Tải bản đầy đủ (.doc) (4 trang)

Một số trao đổi về giảng dạy học phần chuyên ngành theo học chế tín chỉ tại bộ môn Kỹ thuật ô tô - TS. Lê Bá Khang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (61.26 KB, 4 trang )

MỘT SỐ TRAO ĐỔI VỀ GIẢNG DẠY HỌC PHẦN CHUYÊN NGÀNH
THEO HỌC CHẾ TÍN CHỈ TẠI BỘ MƠN KỸ THUẬT Ô TÔ.
TS. Lê Bá Khang – Bộ môn Kỹ thuật ô tô
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Chúng ta đã và đang triển khai đào tạo theo hệ thống tín chỉ. Tuy nhiên, việc dạy và học
theo hình thức này như thế nào là vấn đề được khá nhiều cán bộ giảng dạy, học sinh-sinh viên
Nhà trường quan tâm.
Trong lúc chưa có bất cứ tài liệu hướng dẫn thực hiện, chúng tôi xin trao đổi một số vấn đề
theo quan điểm cá nhân. Bởi vậy, chắc chắn sẽ còn nhiều điều phải bàn, rất mong nhận được sự
góp ý của q thầy cơ và các bạn đồng nghiệp.
II. ĐẶC ĐIỂM CỦA ĐÀO TẠO THEO HỆ THỐNG TÍN CHỈ
Đào tạo theo hệ thống tín chỉ thực chất là đáp ứng nhu cầu phát triển của xã hội và xã hội
hóa về nhân lực lao động. Với hai đặc điểm lớn nhất chi phối đến quá trình đào tạo:
Thứ nhất: Thời lượng giảng dạy giảm trong khi khối lượng kiến thức không giảm mà vẫn
phải đảm bảo và nâng cao chất lượng đào tạo.
Thứ hai: Lấy sinh viên, học sinh làm trung tâm
Ngoài ra, quá trình đào tạo này qui định thời gian giảng dạy 50 phút / 1tiết học, một buổi
học nghỉ giải lao giữa giờ 20 phút, học theo lớp đăng ký môn học của sinh viên, sinh viên có thể
chọn giáo viên…vv
Riêng với ngành Cơng nghệ kỹ thuật ơ tơ có đặc điểm: số lượng sinh viên không đông
cỡ 30 – 40 SV /lớp. Sinh viên có cá tính.
III. GIẢNG DẠY CÁC HỌC PHẦN CHUN MƠN THEO HỆ THỐNG ĐÀO TẠO TÍN
CHỈ
Theo cá nhân tôi: đào tạo ở bậc đại học là hướng người học đến việc tự học, tự nghiên cứu,
học suốt đời hay nói cách khác là tạo cho người học phương pháp tìm tịi, nghiên cứu tiếp cận
kiến thức, tri thức.
Giảng dạy theo hệ thống tín chỉ được xác định là giảng dạy theo vấn đề và dựa trên các nội
dung đề cương chi tiết học phần đã được công bố để tổ chức giảng dạy. Như vậy, một học phần
có thể có nhiều giảng viên giảng dạy nhưng nội dung kiến thức, kỹ năng đạt được của sinh viên
là như nhau.
Đối với sinh viên, dựa trên khả năng, tiêu chí của mình và đề cương chi tiết các học phần


để chọn, đăng ký học phần phù hợp, từ đó thiết lập, hoạch định chương trình học tập, nghiên cứu
nhằm đạt kết quả cao nhất.
Những vấn đề trao đổi có tính khoa học, định hướng đúng đắn nêu trên theo tơi đó là cơ sở
hết sức cần thiết. Tuy nhiên, trên thực tế việc triển khai áp dụng và kết quả của nó tùy thuộc rất
nhiều vào từng trường hợp cụ thể. Vấn đề cần bàn sâu ở đây là trong điều kiện hiện nay với khả
năng ngày một đáp ứng tốt hơn của Nhà trường về chương trình, trang thiết bị phục vụ giảng dạy
thì việc cịn lại ở người thầy và người học.

