Tải bản đầy đủ (.doc) (7 trang)

Nhà Đinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (99.3 KB, 7 trang )

Nhà Đinh
Nhà Đinh (chữ Hán: 丁丁 (Đinh Triều)) là triều đại phong kiến trong lịch
sử Việt Nam bắt đầu năm 968, sau khi Đinh Tiên Hoàng dẹp loạn 12 sứ
quân thống nhất đất nước và kết thúc năm 980 khi con của Đinh Tiên
Hồng là Đinh Phế Đế nhường ngơi cho Lê Hồn.
Lịch sử
Thống nhất giang sơn
Năm 944, Ngơ Quyền mất, anh/em vợ là Dương Tam Kha cướp ngôi của
nhà Ngơ, xưng Dương Bình Vương. Các nơi khơng chịu thuần phục,
nhiều thủ lĩnh nổi lên cát cứ các vùng thường đem quân đánh lẫn nhau.
Con trưởng của Ngô Quyền là Ngô Xương Ngập bỏ trốn. Dương Tam
Kha nhận Ngô Xương Văn - con thứ của Ngô Quyền - làm con nuôi.
Năm 950, Ngô Xương Văn lật đổ Dương Tam Kha, trở thành Nam Tấn
Vương. Ngô Xương Ngập được đưa về, cũng làm vua, là Thiên Sách
Vương. Đó là thời Hậu Ngô Vương.
Năm 954, Ngô Xương Ngập chết. Đến năm 965, Ngô Xương Văn chết,
con Ngô Xương Ngập là Ngô Xương Xí nối nghiệp. Nhưng vì thế lực
suy yếu nên lui về giữ đất Bình Kiều. Q tộc nhà Ngơ, các tướng nhà
Ngô cùng các thủ lĩnh địa phương đều nổi dậy chiếm cứ một vùng. Bắt
đầu từ đó hình thành thế mà sử sách gọi là loạn 12 sứ quân.
Trong số các lực lượng nổi dậy chống triều đình, nổi lên Đinh Bộ Lĩnh
(Đinh Hồn). Ơng là người Hoa Lư, châu Đại Hồng. Cha là Đinh Cơng
Trứ, nha tướng của Dương Đình Nghệ, giữ chức thứ sử Châu Hoan.
Thời kỳ đó Đinh Bộ Lĩnh cũng tập hợp dân chúng ở Hoa Lư. Sau vì bất
đồng với người chú, Đinh Bộ Lĩnh cùng con trai Đinh Liễn sang đầu
quân trong đạo binh của sứ quân Trần Minh Công (Trần Lãm) ở Bố Hải
Khẩu. Sau khi Trần Minh Công chết [1], Đinh Bộ Lĩnh thay quyền, đưa


quân về Hoa Lư, chiêu mộ binh lính, chống nhà Ngô và các sứ quân
khác.


