Tải bản đầy đủ (.doc) (7 trang)

CHƯƠNG II - TỶ SUẤT LỢI NHUẬN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (88.3 KB, 7 trang )

72

phần thứ nhất. - sự chuyển hóa giá trị thặng d...

Chơng II. - tỷ suất lợi nhuận

73

hắn là nhà t bản, sở dĩ hắn có thể bắt tay vào quá
trình bóc lột lao động, chỉ vì với t cách là ngời
chơng II
tỷ suất lợi nhuận

Công thức chung của t bản lµ T - H - T' nghÜa lµ ngêi
ta nÐm vào trong lu thông một lợng giá trị để rút từ
trong lu thông ra một lợng giá trị lớn hơn. Quá trình sản
sinh ra lợng giá trị lớn hơn ấy, chính là sản xuất t bản
chủ nghĩa; quá trình thực hiện lợng giá trị lớn hơn ấy,
chính là lu thông của t bản. Nhà t bản sản xuất hàng
hóa không phải vì bản thân hàng hóa, cũng không phải
vì giá trị sử dụng của hàng hóa hay vì sự tiêu dùng cá
nhân của hắn. Sản phẩm mà nhà t bản thật sự quan
tâm đến không phải là bản thân cái sản phẩm cụ thể,
mà là phần giá trị dôi ra của sản phẩm so với giá trị của
t bản đà tiêu dùng để sản xuất ra nó. Nhà t bản ứng trớc
toàn bộ t bản mà không chú ý đến tác dụng khác nhau
của các bộ phận cấu thành của t bản đó trong việc sản
xuất ra giá trị thặng d. Hắn ứng ra tất cả mọi bộ phận
cấu thành ấy một cách giống nhau nhằm mục đích
không những là để tái sản xuất số t bản đà ứng ra, mà
là để sản xuất một giá trị dôi ra so với t bản ấy. Giá trị


của t bản khả biến mà hắn ứng ra, hắn chỉ có thể
chuyển hóa thành một giá trị lớn hơn bằng cách đem
trao đổi lấy lao động sống, bằng cách bóc lột lao động
sống. Nhng hắn chỉ có thể bóc lột đợc lao động bằng
cách đồng thời cũng ứng luôn ra những điều kiện để
thực hiện lao động ấy: t liệu lao động và đối tợng lao
động, máy móc và nguyên liệu, nghĩa là bằng cách
chuyển hóa một tổng số giá trị, mà hắn có đợc thành
những điều kiện sản xuất; cũng nh, nói chung, sở dĩ

sở hữu những điều kiện lao động, hắn đối lập với công
nhân là ngời chỉ có sức lao động của mình mà thôi. ở
trên, trong quyển I 18, chúng ta đà thấy rằng chính cái
tình trạng những t liệu sản xuất ấy thuộc về những kẻ
không lao động, đà làm cho công nhân phải trở thành
ngời làm thuê và kẻ không lao động trở thành nhà t bản.
Nhà t bản chẳng cần biết rằng hắn ứng t bản bất
biến ®Ĩ rót l·i ra tõ t b¶n kh¶ biÕn, hay là hắn ứng t bản
khả biến để làm cho t bản bất biến tăng thêm giá trị;
hắn chẳng cần biết rằng hắn chi tiền ra để trả tiền
công là nhằm làm cho máy móc và nguyên liệu tăng thêm
giá trị, hay là ứng tiền ra dới hình thức máy móc và
nguyên liệu để có thể bóc lột lao động. Mặc dầu chỉ
có bộ phận khả biến của t bản là tạo ra giá trị thặng d,
nhng bộ phận khả biến chỉ làm đợc nh vậy với điều
kiện là những bộ phận khác, tức là những điều kiện sản
xuất cần thiết cho lao động, cũng đợc ứng ra. Vì nhà t
bản chỉ có thể bóc lột đợc lao động bằng cách ứng trớc
t bản bất biến và chỉ có thể làm cho t bản bất biến tăng
thêm giá trị bằng cách ứng trớc t bản khả biến, nên trong

t tởng của hắn, cả hai loại t bản ấy đều nhập cục làm
một. ấn tợng này lại càng sâu sắc, vì mức lÃi thực tế của
hắn không phải do tỷ số giữa tiền lÃi đó với t bản khả
biến quyết định, mà do tỷ số giữa tiền lÃi đó với toàn
bộ t bản quyết định, không phải do tỷ suất giá trị
thặng d quyết định, mà do tỷ suất lợi nhuận quyết
định, - tỷ suất lợi nhuận này, nh chúng ta sẽ thấy, có thể
vẫn y nguyên nh thế, nhng lại biểu thị những tỷ suất giá
trị thặng d khác nhau.
Chi phí sản xuất của sản phẩm gồm tất cả những yếu


