Tải bản đầy đủ (.doc) (9 trang)

Tư bản kinh doanh trong nông nghiệp và địa tô tư bản chủ nghĩa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (107.47 KB, 9 trang )

TƯ BẢN KINH DOANH TRONG NÔNG NGHIỆP
VÀ ĐỊA TÔ TƯ BẢN CHỦ NGHĨA.
Lí luận địa tơ là sự phân tích kinh tế của C. Mác trong một lĩnh vực sản xuất đặc
thù: Nền nơng nghiệp tư bản chủ nghĩa. Lí luận địa tơ góp phần làm cho học thuyết kinh tế
của C. Mác được hồn bị hơn (phân tích đầy đủ quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa cả trong
công nghiệp và nông nghiệp).
Ở nước ta, đất đai là một trong những yếu tố rất quan trọng của quá trình sản xuất
nơng nghiệp đồng thời nó cịn có vai trò đặc biệt đối với các ngành kinh tế khác. Vì vậy,
giải quyết đúng đắn vấn đề đất đai trên cơ sở vận dụng sáng tạo lí luận của C. Mác về địa
tơ, ruộng đất, sẽ góp phần to lớn vào sự nghiệp đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hố
đất nước.
I. TƯ BẢN KINH DOANH NƠNG NGHIỆP, NGUỒN GỐC VÀ BẢN CHẤT ĐỊA TÔ TƯ
BẢN CHỦ NGHĨA.

1. Hai con đường phát triển của chủ nghĩa tư bản trong nông nghiệp.
a. Đặc điểm quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa trong nông nghiệp.
Tư bản không chỉ hoạt động và thống trị trong lĩnh vực cơng nghiệp, thương nghiệp…
mà cịn đẩy mạnh sự hoạt động của nó sang lĩnh vực nông nghiệp - tiếp tục chi phối một trong
những ngành sản xuất vật chất cơ bản của xã hội. Quá trình này đã từng bước xác lập quan hệ
sản xuất tư bản chủ nghĩa trong nông nghiệp. Do vậy, về mặt lơgíc quan hệ sản xuất tư bản
chủ nghĩa xuất hiện trong nông nghiệp muộn hơn trong công nghiệp và thương nghiệp. Sự ra
đời của chủ nghĩa tư bản trong nông nghiệp được qui định bởi các tác nhân kinh tế và phi
kinh tế. Bởi lẽ một mặt dưới tác động của qui luật giá trị làm phân hoá những người nơng dân
sản xuất nhỏ, hình thành tầng lớp giầu có (phú nơng, tư bản nơng nghiệp) kinh doanh nơng
nghiệp theo phương thức tư bản chủ nghĩa. Mặt khác, được nhà nước thống trị tạo điều kiện,
tư bản đã đẩy nhanh q trình xâm nhập vào nơng nghiệp để kinh doanh, thúc đẩy sự ra đời
của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Đặc điểm nổi bật của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa trong nông nghiệp là chế độ
độc quyền sở hữu và độc quyền kinh doanh ruộng đất. Cả hai loại độc quyền đã ngăn cản
sự tự do cạnh tranh trong nơng nghiệp. Có độc quyền tư hữu ruộng đất là do hình thái đặc
thù, lịch sử chuyển hoá quan hệ sở hữu tư nhân dưới ảnh hưởng của phương thức sản xuất


tư bản chủ nghĩa. Có độc quyền kinh doanh ruộng đất của tư bản là do xuất phát từ tình
trạng đại bộ phận những người tư hữu nhỏ bị phá sản, phải bán sức lao động và bị lệ thuộc
vào tư bản kinh doanh nông nghiệp. Khi quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa được hình
thành, trong nơng nghiệp có ba giai cấp cơ bản gắn bó chặt chẽ với nhau gồm: Địa chủ
(độc quyền sở hữu ruộng đất); Tư bản kinh doanh nông nghiệp (độc quyền kinh doanh
ruộng đất) và giai cấp cơng nhân nơng nghiệp. “Đó là ba giai cấp lớn của xã hội hiện đại
dựa trên phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa”.(1)
b. Hai con đường hình thành và phát triển quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa
trong nông nghiệp.
Quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa trong nơng nghiệp nói chung được hình thành do
phân hố những người nông dân sản xuất nhỏ và sự xâm nhập của tư bản đầu tư vào nông
nghiệp. Tuy nhiên, quá trình này diễn ra rất chậm chạp nên ở châu Âu việc xác lập quan hệ
sản xuất tư bản chủ nghĩa trong nông nghiệp được tiến hành theo hai con đường:
Một là, tiến hành cuộc cách mạng dân chủ tư sản, xoá bỏ chế độ kinh tế địa chủ, thủ
tiêu quyền sở hữu ruộng đất phong kiến, phát triển chủ nghĩa tư bản trong nông nghiệp
tiêu biểu là ở các nước: Pháp, Anh, Mĩ…


