Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

SỰ GIAO LƯU VĂN HÓA GIỮA CHĂMPA VỚI ẤN ĐỘ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (598.19 KB, 23 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
☺☺☺

KHOA LỊCH SỬ

BÀI TIỂU LUẬN
MÔN: LỊCH SỬ VĂN MINH CHĂMPA
ĐỀ TÀI: SỰ GIAO LƯU VĂN HÓA GIỮA
CHĂMPA VỚI ẤN ĐỘ

GVHD: TS THÀNH PHẦN
SVTH: TRẦN THỊ THẢO NGUYÊN
MSSV: 0664069

Tp Hồ Chí Minh tháng 6 năm 2009
0


MỤC LỤC
I.

ĐIỀU KIỆN ĐỂ NỀN VĂN HÓA ẤN DU NHẬP VÀO CHĂMPA ......2

II.

SỰ GIAO LƯU VĂN HÓA CỦA CHĂMPA VỚI ẤN ĐỘ.....................3

1. Tôn giáo..........................................................................................................3
a. Ấn độ giáo................................................................................3
b. Phật giáo..................................................................................6


2. Chữ viết. .........................................................................................................9
3. Văn học nghệ thuật........................................................................................10
a. Văn học. ................................................................................10
b. Nghệ thuật.............................................................................12
 Điêu khắc........................................................................12
 Âm
nhạc .........................................................................14
 Múa.................................................................................16
III. KẾT LUẬN..................................................................................................19
MỘT

SỐ

HÌNH

ẢNH..............................................................................................20

1


I. ĐIỀU KIỆN ĐỂ VĂN HÓA ẤN ĐỘ DU NHẬP VÀO CHĂMPA
Vương quốc Chămpa xưa là một quốc gia cổ thuộc khu vực Đông Nam Á. Khu
vực Đông Nam Á nhất là bán đảo Đông Dương được xem như vùng “đệm” giữa
hai nền văn minh lớn của nhân loại đó là Trung Quốc và Ấn Độ. Do đó nó là con
đường để đi đến nhiều nơi, và là nơi gặp nhau của nhiều nền văn minh lớn như
Trung Hoa, Ấn Độ, Java, ... Vì vậy mà nơi đây được coi là điểm hội tụ của nhiều
nền văn minh lớn trong đó có Ấn Độ.
Do nằm ở vị trí địa lý thuận lợi bên bờ biển Đơng, do có nguồn tài nguyên thiên
nhiên phong phú mà Ấn Độ thời cổ cần, nên ngay những thế kỷ đầu công nguyên,
những thương nhân Ấn, trên đường tìm hương liệu và vàng, đã đặt lên vùng đất

ven biển miền Trung Việt Nam mà sau này nơi đó trở thành vương quốc cổ
Chămpa. Dù cho đến nay, chưa tìm thấy dấu tích nào chứng tỏ về những trung tâm
mua bán của người Ấn ở Chămpa, nhưng có thể là những cảng lớn của Chămpa
như Chiêm cảng (gần cửa Hội An), Châu Sa (Quảng Ngãi), Thị Nại (Quy Nhơn),
Nha Trang (tên xưa là Kauthara), Panduranga (Phan Rang)... là những địa điểm tốt
để những thương nhân người Ấn ở những trung tâm mua bán sầm uất.
Ngoài ra, để giao lưu bn bán mà có thể các nhà buôn Ấn đã phải lấy người
con gái bản xứ để có thể giao tiếp vì khơng có người phiên dịch và cũng như
truyền bá một số nghi thức của họ để tiện việc phát triển buôn bán sau này.
Theo các nhà nghiên cứu thì, ảnh hưởng của nền văn minh Ấn Độ đến ĐNA nói
chung và Chăm pa nói riêng thì đó chủ yếu là sự bành trướng của một nền văn hóa
có tổ chức, dựa trên quan điểm của Ấn Độ về vương quyền mà tiêu biểu là Ấn Độ

2


giáo hoặc Phật Giáo, văn học nghệ thuật là lấy tiếng Phạn làm phương tiện biểu
đạt. Người Ấn không hề tiến hành ở Chămpa một cuộc xâm lượt vũ trang nao và
khơng hề thơn tính tên tuổi của một quốc gia hoặc một đô thị nào. Các vương quốc
“Ấn Độ hóa” chỉ có những quan hệ về mặt truyền thống với các triều vua Ấn Độ
mà không lệ thuộc về chính trị. Điều này khác hẳn sự bành trướng bằng bạo lực,
bằng chinh phục của người Trung Hoa. Vì thế những nước mà Ấn Độ chinh phục
bằng cách hịa bình và bằng những ảnh hưởng văn hóa vẫn duy trì được bản chất
của mình và phát huy nó lên. Và điển hình là Chămpa.
II. SỰ GIAO LƯU VĂN HĨA CỦA CHĂMPA VỚI ẤN ĐỘ.
1. Tôn giáo
Cho đến ngày nay, chúng ta chưa tìm thấy một tư liệu nào về việc truyền bá
tôn giáo của Ấn Độ vào Chămpa. Tuy nhiên ở ngay những thế kỷ đầu công
nguyên, các tôn giáo của Ấn Độ đã có mặt thuộc vùng đất của Chămpa sau này.
a. Ấn Độ giáo.

