo là phớt tỉnh, không cần biết
tới”[15,Tr. 307].
Phát ngôn với những lời lẽ xa cách sự thật của Nolting và những lời nhục mạ, vu khống,
hăm doạ Phật giáo của Trần Lệ Xuân như “lửa đổ thêm dầu” càng làm cho quần chúng thêm
căm phẫn, phong trào đấu tranh do đó càng lên mạnh.
Ngày 18–8–1963, theo lệnh của giới lãnh đạo Phật giáo, lễ cầu siêu cho tất cả các vị tử vì
đạo được tổ chức trên tồn miền Nam. 16 giờ cùng ngày, tại Đà Nẵng, hơn 2.000 tín đồ phật tử
50


Jos.hueuni.edu.vn


Tập 127, Số 6A, 2018

đến chùa Tỉnh hội tụng niệm cầu siêu cho những tăng ni, phật tử đã tự thiêu, sau đó diễu hành
từ chùa Tỉnh hội lên đường Hoàng Diệu, Chu Văn An, Phan Chu Trinh. Đoàn biểu tình đã đánh
trọng thương tài xế và đốt xe Jeep của viên đại uý CQSG khi y cố tình ngăn cản cuộc biểu tình.
Trước tình hình đó, tồ Thị chính Đà Nẵng cùng Toà Quân trấn Đà Nẵng ban hành lệnh thiết
quân luật ngay đêm 19–8–1963 trên nhiều tuyến đường trong thành phố [13].
Cuộc biểu tình của phật tử Đà Nẵng đã nhanh chóng lan vào Hội An và Tam Kỳ: 15.000
tăng ni, phật tử ở đây đã hưởng ứng.
Sau hơn 3 tháng kể từ khi phong trào Phật giáo miền Nam bùng nổ, chính quyền Ngơ
Đình Diệm đã sử dụng mọi biện pháp nhằm đè bẹp phong trào.Tăng ni, phật tử bị giết và bị bắt
giam cầm ngày càng tăng, nhưng cuộc đấu tranh chính nghĩa của Phật giáo ngày càng phát
triển sâu rộng. Từ Nam chí Bắc cũng như khắp nơi trên thế giới, nhân dân và chính phủ các
nước khơng phân biệt chế độ chính trị đều hướng về cuộc đấu tranh của Phật giáo và lên án gay
gắt chế độ Ngơ Đình Diệm, một chế độ mà đặc điểm “Là hối mại quyền thế, gia đình trị, tham
nhũng, khinh miệt thuộc hạ và tàn nhẫn đối với địi hỏi của nhân dân”[9,Tr. 118].
Khơng chỉ riêng ở Quảng Nam – Đà Nẵng mà tại hầu hết các đô thị miền Nam, phong
trào Phật giáo lên cao, lôi cuốn các tầng lớp xã hội tham gia, nhất là tại Huế và Sài Gòn. Để cứu
nguy cho chế độ, chính quyền Ngơ Đình Diệm đã cho thực hiện “Kế hoạch nước lũ”: “Cương
quyết thanh trừng các phần tử phản bội và q khích trong giới Tăng Ni, cơng chức, giáo sư, sinh viên,
cũng như trong các đoàn thể nhân dân”nhằm giải quyết dứt điểm “vụ Phật giáo”.”Thời gian ấn định
cho việc thực hiện xong kế hoạch là từ 21–8 đến 30–9–1963”[7].
Đúng như kế hoạch đã vạch ra, đêm 20 rạng ngày 21–8–1963, chính quyền Ngơ Đình
Diệm cho qn tiến công đồng loạt hầu hết các ngôi chùa được dùng làm cơ sở đấu tranh trên
khắp miền Nam. Tại Đà Nẵng, rạng sáng ngày 21–8–1963, chính quyền Ngơ Đình Diệm đã áp
dụng lệnh giới nghiêm, sau đó cho quân đội đồng loạt khám xét các chùa được cho dùng làm
cơ sở đấu tranh trong thành phố, hàng loạt tăng ni, phật tử đã bị bắt, lấy lời khai. Về hoạt động
này, chính tài liệu chính quyền Sài Gịn đã viết: “Kể từ 2 giờ sáng ngày 21 tháng 8 năm 1963, Toà
Quân trấn Đà Nẵng đã thi hành lệnh giới nghiêm trong tồn thành phố, sau đó đến các cuộc khám xét
các chùa Phật giáo tình nghi”[13]. Sân Chi Lăng, Đà Nẵng đã biến thành trại giam hơn 2.000