Trong hơn 3 năm, Đinh Bộ Lĩnh đánh dẹp 12 sứ quân, thống nhất đất
nước.
Đinh Tiên Hồng
Năm 968, Đinh Bộ Lĩnh lên ngơi Hồng đế, tự xưng là Đại Thắng Minh
Hoàng đế, tức là Đinh Tiên Hồng, đặt quốc hiệu là Đại Cồ Việt, đóng
đơ ở Hoa Lư.
Đinh Bộ Lĩnh có ba con trai: Đinh Liễn, Đinh Toàn (Đinh Tuệ) và Đinh
Hạng Lang. Đinh Liễn là con cả, đã cùng Đinh Bộ Lĩnh đánh dẹp 12 sứ
quân. Năm 978, Đinh Bộ Lĩnh lập con út là Hạng Lang làm thái tử. Đinh
Liễn quá tức giận nên giết chết Hạng Lang vào mùa xuân năm 979.
Cuối năm 979, Đinh Tiên Hoàng và Đinh Liễn bị sát hại trong cung. Sử
ghi thủ phạm là nội nhân Đỗ Thích, nhưng các nhà nghiên cứu gần đây
đặt ra giả thiết khác, chủ mưu là Lê Hoàn và Dương hậu.
Đinh Phế Đế
Năm 979 Đinh Tồn, con trai cịn lại của Đinh Bộ Lĩnh lên ngơi, là Đinh
Phế Đế.
Đinh Tồn khi đó mới 6 tuổi. Quyền lực thực tế năm trong tay Thập đạo
tướng qn Lê Hồn, là nhiếp chính. Các đại thần Đinh Điền, Nguyễn
Bặc, Phạm Hạp thấy vậy, lại nghi Lê Hồn tư thơng cùng Thái hậu
Dương Vân Nga nên cử binh đến đánh. Lê Hoàn dẹp tan, Đinh Điền,
Nguyễn Bặc, Phạm Hạp đều bị giết chết. Phị mã Ngơ Nhật Khánh bỏ
trốn vào nam sang Chăm Pa, sau đó cùng vua Chăm Pa với hơn nghìn
chiến thuyền định đến đánh kinh đơ Hoa Lư nhưng bị bão dìm chết.
Năm 980, nhà Tống rục rịch điều quân sang đánh Đại Cồ Việt, Thái hậu
Dương Vân Nga cùng triều thần tôn Lê Hoàn lên làm vua, tức vua Lê


Đại Hành. Nhà Đinh kết thúc, truyền được đến đời thứ hai, trị vì 12 năm
(968-980).
Lê Hồn sau khi lên ngôi lập ra nhà Tiền Lê đã đánh thắng quân Tống

(tháng 4 năm 981). Đinh Toàn trở thành Vệ Vương có mặt trong triều
đình Tiền Lê 20 năm. Năm 1001, trong lần cùng vua Lê Đại Hành đi dẹp
loạn Cử Long thuộc vùng Cầm Thuỷ Thanh Hố, Đinh Tồn bị trúng tên
chết.
Nội trị
Bộ máy chính quyền

Đồng tiền Thái Bình hưng bảo, tiền đầu tiên ở Việt Nam
Năm 971, Đinh Tiên Hoàng bắt đầu quy định cấp bậc văn võ trong triều
đình. Trong triều có sự tham gia của các nhà sư vì những đóng góp của
họ trong q trình dẹp loạn 12 sứ quân[2]. Vua Đinh phong cho các quan
văn võ:


Nguyễn Bặc làm Định quốc cơng
Đinh Điền làm ngoại giáp



Lưu Cơ làm Đô hộ phủ sĩ sư (chức vụ coi việc hình án)



Lê Hồn làm Thập đạo tướng qn,



Tăng thống Ngô Chân Lưu được ban hiệu là Khuông Việt đại sư




Trương Ma Ni làm Tăng lục



Đạo sĩ Đặng Huyền Quang được trao chức Sùng chân uy nghi.




Năm 975 vua Đinh ban quy định áo mũ cho các quan văn võ[3]. Bộ máy
chính quyền nhà Đinh vẫn được xem là đơn sơ[4].
Quân đội
Theo sử sách, quân đội nhà Đinh có mười đạo: mỗi đạo có 10 quân, 1
quân 10 lữ, 1 lữ 10 tốt, 1 tốt 10 ngũ, 1 ngũ 10 người. Như vậy tổng số
theo lý thuyết là 1 triệu người.
Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu nhiều ý kiến cho rằng con số đó khơng có
thực. Chữ Thập, theo Lê Văn Siêu, chỉ mang tính khái quát toàn thể về
cách tổ chức kiểu "ngụ binh ư nơng" như nhà Lý sau này, thời bình cho
làm ruộng, chỉ huy động khi cần[5]; còn Trần Trọng Kim ước đốn qn
đội nhà Đinh nhiều nhất chỉ có đến 10 vạn người[6].
Pháp luật
Do ảnh hưởng nhiều năm từ thời loạn lạc, có nhiều người quen thói lúc
loạn, khơng chịu tn theo luật lệ. Do đó vua Tiên Hồng dùng pháp luật
nghiêm ngặt để trừng trị.
Đại Việt sử ký toàn thư ghi về việc này:
Vua [Đinh Tiên Hoàng] muốn dùng uy chế ngự thiên hạ, bèn đặt
vạc lớn ở sân triều, nuôi hổ dữ trong cũi, hạ lệnh rằng: "Kẻ nào
trái phép phải chịu tội bỏ vạc dầu, cho hổ ăn". Mọi người đều sợ
phục, không ai dám phạm[3].