Ấn Độ giáo được du nhập vào Chămpa cùng với Phật giáo vào đầu công
nguyên, được nhân dân và triều đình tiếp nhận. Dựa vào các bia ký, các cơng trình
kiến trúc, các tác phẩm điêu khắc Chăm chúng ta có thể khẳng định cư dân Chăm
theo Ấn Độ giáo
Các bia ký trước thế kỷ VII cho chúng ta biết nhiều về Balamôn giáo . Bốn
bia ký bằng chử Phạn Pallaya tìm thấy ở Quảng Nam và Phú Yên của vua
Bhadravarman có ghi chép về vị thần Bhadresvaramin. Ba trong bốn bia ký đó có
ghi nhận lãnh địa dành cho vị thần này. Còn bia ký ở Mỹ Sơn thì nói đến sự thành
kính dành cho Mahesvara, Uma, Brahma, Visnu…

3


Từ đầu thế kỷ VII, chúng ta biết về tôn giáo Chămpa qua những bia ký của
vua Sambhuvarman. Theo các nhà chuyên gia, dưới thời Vua này trị vì, một thánh
đường (hoặc lãnh địa) thần của các thần (deva devàlaya) nghĩa là của Bhadresvara
đã bị đốt phá và được vua phục hồi lại. Từ đây, vị thần được đổi tên lại là
Sambhubhadresvara, cịn thánh đường thì trở thành thánh đường quốc gia cảu nước
Chămpa. Bia ký nói rằnh Sambhubhadresvara có thể “đem lại hạnh phúc cho đất
nước Chămpa” (ghi chép xưa nhất về cái tên Chămpa trong bia ký), một bia ký
khác nói tới việc xây dựng một bàn thờ, một bệ (vedi) bằng gạch bọc bạc và ở trên
có đặt một bức tượng của Laksmi. Như vậy, cho đến thế kỷ VII, Ấn Độ giáo mà
chủ yếu là Siva giáo đã trở thnàh tơn giáo chính thống của các vua chúa Chămpa,
đã ra đời cả một thánh địa tôn giáo – khu Mỹ Sơn, đã mọc lên nhiều đền thờ các
thần Ấn giáo và nhiều tượng thần dưới những hình dáng khác nhau được làm ra để
thờ phụng.
Sau thời vua Sambhuvaman (595-629), đất nước Chămpa trãi qua một thời
kỳ bất ổn, đến thời vua Vikrantavarman I (653-685) thì Chămpa mới ổn định và
phát triển, sự thịnh đạt của Chămpa kéo dài qua thời kỳ của vua Vikrantavarman II
(686-731). Qua những bia ký còn lại của hai vị vua này, chúng ta biết thêm nhiều

về những ảnh hưởng của Ấn Độ đối với tơn giáo Chămpa. Các bia ký cịn chứng
minh tầm quan trọng của khu vực Mỹ Sơn và tiếp tục nhấn mạnh tầm quan trọng
của Siva: “đáng kính trọng hơn Brahma, Visnu, Indra, Surya, Asura, hơn những vị
Bàlamôn và hơn những Rsi, các vua chúa”. Và các bia ký thời vua Vikrantavaman
I và II, chúng ta còn biết được, Visnu giáo tồn tại song song với Siva giáo. Có 2 bia
ký nói tới Visnu Purusottama (đấng tối cao), “vị thầy của các thế giới được dựng
lên theo lệnh nhà vua”. Bia ký tìm thấy ở Trà Kiệu thì thuật lại việc xây dựng lại
một thánh đường của đại Rsi Valmiki (tác giả của bộ sử thi Ramayana).

4


Qua những bia ký thể hiện những hình ảnh của Ấn Độ giáo trong tôn giáo
của người Chămpa đã phần nào khẳng định được sự tồn tại khá quan trọng trong sự
tín ngưỡng tơn giáo của người Chăm, khơng chỉ vậy mà người Chăm còn cải biến
cho phù hợp với nền văn hóa bản địa. trong q trình tồn ại, tơn giáo này đã phát
triển riêng trong hồn cảnh riêng của người Chăm và tương ứng với sự phát triển
của lịch sử-văn hóa-xã hội Chămpa.
Tiếp theo là những bia ký của Satyvarman và Vikrantavarman III ở Pơ Nagar
(Nha Trang) có nói tới một linga được trang trí của người thầy của nữ thần
Bhagavati. Ba bia ký ( hai của Indravaman I và một của Vikrantavarman III ) tìm
thấy ở Phan Rang nói nhiều tới Visnu giáo. Nhà vua cịn so sánh mình với
Vikrama.
Ngồi bia ký của vua, bia ký của các triều thần cũng cung cấp cho chúng ta
nhiều tài liệu q về tơn giáo Chămpa thời Hồn Vương. Quan trọng nhất vẫn là
tấm bia ký của Senapati Par – Tổng đốc tỉnh Pandurangapura – được tìm thấy ở Pơ
Nagar. Bia ca ngợi vị tổng đốc “như một Narayana (Visnu) hiện thân” và cánh tay
của ông được so với “con rắn nâng cái dĩa trái đất chìm đắm trong đại dương của
thời đại Kali”.
Tấm bia ở Bò Mưng xuất xứ từ một lâu đài đã bị phá hủy cách Đà Nẵng 15

km của vị thượng thư của vua Indravarnam II tên là Manicaitya. VĂn bản tấm bia
mang màu sắc Siva giáo. Nội dung tấm bia nói rằng vị thượng thư đã dựng một
Mahalingadeva (thần đại linga) thờ cha ông và một tượng Mahàdevi (đại nữ thần)
cho Mẹ ông. Rõ ràng là bia ký đã nói tới những cơ sở tơn giáo dành cho tổ tiên và
ngẫu tượng để thờ phụng.
Những vị vua tiếp theo sau Jaya Paramesvaravarman là Bhadravarman III và
Ruđravarman III cũng có những tấm bia ký như bia ký ở Pô Nagar cuả