Hai là, thực hiện cải cách dần dần chuyển kinh tế địa chủ phong kiến sang kinh
doanh theo phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, sử dụng lao động làm th. Con đường
này khơng xố bỏ hồn tồn quyền chiếm hữu ruộng đất cổ truyền của địa chủ phong kiến.
Vì vậy, trong nơng nghiệp xuất hiện hai loại độc quyền: độc quyền chiếm hữu ruộng đất và
độc quyền kinh doanh ruộng đất. Các nước phát triển theo con đường này gồm: Đức,
Italia, Nhật bản, Nga sa hoàng…
Song phát triển bằng con đường nào thì chủ nghĩa tư bản cũng chỉ xố bỏ lối kinh
doanh phong kiến trong nơng nghiệp chứ không thủ tiêu chế độ tư hữu về ruộng đất, mặc dù
nó là yếu tố cản trở sự phát triển của nền nông nghiệp. C. Mác khẳng định: “Độc quyền sở
hữu ruộng đất là một tiền đề lịch sử và vẫn là cái cơ sở thường xuyên của phương thức sản
xuất tư bản chủ nghĩa, cũng như của tất cả những phương thức sản xuất trước kia dựa trên sự
bóc lột quần chúng dưới một hình thức này hay một hình thức khác”. Chủ nghĩa tư bản vẫn

thừa nhận chế độ độc quyền sở hữu ruộng đất của địa chủ nhưng lại bắt nó phụ thuộc vào tư
bản, thích ứng với phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
c. Đặc điểm của sản xuất nông nghiệp theo phương thức tư bản chủ nghĩa.
Kinh doanh trong nông nghiệp chịu sự tác động của những yếu tố khác nhau. Một là
các điều kiện tự nhiên chi phối và ảnh hưởng trực tiếp đến qui mô, chất lượng hiệu quả của
sản xuất nơng nghiệp. Hai là, do cịn tồn tại chế độ độc quyền sở hữu ruộng đất của địa
chủ nên đã ngăn cản tư bản đầu tư vào lĩnh vực này, làm cho sản xuất nông nghiệp chậm
được áp dụng khoa học kĩ thuật tiên tiến.
Khi tư bản xâm nhập vào nông nghiệp, tiến hành kinh doanh theo phương thức tư bản chủ
nghĩa đã từng bước biến nền nông nghiệp phong kiến thành một nền nơng nghiệp hàng hố
sản xuất lớn, hiện đại. Bởi vì, kinh doanh theo lối tư bản chủ nghĩa làm cho vốn được tập
trung trong tay số ít nhà tư bản nên có điều kiện áp dụng khoa học và công nghệ hiện đại
một cách phổ biến. Trên cơ sở đó nâng cao năng suất ruộng đất, năng suất lao động nông
nghiệp và chất lượng nông phẩm… Mặt khác, cạnh tranh kiểu tư bản chủ nghĩa đã thúc
đẩy quá trình ứng dụng khoa học kĩ thuật, hợp lí hố sản xuất, tạo điều kiện thuận lợi để
hiện đại hố nơng nghiệp. Tính chất xã hội hố trong nông nghiệp được đẩy mạnh, biểu
hiện ở sự tập trung hố, chun mơn hố, hợp tác hố trong sản xuất, chế biến và tiêu thụ
sản phẩm. Từ đó hình thành các vùng chuyên canh, cung cấp cho thị trường một khối
lượng lớn sản phẩm có chất lượng cao, giá cả phù hợp.
Nhưng hạn chế lớn nhất của phát triển nông nghiệp theo con đường tư bản chủ
nghĩa là đã làm phá sản hàng loạt người sản xuất nhỏ; tăng cường bóc lột lao động làm
th trong nơng nghiệp, đồng thời tạo cơ hội cho tư bản ở các lĩnh vực khác bóc lột người
lao động.
C. Mác đánh giá về vai trò của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đối với nền
nơng nghiệp hàng hố trên hai mặt: Phát triển lực lượng sản xuất và mở rộng quan hệ sản
xuất tư bản chủ nghĩa. Khi phát triển lực lượng sản xuất nó đã biến nghề nơng “thành một sự
ứng dụng nông học một cách khoa học và tự giác” (1). Và nhờ vào việc hợp lí hố nơng nghiệp
“lần đầu tiên đã tạo khả năng kinh doanh nông nghiệp theo phương thức xã hội” (2). Chính
vì vậy mà lực lượng sản xuất trong nông nghiệp tư bản chủ nghĩa đã tăng lên gấp bội so
với các phương thức sản xuất trước đó. Khi mở rộng quan hệ sản xuất thì quan hệ đất đai

tư bản chủ nghĩa đã tiến tới tách quyền sở hữu ruộng đất khỏi quyền kinh doanh ruộng đất,
biến sở hữu ruộng đất thành sở hữu “thuần tuý” kinh tế. Và ngay dưới con mắt của nhà tư
bản cũng phải thừa nhận việc tư hữu “những mảnh địa cầu” của một nhóm chủ đất là “một
vật thừa vơ dụng và phi lí”.