1


Thầy dạy như thế nào, trò phấn đấu học tập ra sao để khi ra trường đạt kết quả học tập xuất
sắc, giỏi, khá, giảm loại trung bình, yếu, kém”. Đó cũng chính là nội dung then chốt của việc
đảm bảo và nâng cao chất lượng đào tạo.
Người thầy, trước hết đó là sự say mê, yêu nghề, gắn bó với Nhà trường, quan tâm sinh
viên…vv tất cả điều đó cần được thể hiện từ những việc làm gần gũi, thực tế nhất đó là làm sao
để bài giảng ngày một cập nhật phong phú hơn, truyền thụ hấp dẫn, lơi cuốn hơn.
Làm được điều đó dựa trên tính tự giác, chủ động trong việc học tập nâng cao trình độ
chuyên môn, ngoại ngữ, tin học, thường xuyên tiếp cận thực tế, kết hợp đổi mới phương pháp
giảng dạy, đánh giá…. Tuy nhiên, cần phải nhìn nhận thẳng thắn rằng, hiện nay rất nhiều giảng
viên (khơng muốn nói là hầu hết) đang duy trì phương pháp giảng dạy truyền thống là chủ yếu.
Việc giảng dạy này có nhiều ưu điểm nhưng cũng khơng ít hạn chế. Một trong những hạn chế đó
là truyền đạt kiến thức cho sinh viên dựa trên những gì thầy có, mang tính hàn lâm, bảo thủ,
khơng ít phần trừu tượng, khó hiểu, chưa phát huy được tính chủ động học tập của sinh viên.
Hiện nay, sự phát triển bùng nổ về công nghệ thông tin, việc tìm kiếm các tài liệu để cập
nhật, việc sử dụng các phần mềm làm trực quan sinh động bài giảng… là khơng khó, phương
tiện, thiết bị mới hiện đại khơng hiếm, có thể tiếp cận được.
Để dạy học theo vấn đề, đối với các học phần chuyên môn yêu cầu thầy phải có kiến thức
khá tổng hợp, vững vàng về các nội dung liên quan từ học phần cơ sở, và thực tế, điều này không
phải thầy nào cũng có được. Và giảng dạy ở đây phải xác định là dạy theo hình thức mở, tức là

giảng và dạy các kiến thức cốt lõi mới đủ thời gian qui định, từ kiến thức này có thể làm tiền đề
cho việc giải quyết các nội dung liên quan và cả ở mức độ rộng hơn. Chính điều đó người thầy
đã chuyển đổi sang dạy năng lực nhận thức, năng lực tư duy.
Riêng vấn đề dạy kỹ năng cho sinh viên có những nội dung khác nhau:
- Kỹ năng đọc, phân tích bản vẽ và tính tốn: nhìn chung sinh viên ngành Cơng nghệ kỹ
thuật ơ tơ cịn khá hạn chế trong việc vẽ kỹ thuật, đọc và phân tích bãn vẽ. Riêng tính tốn, trong
từng vấn đề các thầy cơ cần phải yêu cầu sinh viên sử dụng, áp dụng phần mềm tính tốn phù
hợp như: Excel, AutoCAD, SAP, Flash, Solidworks…để tính, vẽ, mơ phỏng…vv. Các phần mềm
này theo chúng tôi nếu được cần giúp, hỗ trợ cho các em ở học kỳ thứ 3, thứ 4.
- Kỹ năng vận hành, kiểm tra, bảo dưỡng, sữa chữa thiết bị: kỹ năng này đòi hỏi người học
phải được tiếp cận, được tham gia công việc cụ thể với khối lượng và thời gian nhất định. Nếu
thực hiện tốt, tạo điều kiện cho sinh viên ra trường tiếp cận nhanh với công việc. Hiện tại sinh
viên của ngành cịn gặp nhiều khó khăn trong vấn đề này. Có lẽ do máy móc, thiết bị, phụ tùng,
dụng cụ cịn q ít, lạc hậu (từ ngày thành lập BM mới được đầu tư thiết bị với khoảng trên 300
triệu VNĐ và 2 ô tô 4 chỗ thanh lý). Trong lúc, muốn đạt được kỹ năng này phần chủ yếu phải
thực tập tại các cơ sở trong Trường.
- Kỹ năng viết, tổng hợp, trình bày một vấn đề: hạn chế lớn nhất đó là thầy cô chỉ chú tâm
giảng dạy chuyên môn cho sinh viên, cịn góp ý cho sinh viên về câu chữ, tác phong, cách diễn
đạt, trình bày, hoặc thuyết trình một vấn đề mang tính khoa học, lơgíc có tính thuyết phục...vv
chưa nhiều. Sinh viên chuẩn bị ra trường viết một đơn xin việc, một tờ trình ... khơng nổi, chữ
nghĩa ngệch ngoặc, văn vẻ vụng về. Dù hết sức sức ngạc nhiên nhưng đó là thực tế.