5


Rudravarman III có niên đại 1064 kể về những tặng phẩm của vua dâng cho vị thần
Yan Pu Nagara. Ngoài ra, vua còn cho xây cho thần một bên tượng, một cổng
(torana), và đã cầu nguyện Bhagavati – nữ thần của đơ thị , “người vợ thần thánh
có trăng lưỡi liềm tỏa sáng” (vợ Siva).
Từ năm 1074, khi Harivarman IV lên ngôi, ông đã cho lập nhiều đền thờ ở
Mỹ Sơn. Bia Mỹ Sơn D3 ca ngợi và so sánh vua với các vị thần Ấn Độ: Krisna,
Kama, Indra, Brahama và Siva – gần hết các vị thần chính của Ấn Độ giáo (cả Siva
và Visnu).
Không chỉ vua mà ngay cả Pô Nagar – nữ thần bản đại cao nhất của
Chămpa cũng được thờ phụng như một người vợ của Siva – nữ thần Bhagavati.
Những bia ký, những đền đài tượng thờ cũng đã phần nào thể hiện rõ được
màu sắc tơn giáo của Chămpa là Ấn độ giáo, nó được du nhập vào Chămpa và trở
thành tơn giáo chính của quốc gia cổ đại này. Tuy chưa tìm thấy được con đường
du nhập những phải khẳng định đó là quốc giáo của Chămpa trong cả một thời kỳ
dài, điều đó cho thấy được văn hóa Chămpa có sự giao lưu với văn hóa Ấn Độ.
b. Phật giáo.
Cũng như Ấn Độ giáo thì Phật giáo cũng được du nhập vào Chămpa từ Ấn
Độ chứ không phải từ Trung Quốc.
Bằng chứng đầu tiên để cho thấy Phật giáo đã có mặt ở Chămpa rất sớm, đầu

tiên đó là tấm bia Võ Cạnh (gần Nha Trang) có niên đại thế kỷ III – IV. Chỉ qua vài
dòng chử Phạn viết theo kiểu chữ Amaravati như “Lokasyàya gatàgati” (sự chết
hoặc sự phục sinh của thế giới này) hay “Prajànàn kaura” (từ bi trắc ẩn đối với
chúng sanh), các nhà khoa học cho rằng , nội dung của tấm bia toát lên tư tưởng

6


của Phật giáo. Với tấm bai Võ Cạnh, chúng ta có một bằng chứng vật chất đầu tiên
và cổ nhất ở ĐNA nói về Phật giáo ở khu vực này.
Bằng chứng thứ hai về Phật giáo thời kỳ đầu ở Chămpa là pho tượng Phật
bằng đồng có niên đại từ thế kỷ IV đến đầu thế kỷ VI tìm thấy ở Đồng Dương. VÌ
pho tượng gần như giống hồn tồn với phong cách tượng Phật Amaravati của Ấn
Độ, nên các nhà nghiên cứu còn nghĩ rằng tượng PHật Đồng Dương có thể đem từ
Ấn Độ tới.
Ngồi tượng Phật Đồng Dương, cịn tìm được thân tượng Phật ở quảng Khê
(Quảng Bình) và hình Phật trên phù điêu ở Phước Tịnh (phú Yên). Thân tượng ở
Quảng Khê gần với kiểu tượng Ấn Độ thế kỷ IV – VI ở Bagh II và Ajanta X, còn
phù điêu Phước Tịnh cũng thuộc thế kỷ IV – VI và gần với nghệ thuật tượng Phật
Môn – Dvaravati.
Các sử liệu Trung Quốc còn cho ta biết đôi điều về Phật Giáo ở Chămpa
buổi đầu. nhà sư Nghĩa Tịnh đã coi Chămpa thế kỷ VII là một quốc gia kính mến
học thuyết Phật thích ca. vào đời nhà Tùy năm Đại Nghiệp thứ nhất 605, Lưu
Phương đem quân từ Giao Châu đi đánh Lâm Ấp và chiếm được quốc đô. Lưu
Phương vào thành bắt hết người Chăm, thu được 18 thần chủ bằng vàng thờ trong
miếu, hơn 1350 bộ kinh Phật và nhiều sách viết bằng chữ Chiêm bà. Cho đến
vương triều đầu tiên của vương quốc Chămpa – vương triều Gangaraji (cuối thế kỷ
II – đầu thế kỷ X), Phật Giáo đã phổ biến rộng rãi ở khu vực phía Bắc (vùng
Amaravati xưa) của Chămpa.
Thời Indrapura có để lại một số bia thuần mang nội dung Phật Giáo đại thừa.

bia thứ nhất trong số này là bia An Thái (Quảng Nam) có niêm đại năm 902 của
một vị triều thần tên là Sthavira Nagapuspa. Mục đích dựng bia là việc cúng hiến
một Lokanatha cho tu viện Pramuditalokesvara. Đoạn trình bày về tơn giáo ca ngợi

7


Avalokitesvara xuất hiện như một đấng đại từ bi trắc ẩn đã cho phép tất cả những
người phạm tội thoát khỏi địa ngục để Vajrapani giải phóng cho họ và đưa họ vào
con đường của Phật.
Tấm bia ký thứ hai hoàn toàn mang tư tưởng Phật giáo đại thừa là bia ký
Kon klor, có niên đại 914, của một triều thần tên là Mahindravaman, bia ký nói về
một cơ sở Phật giáo của ơng có tên là Mahindra – Lokesvara.
Từ sau thế kỷ X, Phật giáo đã giảm dần ảnh hưởng trước Ấn giáo, nhất là ở
Phía nam, tập trung nhiều hơn ở phía Bắc vương quốc Chămpa.
Dựa vào hình thức thể hiện thì Chămpa đã tiếp nhận gần như trọn vẹn cả hai
tôn giáo lớn của Ấn Độ là Ấn Độ giáo và Phật giáo. Hầu như các vị thần chính của
Ấn giáo là Siva, Visnu, Brahama đều được thờ phụg ở Chămpa. Theo Paul Mus
thống kê trong tổng số 128 bia ký quan trọng nhất tìm thấy ở CHămpa thì 21 bia
khơng đề cặp đến một vị thần nào, 92 bia nói về Siva và các thần Siva giáo, 3 bia
nói về Visnu, 5 bia Brahma, và 7 bia nói về Phật.
Nói chung, từ những khái quát về lịch sử du nhập cũng như sự tiếp nhận
những tôn giáo Ấn Độ ở Chămpa trong suốt quá trình lịch sử thì có thể nói rằng:
Suốt hơn 12 thế kỷ tồn tại, Chămpa liên tục lấy những tôn giáo Ấn Độ làm tơn giáo
của mình.
Ở Chămpa khơng có kỳ thị tơn giáo, mà nó bao trùm lịch sử lên lịch sử của
quốc gia cổ này. Người Chămpa tiếp nhận cả đức hiếu sinh, từ bi của Phật giáo,
tình thương của Visnu và cả tính hung bạo và quyền lực của Siva giáo.
Tuy nhiên, người dân Chămpa không bao giờ từ bỏ tất cả những gì mình có
để theo các tơn giáo Ấn Độ một cách thụ động. ngay từ những ngày đầu lập quốc,

