Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

Bài giảng Xây dựng lực lượng dân quân tự vệ, dự bị động viên và động viên công nghiệp quốc phòng - CĐ Nghề số 3

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (322.01 KB, 30 trang )

.

BỘ QUỐC PHÒNG
TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ SỐ 23
-----  -----

BÀI GIẢNG
XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG DÂN QUÂN TỰ VỆ,
DỰ BỊ ĐỘNG VIÊN VÀ ĐỘNG VIÊN CƠNG NGHIỆP QUỐC PHỊNG
(Dùng cho giảng dạy sinh viên trình độ Cao đẳng, Trung cấp)

Huế, 30 tháng 05 năm 2017
1


SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA LỰC LƯỢNG DQTV.
1. Trong giai đoạn vận động cách mạng (1930 - 1944).
Đảng chủ trương tổ chức cơ sở chính trị đi đơi với tổ chức các tiểu đội tự vệ để
bảo vệ cơ sở chính trị, bảo vệ cán bộ cách mạng, hỗ trợ quần chúng đấu tranh đòi
dân sinh, dân chủ. Giai đoạn chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền cách mạng
(8/1945) các đội du kích Bắc Sơn, Đình Cả, Vũ Nhai lần lượt được ra đời. Nhiều
chiến sĩ du kích ưu tú đã được đứng vào hàng ngũ của Đội Việt Nam tuyên truyền
giải phóng quân. Trong cách mạng tháng 8/1945, lực lượng du kích, tự vệ đã đóng
vai trị chủ yếu hỗ trợ quần chúng tiến hành tổng khởi nghĩa giành chính quyền
2. Trong kháng chiến chống Pháp (1945 - 1954).
Thực hiện lời kêu gọi của Bác Hồ “mỗi người dân là một chiến sĩ, mỗi làng bản
là một pháo đài“, lực lượng du kích đã phát triển lớn mạnh khơng ngừng, đã thật sự
là lực lượng nịng cốt cho toàn dân đánh giặc thực hiện thắng lợi “trường kỳ kháng
chiến”. Lực lượng du kích đã tiêu hao, tiêu diệt nhiều địch (70 % tổng số địch bị
loại), kìm giữ, phân tán buộc địch sa lầy, hỗ trợ cho quần chúng đấu tranh giành
độc lập.


Chiến tranh du kích đã được hình thành và từng bước phát triển, phong trào du
kích đã được đẩy mạnh hơn bao giờ hết, nhiều đội du kích trên khắp mọi miền đất
nước của mọi người dân (già, trẻ, gái, trai) đã đánh cho quân Pháp ở mọi lúc, mọi
nơi, làm cho chúng ăn không ngon, ngủ khơng n. Biết bao chiến sĩ du kích ưu tú
được bổ sung cho quân đội để thành lập các đơn vị chủ lực đầu tiên. Nhiều đội dân
quân đã trở thành lực lượng nòng cốt trong các đội dân công phục vụ chiến đấu,
phục vụ chiến dịch. Dân quân ,du kích đã cùng với bộ đội chủ lực, bộ đội địa
phương làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ chấn động địa cầu.
3. Trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954 - 1975).
a. Tại miền Nam.
Lực lượng Du kích được phát triển từ phong trào Đồng Khởi Bến Tre năm
1960 và không ngừng lớn mạnh qua các giai đoạn: Chiến tranh đặc biệt, Chiến
tranh cục bộ và Việt Nam hoá chiến tranh với nhiều cách đánh phong phú với
nhiều loại vũ khí sáng tạo. Các đội du kích chính là lực lượng bám dân, bám địa
bàn cơ sở giúp cho Bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương nắm tình hình địch, theo dõi
các quy luật hoạt động của Mỹ - Ngụy, tổ chức trinh sát để có những kế hoạch
chiến đấu giành thắng lợi to lớn.
b. Tại miền Bắc.
Thực hiện chỉ thị 119 của Ban Bí thư TƯ về tăng cường chỉ đạo xây dựng và
hoạt động của DQTV đã tạo ra chuyển biến trong các cấp, các ngành. Phong trào
DQTV được củng cố và phát triển cả về số lượng và chất lượng (đạt 10 -12% theo
dân số miền Bắc ). DQTV đã góp phần quan trọng đánh bại âm mưu thả biệt kích
ào ạt của địch, diệt và bắt sống 90% số vụ biệt kích địch tung ra miền Bắc. Trong
chiến tranh phá hoại của địch, DQTV đã bắn rơi 400 máy bay, bắn chìm 1.000 tàu
chiến địch, làm nịng cốt trong phong trào phịng khơng nhân dân, khắc phục hậu
quả đánh phá của địch bảo đảm giao thông chiến lược, cùng với công an nhân dân
giữ gìn ANCT - TT ATXH.
4. Sau ngày thống nhất đất nước.
2



Thực hiện nghị định số 83/CP ngày 05/03/1979 của Thủ tướng Chính phủ về
qn sự hố tồn dân, vũ trang hố tồn dân. Tất cả các xã, phường, nhà máy, xí
nghiệp, cơng nơng trường, cơ quan trường học đều được qn sự hố. Thời kỳ này,
DQTV trên cả nước có bước phát triển đặc biệt chưa từng có so với các thời kỳ
trước đó, thể hiện khá đầy đủ phương châm “ Vững mạnh và rộng khắp”.
Trong thời kỳ 1980-1986, nền kinh tế của đất nước có nhiều khó khăn đồng
thời DQTV cũng chậm đổi mới nên nhiều nơi phong trào sa sút nghiêm trọng,
nhưng sau hội nghị toàn quốc bàn về xây dựng DQTV và quân Dự bị vào tháng
7/1989 (thực hiện chỉ thị 55 Ban Bí thư TW, nghị định 29/ HĐBT, điều lệ DQTV),
lực lượng DQTV có bước chuyển biến về chất, đang tiếp tục tháo gỡ những khó
khăn và phát triển đi lên.
Năm 1990, 1996, Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã tiến hành ban hành Pháp lệnh
về DQTV, Chính phủ có nghị định và Bộ Quốc phịng cùng với các Bộ để ra thơng
tư hướng dẫn cụ thể thi hành pháp lệnh.
Tóm lại: Qua các giai đoạn cách mạng, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản
Việt Nam, DQTV được tổ chức trên cơ sở lực lượng chính trị của quần chúng,
phong trào có lúc thăng, lúc trầm nhưng nhìn chung vẫn phát triển đi lên, giai đoạn
sau cao và phong phú hơn giai đoạn trước, đã phát huy tác dụng to lớn trong các
cuộc chiến tranh giải phóng, chiến tranh bảo vệ Tổ quốc và trong công cuộc đấu
tranh cách mạng của dân tộc.