Tuy nhiên, sự phát triển của chủ nghĩa tư bản trong nơng nghiệp có những điểm
khác so với lĩnh vực cơng nghiệp. Ở đây khơng diễn ra q trình tích tụ và tập trung tư
bản, khơng xố bỏ hồn tồn kinh tế hộ và trang trại gia đình vì đó là những tổ chức kinh
tế cơ sở quan trọng của nền nông nghiệp tư bản chủ nghĩa. Các tổ chức kinh tế này sở dĩ
tồn tại được vì nó có những ưu thế nhất định như: tận dụng được lao động nhàn rỗi trong
gia đình, tiết kiệm được chi phí sản xuất… Bên cạnh đó, việc tồn tại bộ phận kinh tế này
cũng tạo điều kiện cho tư bản tập trung vào cung ứng vật tư, tiêu thụ và chế biến nơng, sản
phẩm. Nó làm cho tư bản hoạt động có hiệu quả cao hơn và chi phối được người sản xuất.
Điều đó cho thấy kinh tế hộ và trang trại gia đình khơng phải là sự cản trở mà là một hình
thức phát triển của chủ nghĩa tư bản trong nông nghiệp.
2. Nguồn gốc và bản chất của địa tô tư bản chủ nghĩa.
a. Phạm trù địa tô
Địa tô là phạm trù xuất hiện trước chủ nghĩa tư bản, cơ sở của nó là quyền sở hữu
ruộng đất được thực hiện về mặt kinh tế, phản ánh mối quan hệ giữa người với người đối
với ruộng đất. Trong xã hội phong kiến đã tồn tại địa tơ, nó là hình thức bóc lột chủ yếu
của chủ đất đối với nơng nơ và tá điền. Địa tơ phong kiến có ba hình thức:
- Tơ lao dịch, là loại địa tơ mà người nông dân cấy rẽ ruộng đất, phải đem sức lao
động, đem súc vật và nông cụ của gia đình mình đến làm việc trên ruộng đất của địa chủ
với phần lớn thời gian trong năm.
- Tô hiện vật, là số lượng nông sản phẩm mà người nông dân cấy rẽ ruộng đất phải
nộp cho địa chủ để được quyền canh tác ruộng đất trong một thời gian nhất định. Đây là
hình thức địa tơ đã phát triển cao hơn địa tô lao dịch.
- Tô tiền, là số tiền mà người thuê đất phải trả cho địa chủ để được quyền canh tác
ruộng đất trong một khoảng thời gian nhất định. Đây là hình thức địa tơ khi kinh tế hàng hố

đã phát triển ở trình độ cao, do đó nó là hình thức địa tơ cuối cùng của xã hội phong kiến.
Dưới chủ nghĩa tư bản, nông nghiệp cũng đã trở thành lĩnh vực để tư bản đầu tư
kinh doanh. Song do còn tồn tại chế độ độc quyền sở hữu ruộng đất nên để tiến hành kinh
doanh nhà tư bản phải vừa đi thuê ruộng đất của địa chủ vừa mua sức lao động của công
nhân nông nghiệp. Số tiền mà nhà tư bản phải trả cho địa chủ (theo hợp đồng) để được sử
dụng ruộng đất trong một thời gian nhất định là địa tô tư bản chủ nghĩa.
Khi nền nông nghiệp bị phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa thống trị đã xuất hiện
các loại địa tô: địa tô nông nghiệp, địa tô đất xây dựng, địa tô hầm mỏ, địa tô độc quyền…
Song với phương pháp trừu tượng hoá khoa học, khi nghiên cứu địa tô, C. Mác chỉ giới hạn
trong phạm vi ngành sản xuất lương thực, cụ thể là sản xuất lúa mì. Vì lĩnh vực này ni
sống con người, ni sống cả một dân tộc. Như vậy, các loại địa tơ khác chỉ là hình thức đặc
biệt của địa tơ tư bản chủ nghĩa gắn với những điều kiện cụ thể.
b. Nguồn gốc và bản chất địa tô tư bản chủ nghĩa.
Trong nông nghiệp tư bản chủ nghĩa, công nhân làm thuê là những người trực tiếp
canh tác ruộng đất và bị bóc lột. Trong q trình sản xuất, họ phải tạo ra giá trị thặng dư
cho nhà tư bản dưới hình thức lợi nhuận nơng nghiệp. Tồn bộ nơng phẩm thu được một
phần bù lại chi phí sản xuất, số cịn lại là lợi nhuận. Trong đó nhà tư bản được hưởng một
phần theo tỉ suất lợi nhuận bình quân tương ứng với lượng tư bản đầu tư, phần cịn lại nộp
cho địa chủ dưới hình thức địa tơ. Như vậy, khi kinh doanh nông nghiệp nhà tư bản phải
thu được một số lợi nhuận siêu ngạch ngoài lợi nhuận bình quân để nộp cho chủ đất.
Khoản lợi nhuận này phải được bảo đảm thường xuyên và tương đối ổn định. Đó chính là
địa tơ tư bản chủ nghĩa.


Địa tô tư bản chủ nghĩa là bộ phận lợi nhuận siêu ngạch ngồi lợi nhuận bình qn
mà nhà tư bản kinh doanh nông nghiệp phải nộp trả cho chủ sở hữu ruộng đất.
Bản chất của địa tô tư bản chủ nghĩa là một phần giá trị thặng dư nó được qui định
cả về mặt lượng và mặt chất. Về mặt lượng, địa tơ là phần ngồi lợi nhuận bình quân. Về
mặt chất, địa tô là phần giá trị thặng dư mà tư bản bóc lột của cơng nhân nơng nghiệp để
trả cho chủ đất.