người dân Chămpa đã dung những hình thức của tơn giáo Ấn Độ phủ lên những tín
8


ngưỡng tơn giáo bản địa của mình để tạo ra một thứ tơn giáo bản địa của mình để
tạo ra một thứ tôn giáo khá riêng cho Chămpa, mà một trong những biểu hiện rõ
nét là việc thờ phụng tổ tiên và các vị thần bản địa dưới dạng các vị thần của Ấn
Độ.
2. Chữ viết.
Qua những gì hiện cịn và được biết, chúng ta đã thấy chữ Phạn Sanskrit đã
được người Champa tiếp thu từ những thế kỉ đầu công nguyên. Bia Võ Cạnh với
cách viết rất gần với kiểu viết của các bia ký Amaravati ở Nam Ấn Độ đã được các
nhà nghiên cứu định niên đại ở thế kỉ III-IV là bằng chứng đầu tiên về sự du nhập
chữ Phạn vào Champa. Từ thời điểm đó cho tới khi vương quốc Champa chấm dứt
sự tồn tại của mình, chữ Phạn ln là chữ viết được dùng trong triều đại Champa.
Do chịu ảnh hưởng khá sâu sắc của văn hóa Ấn Độ cho nên có một điều rất đặc
biệt là sự biến dạng tự chữ Phạn ở Chămpa gần như đồng thời với sự biến đổi ở Ấn
Độ.
Nếu nhìn vào sự tiến triển của văn tự Sanskrit ở CHămpa, ta thấy từ trước
thế kỷ IV – bia Võ Cạnh là tài liệu duy nhất – chữ viết có dạng cong của Nam Ấn;
rồi sau đó, trong những thế kỷ VI -> VIII chử Phạn ở Chămpa lại có dạng tự
vuông của Bắc Ấn; rồi từ thế kỷ VIII trở đi, dạng tự chữ Phạn của Chămpa chuyển
sang kiểu tròn của Nam Ấn. Ngay từ sự diễn biến của chữ Phạn ở Chămpa cũng
phần nào chứng tỏ giữa Ấn Độ và Chămpa thời cổ ln có sự giao lưu thường
xuyên về văn hóa.
Vào thế kỷ IV, V, vua Bhadravarman đã cho khắc tấm bia (bia Đông Yên
Châu) bằng chữ Chămpa có nói về vị thánh Naga của nhà vua, xét về dạng từ, chữ
Chămpa cổ được viết theo dạng cong như của Nam Ấn. và ở bia này thì cũng đã
xuất hiện xu hướng cải biến văn tự kiểu chữ thảo (chữ cong – akhar tharah) của Ấn


9


Độ bằng cách bỏ các ký hiệu phụ ghi âm vốn khơng có trong tiếng Chăm. Sau đó
một số ký hiệu được bổ sung, một số ký hiệu viết trên hoặc dước dòng được đưa về
cùng hàng với ký hiệu cơ bản. Theo các nhà nghiên cứu, tiếng Chăm có 65 ký hiệu,
trong đó có 41 chữ cái (6 nguyên âm và 35 phụ âm) và 24 chân chữ bắt nguồn từ
hệ thống chử thảo (akhar thrah) của Ấn Độ. Theo nhà nghiên cứu ngôn ngữ và chử
viết Chăm nổi tiếng A. Cabaton cho rằng, trong suốt quá trình lịch sử, người CHăm
đã dung một số kiểu chữ Ấn Độ như akhar rik (chữ thánh), akhar tapuk ( chữ sách),
akhar ator (chữ treo), và phổ biến hơn cả là chữ thảo (akhar thrah). Chữ thảo là loại
chữ mà người Chăm hiện nay còn sử dụng.
Do chịu sự ảnh hưởng khá sâu sắc của văn hóa Ấn Độ, cho nên, cũng như ở
các nước ĐNA khác, vua chúa Chămpa thường dung chữ Phạn để bày tỏ ý tưởng
của mình đối với các thần linh. Các bia ký Chămpa bằng chữ Phạn được viết chủ
yếu theo những thể thơ phổ biến của Ấn Độ như: Arya, Slơca, Upajati, Malini,
Sikharini, SardulaviKridita, …
Nói chung thì cũng như về đời sống chính trị, tơn giáo, hầu như tất cả những
trước tác về pháp luật, chính trị, tơn giáo của Ấn Độ đều đã có mặt ở Chămpa,
được các vua chúa Chămpa rất ưa thích. Và chìa khóa để đến với điều đó là chữu
viết, vì vậy cho ta thấy được cũng như tơn giáo thì chữ viết cũng ảnh hưởng từ
Trung Quốc.
3. Văn học – Nghệ thuật
a. Văn học
Do nhiều nguyên nhân lịch sử, mà chúng ta hiện nay khơng có một văn bản
năn học cổ nào của Champa. Nhưng bia kí và những tác phẩm nghệ thuật diêu khắc
lại cho biết hầu như tất cả tác phẩm văn học cổ đại nổi tiếng của Ấn Độ đều đã có
mặt và được biết đến ở Champa. Bia kí thế kỉ VII-VIII của hai vị vua
10