Trần Trọng Kim cho rằng "hình uy nghiêm như thế, thì cũng quá lắm,
nhưng nhờ có những hình luật ấy thì dân trong nước mới dần dần được
yên"[6].
Đối ngoại
Nhà Tống đang trên đường thống nhất Trung Quốc sau hơn 50 năm loạn
lạc. Quân Tống do Phan Mỹ chỉ huy đã áp sát nước Nam Hán ở cạnh
nước Đại Cồ Việt. Năm 970 Đinh Tiên Hoàng sai sứ sang giao hảo với


Tống Thái Tổ. Việc ngoại giao với phương bắc từ đó được duy trì khá
đều đặn và hịa bình.
Sang năm 972, Tiên Hoàng lại sai con cả Đinh Liễn đi sứ sang Biện
Kinh. Năm 973, Đinh Liễn trở về, nhà Tống lại sai sứ sang phong cho
Tiên Hoàng làm Giao Chỉ quận vương, Đinh Liễn làm Kiểm hiệu thái sư
Tỉnh Hải quân tiết độ sứ An Nam đô hộ[3].
Đầu năm 975, Tiên Hoàng lại sai Trịnh Tú đem vàng, lụa, sừng tê, ngà
voi sang triều cống nhà Tống. Ngay mùa thu năm đó, nhà Tống sai Hồng
lơ tự khanh Cao Bảo Tự cùng Vương Ngạn Phù sang gia phong cho
Nam Việt Vương Liễn làm Khai phủ nghi đồng tam ty, Kiểm hiệu thái
sư, Giao Chỉ quận vương. Từ đó về sau, Đinh Liễn được giao làm chủ
việc ngoại giao với nhà Tống[3].
Đến năm 976, vua Đinh sai em Trần Lãm là phò mã Trần Nguyên Thái
sang nhà Tống đáp lễ. Năm sau (977), ông lại sai sứ sang mừng vua
Tống mới là Tống Thái Tơng lên ngơi. Đó cũng là lần ngoại giao cuối
cùng giữa nhà Đinh và nhà Tống mà sử sách đề cập.
Nhận định
Thời kỳ phục quốc của Việt Nam thế kỷ 10, từ họ Khúc chỉ xưng làm
Tiết độ sứ, tới Ngô Quyền xưng vương và tới vua Đinh xưng làm hoàng
đế. Sau hai vua nhà Tiền Lý xưng đế vào thế kỷ 6, 400 năm sau người
cầm quyền Việt Nam mới thực sự vươn tới đỉnh cao ngôi vị và danh

hiệu, khẳng định vị thế vững chắc của quốc gia độc lập. Trong hoạt động
ngoại giao, nhà Đinh được nhà Tống thừa nhận và coi trọng.
Việc vua Đinh khéo kết hợp dùng võ công và biện pháp chiêu hàng các
sứ quân để sớm chấm dứt loạn 12 sứ qn (968) là rất kịp thời, vì khơng
lâu sau đó nhà Tống duỗi tới Quảng Châu, diệt nước Nam Hán (971), áp
sát biên giới Đại Cồ Việt. Nếu khơng có sự xuất hiện của Đinh Bộ Lĩnh
để thống nhất quốc gia bị chia sẻ tan nát, Việt Nam khó thốt khỏi họa
xâm lăng từ phương bắc tái diễn khi nhà Tống hoàn thành việc thống
nhất phương Nam.