2


Chúng tôi đang thử nghiệm áp dụng:
Thứ nhất: kết hợp giữa học lý thuyết có sử dụng các phần mềm mô phỏng và tăng cường
kỹ năng thực hành, bằng cách sau một số giờ dạy lý thuyết trên giảng đường tổ chức cho sinh
viên xuống xưởng thực hành tiếp cận, nghiên cứu…. Tại xưởng thực hành chính thầy dạy lý
thuyết kết hợp với thầy dạy thực hành hướng dẫn cho sinh viên thực hành, nghiên cứu (nếu có

projecter và các đĩa dữ liệu mô phỏng nguyên lý, tháo lắp cơ cấu, hệ thống… thì việc tiếp cận
của sinh viên với thực tế sẽ rất nhanh và hiệu quả. Lý do chính ở đây, các em có thể tự giải đáp
những nội dung khó hiểu trong điều kiện có thầy và máy móc, thiết bị ngay bên cạnh).
Thứ hai, nếu được trong lúc giải pháp “đổi mới phương pháp giảng dạy – đánh giá “ đã tổ
chức thực hiện, đang tiến hành tổng kết, đúc rút kinh nghiệm, chúng tôi đề xuất giải pháp “ điều
chỉnh ngược hay tự điều chỉnh”.
Cơ sở chủ đạo của giải pháp này xuất phát từ đề thi kết thúc học phần. Mỗi đề thi học phần
chun mơn nên phải có kiến thức lý thuyết và áp dụng thực tế (các học phần khác có thể linh
hoạt vận dụng như kết hợp lý thuyết và bài tập ứng dụng…). Như vậy, cần tăng cường công tác
xây dựng ngân hàng đề thi, kiểm tra, chấm thi, lấy phiếu góp ý từ sinh viên…vv trong đó việc
xây dựng đề thi, tổ chức chấm thi đóng vai trị cực kỳ quan trọng, quyết định hiệu quả của giải
pháp. Việc làm này cần làm thí điểm trước khi triển khai rộng khắp và phải chấp nhận sự thay
đổi có tính quyết liệt.
Chúng tôi đang rất băn khoăn, giảng dạy theo chủ đề có thực chất, hay là sự chuyển đổi
một cách linh hoạt, hình thức. Bộ phận chức năng duy trì sự giám sát, đánh giá như thế nào để
tạo động lực cho q trình đào tạo hệ thống tín chỉ. Có thể nói vẫn phải dựa vào sự đổi mới một
cách thiết thực của người thầy.
Ngoài đổi mới phương pháp giảng dạy, người thầy cần phải thay đổi cách đánh giá, và sẽ
kéo theo sự thay đổi ý thức, cách học của sinh viên. Theo tôi dựa vào bốn tiêu chí đánh giá như
sau:
• Tham gia học trên lớp: đầy đủ, tích cực trao đổi, thảo luận…đánh giá sinh viên ở tính
chuyên cần, ý thức, tính tích cực yêu ngành nghề, ham hiểu biết. Nội dung này có thể chiếm tỉ
trọng cỡ 5% .
• Tự nghiên cứu: đây là nội dung quan trọng bậc nhất bởi giảng dạy theo vấn đề, giảng
viên phần lớn phân bổ thời gian tự nghiên cứu cho sinh viên (như điều bắt buộc). Và đây là cơ sở
cho hoạt động nhóm (trình bày kỹ ở phần sau). Nhưng làm sao để kiểm tra, giám sát ? giải pháp
chủ động đó là giao cơng việc cụ thể như các chủ đề thảo luận, bài tập hay tìm hiểu, đề xuất ý
tưởng … sau đó kiểm tra, chấm nội dung đó. Tỉ trọng phần này cỡ 20% .
• Hoạt động nhóm: nếu giảng viên phân cơng chủ đề cho nhóm sinh viên, sinh viên đã có
phần tự nghiên cứu theo nội dung được giao của nhóm trưởng thì phần cịn lại của cơng việc hoạt