Phạm trù địa tô tư bản chủ nghĩa phản ánh mối quan hệ thống nhất và đối lập giữa
“Ba giai cấp cấu thành cái bộ xương sống của xã hội cận đại - người công nhân làm thuê,
nhà tư bản công nghiệp và địa chủ”. (1) Địa tô tư bản chủ nghĩa biểu
hiện quan hệ giữa địa chủ với tư bản kinh doanh nông nghiệp trong việc chia nhau giá trị
thặng dư. Mặt khác nó phản ảnh quan hệ bóc lột giữa địa chủ và nhà tư bản với công nhân
làm thuê trong nông nghiệp.
Địa tô tư bản chủ nghĩa và địa tô phong kiến đều dựa trên cơ sở quyền sở hữu
ruộng đất được thực hiện về mặt kinh tế, đều là kết quả của sự bóc lột người lao động.
Tuy nhiên, giữa chúng có những điểm khác nhau căn bản:
- Về chất, địa tô tư bản chủ nghĩa phản ánh quan hệ giữa ba giai cấp: địa chủ, tư bản
nông nghiệp và công nhân làm thuê. Trong đó, địa chủ gián tiếp bóc lột công nhân nông
nghiệp thông qua tư bản thuê ruộng đất. Cịn địa tơ phong kiến chỉ phản ánh mối quan hệ
trực tiếp giữa hai giai cấp địa chủ và nông dân lĩnh canh (người cấy rẽ ruộng đất).
- Về lượng, địa tô tư bản chủ nghĩa là một phần giá trị thặng dư, cịn địa tơ phong
kiến gồm tồn bộ sản phẩm thặng dư, đơi khi cịn là một phần sản phẩm cần thiết (khi mất
mùa địa chủ không giảm mức tơ).
- Về hình thức, địa tơ tư bản chủ nghĩa là địa tơ tiền, cịn địa tơ phong kiến chủ yếu là
địa tô hiện vật và địa tô lao dịch. Địa tô phong kiến dựa trên cơ sở cưỡng bức siêu kinh tế,
người nơng nơ và gia đình họ bị lệ thuộc chặt chẽ vào địa chủ. Địa tô tư bản chủ nghĩa dựa
trên cơ sở các quan hệ kinh tế. Nhà tư bản thuê ruộng đất của địa chủ và mua hàng hoá sức
lao động trên thị trường đều theo nguyên tắc “thuận mua vừa bán”.
Địa tô tư bản chủ nghĩa tạo ra cái vẻ giả tạo, dường như những người sở hữu ruộng đất
khơng tham gia bóc lột lao động làm th, bởi vì cơng nhân nơng nghiệp chỉ có quan hệ trực
tiếp với những nhà tư bản thuê ruộng đất. Việc tư bản bóc lột người lao động cũng được nguỵ
trang bằng sự bình đẳng bề ngoài theo các quan hệ kinh tế nhất định.
II. CÁC HÌNH THỨC ĐỊA TƠ TƯ BẢN CHỦ NGHĨA.
Địa tơ mà chủ sở hữu ruộng đất thu được gồm những bộ phận thuộc các hình thức
khác nhau, bao gồm địa tơ chênh lệch và địa tô tuyệt đối.
1. Địa tô chênh lệch.
Để có thể phân tích địa tơ, trước hết phải giả thiết rằng: nông sản được bán theo giá cả

sản xuất như các hàng hóa khác. Điều này đảm bảo cho các nhà tư bản bù được chi phí sản
xuất và có lợi nhuận bình qn tương ứng với số tư bản đầu tư trong nông nghiệp.
Lợi nhuận siêu ngạch có cả trong lĩnh vực sản xuất cơng nghiệp và nơng nghiệp.Tuy
nhiên, trong cơng nghiệp nó chỉ là hiện tượng tạm thời khi những nhà tư bản cá biệt có
được điều kiện sản xuất tốt hơn mức trung bình của xã hội. Nhưng do cạnh tranh, các nhà
tư bản khác tìm mọi cách nâng cao trình độ kĩ thuật trong xí nghiệp của họ nên xố bỏ sự
chênh lệch này giữa các nhà tư bản làm cho lợi nhuận siêu ngạch bị san bằng đi. Trái lại,
trong nông nghiệp lợi nhuận siêu ngạch tồn tại thường xuyên và tương đối ổn định. Điều
đó bắt nguồn từ những lí do sau:
- Trong nông nghiệp, ruộng đất là tư liệu sản xuất chủ yếu nhưng diện tích lại có
hạn, vị trí và chất lượng khác nhau. Thực tế, người ta không thể tự tạo thêm được ruộng


đất, nhất là ruộng đất tốt, có điều kiện canh tác thuận lợi. Trong khi đó hầu hết ruộng đất
đã bị độc chiếm. Do vậy, những người kinh doanh ruộng đất tốt, có điều kiện thuận lợi sẽ
sử dụng được sức tự nhiên một cách độc quyền nên luôn thu được lợi nhuận siêu ngạch
tương đối ổn định, lâu dài.
- Khác với lĩnh vực công nghiệp, trong nông nghiệp giá cả sản xuất chung của nông
phẩm do điều kiện sản xuất xấu nhất quyết định. Bởi vì, nơng phẩm là sản phẩm thiết yếu
của đời sống con người, nếu chỉ canh tác trên ruộng đất tốt và trung bình thì sẽ không đủ
nông phẩm cho nhu cầu xã hội. Cho nên người ta phải canh tác trên cả những ruộng đất
xấu và ruộng đất khơng có vị trí thuận lợi. Khi đó giá cả sản xuất chung của nơng phẩm
phải đảm bảo cho những tư bản đầu tư ở những loại ruộng đất trên cũng thu được lợi
nhuận bình quân. Còn những tư bản đầu tư vào ruộng đất tốt, trung bình, có vị trí thuận lợi
sẽ đạt năng suất cao hơn. Khi bán theo giá cả sản xuất chung, ngồi lợi nhuận bình qn
cịn thu được lợi nhuận siêu ngạch để chuyển hố thành địa tơ. Số lợi nhuận siêu ngạch
này sẽ thuộc về chủ đất dưới hình thức địa tơ chênh lệch vì nó là kết quả của việc sử dụng
sức tự nhiên đã bị độc chiếm.
Như vậy, địa tô chênh lệch là phần lợi nhuận siêu ngạch (ngồi lợi nhuận bình qn)
thu được trên những ruộng đất có điều kiện sản xuất thuận lợi. Nó là số chênh lệch giữa giá