72

phần thứ nhất. - sự chuyển hóa giá trị thặng d...

tố giá trị của nó mà nhà t bản đà bỏ tiền ra trả, hay đÃ
ném vào sản xuất một vật ngang giá để bù vào. Muốn
cho t bản đợc duy trì một cách giản đơn, hay đợc tái
sản xuất với số lợng y nguyên nh cũ, thì phải thu lại đợc
những chi phí ấy.
Giá trị chứa đựng trong hàng hóa bằng thời gian lao
động cần thiết để chế tạo ra hàng hóa đó, và tổng số
thời gian lao động này bao gồm lao động đợc trả công
và lao động không đợc trả công. Ngợc lại, đối với nhà t
bản thì chi phí sản xuất hàng hóa chỉ bao gồm bộ phận
lao động đà vật hóa trong hàng hóa mà hắn đà trả
công. Lao động thặng d chứa đựng trong hàng hóa
không tổn phí gì cho nhà t bản cả, mặc dầu nó cũng
làm cho ngời công nhân phải tốn kém lao động nh phần

lao động đợc trả công, và mặc dầu giống nh phần lao
động đợc trả công này, lao động thặng d cũng sáng tạo
ra giá trị và nhập vào hàng hóa với t cách là một yếu tố
sáng tạo ra giá trị. Lợi nhuận mà nhà t bản thu đợc là do
chỗ hắn bán một cái mà hắn đà không phải trả tiền. Giá
trị thặng d, resp1* lợi nhuận, chính là phần giá trị dôi ra
ấy của giá trị hàng hóa so với chi phí sản xuất của nó,
nghĩa là phần dôi ra của tổng số lợng lao động chứa
đựng trong hàng hóa so với số lợng lao động đợc trả công
chứa đựng trong hàng hóa. Nh vậy, dù cho nó bắt nguồn
từ đâu chăng nữa, giá trị thặng d cũng vẫn là một
phần dôi ra so với tổng t bản đà ứng trớc. Vậy tỷ số giữa
phần dôi ra ấy với tổng t bản biểu thị bằng phân số
trong đó C chỉ tổng t bản. Nh vậy chúng ta có tỷ suất
lợi nhuận + khác với tỷ suất giá trị thặng d .
Tỷ số giữa giá trị thặng d và t bản khả biến gọi là
tỷ suất giá trị thặng d; tỷ số giữa giá trị thặng d và
1

* - respective: hay là

Chơng II. - tỷ suất lợi nhuận

73

tổng t bản gọi là tỷ suất lợi nhuận. Đó là hai cách đo lờng khác nhau đối với cùng một lợng, chúng biểu thị hai
tỷ lệ hay hai tỷ số khác nhau của cùng một l ợng, do dùng
thớc đo khác nhau.
Cần phải xuất phát từ sự chuyển hóa tỷ suất giá trị
thặng d thành tỷ suất lợi nhuận để suy ra sự chuyển

hóa giá trị thặng d thành lợi nhuận, chứ không phải là
ngợc lại. Và thật vậy, về mặt lịch sử, điểm xuất phát là
tỷ suất lợi nhuận. Giá trị thặng d và tỷ suất giá trị
thặng d là một cái gì tơng đối không thể nhìn thấy
đợc, là điểm căn bản cần phải nghiên cứu, làm cho
sáng tỏ ra, trong khi đó thì tỷ suất lợi nhuận, và do
đó, cái hình thái giá trị thặng d là lợi nhuận, lại lộ ra ở
bề mặt của các hiện tợng.
Còn đối với nhà t bản cá biệt, thì rõ ràng là việc duy
nhất mà hắn quan tâm chính là cái tỷ số giữa giá trị
thặng d, hay phần giá trị dôi ra mà hắn thu đợc khi
bán hàng hóa của hắn, với tổng t bản mà hắn đà ứng
ra để sản xuất hàng hóa; trái lại, tỷ số đích xác giữa
cái phần dôi ra ấy với các bộ phận riêng biệt của t bản,
và mối quan hệ bên trong cái phần dôi ra ấy với những
bộ phận này, thì không những hắn không quan tâm
đến một chút nào, mà chính hắn lại còn có lợi trong
việc thả ra một tấm màn khói để che đậy cái tỷ số
đích xác ấy và mối quan hệ bên trong ấy.
Mặc dù phần dôi ra của giá trị - hàng hóa so với chi
phí sản xuất là do quá trình sản xuất trực tiếp sinh ra,
nhng nó chỉ đợc thực hiện trong quá trình lu thông mà
thôi; sự việc lại càng dễ có vẻ nh là nó do quá trình lu
thông sinh ra, vì trên thực tế, trong cạnh tranh, trên thị
trờng thực tế, sự thực hiện đợc hay không thực hiện đợc phần dôi ra ấy và thực hiện đến mức độ nào, điều
ấy tùy thuộc vào những điều kiƯn cđa thÞ trêng. ë