B. NỘI DUNG GIẢNG DẠY
Phần 1. XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG DÂN QN TỰ VỆ (DQTV).
I. Khái niệm, vị trí vai trị và nhiệm vụ của lực lượng DQTV.
1. Khái niệm.
Dân quân tự vệ là lực lượng vũ trang quần chúng không thốt ly sản xuất, cơng
tác; là thành phần của lực lượng vũ trang nhân dân nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam; là lực lượng bảo vệ Đảng, bảo vệ chính quyền, bảo vệ tính mạng,
tài sản của nhân dân, tài sản của Nhà nước, làm nòng cốt cùng tồn dân đánh giặc

ở địa phương, cơ sở khi có chiến tranh. Lực lượng này được tổ chức ở xã, phường,
thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã) gọi là dân quân; được tổ chức ở cơ quan của
3


Nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, đơn vị sự nghiệp, tổ chức
kinh tế (sau đây gọi chung là cơ quan, tổ chức) gọi là tự vệ.
Nội dung khái niệm.
+ Vừa có nghĩa vụ xây dựng đất nước vừa có nghĩa vụ tham gia bảo vệ Tổ
quốc.
+ Là một trong các thành phần của lực lượng vũ trang nhân dân, được tổ chức
rộng rãi trong phạm vi toàn quốc.
+ Đặt dưới sự lãnh đạo của cấp uỷ Đảng, sự quản lý, điều hành của chính
quyền, sự chỉ huy thống nhất của quân đội mà trực tiếp là cơ quan quân sự địa
phương các cấp.
+ Lực lượng này được tổ chức ở xã, phường, thị trấn gọi là dân quân, ở cơ quan
nhà nước, đơn vị sự nghiệp, tổ chức kinh tế, tổ chức chính trị, tổ chức CTXH gọi
là tự vệ.
2. Vị trí, vai trò.
- Dưới sự lãnh đạo của Đảng, DQTV là một lực lượng chiến lược trong chiến
tranh nhân dân, quốc phòng tồn dân, làm nịng cốt cho tồn dân đánh giặc bảo vệ
Tổ quốc, bảo vệ địa phương.
- Lực lượng DQTV là một trong những công cụ để bảo vệ độc lập chủ quyền,
thống nhất toàn vẹn lãnh thổ đất nước, bảo vệ Đảng, chính quyền, bảo vệ tính
mạng và tài sản của Nhà nước và nhân dân. Bởi vì trong tình hình hiện nay, tồn
Đảng, tồn dân, tồn qn ta thực hiện hai nhiệm vụ xây dựng CNXH và bảo vệ
Tổ quốc XHCN. Chúng ta phải đối phó với chiến lược “Diễn biến hồ bình”, Bạo
loạn lật đổ và sẵn sàng đánh thắng chiến tranh xâm lược của kẻ thù.
Đánh giá về vai trị DQTV, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói "DQTV và du kích là
lực lượng của tồn dân tộc, là lực lượng vô địch, là bức tường sắt của Tổ quốc.

Vô luận kẻ thù nào dù hung bạo đến đâu hễ đụng vào lực lượng đó, bức tường đó
thì địch nào cũng phải tan rã”.
3. Nhiệm vụ (6 nhiệm vụ).
- Sẵn sàng chiến đấu, chiến đấu và phục vụ chiến đấu để bảo vệ địa phương, cơ
sở; phối hợp với các đơn vị bộ đội biên phòng, hải quân, cảnh sát biển và lực
lượng khác bảo vệ chủ quyền, an ninh biên giới quốc gia và chủ quyền, quyền chủ
quyền trên các vùng biển Việt Nam.
- Phối hợp với các đơn vị Quân đội nhân dân, Công an nhân dân và lực lượng
khác trên địa bàn tham gia xây dựng nền QPTD, khu vực phòng thủ; giữ gìn an
ninh chính trị, trật tự, an tồn xã hội, bảo vệ Đảng, chính quyền, bảo vệ tính mạng,
tài sản của nhân dân, tài sản của Nhà nước.
- Thực hiện nhiệm vụ phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh,
tìm kiếm, cứu nạn, bảo vệ và phịng, chống cháy rừng, bảo vệ mơi trường và
nhiệm vụ phịng thủ dân sự khác.
- Tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện chủ trương, đường lối, chính sách
của Đảng, pháp luật của Nhà nước về quốc phòng, an ninh; tham gia xây dựng cơ
sở vững mạnh toàn diện, xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội tại địa phương, cơ
sở.
- Học tập chính trị, pháp luật, huấn luyện quân sự và diễn tập.
- Thực hiện các nhiệm vụ khác theo quy định của pháp luật.
4


(Luật DQTV quy định DQTV có 6 nhiệm vụ, so với Pháp lệnh năm 2004 – NĐ
184 thêm 1 nhiệm vụ (nhiệm vụ 5). Các nhiệm vụ còn lại được quy định đầy đủ,
chặt chẽ hơn và sát với yêu cầu các nhiệm vụ của DQTV)
II. Nội dung, biện pháp xây dựng, quản lý, cơ chế lãnh đạo, điều hành.
1. Nội dung xây dựng lực lượng DQTV.
1.1. Thành phần, tỷ lệ, tổ chức biên chế, trang bị.
1.1.1. Về thành phần: Gồm có hai lực lượng chính: Lực lượng DQTV nịng