Kế tục nhà Ngô, nhà Đinh tiếp tục xây dựng bộ máy cai trị trên lãnh thổ,
dù chưa được hoàn bị như nhà Lý sau này nhưng bước đầu đã đi vào nề
nếp.
Tổng cộng nhà Đinh có hai đời nhưng thực chất chỉ có 1 đời vua Tiên
Hồng.
Di tích thời nhà Đinh
Ở Hải Dương[7] có rất nhiều di tích thời Đinh, thờ các tướng lĩnh và quan
trung thần của Đinh Tiên Hồng như: Đình Bình An, xã Tân Việt thờ
Hùng Lĩnh Tráng Trần ở Bình Giang; Đình Chanh Trong, xã Thúc
Kháng thờ Khanh Cơng; Đình Băng Trai, xã Vĩnh Hồng thờ Trình An
Tể; Đình Nhân Kiệt, xã Hùng Thắng thờ trung thần Đinh Điền. Ở Thanh
Miện có Đình Đỗ Hạ, xã Phạm Kha thờ Lý Trí Thắng; Đền Từ Ơ, xã Tân
Trào; Đình Đỗ Thượng, xã Phạm Kha thờ Lý Trí Thắng. Ở Thanh Hịa
có Chùa Liên Minh và đình Thiệu Mỹ, xã Vĩnh Lập thờ Đặng Danh Trí,
Trịnh Thị Khang, Đặng Cơng Trân; Miếu Thánh Cả, xã Thanh Bình thờ
Đặng Châm, Trịnh Thị Khang, Đặng Trí. Ngồi ra có Đình Kim Đơi, xã
Cẩm Hồng (Cẩm Giàng) thờ vua Đinh Tiên Hồng; Đình Đơng Quan,
xã Tân Hưng (Gia Lộc); Miếu Phú Nội, xã Bình Dân (Kim Thành) thờ
tướng giúp vua Đinh; Đình Ngọc Uyên, phường Ngọc Châu (tp Hải

Dương) thờ Lê Viết Hưng, Lê Viết Quang; Đình Thụy Trà, chùa Thụy
Trà, miếu Thụy Trà xã Thượng Đạt (Nam Sách) thờ danh tướng Phạm
Cơng Hịa; Đình Dậu Trì, xã Hồng Thái (Ninh Giang) thờ Trần Minh
Cơng.
Nam Định có những di tích tiêu biểu sau: Đình Xám: thơn Lạc Đạo, xã
Hồng Quang, huyện Nam Trực, thờ Trần Minh Cơng tức Trần Lãm.
Đình Thượng Đồng: xã Yên Tiến, huyện Ý Yên. Đình thờ Đinh Tiên
Hoàng làm thành hoàng. Đền Vua Đinh (Yên Thắng), Ý n thờ vua
Đinh Tiên Hồng, Đền Gin: thơng Chiền, xã Nam Dương, huyện Nam
Trực, một trong 12 sứ quân; Đền An Lá: xã Nghĩa An, huyện Nam Trực
thờ Nguyễn Tấn, một vị tướng của nhà Đinh (thế kỷ thứ X); Đền Hưng
Lộc: xã Nghĩa Thịnh, huyện Nghĩa Hưng, thờ Phạm Cự Lượng tướng
thời Đinh.


Ninh Bình là vùng đất có kinh đơ Hoa Lư, ở đây có khá nhiều di tích
liên quan đến triều đại nhà Đinh như: Cố đô Hoa Lư với Đền Vua Đinh
Tiên Hồng, Đền thờ Cơng chúa Phất Kim, sơng Sào Khê, Động Thiên
Tơn, Tràng An... Các di tích q hương nhà Đinh với đền thờ Đinh Bộ
Lĩnh, động Hoa Lư, các đền thờ Đinh Điền và Nguyễn Bặc...
Hưng Yên có Đình Phù Liệt, xã Thắng Lợi, huyện Văn Giang thờ ngũ vị
đại vương âm phù Đinh Bộ Lĩnh thắng trận. Đền Kim Đằng ở thôn Kim
Đằng, phường Lam Sơn, thành phố Hưng Yên thờ Đinh Điền.



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×