động nhóm là tích hợp các phần chuẩn bị. Khi trình bày, có thể cử một sinh viên nắm vững nhất,
hoặc hãy để mỗi thành viên của nhóm thuyết trình theo nội dung cá nhân chuẩn bị, nhóm trưởng
có thể tóm tắt chung cho nhóm. Vận dụng cách nào là tùy thuộc khả năng của nhóm sinh viên.
Nhưng cách thứ hai có nhiều ưu điểm hơn, nó yêu cầu và đánh giá thực chất hoạt động của mỗi
sinh viên đồng thời nhóm trưởng phải thể hiện khả năng của mình nhiều hơn. Và câu hỏi nhận

3


được từ sinh viên cũng như góp ý của giảng viên sẽ cụ thể, đến được nhiều sinh viên hơn. Phần
đánh giá này thiên về sự hợp tác tập thể nhóm và nên có qui định trước cách đánh giá cho điểm,
nêu cao sự cơng bằng, có thể thay một bài kiểm tra, tỉ trọng cỡ 15%.
• Kiểm tra đánh giá giữa kỳ hoặc cuối kỳ: tùy thuộc vào thời lượng của học phần mà nội
dung này được tiến hành (áp dụng với các học phần 3 tín chỉ trở lên), hình thức viết, tỉ trọng cỡ
10%.
Như vậy, tổng tỉ trọng cho phần đánh giá nói trên chiếm 50%, cịn lại 50% là điểm thi kết
thúc học phần bằng hình thức viết hoặc vấn đáp hoặc tiểu luận.
Vấn đề sinh viên, nội dung cơ bản nhất làm sao xây dựng được ý thức tự giác, cần cù, chịu
khó rèn luyện, học tập, định hướng sự nghiệp tương lai. Hiện tại, khá nhiều sinh viên khơng rõ
có xác định được mục tiêu học tập hay do khả năng có hạn (chất lượng đầu vào) mà kết quả học
tập hết sức hạn chế, yếu kém. Trong điều kiện, yêu cầu giảng dạy theo hệ thống tín chỉ, lấy người
học làm trung tâm thì vấn đề ý thức tự giác của mỗi sinh viên để tự học tập nghiên cứu, để hoạt
động nhóm… cần đặt ở tầm cao và quan trọng hơn. Giải pháp hữu hiệu nhờ vào sự quan tâm
giúp đỡ, kiểm tra đôn đốc thông qua nội dung học tập và sự thuyết phục lẫn hình thức răn đe của
thầy. Và rất cần sự giáo dục của đoàn thanh niên kết hợp với gia đình sinh viên.
Trên đây là một số suy nghĩ của cá nhân, cùng hướng đến vấn đề lớn của Nhà trường trong
giai đoạn sắp tới. Rất mong nhận được ý kiến, trao đổi của quí thầy, các bạn và sinh viên ngành
Công nghệ kỹ thuật ô tô.
Chân thành cảm ơn.


4



×