cả sản xuất chung của nông phẩm được quyết định bởi điều kiện sản xuất trên ruộng đất
xấu nhất và giá cả sản xuất cá biệt trên ruộng đất tốt, trung bình, có vị trí thuận lợi.
Ngun nhân trực tiếp làm cho lợi nhuận siêu ngạch chuyển hố thành địa tơ chênh
lệch là chế độ độc quyền kinh doanh ruộng đất của tư bản.
Độ màu mỡ và vị trí thuận lợi của ruộng đất khơng phải là nguồn gốc của địa tô tư
bản chủ nghĩa mà chỉ là cơ sở để lao động của công nhân nông nghiệp đạt năng suất cá
biệt cao hơn. Nguồn gốc duy nhất của lợi nhuận siêu ngạch mà nó chuyển hố thành địa tô
chênh lệch là từ lao động của người công nhân nông nghiệp. Theo C. Mác: “Lực lượng tự
nhiên ấy không phải là nguồn sinh ra lợi nhuận siêu ngạch, mà chỉ là cơ sở tự nhiên của lợi
nhuận siêu ngạch, vì nó là cơ sở tự nhiên của một sức sản xuất đặc biệt cao của lao
động.”(1)
Chế độ tư hữu ruộng đất không phải là nguyên nhân sinh ra lợi nhuận siêu ngạch mà
là nguyên nhân làm cho mọi lợi nhuận siêu ngạch chuyển hố thành địa tơ, tức là làm cho
địa chủ chiếm được lợi nhuận siêu ngạch đó.
* Các loại địa tơ chênh lệch.
Điều kiện sản xuất thuận lợi của ruộng đất có được là do các điều kiện tự nhiên hoặc
do kết quả của những lần đầu tư thâm canh. Trên cơ sở đó người ta phân biệt hai loại địa tô
chênh lệch: Địa tô chênh lệch I và địa tô chênh lệch II.
- Địa tô chênh lệch I.
Là loại địa tô thu được trên những ruộng đất có điều kiện tự nhiên thuận lợi (trung bình và
tốt) gần nơi tiêu thụ.
Điều kiện hình thành địa tơ chênh lệch I do hai ngun nhân chính: Độ phì nhiêu tự
nhiên và vị trí thuận lợi khác nhau của ruộng đất. Tuy nhiên hai nguyên nhân này khơng
sinh ra địa tơ chênh lệch I. Bởi vì, địa tơ cũng như tồn bộ giá trị thặng dư trong nông
nghiệp là do lao động thặng dư của công nhân nông nghiệp tạo ra. Ruộng đất màu mỡ và
gần thị trường tiêu thụ chỉ là điều kiện tự nhiên làm cho lao động của công nhân nông
nghiệp đạt năng suất cao hơn và đó là điều kiện hình thành lợi nhuận siêu ngạch.
Ví dụ 1: Địa tơ chênh lệch I thu được trên những ruộng đất có độ phì tự nhiên trung bình
và tốt.



Loại
đất

Xấu
Trung
bình
Tốt

Chi
phí

bản

Lợi
nhuận
bình
qn

Sản
lượng (tạ)

100
100

20
20

100


20

Giá cả sản xuất
cá biệt

Giá cả
sản xuất
chung
Của 1 tạ

Địa

chênh lệch
I

Của 1 tạ

Tồn bộ
sản phẩm

Của tồn
bộ
sản
phẩm

4
5

30
24


120
120

30
30

120
150

0
30

6

20

120

30

180

60

Ví dụ trên cho thấy, những ruộng đất tốt và trung bình sẽ thu được lợi nhuận siêu
ngạch so với ruộng đất xấu và khoản lợi nhuận đó thuộc về địa chủ dưới hình thức địa tơ
chênh lệch I.
Ví dụ 2:Địa tơ chênh lệch I thu được trên những ruộng đất có vị trí thuận lợi gần nơi
tiêu thụ, gần đường giao thơng.