cốt (lực lượng chiến đấu) và lực lượng DQTV rộng rãi (lực lượng phục vụ chiến
đấu).
 Lực lượng DQTV nòng cốt bao gồm:
- DQTV Bộ binh gồm: lực lượng cơ động và tại chổ.
- DQTV Binh chủng gồm: phịng khơng, pháo binh, cơng binh, trinh sát, thơng
tin, phịng hố, y tế.
- DQTV Biển (đối với vùng biển) gồm: lực lượng cơ động và lực lượng tại chỗ.
- LLTT: Đối với xã thuộc địa bàn trọng điểm có yêu cầu chiến đấu cao thì được
xem xét tổ chức lực lượng dân quân thường trực.
- Thời hạn của DQTV nòng cốt là 4 năm (điều 10, Luật DQTV).
 Lực lượng DQTV rộng rãi.
- Gồm cán bộ, chiến sỹ DQTV nịng cốt đã hồn thành nghĩa vụ DQTV và công
dân trong độ tuổi quy định (nam từ đủ 18 đến hết 45, nữ từ đủ 18 đến hết 40 tuổi).
- Lực lượng này luôn sẵn sàng phát triển nhằm đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ,
phòng thủ trên địa bàn tỉnh (TP) hoặc khi có chiến tranh. Đây là nguồn bổ sung
cho lực lượng nòng cốt khi cần thiết, được sắp xếp thành các đơn vị ở thơn, bản,
khu phố, trong các xí nghiệp, doanh nghiệp.
1.1.2. Tỷ lệ.
- Căn cứ vào dân số, địa bàn, bố trí dân cư, yêu cầu nhiệm vụ QP-AN, QS, tình
hình ANCT, KT- VH-XH từng thời kỳ và khả năng bảo đảm kinh phí cho DQTV
huấn luyện, hoạt động làm cơ sở để các địa phương xác định tỷ lệ cho phù hợp.
- Định hướng chung về tỷ lệ.
+ Cấp quân khu và tỉnh đạt từ 1,2% đến 1,8% dân số.
+ Cấp huyện đạt từ 1,4 đến 2% dân số.
+ Cấp xã tuỳ theo số dân để xác định tỷ lệ phù hợp theo quy định. (Điều 11
Luật DQTV).
- Đối với dân quân, hằng năm số tuyển chọn để kết nạp mới phải tương ứng với
số đó hồn thành nghĩa vụ tham gia dân quân chuyển ra.
1.1.3. Tổ chức và qui mô tổ chức.
* Tổ chức: Tổ, Tiểu đội (Khẩu đội), Trung đội, Đại đội (Hải đội), Tiểu đoàn

(Hải đồn).
* Quy mơ tổ chức (Điều 18, luật DQTV).
- Cấp Thôn: Tổ chức Tổ, Tiểu đội, Trung đội dân quân tại chỗ.
- Cấp xã: tổ chức Trung đội dân quân cơ động. Theo yêu cầu nhiệm vụ có thể tổ
chức tổ, tiểu đội trinh sát, thơng tin, cơng binh, phịng hoá, y tế.
+ Các xã trọng điểm về QP-AN tổ chức tiểu đội dân quân thường trực trong
trung đội dân quân cơ động của xã.
+ Các xã ven biển, xã đảo tổ chức tiểu đội, trung đội dân quân biển.
5


- Cơ quan, tổ chức tổ chức tiểu đội, trung đội, đại đội, tiểu đoàn tự vệ. Cơ quan,
tổ chức có phương tiện hoạt động trên biển tổ chức tiểu đội, trung đội, hải đội, hải
đoàn tự vệ biển.
- Cấp huyện: Trên cơ sở các đơn vị DQTV quy định tại các điểm a, b và c
khoản này, căn cứ vào yêu cầu nhiệm vụ, trên địa bàn cấp huyện có thể tổ chức đại
đội DQTV cơ động, trung đội DQTV phịng khơng, pháo binh, trung đội DQTV
ln phiên thường trực.
- Các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương căn cứ tình hình cụ thể của các
doanh nghiệp nhà nước đứng chân trên địa bàn để tổ chức các tiểu đoàn tự vệ bộ
binh và các đại đội tự vệ pháo phịng khơng. Các thành phố lớn tổ chức lực lượng
pháo phịng khơng DQTV, các binh chủng khác tổ chức cấp đại đội.
+ Đối với doanh nghiệp không phải là doanh nghiệp nhà nước quy mô tổ chức
từ tiểu đội đến trung đội. Trường hợp mở rộng quy mô lực lượng DQTV ở các
trạng thái và các tình huống do Bộ trưởng Bộ quốc phịng quy định.
+ Các loại hình doanh nghiệp nếu có quy mơ lao động phù hợp, được giao
nhiệm vụ quốc phòng, an ninh theo kế hoạch của cơ quan qn sự địa phương thì
có trách nhiệm tổ chức lực lượng tự vệ (Điều 19 luật DQTV).
1.1.4. Chức vụ chỉ huy cơ bản của DQTV (Điều 20, luật DQTV).
* Chỉ huy đơn vị DQTV gồm:

+ Tiểu đội trưởng (Khẩu đội trưởng)
+ Trung đội trưởng
+ Đại đội trưởng (Hải đội trưởng), Chính trị viên đại đội (Chính trị viên hải
đội).
+ Tiểu đồn trưởng (Hải đồn trưởng), Chính trị viên Tiểu đồn (Chính trị viên
hải đồn).
* Chỉ huy qn sự ở cơ sở gồm:
+ Thôn đội trưởng
+ Chỉ huy trưởng, Chính trị viên Ban CHQS cấp xã
+ Chỉ huy trưởng, Chính trị viên Ban CHQS cơ quan, tổ chức ở cơ sở
+ Chỉ huy trưởng, Chính trị viên Ban CHQS Bộ, ngành Trung ương
1.1.5. Cơ cấu biên chế (Điều 21 – 24 Luật DQTV).
- Thơn đội: Có nhiệm vụ tham mưu và tổ chức thực hiện công tác quốc phịng,
qn sự địa phương ở thơn, quản lý, chỉ huy trực tiếp dân quân thuộc quyền. Chịu
sự lãnh đạo của cấp uỷ Đảng, sự chỉ đạo, chỉ huy trực tiếp của Ban CHQS cấp xã
và phối hợp với Trưởng thôn, Cơng an viên và tổ chức, đồn thể nhân dân thực
hiện nhiệm vụ QP-AN ở thôn.
+ Trung đội trưởng cơ động cấp xã thường do Thôn đội trưởng ở thôn nơi đặt
trụ sở hoặc gần trụ sở ủy ban nhân dân cấp xã kiêm nhiệm.
+ Đối với thơn có tổ chức cấp trung đội, cấp tiểu đội hoặc tổ dân quân tại chỗ,
chức danh Trung đội trưởng hoặc tiểu đội trưởng hoặc tổ trưởng dân quân tại chỗ
do Thôn đội trưởng kiêm nhiệm.
+ Các tiểu đội dân quân trong trung đội dân quân tại chỗ được bố trí các tiểu
đội trưởng dân quân tại chỗ (Khoản 4, 5 Điều 16 Thông tư số 85/2010/TT-BQP
quy định).
- Ban CHQS cấp xã gồm: Chỉ huy trưởng là thành viên UBND cấp xã/, Chỉ
huy phó/ CTV phó là cán bộ kiêm nhiệm. Số lượng chỉ huy phó ban CHQS cấp xã
6