72


phần thứ nhất. - sự chuyển hóa giá trị thặng d...

đây, bất tất phải giải thích rằng, khi ngời ta bán một
hàng hóa cao hơn hay thấp hơn giá trị của nó, thì nh
thế là chỉ xảy ra một sự phân phối khác về giá trị
thặng d thôi, mà sự phân phối khác này, - tức là sự
thay đổi cái tỷ số theo đó những ngời khác nhau phân
chia giá trị thặng d, - không hề làm thay đổi lợng cũng
nh bản chất của giá trị thặng d ấy. Trong quá trình lu
thông thật sự, không phải chỉ diễn ra những sự chuyển
hóa mà chúng ta đà nghiên cứu ở quyển II; những sự
chuyển hóa ấy ăn khớp với sự cạnh tranh thực tế, với việc
mua và bán các hàng hóa cao hơn hay thấp hơn giá trị
của chúng, thành thử đối với nhà t bản cá biệt, giá trị
thặng d mà bản thân hắn thực hiện đợc vừa do những
sự lừa bịp lẫn nhau, lại vừa do sự bóc lột trực tiếp lao
động quyết định.
Trong quá trình lu thông, bên cạnh thời gian lao động
còn có thời gian lu thông, nó giới hạn khối lợng giá trị
thặng d có thể thực hiện đợc trong một khoảng thời
gian nhất định. Những nhân tố khác phát sinh từ l u
thông, cũng có ảnh hởng quyết định tới quá trình sản
xuất trực tiếp. Cả hai quá trình - quá trình sản xuất
trực tiếp và quá trình lu thông - luôn luôn chuyển hóa
lẫn nhau, xâm nhập lẫn nhau, do đó cũng không ngừng
xóa mờ những sự khác biệt đặc thù giữa chúng với
nhau. Nh chúng tôi đà từng vạch ra, sự sản xuất ra giá
trị thặng d, cũng nh sự sản xuất ra giá trị nói chung,
đều có những tính quy định mới trong quá trình lu
thông; t bản đi qua cái vòng chuyển hóa của nó; cuối

cùng, có thể nói là nó chuyển từ đời sống hữu cơ nội tại
của nó sang những điều kiện tồn tại bên ngoài; bây giờ
không phải là t bản và lao động đối lập với nhau nữa,
mà một mặt là t bản đối lập với t bản, và mặt khác, là
những cá nhân đối lập với nhau, chỉ đơn thuần với t

Chơng II. - tỷ suất lợi nhuận

73

cách là ngời mua và ngời bán. Thời gian lu thông và thời
gian lao động giao nhau trên con đờng đi của chúng, và
nh vậy thì có vẻ là cả hai đều cùng quyết định giá trị
thặng d nh nhau cả; hình thái ban đầu dới đó t bản và
lao động làm thuê đối lập nhau, bị che lấp đi bởi sự
can thiệp của những mối quan hệ có vẻ nh độc lập với
hình thái đó; còn bản thân giá trị thặng d thì không
còn biểu hiện ra là sản phẩm của sự cớp đoạt thời gian
lao động, mà là phần dôi ra của giá bán hàng hóa so với
chi phí sản xuất của nó; do đó, chi phí sản xuất của
hàng hóa thờng dễ biểu hiện ra là giá trị thật sự
(valeur intrinsèque) của hàng hóa, thành thử lợi nhuận
biểu hiện ra là phần dôi ra của giá bán hàng hóa so với
giá trị nội tại của chúng.
Thật ra, trong quá trình sản xuất trực tiếp, bản chất
của giá trị thặng d luôn luôn lộ ra trong ý thức của nhà
t bản, nh việc hắn thèm khát muốn chiếm đoạt thời
gian lao động của ngời khác, v.v. ®· chØ râ cho ta thÊy
®iỊu ®ã khi chóng ta nghiên cứu giá trị thặng d. Nhng,
thứ nhất, bản thân quá trình sản xuất trực tiếp chỉ là