Vị
trí
ruộng
đất

Chi
phí

bản

Lợi
nhuận
bình
qn

Sản
lượng
(tạ)

Chi
phí
vận
chuyển

Giá cả sản xuất
cá biệt
Của 1 tạ Của
tổng sản
phẩm


Giá cả sản xuất
chung
Của 1 tạ Của
tổng sản
phẩm

Địa tơ
chênh
lệch I

Gần thị
trường
Xa thị
trường

100

20

5

0

24

120

27

135


15

100

20

5

15

27

135

27

135

0

Ruộng đất có vị trí thuận lợi cũng đem lại địa tơ chênh lệch I vì tiết kiệm được chi
phí lưu thơng so với những ruộng đất ở xa thị trường. Khi bán nông phẩm theo cùng một
giá những người chi phí vận tải thấp sẽ thu được lợi nhuận siêu ngạch nhiều hơn so với
những người chi phí vận tải cao. Khoản lợi nhuận siêu ngạch này cũng chuyển hố thành
địa tơ chênh lệch I và thuộc về địa chủ.
Lưu ý: Hai điều kiện hình thành địa tơ chênh lệch I (độ màu mỡ và vị trí ruộng đất)
có thể phát sinh tác dụng đồng thời hoặc khơng. Thực tế có nhiều cách kết hợp hai yếu tố
này. Hơn nữa độ màu mỡ và vị trí thuận lợi của đất khơng phải là cố định mà phụ thuộc
vào tiến bộ của sản xuất, của khoa học công nghệ và sự phát triển của giao thông vận tải.

Việc tạo ra các đường giao thông mới cùng với các trung tâm dân cư và khu kinh tế mới đã
tác động đa dạng tới sự hình thành địa tô chênh lệch I.
- Địa tô chênh lệch II.
Là địa tô thu được do đầu tư thâm canh tăng năng suất mà có. Theo C. Mác: Thâm
canh trong nền nông nghiệp tư bản chủ nghĩa là đầu tư tư bản liên tiếp trên cùng một thửa
đất chứ không phải đầu tư tư bản phân tán trên các thửa đất khác nhau. Như vậy, thâm
canh ruộng đất là đầu tư thêm tư bản để tăng một cách hợp lý tư liệu sản xuất và sức lao
động vào một đơn vị diện tích, nhằm cải tạo đất đai, nâng cao chất lượng canh tác, tăng
năng suất và chất lượng sản phẩm. Đây là sự cố gắng chủ quan của người kinh doanh biết
thâm canh để có lợi nhuận siêu ngạch. Địa tô chênh lệch II là kết quả khác nhau của những
lần đầu tư tư bản nối tiếp nhau trên cùng một diện tích đất.
Ví dụ về việc hình thành địa tô chênh lệch II.
Lần
đầu



bản
đầu


Sản
lượng (tạ)

Giá cả
sản xuất
cá biệt

Giá cả sản xuất
chung

Của 1 tạ
Tổng
lượng

Lần đầu tư
thứ nhất
Lần đầu tư
thứ hai

100
100

Địa tô
chênh lệch II

4

25

25

100

0

5

20

25


125

25

sản


Cần lưu ý rằng, khi năng suất lần đầu tư thêm lớn hơn năng suất tư bản đầu tư trên
ruộng đất xấu nhất thì có được địa tơ chênh lệch II.
Vì lợi nhuận siêu ngạch thu được là kết quả của sự đầu tư thêm tư bản, cho nên
chừng nào thời hạn hợp đồng th đất vẫn cịn thì nó thuộc về nhà tư bản kinh doanh
ruộng đất, C. Mác gọi đó là địa tơ “tiềm thế”. Nhưng khi hợp đồng hết hạn thì địa chủ sẽ
tìm cách nâng mức thuê đất lên để chiếm lấy phần lợi nhuận siêu ngạch đó, biến nó thành
địa tơ chênh lệch II. Vì thế, chủ đất chỉ muốn cho thuê ngắn hạn còn nhà tư bản thì muốn
được thuê dài hạn. Do vậy, các nhà tư bản không muốn bỏ ra số vốn lớn để thâm canh mà
tìm cách khai thác triệt để độ màu mỡ của ruộng đất trong thời gian hợp đồng. C.Mác cho
rằng: Mỗi một bước tiến của nền nông nghiệp tư bản chủ nghĩa không những là một bước
tiến trong nghệ thuật bóc lột cơng nhân mà đồng thời, cịn là một bước tiến trong nghệ
thuật bóc lột đất đai. Sự giành giật giữa chủ đất và nhà tư bản th đất về khoản địa tơ
này đã có thời làm cho đất đai ngày càng bạc màu đi. Đó không phải là quy luật của tự
nhiên như một số nhà kinh tế học tư sản lầm tưởng, mà chính là xu hướng chịu sự tác động
của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa trong nông nghiệp.
Địa tô chênh lệch I và địa tô chênh lệch II đều là kết quả của sự hình thành lợi
nhuận siêu ngạch, nhưng giữa chúng có sự khác nhau căn bản:
- Địa tơ chênh lệch I gắn với điều kiện tự nhiên thuận lợi hơn, cịn địa tơ chênh lệch
II gắn với sự cố gắng chủ quan của nhà tư bản. Đây là quá trình đầu tư thâm canh để lần
đầu tư tiếp theo có hiệu quả cao hơn lần đầu tư trước đó.
- Địa tơ chênh lệch I tương ứng với khuynh hướng quảng canh, mở rộng diện tích.
Địa tơ chênh lệch II gắn với khuynh hướng thâm canh, nâng cao hiệu quả kinh tế trên một