do chính phủ quy định (Điều 21 Luật DQTV). Ban CHQS cấp xã có chức năng và
nhiệm vụ sau đây:
+ Tham mưu cho cấp uỷ Đảng, UBND cấp xã lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành thực
hiện nhiệm vụ quốc phòng, quân sự ở cơ sở. Đăng ký, quản lý công dân trong độ
tuổi thực hiện nghĩa vụ tham gia DQTV, công dân nam trong độ tuổi sẵn sàng nhập
ngũ. Tuyển chọn công dân nhập ngũ, quản lý lực lượng Dự bị động viên theo quy
định của pháp luật.
+ Xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch về công tác quốc phòng, quân sự ở
cơ sở, kế hoạch tổ chức lực lượng, huấn luyện và hoạt động của dân quân, kế
hoạch xây dựng làng, xã chiến đấu, kế hoạch phòng thủ dân sự và tham gia xây
dựng kế hoạch khác có liên quan đến nhiệm vụ quốc phịng, an ninh ở cơ sở.
+ Chủ trì phối hợp với ban, ngành, đồn thể tổ chức thực hiện cơng tác quốc
phịng, qn sự theo sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy Đảng, UBND cùng cấp và chỉ
thị, mệnh lệnh, kế hoạch, hướng dẫn của cơ quan quân sự cấp trên.
+ Phối hợp với ban, ngành, đoàn thể tuyên truyền, giáo dục quốc phòng, an
ninh cho lực lượng vũ trang và nhân dân; tổ chức lực lượng dân quân, dự bị động
viên tham gia xây dựng cơ sở vững mạnh toàn diện, thực hiện chính sách hậu
phương quân đội.
+ Tổ chức huấn luyện, giáo dục chính trị, pháp luật cho dân quân; chỉ huy dân
quân được thực hiện theo nhiệm vụ (quy định tại Điều 8 của Luật DQTV).
+ Tổ chức đăng ký, quản lý, bảo quản và sử dụng vũ khí, trang bị của các đơn
vị dân quân thuộc quyền theo quy định của pháp luật.
+ Tổ chức thực hiện kế hoạch bảo đảm hậu cần, kỹ thuật tại chỗ đáp ứng yêu
cầu nhiệm vụ quốc phòng, quân sự địa phương.
+ Giúp UBND cấp xã kiểm tra, sơ kết, tổng kết công tác QP, quân sự địa
phương, công tác tổ chức và hoạt động của dân quân thuộc quyền.
- Ban CHQS cơ quan, tổ chức ở cơ sở gồm: Chỉ huy trưởng, Chính trị viên,
Chỉ huy phó, Chính trị viên phó là cán bộ kiêm nhiệm. Ban CHQS cơ quan, tổ
chức ở cơ sở có chức năng nhiệm vụ:
+ Tham mưu cho cấp uỷ Đảng, người đứng đầu cơ quan, tổ chức lãnh đạo, chỉ

đạo cơng tác quốc phịng, qn sự của cơ quan, tổ chức mình; đăng ký, quản lý tự
vệ tại cơ quan, tổ chức, thực hiện công tác tuyển quân và quản lý lực lượng DBDV
dưới sự chỉ đạo của cơ quan quân sự địa phương; thực hiện nhiệm vụ giáo dục
quốc phòng, an ninh cho cán bộ, công chức, viên chức và người lao động trong cơ
quan, tổ chức; thực hiện chính sách hậu phương QĐ.
+ Xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch về công tác QP, QS của cơ quan, tổ
chức; kế hoạch tổ chức lực lượng, huấn luyện và hoạt động của tự vệ; kế hoạch
bảo vệ cơ quan, tổ chức; kế hoạch phòng thủ dân sự, kế hoạch bảo đảm hậu cần,
kỹ thuật tại chỗ và tham gia xây dựng kế hoạch khác có liên quan đến nhiệm vụ
QP-AN ở cơ sở.
+ Giúp người đứng đầu cơ quan, tổ chức triển khai thực hiện kế hoạch động
viên quốc phòng về người, phương tiện kỹ thuật và cơ sở vật chất khác theo chỉ
tiêu của Nhà nước; tham gia xây dựng khu vực phịng thủ, xây dựng cơ sở vững
mạnh tồn diện, sẵn sàng đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ QP, quân sự tại địa phương
nơi đặt trụ sở.
7


