Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

THƯỢNG HOÀNG TRẦN NHÂN TÔNG XUẤT GIA - 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (130.46 KB, 6 trang )

THƯỢNG HỒNG TRẦN NHÂN TƠNG XUẤT GIA
2
Cũng qua cuộc đối thoại ấy, ta thấy cơ sở tư tưởng của Trần Nhân Tơng đã hình
thành, mà sau này vua đã viết thành văn bản bằng tiếng Việt trong Cư trần lạc đạo
phú, làm chỉ nam cho sự phát triển của Phật giáo ít lắm cũng kéo dài tới gần bốn
trăm năm sau, tức từ khoảng 1300 cho đến 1695. Đây là một giai đoạn Phật giáo
hồn tồn thế tục, khơng có sự cách biệt giữa các giới tại gia và xuất gia. Họ sống
hịa mình với nhau, thậm chí trong một con người, mà điển hình là Hương Chân
Pháp Tính (1470-1550 ?), Thọ Tiên Diển Khánh (1550-1610 ?) và Minh Châu
Hương Hải (1628-1715). Họ từng là những người đỗ đạt, gánh vác việc nước việc
dân, rồi sau đó giống như vua Trần Nhân Tông, họ đã sống đời một vị xuất gia,
như Pháp Tính đã diễn tả qua hai câu thơ của mình:

Trẻ từng vả đứng khoa danh
Già lên cõi thọ tìm duềnh Bụt tiên

Cơ sở tư tưởng phát biểu trong đoạn văn trên ta cần phải chú ý, khi đề cập đến nền
Thiền học của trường phái Trúc Lâm do vua Trần Nhân Tông gầy dựng. Dù đã
xuất gia vào tháng 7, tháng 8 năm ấy Thượng hoàng phải cầm quân đi đánh Ai
Lao, như ĐVSKTT 6 tờ 3a1-3 đã chép: “Tháng 8 (năm Giáp Ngọ, 1294) Thượng
hoàng thân chinh Ai Lao, bắt sống người và súc vật không kể xiết. Trong chiến
dịch này, Trung Thành Vương (thiếu tên) làm tiên phong, bị Ai Lao vây, Phạm
Ngũ Lão chợt đem quân ập đến, liền giải vây. nhân thế tung quân đón đánh. Giặc
thua.
Cho Ngũ Lão phù bằng vàng”.
Tiếp phái bộ Lý Hành - Tiêu Thái Đăng


Đến ngày mồng 1 tháng 2 năm sau, Thượng hoàng lại đứng ra tiếp phái bộ Lý
Hành và Tiêu Thái Đăng do Nguyên Thành Tông lên ngôi gửi qua báo về việc bãi
binh. Phái bộ này được gửi đi từ tháng 6 năm Chí Nguyên thứ 31 (1294), tức một


tháng sau khi Thành Tông lên ngôi, và đến tháng 2 mới đến nước ta. Trong lời tiễn
chân Lý Hành và Tiêu Thái Đăng, Trương Bá Thuần cho rằng đây là một chuyến
đi khó khăn. Trương Bá Thuần viết:

“Vì sao bảo là khó? Trước đây đem chỉ dụ đến nước ấy ai chẳng biết đem đại
nghĩa vua tôi, cơ họa phúc lợi hại. Nước kia nếu đem lòng sợ ra để mà nghe thì lời
nói dễ vào lỗ tai. Nếu nó khơng nghe thì cứ về báo lại vua, thế là ta đã xong việc
ta, cịn sử trí thế nào thì quốc gia đã có cách. Nay hai ơng vượt mấy nghìn dặm,
chỉ mang theo một bức thư, mà phải làm cho nước kia mở lòng tự đổi mới. Chứ
nếu cứ vù vù ra đi, rồi vù vù trở về thì ai mà chẳng làm được, đâu cần đến bọn
chúng ta. Huống nữa lòng người sau khi lo nhiều, bỗng thấy mình hết có lỗi, thì
vui mừng khơn xiết. Nhưng mừng lại là mầm của khinh mạn. Ta nhân nỗi vui của
chúng để khiến chúng bỏ lịng trì nghi khơng quyết để đi theo con đường mới”.

Thế là khó khăn của phái bộ Lý Hành lần này là đằng sau những u sách của vua
Ngun khơng cịn có một bạo lực để thi hành. Và do vì khơng có bạo lực này,
chúng sợ bị Đại Việt khinh thường. Dẫu thế, Thượng hồng Trần Nhân Tơng đã
tiếp đãi chúng ân cần, và chắc đây là một trong những cuộc đón tiếp ngoại giao mà
Thượng hồng ưng ý nhất, vì đã thành cơng, đè bẹp được ý chí xâm lược của kẻ
thù, như bài thơ tiễn phái bộ này của Thượng hoàng đã thể hiện:

Phơi phới Linh Trì ấm tiễn đưa
Người về khơn cách gió xn ngừa
Nào hay sao sứ hai ngơi phúc
Sáng rọi trời Nam mấy tối mưa
(Khảm khảm Linh Trì nỗn tiễn diên