người [2,Tr. 163].Các chùa bị phong toả “nội bất xuất, ngoại bất nhập” và liên tục bị khám xét.
Tại Hội An, lúc 13 giờ ngày 21–8–1963, chính quyền tại đây đem các lực lượng bảo an,
dân vệ, cảnh sát, hiến binh đến bao vây bốn phía chùa Phật giáo Tỉnh hội rồi đột nhập vào bên
trong chùa, tịch thu các dụng cụ và tài liệu, bắt hầu hết các tăng ni, phật tử trên 200 người đưa
xuống bãi biển Cửa Đại để lấy hồ sơ lý lịch, sau đó đưa về tỉnh và các quận để tra hỏi, khai thác
và bắt học tập lệnh giới nghiêm của chính quyền. Các phật tử bị tra hỏi đánh đập dã man, nhất
là nhà sư Thích Long Trí và chú Thanh Hải.Trong thời gian này, công an, mật vụ luôn luôn
canh gác ngày đêm ở các chùa, không cho các tăng ni, phật tử vào chùa lễ Phật [6,Tr. 288].
51


Từ Ánh Nguyệt

Tập 127, Số 6A, 2018

Tình hình trên cũng diễn ra tương tự tại Tam Kỳ: hàng loạt tăng ni, phật tử bị bắt bớ, tra
tấn, khám xét, gây nên một cảnh hỗn loạn chưa từng có tại nơi cửa Phật.
Bằng tất cả các biện pháp, chính quyền Ngơ Đình Diệm vẫn khơng thể dập tắt được
phong trào, Uỷ ban liên phái Phật giáo ra lời hiệu triệu tố cáo sự tàn bạo của chính quyền Ngơ
Đình Diệm và kêu gọi mọi tầng lớp nhân dân “Khí giới của chúng ta là đoàn kết, bất bạo động, bất
hợp tác, lực lượng đồn kết tồn dân là vơ địch. Tất cả hãy nghe đây: hãy đình cơng, bãi thị, sinh viên,
học sinh bãi khố, cơng nhân và tổ chức ngừng hoạt động để chứng tỏ cho quốc dân biết rằng chính sách
dã man chuyên dùng bạo lực sẽ sụp đổ”[14]. Ngày 22–8–1963, Mặt trận dân tộc giải phóng miền
Nam Việt Nam ra tuyên bố chỉ rõ: “Điều quan trọng bậc nhất hiện nay là tín đồ Phật giáo cũng như
nhân dân ở các đô thị kiên quyết giữ vững tinh thần, giữ vững đội ngũ, giữ vững đấu tranh… Tinh thần
bất khuất trước, sau vẫn là vũ khí bất khả chiến thắng của chúng ta.Với ý chí và tinh thần ấy chúng ta sẽ
làm cho Mỹ – Diệm bị thất bại nhục nhã”[16,Tr. 3].
Sau “Kế hoạch nước lũ” phong trào Phật giáo Quảng Nam – Đà Nẵng vì mục tiêu tự do tín
ngưỡng, bình đẳng tơn giáo chỉ diễn ra ở một số địa phương như tín đồ Phật giáo ở đô thị Hội
An, Tam Kỳ tổ chức nhiều đêm thuyết pháp, vạch trần tội ác của chính quyền Sài Gịn và kêu

gọi đồn kết cùng với lực lượng Mặt trận giải phóng miền Trung Trung Bộ đấu tranh góp phần
đánh đổ chính quyền Sài Gịn. Đến khi cuộc đảo chính ngày 1–11–1963 diễn ra, anh em Diệm –
Nhu bị giết chết. Chế độ gia đình trịNgơ Đình Diệm sau 9 năm thống trị miền Nam sụp đổ.
Phong trào Phật giáo miền Nam Việt Nam nói chung, phong trào Phật giáo Quảng Nam – Đà
Nẵng năm 1963 kết thúc.

3.

Kết luận
Đối diện với “cái khổ” của dân tộc và Đạo pháp bị ngoại bang giày xéo, bị bàn tay bạo

quyền thống trị, tăng ni, phật tử Quảng Nam – Đà Nẵng và miền Nam nói chung buộc phải
đứng dậy đấu tranh. Bạo quyền Ngơ Đình Diệm đã sử dụng hết mọi phương kế để bóp chết
phong trào từ trong trứng nước, nhưng cái đức của Phật giáo: “Từ bi, cứu khổ cứu nạn, vô ngã vị
tha”vốn được nuôi dưỡng từ mạch sống của dân tộc, đã vươn dậy cùng với cả dân tộc quật
khởi. Chính quyền Ngơ Đình Diệm đã bị đánh đổ.
Nhìn lại lịch sử dân tộc và lịch sử Phật giáo kể từ khi được du nhập vào nước ta, trên cả
bình diện dựng nước và giữ nước cũng như trong đấu tranh chống bất công cường quyền, tăng
ni, phật tử Việt Nam đã khẳng định mình là một bộ phận gắn bó chặt chẽ với dân tộc, đã góp
tiếng nói và cơng sức vào cuộc đấu tranh vì độc lập, tự do của tổ quốc, vì cuộc sống hạnh phúc
của nhân dân. Cuộc đấu tranh của tăng ni, phật tử Quảng Nam – Đà Nẵng cũng như cả miền
Nam năm 1963 đã góp thêm một cứ liệu hùng hồn chứng minh cho nhận định trên đây.