+ Tổ chức xây dựng lực lượng, huấn luyện, giáo dục chính trị, pháp luật cho tự
vệ; chỉ huy tự vệ thực hiện nhiệm vụ theo quy định tại Điều 8 của Luật DQTV.
+ Tổ chức đăng ký, quản lý, bảo quản và sử dụng vũ khí, trang bị của các đơn
vị tự vệ thuộc quyền theo quy định của pháp luật.
+ Giúp người đứng đầu cơ quan, tổ chức kiểm tra, sơ kết, tổng kết về cơng tác
quốc phịng, quân sự, công tác tổ chức và hoạt động của tự vệ thuộc quyền.
- Ban CHQS bộ, ngành Trung ương: gồm Chỉ huy trưởng (là người đứng
đầu hoặc cấp phó của người đứng đầu ở bộ, ngành Trung ương kiêm nhiệm),
Chính trị viên, Chỉ huy phó, Chính trị viên phó là cán bộ kiêm nhiệm. Ban CHQS
bộ, ngành Trung ương có chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn sau:
+ Tham mưu cho Ban cán sự Đảng, Đảng đoàn, cấp uỷ Đảng, người đứng đầu
Bộ, ngành Trung ương lãnh đạo, chỉ đạo về cơng tác GDQP tồn dân cho cán bộ,

cơng chức, viên chức và người lao động trong các cơ quan đơn vị thuộc bộ ngành
quản lý; phối hợp với BQP, Bộ Giáo dục và Đào tạo và các cơ quan liên quan khác
tổ chức, giáo dục, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng - an ninh cho các đối tượng...
theo quy định của pháp luật.
+ Tham mưu cho Ban cán sự Đảng, Đảng đoàn, cấp uỷ Đảng, người đứng đầu
Bộ, ngành Trung ương về kết hợp chặt chẽ giữa phát triển KT-XH với tăng cường
QP-AN, thẩm định các kế hoạch, quy hoạch và dự án phát triển KT-XH liên quan
đến QP-AN theo quy định của pháp luật. Thực hiện nhiệm vụ phòng thủ dân sự và
các nhiệm vụ động viên quốc phịng.
+ Tham mưu cho Ban cán sự Đảng, Đảng đồn, cấp uỷ Đảng, người đứng đầu
bộ, ngành TƯ phối hợp với BQP , các bộ, ngành và địa phương có liên quan xây
dựng nền quốc phịng tồn dân, thế trận quốc phịng tồn dân gắn với thế trận
ANND, xây dựng cơ quan đơn vị cơ sở vững mạnh toàn diện, tham gia xây dựng
cấp tỉnh thành khu vực phòng thủ vững chắc; phối hợp và chỉ đạo diễn tập khu vực
phòng thủ thuộc lĩnh vực bộ, ngành quản lý.
+ Chỉ đạo các cơ quan đơn vị thuộc bộ, ngành phối hợp chặt chẽ với cơ quan
quân sự địa phương thực hiện công tác tổ chức, huấn luyện, hoạt động của lực
lượng tự vệ, xây dựng và huy động lực lượng DBDV, tuyển quân, tham gia xây
dựng lực lượng vũ trang địa phương, phối hợp với cơ quan quân sự địa phương chỉ
đạo các đơn vị thuộc quyền tổ chức đăng ký, quản lý, bảo quản và sử dụng vũ khí,
trang bị của các đơn vị tự vệ thuộc quyền.
+ Chủ trì hoặc phối hợp với quân khu, Bộ CHQS cấp tỉnh tổ chức hội thi, hội
thao, diễn tập cho LLTV thuộc bộ, ngành mình theo sự chỉ đạo của BQP.
+ Thực hiện cơng tác chính trị, cơng tác thi đua, khen thưởng về công tác
nhiệm vụ QS, quân sự, giáo dục QP-AN , phịng thủ dân sự và cơng tác tự vệ.
+ Chỉ đạo các cơ quan, đơn vị thuộc quyền phối hợp với cơ quan quân sự địa
phương xây dựng kế hoạch bảo đảm hậu cần, kỹ thuật tại chỗ đáp ứng yêu cầu,
nhiệm vụ quốc phòng, quân sự của Bộ, ngành.
+ Giúp người đứng đầu bộ, ngành Trung ương phối hợp với các cơ quan chức
năng của Bộ Quốc phòng tổ chức kiểm tra, thanh tra, sơ kết, tổng kết rút kinh

nghiệm về cơng tác quốc phịng, qn sự, giáo dục QP-AN, phịng thủ dân sự và
cơng tác tự vệ. (Điều 19 Nghị định số 58/2010/NĐ-CP quy định).
1.1.6. Vũ khí trang bị của DQTV(Điều 31, Luật DQTV).
- DQTV được trang bị vũ khí, cơng cụ hỗ trợ và phương tiện kỹ thuật.
8


- Việc trang bị, chế độ đăng ký quản lý, sử dụng vũ khí cơng cụ hỗ trợ và
phương tiện kỹ thuật của DQTV theo quy định của pháp luật. BQP đã ban hành
Thông tư số 99/2010/TT-BQP ngày 19/7/2010 về trang bị, đăng ký và quản lý vũ
khí, đạn, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ của lực lượng DQTV.
- Vũ khí trang bị cho DQTV từ các nguồn: do Bộ Quốc phòng cấp, các địa
phương tự chế tạo hoặc thu được của địch. Song dù từ nguồn nào, vũ khí trang bị
đó cũng đều là tài sản của nhà nước giao cho DQTV quản lý. Do vậy, phải được:
+ Đăng ký, quản lý, bảo quản chặt chẽ; sử dụng đúng mục đích và đúng quy
định của pháp luật.
+ Cơ quan quân sự có thẩm quyền phải có quyết định biên chế, trang bị và cấp
giấy phép sử dụng tới từng đơn vị, cá nhân.
+ Vũ khí, trang bị đó phải được quản lý tập trung tại trụ sở cấp xã, nơi làm việc
của Ban CHQS cơ quan, phải bảo dưỡng thường xuyên và có tủ sắt cất giữ, cơ
quan quân sự các cấp tăng cường công tác kiểm tra vũ khí trang bị của DQTV.
1.2. Giáo dục chính trị, huấn luyện quân sự (Điều 34, Luật DQTV).
1.2.1. Giáo dục chính trị.
- Mục đích: Nhằm làm cho mọi người nâng cao nhận thức về chính trị, lập
trường tư tưởng vững vàng, đạo đức cách mạng trong sáng. Trên cơ sở đó phát huy
tinh thần trách nhiệm, sẵn sàng hồn thành mọi nhiệm vụ, bảo vệ quê hương, làng
xóm, địa phương, đơn vị mình.
- Nội dung giáo dục cần tập trung:
+ Không ngừng tăng cường bản chất cách mạng và ý thức giác ngộ giai cấp cho
cán bộ, chiến sỹ DQTV, trên cơ sở đó, thường xuyên nâng cao cảnh giác cách