đơn vị diện tích canh tác.
- Sự chuyển hố lợi nhuận siêu ngạch thành địa tơ cũng có những điểm khác nhau.
Lợi nhuận siêu ngạch chuyển hố thành địa tơ chênh lệch I đã được xác định trong hợp
đồng th đất.
Cịn việc chuyển hố lợi nhuận siêu ngạch thành địa tô chênh lệch II chỉ thực hiện
khi hợp đồng thuê đất đã hết hạn .
Xét về mặt lịch sử cũng như sự vận động của chúng ở mỗi thời kì nhất định thì địa
tơ chênh lệch I là cơ sở và điểm xuất phát của địa tô chênh lệch II. Địa tô chênh lệch I xuất
hiện trước cịn địa tơ chênh lệch II chỉ vận động trên cơ sở những ruộng đất canh tác đã có
địa tô chênh lệch I (quảng canh đi trước thâm canh). Cả hai loại địa tô này đều do sự
chênh lệch của giá cả sản phẩm và hiệu quả của các tư bản đầu tư ngang nhau. Kết quả đó
là do sự khác biệt về sự phì nhiêu của ruộng đất. Trong địa tơ chênh lệch I là độ phì tự
nhiên, cịn địa tơ chênh lệch II là độ phì nhân tạo.
2. Địa tơ tuyệt đối.
Q trình nghiên cứu địa tơ chênh lệch cho thấy dường như chỉ có những nhà tư bản
kinh doanh trên ruộng đất tốt, trung bình, có vị trí thuận lợi mới thu được lợi nhuận siêu
ngạch để nộp cho địa chủ dưới hình thức địa tơ. Nhưng trên thực tế, dù kinh doanh ở bất
kỳ ruộng đất nào, trong mọi điều kiện thì nhà tư bản vẫn phải nộp tơ. C. Mác gọi đó là địa
tơ tuyệt đối.
Vấn đề đặt ra là nhà tư bản kinh doanh trên ruộng đất xấu lấy đâu lợi nhuận siêu
ngạch để chuyển hố thành địa tơ nộp cho địa chủ? C. Mác đã phân tích, dưới chủ nghĩa tư
bản lĩnh vực nông nghiệp thường lạc hậu hơn so với lĩnh vực cơng nghiệp về kinh tế và kĩ
thuật. Vì vậy, cấu tạo hữu cơ của tư bản trong nông nghiệp thấp hơn trong cơng nghiệp.
Điều đó cho thấy, nếu tỉ suất giá trị thặng dư bằng nhau thì một tư bản ngang nhau đem


đầu tư vào nông nghiệp phải sử dụng nhiều lao động sống hơn, sẽ sinh ra nhiều giá trị
thặng dư hơn so với đầu tư vào cơng nghiệp.
Ví dụ: Về việc hình thành địa tơ tuyệt đối
Cấu tạo

hữu cơ
tư bản

Cơng nghiệp
700c + 300v
800c + 200v
900c + 100v
Nông nghiệp
600c + 400v

Tỉ suất
giá
trị
thặng dư

Giá trị
thặng


Giá trị
sản phẩm

Tỉ suất
lợi
nhuận
cá biệt
(%)

Tỉ suất
lợi

nhuận
bình
quân
(%)

Lợi
nhuận
bình
quân

Giá cả
sản
xuất
chung
của xã
hội

100%
100%
100%

300
200
100

1300
1200
1100

30

20
10

20
20
20

200
200
200

1200
1200
1200

100%

400

1400

40

20

200

1200

Giá cả

nông
phẩm

địa

tuyệt
đối

1400

200

Mặt khác, trong nền nông nghiệp tư bản chủ nghĩa, do còn chế độ độc quyền tư hữu
ruộng đất nên không cho phép tư bản tự do di chuyển vốn như trong cơng nghiệp. Nó ngăn
cản sự bình qn hố tỉ suất lợi nhuận giữa công nghiệp và nông nghiệp. Bởi vậy, nông
phẩm được bán theo giá trị chứ không phải bán theo giá cả sản xuất. Phần trội ra của giá
trị so với giá cả sản xuất nông phẩm là nguồn gốc địa tô tuyệt đối.
Vậy, địa tô tuyệt đối là phần lợi nhuận siêu ngạch ngoài lợi nhuận bình quân hình
thành do cấu tạo hữu cơ của tư bản trong nông nghiệp thấp hơn trong công nghiệp mà bất
cứ nhà tư bản thuê đất nào cũng đều phải nộp cho địa chủ.
Độc quyền tư hữu ruộng đất là nguyên nhân làm cho lợi nhuận siêu ngạch được
hình thành trong nông nghiệp và chuyển thành địa tô tuyệt đối. C. Mác là người đầu tiên lí
giải sự tồn tại của địa tô tuyệt đối một cách hợp lý và khoa học. Vì ơng đã thấy được đặc
thù của ngành nông nghiệp trong sự vận động chung của nền nông nghiệp tư bản chủ
nghĩa.
Trong thực tế, lượng địa tô tuyệt đối là toàn bộ số chênh lệch giữa giá trị và giá cả
sản xuất hay chỉ bằng một phần (lớn hoặc nhỏ) của số chênh lệch ấy, tuỳ thuộc vào quan
hệ cung - cầu nơng phẩm. Có thể giá cả nông phẩm cao hơn giá cả sản xuất nhưng vẫn
thấp hơn giá trị của chúng. Như thế, khơng có nghĩa giá cả đắt lên là nguyên nhân sinh ra
địa tô mà chính địa tơ là ngun nhân làm cho giá cả nông phẩm đắt lên. Đối với xã hội,