một giai đoạn nhất thời, nó không ngừng chuyển sang
quá trình lu thông, cũng nh quá trình lu thông không
ngừng chuyển sang quá trình sản xuất trực tiếp, thành
thử cái điều mà ngời ta cảm thấy ít nhiều lờ mờ trong
quá trình sản xuất về nguồn gốc của tiền lời thực hiện
đợc trong quá trình đó, nghĩa là về bản chất của giá
trị thặng d, thì nhiều lắm cũng chỉ thể hiện ra nh
một nhân tố chính đáng bên cạnh cái quan niệm cho
rằng phần dôi ra mà ngời ta thực hiện đợc là do một
cuộc vận động không có liên quan gì tới quá trình sản
xuất đẻ ra, tức là nó bắt nguồn từ bản thân sự l u thông
và thuộc về t bản, không có liên quan gì với những
quan hệ giữa t bản với lao động. Không phải ngẫu nhiên


72

phần thứ nhất. - sự chuyển hóa giá trị thặng d...

Chơng II. - tỷ suất lợi nhuận

73

mà ngay cả những nhà kinh tế học đơng thời nh Ramxây, Man-tút, Xê-ni-o, Tô-ren-xơ, v.v. đà đa ra những
hiện tợng ấy của lu thông để chứng minh rằng t bản, với sự tồn tại thuần túy vật chất của nó, độc lập với
những quan hƯ x· héi cđa nã ®èi víi lao ®éng, tức
những quan hệ xà hội đà làm cho t bản trở thành t bản, là một nguồn độc lập sinh ra giá trị thặng d , tồn tại
song song với lao động và độc lập với lao động. Thứ
hai, ở mục các chi phí, trong đó tiền công đợc xếp cùng
với giá cả nguyên liệu, tiền khấu hao máy móc, v.v., thì

hình nh sự bóp nặn lao động không công chỉ là một
sự tiết kiệm thực hiện đợc khi trả tiền cho một trong
những khoản cấu thành chi phí sản xuất ấy, chỉ là
việc trả một số tiền ít hơn cho một số lợng lao động
nhất định: sự tiết kiệm ấy giống nh sự tiết kiệm thực
hiện đợc khi mua nguyên liệu rẻ tiền hay giảm bớt sự hao
mòn của máy móc. Nh vậy là sự bóp nặn lao động
thặng d đà mất tính chất đặc thù của nó; quan hệ
đặc thù của nó với giá trị thặng d bị xóa mờ đi và việc
biểu hiện giá trị sức lao động dới hình thái tiền công
đà làm cho việc bóp nặn ấy đợc thuận lợi và dễ dàng
hơn rất nhiều, nh chúng ta đà vạch rõ trong "T bản",
quyển I, phần thứ sáu 19.

sống, đợc nhân cách hóa trong nhà t bản; mặt khác,
ngời công nhân, trái lại, chỉ biểu hiện thành sức lao
động - thành một vật, một hàng hóa. Sự đảo lộn ấy,
ngay từ trong quan hệ sản xuất giản đơn, tất nhiên đÃ
đẻ ra một quan niệm sai lạc tơng ứng, một ý thức không
đúng, ý thức này, thông qua những sự chuyển hóa và
những sự biến đổi của bản thân quá trình lu thông, lại
còn phát triển thêm nữa.

Vì tất cả các yếu tố của t bản đều cùng có vẻ là
nguồn sinh ra giá trị d (lợi nhuận), nên quan hệ t bản chủ
nghĩa đà bị thần bí hóa.