mạng, nhận rõ bản chất, âm mưu thủ đoạn của kẻ thù.
+ Giáo dục truyền thống dân tộc, tinh thần yêu nước, yêu chế độ xã hội chủ
nghĩa; mục tiêu lý tưởng của Đảng. Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà đảng và
nhân dân ta lựa chọn; quán triệt hai nhiệm vụ chiến lược, nhiệm vụ củng cố quốc
phòng - an ninh, chống "DBHB” bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch: công tác
quân sự địa phương, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân.
+ Một số nội dung cơ bản về hiến pháp, pháp luật, luật DQTV, nội dung
phương pháp tiến hành vận động quần chúng...
- Thời gian, phương pháp tổ chức giáo dục chính trị:
+ Trong thời bình, giáo dục theo kế hoạch hàng năm, gắn với huấn luyện quân
sự.
+ Khi cần thiết hoặc có chiến tranh, thời gian giáo dục chính trị có thể kéo dài
từ hai đến sáu tháng liên tục theo chương trình, nội dung, giáo trình, tài liệu huấn
luyện do Bộ Quốc phịng quy định.
+ Thời gian giáo dục chính trị khoảng 15% đến 20% so với tổng số thời gian
huấn luyện chung của lực lượng DQTV.
1.2.2. Huấn luyện quân sự.
- Hàng năm lực lượng DQTV được huấn luyện theo nội dung chương trình do
Bộ Quốc phịng quy định chung, các nội dung phù hợp và sát với cơ sở do chỉ huy
quân sự địa phương các cấp xác định cụ thể.
- Mục đích nhằm nâng cao kiến thức về quân sự cho lực lượng DQTV. Sẵn
sàng đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ tác chiến trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc,
bảo vệ thơn, xóm, làng xã, bảo vệ AN chính trị, trật tự an tồn xã hội.
9


- Thời gian huấn luyện QS khoảng 80 - 85% thời gian quy định, trong đó kỹ
thuật các quân binh chủng 35%, các nội dung hậu cần, quân y khoảng 10%. Cụ
thể:
+ DQTV năm thứ nhất: 15 ngày.

+ DQTV cơ động, DQTV biển, DQTV phịng khơng, pháo binh, cơng binh,
trinh sát, thơng tin, phịng hố, y tế: 12 ngày.
+ DQTV tại chỗ: 7 ngày.
+ Dân quân thường trực: 60 ngày.
- Sau mỗi khoá huấn luyện, DQTV đều phải kiểm tra và được cấp giấy chứng
nhận theo phân cấp quản lý.
1.3. Xây dựng đội ngũ cán bộ DQTV.
- Vị trí vai trò: cán bộ DQTV là người trực tiếp tổ chức, quản lý, điều hành mọi
hoạt động và chỉ huy lực lượng DQTV chiến đấu và phục vụ chiến đấu, giữ vững
ANCT và TT ATXH ở địa phương, cơ sở.
- Nội dung yêu cầu: Hàng năm đội ngũ cán bộ trong lực lượng DQTV được đào
tạo bồi dưỡng chính trị, quân sự, chun mơn kỹ thuật, pháp luật theo chương
trình dài hạn, ngắn hạn để nâng cao trình độ kiến thức về mọi mặt.
- Đối tượng bồi dưỡng và tập huấn.
+ Chính trị viên xã đội, xã đội trưởng và xã đội phó đã qua đào tạo xã đội, cán
bộ chuyên trách công tác QP, QS ở cơ quan, tổ chức, được tập huấn theo chương
trình quy định tại trường quân sự cấp tỉnh, thời gian 10 ngày.
+ Cán bộ chỉ huy từ cấp trung đội đến cấp tiểu đoàn DQTV bộ binh, cán bộ tiểu
đội, trung đội binh chủng, cán bộ kiêm nhiệm công tác QP, QS ở cơ quan, tổ chức,
thơn đội trưởng được tập huấn theo chương trình quy định tại cơ quan quân sự cấp
huyện, thời gian 7 ngày.
+ Sau khi hồn thành chương trình huấn luyện được kiểm tra cấp giấy chứng
nhận.
1.4. Tổ chức lãnh đạo, chỉ huy của DQTV.
Nắm vững cơ chế “Đảng lãnh đạo, chính quyền điều hành, cơ quan quân sự
làm tham mưu và chỉ huy lực lượng thuộc quyền”. Nghĩa là ở từng địa phương,
từng đơn vị cơ sở, tổ chức hoạt động của lực lượng DQTV phải đặt dưới sự lãnh
đạo của cấp uỷ đảng, sự quản lý nhà nước và điều hành của chính quyền địa
phương các cấp, sự chỉ huy của Ban CHQS cơ sở và cơ quan quân sự cấp trên.
1.5. Chế độ chính sách đối với DQTV (Điều 43 – 51 Luật DQTV).

DQTV vừa là dân, vừa là qn, khơng thốt ly sản xuất, hoạt động tại chỗ là
chính, việc chăm lo tinh thần vật chất, do từng địa phương xã, phường, các đơn vị
cơ sở thuộc các ngành nhà nước đảm nhiệm là chủ yếu. Nhưng để bảo đảm quyền
lợi tối thiểu, Nhà nước có một số chế độ chính sách đối với DQTV như:
+ Chế độ phụ cấp trách nhiệm quản lý đơn vị của cán bộ, chỉ huy DQTV do
Chính phủ qui định.
+ Cán bộ, chiến sỹ DQTV trong thời gian thực hiện nhiệm vụ theo mệnh lệnh
của cấp có thẩm quyền được hưởng trợ cấp bằng ngày công lao động theo mức do
Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố quy định.
+ Cán bộ chiến sỹ DQTV nòng cốt được miễn nghĩa vụ lao động cơng ích hàng
năm. Trong khi huấn luyện, cán bộ, chiến sỹ DQTV chưa tham gia bảo hiểm y tế
10