sự đắt lên của giá cả nông phẩm chỉ gây thiệt hại cho người tiêu dùng còn đối với giai cấp
địa chủ thì đó là nguồn gốc làm giàu của chúng.
Tính chất lịch sử của địa tô tuyệt đối gắn liền với quyền sở hữu tư nhân về ruộng
đất. Do đó, nếu khơng cịn chế độ độc quyền tư hữu ruộng đất thì loại địa tơ này sẽ bị xố
bỏ, giá cả nơng phẩm sẽ hạ xuống có lợi cho người tiêu dùng.
Giữa địa tô chênh lệch và địa tô tuyệt đối có sự giống và khác nhau.
- Giống nhau: Cả hai loại địa tô này đều là lợi nhuận siêu ngạch, đều có chung
nguồn gốc và bản chất là một bộ phận giá trị thặng dư do lao động không của cơng nhân
nơng nghiệp tạo ra. Vì vậy, chúng đều phản ánh quan hệ bóc lột tư bản chủ nghĩa.
- Khác nhau: Nếu như nguyên nhân sinh ra địa tô chênh lệch là độc quyền kinh
doanh ruộng đất của tư bản thì đối với địa tơ tuyệt đối lại là độc quyền sở hữu ruộng đất
của địa chủ. Điều kiện hình thành địa tô chênh lệch là độ màu mỡ và vị trí thuận lợi của
ruộng đất cịn với địa tơ tuyệt đối lại là cấu tạo hữu cơ của tư bản trong nông nghiệp thấp
hơn trong công nghiệp. Địa tô chênh lệch khơng tham gia hình thành giá trị nơng phẩm
cịn địa tơ tuyệt đối lại tham gia hình thành giá trị nông phẩm.


Ngồi hai loại địa tơ trên, C. Mác cịn đề cập tới địa tô độc quyền (gồm cả địa tô đất
xây dựng, địa tơ hầm mỏ...). Nó là loại địa tơ thu được trên loại ruộng đất có điều kiện đặc
biệt, có khả năng sản xuất những nơng phẩm q hiếm do đó có thể độc quyền định giá để
thu lợi nhuận độc quyền cao. Theo C. Mác, bất kì ở đâu có sức tự nhiên bị độc chiếm, có
lợi nhuận siêu ngạch, thì ở đó đều bị những kẻ sở hữu đất đai chiếm đoạt địa tô.
Thực ra địa tô độc quyền cũng là một dạng địa tô chênh lệch I, nó là kết quả của
việc chiếm hữu những loại ruộng đất có điều kiện đặc biệt thuận lợi.
3. Giá cả ruộng đất.
Theo lí luận giá trị, nếu khơng kể tới những cơng trình do lao động của con người
gắn vào đất đai thì bản thân ruộng đất khơng có giá trị. Bởi vì, đất đai nếu xét một cách
thuần t tự nhiên thì khơng phải là sản phẩm của lao động, khơng có lao động kết tinh
trong đó. Nhưng trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, ruộng đất khơng chỉ là đối tượng cho
th mà cịn được đem bán như những hàng hố khác nên nó có giá cả. Sự thực giá cả

ruộng đất không phải là biểu hiện giá trị của nó bằng tiền mà chỉ phản ánh mối quan hệ
kinh tế phát sinh đặc biệt.
Giá cả ruộng đất, xét về thực chất chính là địa tơ tư bản hố. Nghĩa là, người bán
ruộng đất trên cơ sở tính tốn để số tiền có được nếu gửi vào ngân hàng với mức lãi suất
hiện hành thì ít nhất hàng năm cũng thu được một khoản tiền bằng số địa tơ từ mảnh đất đó.
Cơng thức tính giá cả ruộng đất.
Giá cả ruộng đất =

R
z'

Trong đó: R là địa tô hàng năm
Z’ là tỉ suất tiền gửi ngân hàng
Ví dụ: Một mảnh ruộng A cho thuê, địa tô hàng năm thu được là 1.500 đô la Mĩ, tỉ
suất lợi tức ngân hàng 5% năm thì mảnh ruộng này được bán với giá:
1500USD
x 100% = 30.000USD
5

Nếu đem 30.000 USD gửi vào ngân hàng theo lãi suất 5% năm thì vẫn nhận được
lợi tức là: 1.500USD, bằng số địa tô thu được khi cho thuê đất.
Như vậy, giá cả ruộng đất tỉ lệ thuận với địa tô và tỉ lệ nghịch với lợi tức tiền gửi
ngân hàng. Ngoài ra cung - cầu về đất đai cũng ảnh hưởng đến giá cả ruộng đất.
Lí luận địa tơ của C. Mác không chỉ vạch rõ bản chất quan hệ sản xuất tư bản chủ
nghĩa trong nơng nghiệp mà cịn là cơ sở khoa học để xây dựng các chính sách kinh tế
liên quan đến thuế, đến việc điều tiết các loại địa tô giải quyết các quan hệ đất đai...
Nhằm kết hợp hài hồ các lợi ích, khuyến khích thâm canh, sử dụng đất đai tiết kiệm, phát
triển một nền nông nghiệp hàng hoá bền vững.




×