Xuân phong vô kế trụ quy tiên
Bất tri lưỡng điểm thiều tinh phúc

Kỷ dạ quang mang chiếu Việt thiên)

Khi phái bộ này trở vềị Thượng hồng đã sai nội viên ngoại lang Trần Khắc Dụng
và Phạm Thảo mang thư qua xin Đại Tạng kinh. Lá thư này hiện được chép lại
trong An Nam chí lược 6 tờ 80 và Thượng hoàng vẫn đứng tên trong lá thư này.
Cũng theo An Nam chí lược thì sau khi nhận được lá thư xin Đại Tạng kinh này,
triều đình theo lệnh Nguyên Thành Tổ đã cấp cho ta. Đây có lẽ là bộ Đại Tạng
kinh mà sau này Trần Anh Tông đã cho chép tác phẩm Thạch thất mỡ ngữ của
Thượng hoàng Trần Nhân Tông vào để lưu hành, như Thánh đăng ngữ lục đã ghi.
Đến tháng 6 năm đó, ĐVSKTT 6 (1295) tờ 3a7-8 chép: “Thượng hoàng trở về
kinh sư, xuất gia ở hành cung Vũ Lâm, mà lại trở về vậy”. Việc vua Trần Nhân
Tông xuất gia ở Vũ Lâm, như vậy phải từ tháng 7 năm Giáp Ngọ (1294), tức hơn
một năm sau khi đã truyền ngơi cho con mình. Khâm định Việt sử thông giám
cương mục 8 tờ 23a7 - b1 dưới mục “mùa hạ tháng 6 năm Ất Mùi (1295) Thượng
hoàng về đến từ Ai Lao” đã viết: “Thượng hoàng từ Ai Lao về, xuất gia ở hành
cung Vũ Lâm, bỗng chốc lại trở về kinh đô”. Thế thì đối với Quốc sử quán triều
Nguyễn, đến mùa hè năm Ất Mùi, vua Trần Nhân Tông mới xuất gia.

Tuy nhiên, về việc xuất gia ấy, ĐVSKTT 6 tờ 2b4-6 đã kể lại việc Thượng hoàng
đi chơi Vũ Lâm vào mùa thu tháng 7 năm Giáp Ngọ (1294) và đã quyết định xuất
gia ở đó, nhân thế đã ghi lại việc yêu quý người con của thái sư Trần Quang Khải
là Trần Đạo Tải: “Bấy giờ Thượng hoàng ngự đi Vũ Lâm dạo chơi hang đá. Cửa
núi đá hẹp, Thượng hoàng đi chiếc thuyền nhỏ, thái hậu Tuyên Từ ở đằng đuôi
thuyền, gọi Văn Túc Vương lên đằng mũi thuyền, chỉ cho một phu chèo thuyền
mà thôi. Kịp đến khi Thượng hoàng xuất gia, khi Thượng hoàng sắp ra đi, bèn mời
Đạo Tải vào điện Dưỡng Đức của cung Thánh Từ, ban cho ngồi ăn đồ biển, làm
thơ rằng:


Chân rùa bóc đỏ mọng

Yên ngựa nướng vàng thơm
Sơn tăng giữ giới sạch
Cùng ngồi chẳng cùng ăn
(Hồng thấp bác quy cước
Hồng hương chá mã an
Sơn tăng trì tịnh giời
Đồng tọa bất đồng san)

Sự kiện và bài thơ này, Hồ Nguyên Trừng cũng có chép trong Nam Ơng mộng lục.
Căn cứ vào cách viết của hai tài liệu đây, rõ ràng bài thơ vùa nêu là của Trần Nhân
Tông. Hơn nữa, căn cứ vào nội dung, nhất là câu ‘sơn tăng trì tịnh giới’, thì dứt
khốt khơng thể là của Trần Đạo Tải viết. Trần Đạo Tải có một niềm kính trọng
đặc biệt đối với Trần Nhân Tông và việc ông thấy vua Trần Nhân Tông sau khi
xuất gia luôn đi bộ, đã thề suốt đời không bao giờ đi xe ngựa, thì khơng bao giờ
Trần Đạo Tải dám gọi vua Trần Nhân Tông là ‘sơn tăng’ (ông sư núi). Chỉ vua
Trần Nhân Tơng mới tự gọi mình như thế, nhất là khi ta nhớ vua có một sự u
thích đặc biệt đối với núi rừng, như nhiều bài thơ còn lại đã chứng tỏ. Thế mà
ngày nay có một số người đã đem bài thơ này gán cho Trần Đạo Tải một cách sai
lầm.
Dù đã được ghi nhận là xuất gia ở Vũ Lâm sớm như thế, nhưng đối với Thánh
Đăng ngữ lục, thì vua Trần Nhân Tơng xuất gia vào “năm Kỷ Hợi Hưng Long thứ
7, tháng 10 bằng cách đi thẳng vào núi Yên Tử, siêng năng tu hành 12 hạnh đầu
đà, tự gọi là Hương Vân Đại Đầu Đà, dựng Chi Đề tinh xá, mở pháp độ tăng,
người học đến như mây”.
Có khả năng từ tháng 6 năm Ất Mùi (1295) cho đến tháng 8 năm Kỷ Hợi (1299),
Thượng hồng đã thường ở Vũ Lâm, vì các tư liệu hiện có khơng ghi bất cứ một
hoạt động nào về đạo cũng như đời của Thượng hoàng. Đây có thể là thời gian mà