Tự bản thân nó, lợng giá trị của tổng t bản không có
quan hệ nội tại gì với lợng của giá trị thặng d, ít ra cũng
không cã quan hƯ trùc tiÕp. Cø xÐt nh÷ng u tè vật

chất của nó thì số tổng t bản đà trừ t bản khả biến đi
rồi, - tức là t bản bất biến, - là gồm có những điều kiện
vật chất cần thiết để cho lao động đợc thực hiện, tức là
gồm t liệu lao động và vật liệu lao động. Muốn cho một
số lợng lao động nhất định thực hiện thành hàng hóa, và
do đó muốn sáng tạo ra giá trị, thì cần phải có một số lợng vật liệu lao động và t liệu lao động nhất định. Tùy
theo tính chất đặc thù của lao động bỏ thêm vào, mà

Nhng cái cách đem giá trị thặng d chuyển hóa thành
lợi nhuận thông qua tỷ suất lợi nhuận, chỉ là sự phát
triển của việc đảo ngợc chủ đề và khách thể đà diễn
ra ngay từ trong quá trình sản xuất. Ngay ở đấy chúng
ta đà thấy tất cả mọi sức sản xuất chủ quan của lao
động biểu hiện thành những sức sản xuất của t bản20.
Một mặt, giá trị, lao động quá khứ, chi phối lao động

Nh trờng phái Ri-các-đô cho ta thấy, ý đồ muốn trực
tiếp biểu hiện những quy luật về tỷ suất lợi nhuận
thành những quy luật về tỷ suất giá trị thặng d , hay
ngợc lại, là hoàn toàn sai lầm. Cố nhiên, trong đầu óc
của nhà t bản, giữa hai loại quy luật ấy không có sự khác
nhau. Trong biểu thức , giá trị thặng d đợc đem so với
giá trị của toàn bộ t bản ứng trớc để sản xuất ra nó, và
một phần t bản ấy bị tiêu dùng hết trong sản xuất ấy,
phần còn lại thì chỉ đợc đem sử dụng vào sản xuất
thôi. Thật ra, tỷ số biểu thị mức độ tăng thêm giá trị
của toàn bộ t bản ứng trớc; nghĩa là nếu đợc xét một
cách phù hợp với mối liên hệ nội tại, căn bản, và với bản
chất của giá trị thặng d, thì tỷ số ấy nói lên mối quan
hệ giữa lợng biến đổi của t bản khả biến với lợng của

tổng t bản ứng ra.


72

phần thứ nhất. - sự chuyển hóa giá trị thặng d...

hình thành một tỷ lệ kỹ thuật nhất định giữa khối lợng
lao động và khối lợng t liệu sản xuất mà lao động sống
ấy phải cộng thêm vào. Nh vậy, một tỷ lệ nhất định lao
động và khối lợng giữa khối lợng t liệu sản xuất mà lao
động sống ấy phải cộng thêm vào. Nh vậy, một tỷ lệ nhất
định cũng đợc hình thành giữa khối lợng giá trị thặng
d hay lao động thặng d và khối lợng t liệu sản xuất.
Chẳng hạn, nếu lao động cần thiết để sản xuất ra tiền
công là sáu giờ mỗi ngày, thì công nhân phải làm việc mời hai giờ, để làm ra sáu giờ lao động thặng d và sản xuất
ra một giá trị thặng d là 100%. Trong mời hai giờ ấy, anh
ta tiêu hao t liệu sản xuất nhiều gấp đôi so với sáu giờ. Nhng việc đó hoàn toàn không lập nên một mối quan hệ trực
tiếp nào giữa giá trị thặng d mà anh ta thêm vào trong
sáu giờ, với giá trị của những t liệu sản xuất đà tiêu dùng
trong sáu giờ ấy, hay ngay cả trong mời hai giờ ấy. ở đây,
giá trị ấy hoàn toàn không quan trọng gì cả; chỉ có khối
lợng cần thiết về mặt kỹ thuật là cần chú ý thôi. Dù những
nguyên liệu hay t liệu lao động đắt hay rẻ, điều đó
hoàn toàn không quan trọng, miễn là những thứ đó có
giá trị sử dụng cần thiết và có theo tỷ lệ mà kỹ thuật
đà quy định, so với lao động sống mà chúng phải thu
hút. Nếu tôi biết rằng x pao bông đợc kéo thành sợi
trong một giờ và nếu số bông đó trị giá a si-linh, thì
cố nhiên tôi cũng biết đợc rằng trong mời hai giờ sẽ kéo