Vikrantavarman I và II có nói tới việc dựng đền thờ cho “đại Rsi Valmiki”, tác giả
của bộ sử thi cổ đại nổi tiếng Ramayana của Ấn Độ. Việc thờ Valmiki chứng tỏ
ngay từ thế kỉ VII, tác Phẩm Ramayana của Ấn Độ đã được biết đến ở Champa.
Bằng chứng là, trong Lĩnh Nam chích quái, tập truyện cổ dân gian thế kỉ XV của
người Việt do Vũ Quỳnh – Kiều Phú biên soạn có truyện Da Thoa hay cịn có tên
khác là Chiêm Thành truyện. Tuy rất ngắn nhưng lại tóm tắt được hầu như tồn bộ
nội dung sử thi Ramayana.
Có lẽ hiện vật vật chất duy nhất cịn lại chứng tỏ sự hiện diện của sử thi
Ramayana là bốn bức phù điêu thế kỉ X (Bảo tàng Chăm Đà Nẵng) minh họa một
vài cảnh được rút ra từ sử thi, tuy không đầy đủ nhưng dễ nhận ra các nhân chính
của sử thi là Rama, Sita, Hanuman, Lashman,… trên bốn bức phù điêu của
Champa.
Các bia kí ở Đồng Dương và Pơ Naga nói tới các vị tổ huyền thoại của các
vị vua Champa là những người trong dòng họ Pandava đã phần nào nói lên sự phổ
biến của bộ sử thi nổi tiếng thứ hai của Ấn Độ - sử thi Mahabharata - ở Champa.
Theo những nghiên cứu gần đây, bức phù diêu mang kí hiệu 47-7 ở bảo tàng Chăm
- Đà Nẵng có xuất xứ từ thành Bình Định thể hiện cảnh Ácgiunna cùng hồng tử
Utara ra trận, một trong những tình tiết quan trọng của sử thi Mahabharata. Những
hình khắc trên bốn mặt của bệ tượng Trà Kiệu (thế kỷ X) nổi tiếng thể hiện cảnh
tượng tiêu biểu rút ra từ bộ Bhagavata purana. Như vậy là không chỉ là các bộ sử
thi mà các truyện cổ tích (purana) của Ấn Độ đã có mặt ở CHămpa.
Ngồi những hình phù điêu thể hiện các nội dung một thần thoại hay truyền
thuyết Ấn Độ nào đó, hàng chục hình ảnh tượng trưng trên phù điêu đá của
Chămpa cũng là hình ảnh những vị thần của hệ thống thần thoại Ấn Độ, trên các
điêu khắc Chămpa hình ảnh của hầu như tất cả các vị thần lớn nhỏ của Ấn Độ:

11



Brahama cùng vợ là Krisna; Siva cùng các vợ là Uma, Bhagavati, Durga và các
con là Skanda và Ganesa, các tiên nữ Apsara và các nhạc công thiên giới
Gandharva.
Như vậy, qua bia kí và những tác phẩm nghệ thuật điêu khắc, chúng ta thấy
ở Champa đã có mặt hầu như toàn bộ những tác phẩm văn học nổi tiếng cũng như
các hệ thống thần thoại và truyền thuyết thuộc những tôn giáo khác nhau của Ấn
Độ.
b. Nghệ thuật
 Điêu khắc.
Ngay từ những thế kỷ đầu công nguyên , nghệ thuật điêu khắc tôn giáo của Ấn
Độ đã du nhập vào Chămpa và được người Chăm pa tiếp nhận. Những tác phẩm
của phong cách Mỹ Sơn E1 phản ánh ảnh hưởng nghệ thuật Dvaravati và miền
Nam Ấn Độ. Tiêu biểu cho phong cách Mỹ Sơn E 1 là ở bệ thờ bên trong tháp làm
bằng đá cát kết có hình dạng linga tượng trưng cho ngọn núi là nhà của thần Si-va,
xung quanh có chạm các tu sĩ đang tu luyện trong rừng núi hay hang động, với các
hình dạng như đang chơi các loại nhạc cụ khác nhau, đang giáo hóa cho các lồi
vật và cả đang thư giãn. Một cơng trình tiêu biểu nữa là phù điêu ở trên lối vào
chính chạm khắc buổi bình minh thời đại theo thần thoại Ấn độ. Thần Visnu đang
nằm ngủ ở dưới đáy biển, trên giường là rắn thần Sesha. Một bông hoa sen từ từ
mọc lên từ rốn của thần. Thần Brahma từ từ đứng lên trong bơng hoa sen đó để tạo
ra cả vũ trụ này.
Cũng như ở Ấn Độ, nghệ thuật điêu khắc Chămpa chủ yếu là nghệ thuật tôn
giáo và phục vụ cho việc thờ cúng thần linh. Thế nhưng ở Chămpa tôn giáo và
vương quyền gần như hịa quyện vào nhau, tơn thờ thần linh đồng nghĩa với tơn
thờ vua. Vì vậy nghệ thuật điêu khắc cổ Chămpa có thêm một chức năng mới:
12


phụng sự vương quyền, và do đó rất được vua chúa và tầng lớp trên coi trọng. Các
vua Chămpa thường xuyên dâng cúng tượng thờ cho các điện tháp và ln quan