Thánh đăng ngữ lục ghi nhận là Thượng hoàng đang tu tập 12 hạnh đầu đà. Trong

Vịnh Vân Yên tự phú trạng nguyên Lý Tải Đạo, lúc này đã trở thành thiền sư
Huyền Quang và đang sống với Thượng hoàng ở Yên Tử, đã cho ta thấy cuộc
sống hàng ngày của Hương Vân Đại Đầu Đà như thế nào:

Mặc cà sa, nằm trướng giấy
Màng chi châu đầy lẫm, ngọc đầy rương
Quên ngọc thực, bỏ hương giao
Cắp nạnh cà một vò tương một hũ.

Thật là một cuộc sống giản dị đến mức độ không ai ngờ tới của một vị anh hùng
vừa mới chiến thắng oanh liệt kẻ thù và là một vị hoàng đế tài ba. Chỉ đến tháng 5
năm Kỷ Hợi, ĐVSKTT 6 tờ 6a1-b9 môữi ghi việc Thượng hoàng từ Thiên Trường
về Thăng Long gặp vua Trần Anh Tơng uống rượu say. Thượng hồng đã đem tất
cả triều đình về Thiên Trường. Đến khi tỉnh rượu, nhờ Đồn Nhữ Hài thảo tờ biểu
tạ tội, vua Trần Anh Tông đã cùng Nhữ Hài về Thiên Trường để ra mắt Thượng
hồng, rồi sau đó được tha thứ. Đến tháng 7 năm này, ĐVSKTT 6 tờ 7a6-7 ghi
việc dựng am Ngự Dược ở núi Yên Tử. Và tiếp đó nó ghi: “Tháng 8 Thượng
hoàng từ phủ Thiên Trường lại xuất gia, vào núi Yên Tử khổ hạnh”. Như thế đến
tháng 8 Thượng hồng lại xuất gia, chứ khơng phải là tháng 10 như Thánh đăng
ngữ lục đã có.
Khi xuất gia rồi Thượng hồng đã làm gì, Thánh đăng ngữ lục chép: “Sau ở chùa
Phổ Minh ý của phủ Thiên Trường, Thượng hoàng mời đến các danh tăng, mở lớn
các trường giảng, trải mấy năm bèn vân du phương ngoại, đến trại Bố Chính, chọn
am Tri Kiến để ở”. Thực tế, sau khi chép việc Thượng hoàng vào núi Yên Tử tu
khổ hạnh, ĐVSKTT 6 tờ 7a7-8a2 kể tiếp việc vua Trần Anh Tông đến chầu cùng
với Quốc Công Trần Quốc Tuấn tại cung Trùng Quang và tránh được việc xăm
rồng vào đùi cùng việc vua vi hành bị ném đá và bị Thượng hoàng hỏi. Đến tháng
3 năm Tân Sửu (1301) Thượng hoàng đi chơi các địa phương xa đến Chiêm



Thành. Đến tháng 11 năm ấy mới từ Chiêm Thành trở về. Rồi rằm tháng giêng
năm Quý Mão (1303) “Thượng hồng ở phủ Thiên Trường mở pháp hội Vơ
Lượng ở chùa Phổ Minh bố thí vàng bạc tiền lụa để chẩn cấp cho người nghèo
trong thiên hạ và giảng kinh thí giới”, như ĐVSKTT 6 tờ 17a9b2.

Tất cả những tư liệu này cho thấy sau khi xuất gia lại một lần nữa tại Yên Tử, chắc
Thượng hoàng ở đấy một thời gian. Đến tháng 3 năm Tân Sửu (1301), Thượng
hoàng đi xuống phía Namvà ở tại am Tri Kiến của trại Bố Chính.
Tri Kiến theo Ơ Châu cận lục quyển 3 tờ 45a5 là nơi đóng cơ quan hành chính của
trại Bố Chính: “Tri Kiến là nơi dựng của huyện xưa” (Tri Kiến cổ chi huyện
kiến)1. Cho nên, am Tri Kiến chắc là ngôi chùa của lỡ sở Tri Kiến của Bố Chinh.
Có thể nói đây là ngơi chùa đầu tiên được biết của vùng đất Địa Lý, Ma Linh và
Bố Chính, mà Lý Thánh Tơng đã sát nhập vào bản đồ Đại Việt vào năm 1069 và
nay là đất tỉnh Quảng Bình và hai huyện Vĩnh Linh và Gio Linh của Quảng Trị.
Vùng đất này chắc hẳn có nhiều chùa khác nữa, nhưng ngày nay ta không biết tên
tuổi. Rồi từ trại Bố Chính, Thượng hồng đã đi sang Chiêm Thành.



×