đợc 12 x pao bông = 12 a si-linh, và lúc đó tôi có thể
tính ra tỷ lệ giữa giá trị thặng d với giá trị của 12 pao
ấy, cũng nh với giá trị của 6. Nhng tỷ lệ giữa lao động
sống với giá trị của các t liệu sản xuất chỉ đợc đa vào
trong bài tính ấy trong chừng mực mà a si-linh dùng để
chỉ x pao bông: vì một lợng bông nhất định có một giá
cả nhất định, nên ngợc lại, một giá cả nhất định có thể
dùng để chỉ một lợng bông nhất định, chừng nào giá
bông không thay đổi. Nếu tôi biết rằng muốn chiếm
đợc sáu giờ lao động thặng d, tôi phải bắt công nhân

Chơng II. - tỷ suất lợi nhuận

73

làm việc mời hai giờ, tức là tôi phải chuẩn bị bông sẵn
sàng cho mời hai giờ, và nếu tôi biết giá cả của số lợng
bông cần dùng cho mời hai giờ đó, thì thông qua con
đờng vòng ấy, lập đợc mối quan hệ giữa giá bông (với t
cách là chỉ số của lợng cần thiết) và giá trị thặng d.
Nhng ngợc lại, từ giá cả nguyên liệu, không bao giờ tôi có
thể tính ra đợc khối lợng bông có thể kéo thành sợi
chẳng hạn trong một giờ, chứ không phải là trong sáu
giờ. Nh vậy là không có một mối quan hệ nội tại, tất yếu
nào giữa giá trị của t bản bất biến và giá trị thặng d,
và do đó cũng không có một quan hệ tỷ lệ nội tại, tất
yếu nào giữa giá trị của tổng t bản (= c + v) và giá trị
thặng d.
Khi ngời ta biết tỷ suất giá trị thặng d và lợng của nó
rồi, thì tỷ suất lợi nhuận không biểu thị một cái gì khác

ngoài cái thực tế của nó, tức là biểu thị một thứ thớc
khác dùng để đo lờng giá trị thặng d, đo giá trị thặng
d bằng giá trị của toàn bộ t bản, chứ không phải bằng giá
trị của cái bộ phận t bản do đợc đổi với lao động mà
trực tiếp sinh ra giá trị thặng d. Nhng trong thực tế
(nghĩa là trong cái thế giới các hiện tợng), tình hình đÃ
diễn ra ngợc lại. Ngời ta biết giá trị thặng d là bao nhiêu,
nhng biết nó dới hình thái là số dôi ra của giá bán hàng
hóa so với chi phí sản xuất của hàng hóa; còn phần dôi
ra ấy do đâu mà có thì vẫn là một điều bí ẩn: do bóc
lột lao động trong quá trình sản xuất, do lừa bịp những
ngời mua, trong quá trình lu thông, hay là do cả hai việc
đó? Ngoài ra, ngời ta còn biết tỷ số giữa số dôi ra ấy và
giá trị của toàn bộ t bản, tức là tỷ suất lợi nhuận. Việc
tính toán số dôi ra ấy của giá bán ngoài chi phí sản xuất,
đem so với toàn bộ t bản đà ứng ra, là rất quan trọng và
rất tự nhiên, vì nhờ thế ngời ta thực sự có thể tìm ra đợc con số chỉ rõ cái tỷ lệ theo đó tổng t bản đà đợc làm
tăng thêm giá trị, hay cái mức độ tăng thêm giá trị cña t


72

phần thứ nhất. - sự chuyển hóa giá trị thặng d...

Chơng II. - tỷ suất lợi nhuận

73

bản. Do đó, nếu xuất phát từ tỷ suất lợi nhuận ấy, ngời ta
tuyệt đối không thể tính đợc cái tỷ lệ đặc biệt giữa số

