Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐGIẢI PHÁP NHẰM PHÁT TRIỂN DU LỊCH ĐÀ NẴNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (379.95 KB, 11 trang )

TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 5(40).2010


108
THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT TRIỂN
DU LỊCH ĐÀ NẴNG
PRACTICAL CONDITIONS AND SOLUTIONS FOR DA NANG CITY’S
TOURIST DEVELOPMENT

Hoàng Thanh Hiền
Trường Cao đẳng Phương Đông Quảng Nam
Nguyễn Thị Như Liêm
Trường Đại học Kinh tế, Đại học Đà Nẵng

TÓM TẮT
Đà Nẵng không chỉ là trung tâm kinh tế, chính trị, văn hoá của miền Trung và Tây
Nguyên, mà thành phố này còn là điểm đến hấp dẫn trên con đường di sản miền Trung và có
nhiều bãi biển đẹp. Vì thế nó có lợi thế so sánh về du lịch với các địa phương khác trên cả
nước, do đó, phát triển Đà Nẵng thành trung tâm du lịch quan trọng và là động lực đẩy mạnh
phát triển du lịch của vùng là nhiệm vụ quan trọng hiệ
n nay. Mặc dù có rất nhiều thuận lợi để
phát triển du lịch thành ngành kinh tế mũi nhọn của thành phố, nhưng những năm qua, du
lịch Đà Nẵng vẫn chưa phát triển đúng tiềm năng. Vì vậy, việc làm rõ thực trạng và gợi ý một
số giải pháp nhằm phát triển du lịch của thành phố Đà Nẵng là vấn đề cần thiết và cấp bách
hiện nay.
ABSTRACT
Danang is not only an economic, political and cultural center of the Highlands and
Central Vietnam, but also an interesting destination on the heritage road, with many
beautiful beaches. Thus, it has competitive advantages in tourism compared with other
areas. Therefore, developing it into an important tourist center and a driving force for local
tourist industry is a present-day imperative task. Although there are many favorable


conditions for developing the city’s tourism into a key industry, the potentialities of this
industry have not yet been brought into full play. For this reason, clarification of real
situations and suggestion of solutions for the development of Danang city’s tourist industry
are urgent and immediate issues.

1. Đặt vấn đề
Thành phố Đà Nẵng nằm ở trung độ của Việt Nam, là trung điểm của sáu di sản
thế giới bao gồm Phong Nha - Kẻ Bàng, Cố đô Huế, Nhã nhạc Cung đình Huế, Phố cổ
Hội An, Thánh địa Mỹ Sơn và không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên nên sẽ là
điểm đến và điểm trung chuyển khách du lịch trong và ngoài nước. Bên cạnh đó, Đà
Nẵng cũng có nhiều danh lam thắng cảnh và các di tích lịch sử, văn hóa nổi tiếng như
vùng núi Bà Nà - Núi Chúa, bán đảo Sơn Trà, Ngũ Hành Sơn, Viện Cổ Chàm, Thành
Điện Hải… cùng với những dải cát dài, bằng phẳng, sạch sẽ, chưa bị ô nhiễm của các
bãi biển như Mỹ Khê, Thanh Khê, Non Nước, Nam Ô... rất thuận lợi để phát triển du
lịch thành ngành kinh tế mũi nhọn của thành phố.

TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 5(40).2010


109
2. Thực trạng du lịch thành phố Đà Nẵng
2.1. Quy mô và đóng góp vào tăng trưởng
Với những lợi thế về vị trí địa lý, tài nguyên thiên nhiên cùng với những nỗ lực
không ngừng để phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng, lĩnh vực dịch vụ du lịch của Đà Nẵng
đang ngày càng đóng góp lớn vào tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế thành phố nói
chung và khu vực dịch vụ nói riêng. Tốc độ tăng trưởng bình quân của ngành khách sạn,
nhà hàng tăng chậm qua ba giai đoạn từ mức 4,71% trong những năm 1997-2000; tăng
lên 6,05% trong thời kỳ 2001-2005 và 5,42% trong giai đoạn 2006-2009. Đáng chú ý là
tốc độ tăng trưởng bình quân của ngành này vẫn thấp hơn nhiều so với tốc độ tăng bình
quân của toàn khu vực dịch vụ trong cả ba giai đoạn. (Xem Bảng 1)

Bảng 1. Đóng góp của ngành dịch vụ khách sạn, nhà hàng vào tăng trưởng GDP
ĐVT: %, điểm phần trăm
Cơ cấu khu vực dịch vụ (%)
Tốc độ
tăng
(%)
Đóng
góp
vào
tăng
trưởng
Tốc độ
tăng
(%)
Đóng
góp
vào
tăng
trưởng
Tốc độ
tăng
(%)
Đóng
góp
vào
tăng
trưởng
Năm
1997 2000 2005 2009
1997 -