tâm đến việc bảo vệ giữ gìn các hình tượng thờ cúng. Đó chính là ngun nhân
quan trọng khiến cho nghệ thuật điêu khắc mang tính tơn giáo của Ấn Độ có điều
kiện nhanh chóng phát triển ở Chămpa. Vì mang thêm chức năng phục vụ cho
vương quyền, nên mặc dù vẫn tuân theo những thánh thức của Ấn Độ, điêu khăc
Chămpa đã chuyển sang một hướng mới: tập trung thể hiện biểu tượng và các hìn
ảnh của các vị thần, vì thần chính là vua là các tổ tiên của hoàng gia.
Cũng như kiến trúc, trước thế kỷ VII điêu khắc Chăm pa rất gần gũi với phong
cách nghệ thuật Ấn Độ. Các tháp thuộc giai đoạn này đều đơn giản, làm bằng gạch
nung màu đỏ, có chân đế là một khối hình chữ nhật, các mặt tháp đều có bố trí mi
cửa ẩn, trừ hướng có cửa chính, trên đó có nhiều hình điều khắc của các vị thần.
Mi cửa được đỡ bằng bộ khung các trụ bổ tường cao và hẹp cùng các đầu cột xòe
ngang. Cũng chính các trụ bổ tường này đỡ vịm cửa. Trên vịm và trên các trụ bổ
tường có chạm khắc các phù điêu theo thần thoại Ấn độ, với các chạm khắc tập
trung chính ở đầu cột. Mái tháp thường gồm ba tầng, mỗi tầng đều có bao lơn nhỏ
ở phía trên mi cửa. Bên trong tháp đều có bệ thờ với hình ảnh triều đình theo kiểu
Ấn độ.
Từ thế kỷ VII trở về sau, các nhà điêu khắc Chăm pa đã tạo cho mình những
phong cách riêng như Đồng Dương thì mạnh mẽ khỏe khoắn, trang nhã của Trà
Kiệu, thô phác và cầu kỳ của Tháp Mẫm, nhưng qua đó vẫn có những hình tượng
và đề tà Ấn Độ. Sự có mặt của tượng Phật ở Chăm pa trong giai đoạn Sinhapura,
trong nhóm “tượng Phật giáo” có những phù điêu tượng Phật ngồi trên gắn Nagar
giữa hai stupa ở Phước Tịnh, Phú Yên, được Pierre Dupont cho là có liên quan đến
nghệ thuật Dvaravati. Rồi như chiếc lá nhĩ ở Mỹ Sơn F1 thể hiện cảnh quỷ Ravana

13


lay động núi Kailasa là một trong những những chủ đề điêu khắc rất phổ biến của
Ấn Độ.
Trước khi có sự ảnh hưởng của Ấn Độ, ở Chăm pa chưa có truyền thống xây

dựng đền tháp mang tính biểu tượng sâu sắc và bằng vật liệu bền, chưa quen việc
thể hiện các hình tượng lên trên mặt đá như ở Ấn Độ, nên người Chăm pa đã tiếp
nhận một cách triệt để nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc của người Ấn, hầu hết các
mơ hình đền tháp cũng như các hình tượng thần linh... của kiến trúc và điêu khắc
Chăm pa đều có nguồn gốc từ Ấn Độ. Cũng như ở Ấn Độ, những đền tháp lớn của
Chăm pa là hìn nảh cho biểu tượng thần núi Mêru. Tuy nhiên dần về sau này, do
bản đại hóa mà trong điêu khắc của mình các nhà điêu khắc Chăm pa đã có những
lối sáng tạo riêng, tuy nhiên qua đó vẫn là những hình ảnh những câu chuyện của
Ấn Độ vẫn được sử dụng trong điêu khắc của người Chăm.
 Âm nhạc.
Cho đến nay khơng có 1 văn bản nào nói về âm nhạc của vương quốc
Chămpa, vì vậy mà nguồn tài liệu duy nhất giúp chúng ta hiểu về nền âm nhạc là
chỉ qua những hình điêu khắc đá. Đối với người Chăm, âm nhạc có vai trị rất quan
trọng, nhất là đối với các lễ nghi và lễ hội mang tính tơn giáo.
Ấn Độ có tác động mạnh mẽ đối với âm nhạc cổ Champa. Tuy không nhiều nhưng
những truyền thống âm nhạc xưa của Án Độ vẫn cịn phảng phất ít nhiều trong âm
nhạc hiện đại của người Chăm.
Trong dàn nhạc truyền thống của người Chăm gần giống như ở Ấn Độ, các
loại trống bao giờ cũng giữ một vai trò quan trọng, hầu như xuất hiện trong mọi
dàn nhạc lớn nhỏ. Nếu phân tích kỹ hơn ta sẽ thấy trống kynăng của người Chăm
có nhiều nét tương đồng với trống tabla và trống mriđăng của Ấn Độ. Trống
mridang là kiểu trống cổ nhất ở Ấn Độ ( phổ biến ở miền Nam Ấn Độ), hiện nay
14


trống mridang được làm bằng gổ, hai mặt trống bọc bằng da dê và được giữ bằng
dây da nối với nhau qua tang trống, giữ một mặt trống được đắp nổi một cái u bằng
cơm dính, cịn mặt kia để trơn. Ngồi mridang, trong dàn nhạc cịn có các loại
trống khác như Maddalam, Chela.
Trong khi đó ở Bắc Ấn Độ, lại phổ biến hai loại trống Phavat và Tabla,