52


Tập 127, Số 6A, 2018

Jos.hueuni.edu.vn


Tài liệu tham khảo
1.

Bản Tuyên ngôn của Tăng, tín đồ Phật giáo Việt Nam đọc trong cuộc mít-tinh tại chùa Từ Đàm – Huế, ngày
10–5–1963, Trung tâm lưu trữ Quốc gia II, Ký hiệu tài liệu SC,04–HS.8352.

2.

Lê Công Cơ (2006), Năm tháng dâng người (Hồi ký), Nxb. Phụ nữ, Hà Nội.

3.

Lê Cung (2008) Phong trào Phật giáo miền Nam Việt Nam năm 1963, Nxb. Thuận Hoá, Huế, (in lần thứ
4).

4.

Đại biểu Chính phủ tại TNTP gửi Bộ trưởng Bộ Nội vụ, ngày 13–8–1963, Trung tâm lưu trữ Quốc gia IV,
ký hiệu tài liệu: TNTP 1704.

5.

Đại biểu Chính phủ tại TNTP gửi Bộ trưởng Bộ Nội vụ, số 860, ngày 8–8–1963, Trung tâm lưu trữ Quốc
gia IV, ký hiệu tài liệu: TNTP 1704.

6.

Tuệ Giác (1964), Việt Nam Phật giáo tranh đấu sử, Nxb. Hoa Nghiêm, Sài Gòn.

7.


Kế hoạch thanh toán vụ tranh chấp bạo động của Tổng hội Phật giáo tại Thừa Thiên, Trung tâm lưu trữ
Quốc gia II, ký hiệu tài liệu SC.04-HS. 8466.

8.

Jerrold Schecter (1967), The new face of Buddha, John Weatherhill, Tokyo.

9.

Đỗ Đức Thái (1985), Thảm họa Việt Nam (Chính trường và Chiến trường), Chicago, lllinois, USA.

10.

Nam Thanh (1964), Cuộc đấu tranh của Phật giáo Việt Nam, Viện Hóa Đạo xuất bản, Sài Gịn.

11.

Thơng bạch số 84 ngày 16–7–1963 của Hịa thượng Thích Tịnh Khiết, Hội chủ Tổng hội Phật giáo Việt
Nam gởi toàn thể Tăng đồ và tín đồ trong nước, Tài liệu lưu tại chùa Từ Đàm – Huế.

12.

Thời kỳ đấu tranh chống Diệm – Nhu, lưu tại Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Quảng Nam, Ký hiệu hồ sơ: A-22X.

13.

Tịa Thị chính Đà Nẵng (1963), Tờ trình về tháng 8–1963, Trung tâm lưu trữ Quốc gia IV, ký hiệu tài
liệu: TNTP 3374.


14.

Trích lời hiệu triệu của Uỷ ban phái bảo vệ Phật giáo, Trung tâm lưu trữ Quốc gia II, ký hiệu tài liệu ĐI
8529.

15.

Quốc Tuệ (1964), Công cuộc đấu tranh của Phật giáo Việt Nam, Tác giả xuất bản Sài Gòn.

16.

Tuyên bố của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam ngày 02 tháng 8 năm 1963, tuần báo Thống
nhất, số 323 ngày 30 tháng 8 năm 1963.

53


Từ Ánh Nguyệt

Tập 127, Số 6A, 2018

BUDDHIST MOVEMENT IN
QUANG NAM – DANANG IN 1963
Tu Anh Nguyet*
College of Economics– Da Nang University, 71 Ngu Hanh Son St., Da Nang, Vietnam

Abstract. In the history of the development of Buddhism in Vietnam, the Buddhist movement in 1963
playeda very important role. Along with those in the whole South Vietnam, the Buddhist monks and nuns
in Quang Nam – Da Nang in 1963 participated in the struggle on a large scale with diverse rich forms of
opposition.With a desire to study the Buddhist movement in South Vietnam in 1963 systematically and

comprehensively, the author of this paper aims to find out the cause and development of the Buddhist
movement in Quang Nam – Danang in 1963.
Keywords.Buddhist movement, Quang Nam – Danang, monks, nuns, Buddhist.

54



×