nếu bị ốm đau, tai nạn hoặc bị chết thì được hưởng các tiêu chuẩn như người tham
gia đóng bảo hiểm xã hội.
2. Một số biện pháp xây dựng DQTV trong giai đoạn hiện nay.
2.1. Thường xuyên giáo dục, quán triệt sâu rộng các quan điểm, chủ trương
chính sách của Đảng, Nhà nước về công tác DQTV.
- Xuất phát từ vai trị của giáo dục nhằm nâng cao trình độ mọi mặt của DQTV.
Từ yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc đặt ra những yêu cầu mới rất nặng nề. Từ
âm mưu thủ đoạn chống phá của kẻ thù..
- Nội dung giáo dục.
+ Thường xuyên giáo dục quán triệt sâu sắc hai nhiệm vụ chiến lược XD và
bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nâng cao ý thức trách nhiệm của mỗi người
đối với nhiệm vụ QP-AN.
+ Cần tập trung phổ biến luật DQTV.
+ Nghị định, thông tư về thi hành luật DQTV cho các cấp uỷ Đảng, chính
quyền, đồn thể nhân dân, để mọi người, mọi tổ chức nhận thức đúng về công tác
xây dựng lực lượng DQTV. Đó là cơ sở để huy động sức mạnh của tồn dân, của

cả hệ thống chính trị tham gia xây dựng DQTV, làm cho công tác DQTV trở thành
việc làm thường xuyên của dân, do dân, vì dân.
2.2. Phát huy sức mạnh tổng hợp trên địa bàn, địa phương trong xây dựng
lực lượng DQTV.
- Xây dựng lực lượng DQTV là trách nhiệm chung của các cấp, các ngành và
của toàn dân, nhưng trước hết là trách nhiệm của địa phương: tỉnh (TP), huyện
(quận), xã (phường).
- Xây dựng lực lượng DQTV phải được kết hợp với các hoạt động phục vụ
nhiệm vụ QP–AN tại địa phương. Một mặt thông qua hiệu quả hoạt động phát hiện
các ưu điểm, khuyết điểm để rút kinh nghiệm, từ đó nâng cao chất lượng mọi mặt
của các đơn vị DQTV.
- Mặt khác, có tác dụng kiểm tra và thúc đẩy trách nhiệm của các cấp, các
ngành ở địa phương đối với xây dựng DQTV.
- Phát huy sức mạnh tổng hợp trong xây dựng và hoạt động của DQTV. Kết
hợp lực lượng DQTV với các thành phần lực lượng khác nhất là lực lượng an ninh
chuyên trách, trong xây dựng thế trận quốc phòng - an ninh trên địa bàn, từ đó
nâng cao chất lượng hoạt động, chiến đấu và công tác.
2.3. Xây dựng lực lượng DQTV gắn với xây dựng cơ sở vững mạnh toàn
diện.
- Xây dựng cơ sở vững mạnh toàn diện là xây dựng địa phương vững mạnh trên
mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hố, xã hội, trong đó có một nội dung quan
trọng là xây dựng về QP-AN.
- Trong q trình CNH – HĐH, nội dung quốc phịng làm tốt sẽ bảo đảm sự ổn
định ở cơ sở, tạo điều kiện cho nhân dân lao động sản xuất thực hiện mục tiêu dân
giàu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh, góp phần xây dựng các tổ
chức Đảng, chính quyền địa phương, cơ sở vững mạnh tồn diện.
- Ngược lại, cơ sở vững mạnh toàn diện là mơi trường xã hội có tính quyết định
đến xây dựng lực lượng DQTV vững mạnh; là hậu phương trực tiếp vững chắc của
11



lực lượng DQTV chiến đấu ở cơ sở, bảo đảm cho lực lượng DQTV ln sẵn sàng
hồn thành các nhiệm vụ được giao.
2.4. Thực hiện nghiêm túc, đầy đủ các chế độ chính sách của Đảng và Nhà
nước đối với lực lượng DQTV.
- Chế độ chính sách có ý nghĩa rất lớn, thể hiện sự quan tâm chăm sóc của
Đảng, Nhà nước và toàn xã hội đối với lực lượng DQTV.
- Trước mắt, cần phối hợp các ban ngành tổ chức hướng dẫn, thực hiện tốt chế
độ, chính sách, chế độ khen thưởng, ngân sách bảo đảm trong tổ chức huấn luyện,
hoạt động của lực lượng DQTV đã được luật DQTV và Nghị định của chính phủ
số 184/CP ngày 02/11/ 2004 quy định.
Phần 2. XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG DỰ BỊ ĐỘNG VIÊN (DBĐV).
I. Khái niệm, vị trí vai trị, quan điểm nguyên tắc
1. Khái niệm: Lực lượng DBĐV gồm quân nhân dự bị và phương tiện kĩ thuật
đã xếp trong kế hoạch bổ sung cho lực lượng thường trực của quân đội nhằm duy
trì tiềm lực quân sự, là yếu tố góp phần quyết định sự thắng lợi trong chiến tranh
bảo vệ Tổ quốc.
- Quân nhân dự bị gồm sĩ quan dự bị, quân nhân chuyên nghiệp dự bị và hạ sĩ
quan, binh sĩ dự bị.
- Phương tiện kĩ thuật gồm phương tiện vận tải, làm đường, xếp dỡ, thông tin
liên lạc, y tế và một số phương tiện khác. Danh mục phương tiện kĩ thuật do Chính
phủ quy định (Pháp lệnh về Lực lượng DBĐV năm 1996).
Quân nhân dự bị, phương tiện kĩ thuật trong kế hoạch biên chế cho lực lượng
thường trực của quân đội, thông qua các đơn vị DBĐV. Trong thời bình, lực lượng
DBĐV được đăng kí, quản lí, huấn luyện theo chương trình quy định và sẵn sàng
hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao.
2. Vị trí, vai trị cơng tác xây dựng lực lượng DBĐV.
- Công tác xây dựng và huy động lực lượng DBĐV giữ vị trí rất quan trọng
trong chiến lược bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
- Là một trong những nhiệm vụ cơ bản nhất góp phần xây dựng tiềm lực, thế