phavat về cơ bản giống trống mridang, cịn tabla lại có cấu tạo hệt như tách đôi hai
mặt của mridang. Khi đánh nhạc công dùng tay trái vỗ lên một mặt, tay phải vỗ lên
mặt kia.
Như trống mriđăng, trống kynăng có hai mặt định âm: mặt dương tạo âm
vang khỏe, mặt âm tạo âm đục, trầm: như tabla, trống kynăng được dùng theo từng
cặp. Cịn hai thanh chính là “pìng” (trầm) và “pik” (bổng) của trống baranưng lại
như mô phỏng chức năng của hai mặt trống mriđăng.
Cả 2 loại trống mridang và tabla đều đã có mặt trên những hình khắc của
Chămpa (trống mridang ở các lá nhĩ Mỹ Sơn C1, A`1 và mi nhà Chánh Lộ; trống
tabla ở phù điêu Phong Lệ).
Hiện vật tìm thấy là nhạc cơng ở bệ vũ nữ Trà Kiệu đang chơi một nhạc cụ 7
dây (đàn thất huyền) mà tang là nữa quả bầu. Có thể nói, cũng như ở bệ tượng , vũ
nữ và nhạc công đang múa và đang chơi một nhạc cụ Ấn Độ-đàn vina. Đàn vina, ở
Ấn Độ từ xưa tới nay được coi là nhạc cụ truyền thống tiêu biểu nhất, và ở Chămpa
, ta thấy xuất hiện 2 kiểu vina: kiểu cổ và kiểu mới, kiểu vina thụ cầm, như những
tài liệu điêu khắc thể hiện, có mặt ở Chămpa ngay ở giai đoạn trước thế kỷ VII
(đài thờ Mỹ Sơn E1) và còn tồn tạo cho đến thế kỷ X (lá nhĩ thể hiện Siva đang
múa ở Phong Lệ). Ở thế kỷ X, (nhạc công của phong cách Trà Kiệu), kiểu đàn vina
mà bầu cộng hưởng tròn làm bằng vỏ quả bầu và phím dài đã phổ biến trong các

15


dàn nhạc Chămpa. Như vậy chỉ qua cây đàn vina, ta đã thấy hai đợt ảnh hưởng của
Ấn Độ tới Chămpa, là trước thế kỷ VII và thế kỷ VIII.
Như đã thấy thì âm nhạc của Ấn Độ ảnh hưởng rất nhiều đến âm nhạc của
Chămpa, hầu như toàn bộ những nhạc cụ truyền thống của Ấn Độ đều có ở
Chămpa và nó được thể hiện qua các điêu khắc.
 Múa
Có thể nói vì nghệ thuật múa Ấn Độ mang tính chất nhà nghề cao, nên hiện

nay trong nghệ thuật múa hiện đại người của người Chăm, chúng ta ít thấy những
ảnh xạ của truyền thống Ấn Độ. Và có một điều là múa Chămpa hiện nay cịn
khơng ít những yếu tố của nguồn gốc từ Ấn Độ: vai trò của các vũ nữ tại các lễ hội
ở các đền tháp (dấu ấn của các vũ nữ chuyên phục vụ các thần của Ấn Độ giáo),
tính độc diễn của từng vũ nữ, tính chun nghiệp và có bài bản, ngơn ngữ hình
tượng của các động tác tay, chân và thân mình; vai trị của tiếng trống với các điệu
múa, có thể là những gì cịn lại của truyền thống Ấn Độ xưa trong nghệ thuật múa
hiện đại của người Chăm. Ví dụ ở Ấn Độ có những điệu múa dân chài kolyahca và
điệu múa karakun (múa đội hũ gạo lên đầu) kiểu như múa vãi chài và múa đóa pu
của người Chăm hiện đại.
Mặc dù chỉ được biết qua những hình ảnh khắc chạm trên đá, chúng ta đã
thấy phần nào vai trò to lớn như thế nào của truyền thống Ấn Độ đối với nghệ thuật
âm nhạc và múa của Champa. Ở đài thờ Mỹ Sơn E1 có hình hai nhạc công: một
thổi sáo và một đánh thụ cầm, và hình ba vũ nữ đang múa, trên mặt đứng của bậc
tam cấp, ba vũ nữ trình diễn điệu múa nào đó với chiếc khăn trong tay dang rộng
giơ lên cao với đơi chân hoặc chỗi rộng ra ở vũ nữ trung tâm hoặc một chân choãi
một chân gập ở hai vũ nữ hai bên, các vũ nữ mặc y phục, động tác và tư thế vặn
mình thành tam khúc của các vũ nữ là rất Ấn Độ.
16


Và ở Mỹ Sơn C1 và A`1 ta thấy thần Siva đang múa vũ điệu Tandava thần
thánh, cùng với sự có mặt của rắn Naga trên tay thần, của Parvati (vợ thần),
Skanda, ganesa (con thần)… cho biết vũ điệu Tandava mà vị vua vũ đạo đang múa
là điệu múa tượng trưng cho sự sáng tạo. Theo thần thoại Ấn Độ, trong vũ điệu
tandava này, Siva là hiện thân cho cội nguồn mn lồi, điệu múa của thần là khởi
dầu cho sự chuyển động, lời của thần hát là tất cả của mọi âm thanh của thế giới.
Bằng vũ điệu của mình, Siva đã sáng tạo ra thế giới, tiêu diệt điều ác và sự mê
muội, giải thoát linh hồn của những người chết khỏi sự lừa dối của những cảm xúc
và ảo ảnh trần tục. Ngoài ra , 2 lá nhĩ Mỹ Sơn C1 và A`1 rất gần với phong cách