dôi ra và bộ phận t bản đà chi cho tiền công. Trong một
chơng sau, chúng ta sẽ thấy Man-tút đà làm một trò ảo
thuật buồn cời đến nh thế nào, khi ông ta muốn dùng
con đờng ấy để tìm hiểu cái bí mật của giá trị thặng
d và quan hệ riêng của nó với bộ phận khả biến của t
bản21. Trái lại, bản thân tỷ suất lợi nhuận chØ ra r»ng sè
d«i ra Êy vÉn n»m trong mét tỷ lệ giống nhau đối với
những bộ phận bằng nhau của t bản; đứng về phơng
diện đó thì nói chung, t bản không có một sự khác
nhau nội tại nào; ngoài sự khác nhau giữa t bản cố định
và t bản lu động. Và ngay sự khác nhau ấy sở dĩ lộ rõ ra,
thì cũng chỉ vì số dôi ra ấy đợc tính bằng hai cách.
Thứ nhất, đợc tính nh một lợng đơn thuần: số dôi ra so
với chi phí sản xuất. Trong cách tính thứ nhất này, toàn
bộ t bản lu động nằm trong chi phí sản xuất, còn về t
bản cố định thì chỉ có phần hao mòn là gia nhập chi
phí sản xuất mà thôi. Thứ hai, ngời ta tính tỷ lệ giữa
phần giá trị dôi ra ấy và toàn bộ giá trị của t bản ứng ra.
ở đây, giá trị của toàn bộ t bản cố định cũng nh giá trị
của t bản lu động đều đợc kể đến. Vậy là trong cả hai
lần, t bản lu động đều đợc đa vào một cách giống
nhau, còn t bản cố định thì một lần đợc đa vào giống
nh t bản lu động, còn lần kia thì lại khác. Nh vậy, sự
phân biệt duy nhất phải chú ý ở đây, chính là sự khác
nhau giữa t bản cố định và t bản lu động.

trị riêng của nó.

Vậy phần dôi ra ấy, nếu nó - nói theo cách của Hêghen - phản ánh trở lại từ tỷ suất lợi nhuận vào ngay trong
bản thân nó, hay nói một cách khác, khi nó đợc tỷ suất lợi

nhuận biểu thị một cách chính xác hơn, thì nó biểu
hiện thành một phần dôi ra mà t bản sản sinh ra hàng
năm hay trong một thời kỳ lu thông nhất định, ngoài giá

Chúng ta càng theo dõi quá trình làm cho t bản tăng
thêm giá trị thì càng thấy quan hệ t bản chủ nghĩa bị
thần bí hóa đi, và bí mật của cơ cấu nội tại của nó càng
trở nên khó hiểu.

Do đó, mặc dầu tỷ suất lợi nhuận khác với tỷ suất giá
trị thặng d về mặt biểu hiện bằng con số, trong khi giá
trị thặng d và lợi nhuận thực tế là một và bằng nhau về
mặt số lợng, nhng lợi nhuận vẫn là một hình thái chuyển
hóa của giá trị thặng d; dới hình thái đó, nguồn gốc của
nó và điều bí ẩn về sự tồn tại của nó bị che lấp và lu
mờ đi. Sự thực thì lợi nhuận là hình thái biểu hiện của
giá trị thặng d, và chỉ thông qua sự phân tích ngời ta
mới có thể tách đợc giá trị thặng d ra khỏi cái vỏ lợi
nhuận. Trong giá trị thặng d, quan hệ giữa t bản và lao
động đà đợc bóc trần; trong tỷ lệ giữa t bản và lợi
nhuận, - nghĩa là giữa t bản và giá trị thặng d, giá trị
thặng d này một mặt biểu hiện ra là một phần dôi ra so
với chi phí sản xuất của hàng hóa, và đợc thực hiện trong
quá trình lu thông, mặt khác lại biểu hiện thành một số
dôi ra đợc tỷ số giữa lợi nhuận và toàn bộ t bản quy
định mà một cách cụ thể hơn, - t bản biểu hiện ra là
một quan hệ với bản thân nó, trong quan hệ ấy, về phơng diện là tổng số những giá trị ban đầu, thì t bản
khác với một giá trị mới do bản thân nó tạo nên. T bản đÃ
sản sinh ra giá trị mới ấy trong thời gian vận động của
nó qua quá trình sản xuất và lu thông, điều ®ã ai cịng

râ. Nhng viƯc ®ã diƠn ra nh thÕ nào, thì giờ đây đà bị
thần bí hóa, và hình nh giá trị thặng d bắt nguồn từ
những đặc tính bí ẩn vốn có của bản thân t bản.

Trong phần này, tỷ suất lợi nhuận khác với tỷ suất giá
trị thặng d về mặt biểu hiện bằng con số; trái lại, lợi


72

phần thứ nhất. - sự chuyển hóa giá trị thặng d...

nhuận và giá trị thặng d đợc coi là những lợng giống hệt
nh nhau về mặt số lợng và chỉ khác nhau về hình thái
mà thôi. Trong phần sau, chúng ta sẽ thấy sự phân ranh
giới còn đi xa hơn nữa, và lợi nhuận biểu hiện ra thành
một đại lợng khác với giá trị thặng d, ngay cả về mặt số
lợng.

Chơng II. - tỷ suất lợi nhuận

73



×