2000
Điểm
(%)
2001 -
2005
Điểm
(%)
2006 -
2009
Điểm
(%)
Toàn
khu
vực
dịch
vụ
54.99 51.89 44.68 51.51 8.43 8.43 9.18 9.18 19.01 19.01
Khách
sạn,
nhà
hàng
7.49 6.28 5.01 4.49 4.71 0.65 6.05 0.82 5.42 0.57
Nguồn: Tính toán từ số liệu Niên giám Thống kê thành phố Đà Nẵng (2000, 2006, 2009)
Bên cạnh đó, điểm phần trăm đóng góp của ngành khách sạn, nhà hàng vào tăng
trưởng chung của khu vực dịch vụ cũng tăng lên chậm. Cụ thể, từ mức 0,65 phần trăm
(giai đoạn 1997-2000) tăng lên 0,82 phần trăm (giai đoạn 2001-2005) và đặc biệt là
giảm trở lại trong những năm gần đây (giai đoạn 2006-2009) với mức đóng góp vào
tăng trưởng là 0,57 phần trăm.
2.2. Lượng khách và doanh thu dịch vụ du lịch
2.2.1. Lượng khách

Có thể nói thị trường khách du lịch của Đà Nẵng đã không ngừng mở rộng về
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 5(40).2010


110
quy mô, Hình 1 cho thấy lượng du khách đến thành phố Đà Nẵng trong giai đoạn từ
2001-2009.
Hình 1. Lượng khách du lịch đến thành phố Đà Nẵng
0
200000
400000
600000
800000
1000000
1200000
1400000
1600000
2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009
Lượt người
0%
10%
20%
30%
40%
50%
60%
70%
80%
90%
100%

Tỷ lệ khách quốc tế Tỷ lệ khách nội địa Khách du lịch quốc tế
Khách du lịch nội địa Tổng lượt khách

Nguồn: Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch thành phố Đà Nẵng
Lượng khách du lịch đến Đà Nẵng trong giai đoạn 2001-2009 có xu hướng tăng
nhanh ngoại trừ năm 2003 (do ảnh hưởng từ dịch SARS), với tốc độ tăng bình quân
là 14%. Năm 2001 Đà Nẵng đón được 486.132 lượt khách thì đến năm 2005 con số này
tăng lên là 659.456 lượt khách (tăng 1,3 lần) và năm 2009 là 1.350.000 lượt khách
(tăng gần gấp 3 lần).
Về cơ cấu khách du lịch, Hình 1 cho thấy khách du lịch nội địa luôn chiếm thị
phần cao với tỷ trọng trên 60% trong tổng số lượt khách du lịch đến Đà Nẵng trong suốt
giai đoạn 2001-2009. Điều đáng chú ý là trong gần 10 năm, mặc dù có sự tăng lên rất
nhanh của lượng khách du lịch nội địa đến thành phố nhưng số lượng khách du lịch
quốc tế lại tương đối ít biến động. Cụ thể là, tốc độ tăng trưởng bình quân c
ủa lượt
khách du lịch quốc tế đến thành phố trong thời kỳ này là 6% trong khi đó con số này đối
với lượt khách du lịch nội địa là 17%, cao gần gấp 3 lần. Điều này được thể hiện rõ qua
Hình 1 khi khoảng cách giữa số lượt khách du lịch quốc tế và nội địa đến thành phố Đà
Nẵng ngày càng mở rộng hơn, đặc biệt trong hai năm là 2008 và 2009. Lý giải cho điều
này đó là khủng hoảng kinh tế toàn cầu vào cuối năm 2008 và những tháng đầu năm
2009 cộng với dịch cúm A/H1N1 nên ngành du lịch Việt Nam nói chung và thành phố
Đà Nẵng nói riêng cũng bị ảnh hưởng chung với ngành du lịch thế giới. Tuy nhiên, điều
đáng chú ý ở đây là năm 2009, mặc dù lượt khách du lịch quốc tế giảm đi một cách
đáng kể từ 353.696 lượt khách năm 2008 xuống còn 300.000 lượt khách năm 2009
(giảm gần 15%); trong khi đ
ó tổng lượt khách du lịch đến Đà Nẵng lại tăng từ
1.269.144 lượt lên 1.350.000 lượt (tăng lên gần 6%). Những con số này phần nào cho
thấy, nhu cầu đi du lịch rất lớn của khách du lịch nội địa và cũng là một tín hiệu tích
cực trong bối cảnh thị trường khách du lịch quốc tế đang có xu hướng chững lại và
giảm dần.

TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 5(40).2010


111
Đối với thị trường khách du lịch quốc tế của Đà Nẵng, có thể nói Đông Nam
Á và Đông Bắc Á là hai thị trường đầy tiềm năng. Để giữ vững tốc độ phát triển của
lượng du khách đến từ những vùng này, trong những năm qua thành phố đã xây
dựng nhiều chương trình du lịch với định hướng thu hút dòng khách của các khu vực
Đông Bắc Á và Đông Nam Á, thông qua việc xây dựng sản phẩm và tuyên truyền
quảng bá cho các thị trường gửi khách các nước Đông Nam Á và Đông Bắc Á, các
quốc gia ASEAN, và đặc biệt là khách du lịch từ Trung Quốc, Nhật Bản, Đài Loan
và Hàn Quốc...
Hình 2. Thành phần khách du lịch quốc tế đến thành phố Đà Nẵng năm 2009
23,8; 24%
15,6; 16%
8,3; 8%
16,6; 17%
14,2; 14%
10,3; 10%
11,3; 11%
Pháp Anh Nhật Úc Đông Nam Á Bắc Mỹ Các nước khác

Nguồn: Số liệu điều tra của Viện Nghiên cứu phát triển kinh tế-xã hội Đà Nẵng (2010)
Theo kết quả cuộc khảo sát mới đây (6/2010) của Viện Nghiên cứu kinh tế-xã
hội Đà Nẵng về “Phân tích hành vi và đánh giá của khách du lịch quốc tế đối với điểm
đến Đà Nẵng”, trong số 302 khách du lịch quốc tế được khảo sát thì khách du lịch đến
từ các quốc gia phát triển như Anh, Pháp, Bắc Mỹ, Nhật Bản và Úc chiếm đến 73,1%;
trong khi đó, du khách đến từ các nước Đông Nam Á chỉ chiếm khoảng 16,6%. Điều đó
chứng tỏ mặc dù có lợi thế về khoảng cách địa lý, các chương trình du lịch được định
hướng nhằm thu hút nhiều hơn nữa dòng khách đến từ các quốc gia trong khu vực Đông

Nam Á nhưng tiềm năng về nguồn khách du lịch trong những khu vực này vẫn chưa
được khai thác, phát huy tối đa.
Một đặc điểm đáng chú ý khác đó là phần lớn khách du lịch quốc tế đến Đà
Nẵng với thời gian lưu trú còn ngắn. Số liệu thống kê từ Bảng 2 cho thấy số lượng
khách quốc tế sử dụng lữ hành phục vụ chiếm tỷ trọng khá cao (trên 50%). Trong khi
đó, tỷ trọng khách du lịch quốc tế sử dụng lưu trú phục vụ đạt mức cao nhất cũng chỉ ở
mức 34% (năm 2001) và mức thấp nhất là 16% (năm 2005).
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 5(40).2010


112
Bảng 2. Lượng khách du lịch đến Đà Nẵng phân theo lữ hành phục vụ và lưu trú phục vụ
ĐVT: Lượt khách

1997 2000 2001 2005 2006 2009
Các đơn vị lữ hành phục vụ
46.834 107.835 106.817 46.133 62.512 145.000
40.504 100.995 86.215 24.619 39.737 79.350
Trong đó:
khách quốc tế
86% 94% 81% 53% 64% 54%
Các đơn vị lưu trú phục vụ
158.546 285.883 316.470 698.621 666.265 667.400
41.807 84.238 108.557 114.336 112.764 128.500
Trong đó:
khách quốc tế
26% 29% 34% 16% 17% 19%
Nguồn: Niên giám Thống kê thành phố Đà Nẵng (2000, 2006, 2009)
2.2.2. Doanh thu dịch vụ du lịch
Thật khó có thể ước lượng chính xác được tổng doanh thu của ngành du lịch từ

tất cả các lĩnh vực có liên quan đến hoạt động du lịch. Tuy nhiên, theo số liệu từ Cục
thống kê, doanh thu của ngành du lịch có thể chia thành doanh thu từ các hoạt động dịch
vụ và doanh thu từ các hoạt động lữ hành.
Hình 3. Doanh thu dịch vụ du lịch phân theo doanh thu dịch vụ và doanh thu lữ hành
0
100000
200000
300000
400000
500000
600000
1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009
Tri ệu đồng
0%
10%
20%
30%
40%
50%
60%
70%
80%
90%
100%
%
Dịch vụ Lữ hành Dịch vụ Lữ hành

Nguồn: Niên giám Thống kê thành phố Đà Nẵng (2000, 2006, 2009)
Hình 3 cho thấy cơ cấu và tốc độ tăng trưởng bình quân của doanh thu từ ngành
du lịch trong giai đoạn 1997-2008. Trong đó, doanh thu từ các hoạt động dịch vụ luôn

chiếm tỷ trọng cao hơn so doanh thu từ các hoạt động lữ hành. Trong hơn 10 năm, tỷ
trọng của doanh thu từ dịch vụ luôn giữ mức trên 60% trong tổng doanh của ngành du
lịch với tốc độ tăng trưởng bình quân năm là 15%.

×