cũng như hình tượng Siva múa ở Badami và Elora của Ấn Độ, người đệm nhạc cho
Siva múa ở hai bức phù điêu này là thiên nhân Bhangi gày gò đang đánh trống.
Và ở thế kỷ X có một số bức phù điêu vào loại đẹp nhất của điêu khắc cổ
Chămpa lại là những hình thể hiện các nhạc cơng và vũ nữ, đó là bệ tượng Trà
Kiệu có 4 mặt chạm khắc minh họa tác phẩm Bhayavatapurana của Ấn Độ. Theo
nhà nghiên cứu J. Boisselier, hầu như tất cả những Apsara Trà Kiệu đều mang dấu
ấn của nghệ thuật Ấn Độ: kiểu quần cụt, đồ trang sức, tiêu chuẩn về cái đẹp của
phụ nữ (cặp vú nở nang, háng rộng, nét thanh tú và hấp dẫn của cơ thể), tư thế và
động tác nhảy múa. Tuy đầu và mình các Apsara có quay theo hướng khác nhau
nhưng các tư thế và động tác tay gần như thống nhất: hai chân chùng xuống rồi
dạng hai đầu gối về hai bên, tay trái gập lại để tì bàn tay lên bấp vế trái, tay phải
gập lại đầu bàn tay lên cao ngang đỉnh đầu.
Ở bệ vũ nữ Trà Kiệu, cô vũ nữ cũng mặc chiếc quần cụt như các Apsara ở bệ
tượng, nhưng động tác múa có hơi khác. Nhạc cơng ở bệ vũ nữ Trà Kiệu đang chơi
một loại nhạc cụ 7 dây (đàn thất huyền) mà tang là nửa quả bầu. Có thể nói, cũng
như ở bệ tượng, vũ nữ và nhạc công ở bệ vũ nữ dang múa theo kiểu Ấn Độ và đang
chơi một loại nhạc cụ Ấn Độ - một kiểu đàn Vina.
17


Sang thế kỷ XI, phong cách nghệ thuật điêu khắc Chánh Lộ, có một số hình
khắc thể hiện múa và dàn nhạc. Lá Nhĩ Chánh lộ thể hiện Siva với 4 tay đang múa,
lá nhĩ Thu Bồn thể hiện Siva múa trên lưng bị Nanin. Ngồi ra cịn một lá Nhĩ thể
hiện Sarasvati (vợ thần Brahma- nữ thần học vấn , trí thức, nghệ thuật và thơ ca)
đang múa trong một tư thế đẹp: chân trái chùng xuống đạp lên mặt đất làm điểm
tựa, chân phải hơi co lên chi để đầu mút các ngón chân chạm đất, tay trái khuỳnh
ra và tựa bàn tay vào hông, tay phải cũng khuỳnh ra nhưng tựa vào bắp vế rồi xòe
bàn tay ra, đầu và thân mình thẳng đứng.
Mặc dù, chỉ được biết qua những hình ảnh chạm khắc trên đá, nhưng chúng
ta đã phần nào thấy được vai trò to lớn như thế nào của truyền thống Ấn Độ đối

với nghệ thuật âm nhạc và múa của Chămpa. Có thể nói Champa đã tiếp nhận một
cách có bài bảng và nghiêm túc những hình tượng về âm nhạc và vũ đạo của Ấn
Độ đến nỗi chúng ta khó có thể tìm ra cái gì là yếu tố bản địa trong từng động tác
múa hay từng nhạc cụ đã được ghi lại trên những hình chạm khắc cịn lại của người
Chăm.

18


III. KẾT LUẬN.
Với điều kiện vị trí địa lý thuận lợi, Chămpa đã là nơi qua lại của nhiều
thương nhân cũng như là các nhà truyền giáo, trong đó Ấn Độ đã đến với Chăm pa,
tuy chưa có những chứng cứ để xác định được việc truyền bá văn hóa Ấn Độ vào
Chăm pa, nhưng những ảnh hưởng của của Ấn Độ đã phần nào phản ánh được tình
trạng đó.
Ảnh hưởng của Ấn Độ vào Chămpa chủ yếu là vương quyền, và cũng chính
vì là vương quyền nên những ảnh hưởng của Ấn Độ khơng chỉ có đất bén rễ mà
cịn được thúc đẩy phát trienr nhanh hơn, tồn diện hơn và rộng khắp hơn. Vì vậy
mà ở Chăm pa, những ảnh hưởng khá rõ nét của Ấn Độ được phản ánh trong tất cả
những gì cịn để lại. Và cũng vì vậy mà tồn bộ những nền văn hóa như ton giáo,
chữ viết, văn học, nghệ thuật đều có những ảnh hưởng rất đa dạng trong cách thể
hiện của bản thân nền văn hóa Chămpa.
Do nhiều hồn cảnh địa lý, lịch sử và văn hóa chi phối, Chămpa là nơi lưu
giữ những giá trị văn hóa của Ấn Độ ổn định và rộng khắp các yếu tố của nền văn
hóa đó. Và cũng chính vì vậy mà những ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ trở nên bền
vững và trở thành một yếu tố quan trọng cấu thành nền văn hóa Chăm.
Vai trị của Ấn Độ đối với lịch sử quá khứ của Chămpa thật rất là lớn. Nhưng
những người Chăm cổ đã tiếp nhận một cách chọn lọc và sáng tạo những ảnh
hưởng của Ấn Độ để tạo nên một nền văn hóa cổ mang đậm sắc thái riêng của
chính mình chứ khơng sao chép từ ngun mẫu một cách thụ động, và điển hình là

các nền văn minh như các phong cách điêu khắc của Chăm pa điển hình là Mỹ
Sơn, Đồng Dương, Trà Kiệu,...

19


MỘT SỐ HÌNH ẢNH.

BIA VÕ CẠNH thế kỷ III- IV

Tượng thần voi Ganesa, Mỹ Sơn, thể hiện ảnh hưởng sâu sắc của Ấn Độ từ phong
cách đến đề tài.

20


Múa Chăm.

Múa Chăm.

21


PHONG CÁCH ĐỒNG DƯƠNG thế kỷ IX – X

Phù điêu quanh đài thờ - Phong cách Trà Kiệu

22




×