trận QPTD, thế trận chiến tranh nhân dân, bảo đảm nguồn nhân lực bổ sung, mở
rộng lực lượng quân đội khi chuyển đất nước sang trạng thái chiến tranh.
- Lực lượng DBĐV phối hợp chặt chẽ với DQTV, công an... làm tăng thêm sức
mạnh chiến đấu trên các địa bàn trong khu vực phòng thủ, bảo đảm sự vững chắc
của thế trận quốc phòng ở địa phương, cơ sở.
- Công tác xây dựng lực lượng DBĐV là biểu hiện quán triệt quan điểm về sự
kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ chiến lược trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, sự
kết hợp chặt chẽ giữa nhiệm vụ xây dựng, phát triển kinh tế với nhiệm vụ xây
dựng và củng cố quốc phòng, quốc phòng với kinh tế.
- Lực lượng DBĐV được xây dựng để bổ sung cho lực lượng thường trực của
quân đội.
- Lực lượng DBĐV được xây dựng tốt sẽ làm nòng cốt cho cả xây dựng, phát
triển kinh tế - xã hội và cả trong thực hiện chiến lược QP, AN bảo vệ Tổ quốc.
II. Nội dung xây dựng lực lượng DBĐV.
1. Nội dung xây dựng.
1.1. Tạo nguồn, đăng ký, quản lý lực lượng DBĐV.
1.1.1. Tạo nguồn.
12


* Quân nhân dự bị gồm:
- Sĩ quan dự bị:
+ Sĩ quan xuất ngũ, phục viên, chuyển ngành.
+ HSQ hoàn thành NVQS và qua đào tạo chương trình SQDB.
+ Những người đã tốt nghiệp ĐH, CĐ và qua đào tạo chương trình SQDB.
- Quân nhân chuyên nghiệp dự bị là những QNCN xuất ngũ, phục viên, chuyển
ngành
- Hạ sĩ quan, Binh sĩ dự bị là những Quân nhân đã hoàn thành NVQS.
- Quân nhân dự bị hạng 2:
+ Công dân Nam từ 26 tuổi trở lên mà chưa thực hiện NVQS.

+ Cơng dân Nữ có chun mơn mà qn đội cần (ngành Y tế, bưu điện…)
* Phương tiện kĩ thuật (Điều 2, 4, Pháp lệnh DBĐV).
- Trong trường hợp thật cần thiết vì lý do quốc phịng, an ninh và lợi ích quốc
gia, Nhà nước điều động, trưng mua, trưng dụng phương tiện kỹ thuật thuộc
sở hữu cá nhân hoặc tổ chức.
- Phương tiện vận tải: Các loại phương tiện vận tải đường bộ, đường sắt,
đường, thủy, đường không.
- Phương tiện làm đường: các loại xe ben, xe gạt, xe lu ….
- Phương tiện xếp dỡ: các loại xe cẩu, cần cẩu ….
- Phương tiện thông tin liên lạc, y tế và một số loại phương tiện khác.
1.1.2. Đăng ký quản lý nguồn.
Việc đăng ký, quản lý lực lượng DBĐV phải có kế hoạch thường xun, chặt
chẽ và chính xác, đăng ký quản lý cả con người và phương tiện kỹ thuật.
- Đối với quân nhân dự bị, được tiến hành đăng ký, quản lý tại nơi cư trú, do
Ban CHQS xã (phường), Ban CHQS huyện (quận, thị xã, thành phố trực thuộc
tỉnh) thực hiện. Đăng kí quản lí phải chính xác theo từng chuyên ngành quân sự,
độ tuổi, loại sức khoẻ, hồn cảnh gia đình, trình độ văn hố, nhận thức về chính trị,
trình độ hiểu biết về qn sự, chuyên môn, nghiệp vụ.
- Đối với phương tiện kỹ thuật, phải đăng ký, quản lý chính xác thường xuyên
cả số lượng, chất lượng, tình trạng kỹ thuật của từng phương tiện. Tuy nhiên có
một số loại phương tiện kỹ thuật, cơ quan QS phải đăng ký trực tiếp (phương tiện
đường sắt, đường không).
1.2. Tổ chức, biên chế đơn vị DBĐV.
- Đơn vị biên chế thiếu (TH): là đơn vị được tổ chức đủ các đầu mối đơn vị
thuộc quyền theo quy định biên chế thời chiến, trong đó chỉ có một hoặc một số
đơn vị biên chế đủ quân để sẵn sang chiến đấu, các đơn vị còn lại biên chế khung
thường trực hoặc dự nhiệm một số cán bộ chỉ huy, cơ quan chủ chốt. Được dự trữ
đủ VKTB theo quy định biên chế thời chiến
- Đơn vị biên chế khung thường trực (KTT): là đơn vị được tổ chức đủ các
đầu mối đơn vị chính, nhưng chỉ biên chế một số ít cán bộ và nhân viên chuyên

môn kỹ thuật, nghiệp vụ chủ chốt thuộc lực lượng thường trực cùng một số
VKTB, PTKT (số VKTB, PTKT còn lại được dự trữ theo phân cấp).
- Đơn vị không có khung thường trực (KKTT): là đơn vị có phiên hiệu
trong tổ chức quân đội nhưng không biên chế khung mà chỉ dự nhiệm một số cán
bộ chỉ huy, cơ quan và nhân viên CMKT chủ chốt. Số cán bộ, nhân viên này làm
việc thường xuyên theo chức trách ở đơn vị, cơ quan minhg nhưng hang năm được
13


bố trí thời gian để học tập, quản lý và xây dựng đơn vị DBĐV. Dự trữ VKTB do
cấp trên đảm nhiệm.
- Đơn vị xây dựng mới (XDM): là đơn vị chưa có kế hoạch xây dựng từ thời
bình, được tổ chức theo yêu cầu phát triển của chiến tranh. Ngồi lực lượng
DBĐV thuộc lực lượng dự trữ, cịn được tiếp nhận bổ sung một phần lực lượng
thường trực của các đơn vị quân đội khác để xây dựng
- Đơn vị chuyên môn dự bị (CM): là đơn vị do các Bộ, ngành, UBND cấp
tỉnh xây dựng theo chỉ tiêu kế hoạch được giao từ thời bình để giao cho lực lượng
thường trực của Quân đội khi có lệnh động viên. Cán bộ, chiến sĩ, nhân viên
chuyên môn kỹ thuật nghiệp vụ được ưu tiên tuyển chọn trong số QNDB và PTKT
của các cơ sở thuộc Bộ, ngành hoặc UBND cấp tỉnh có nhiệm vụ xây dựng đơn vị
chun mơn dự bị. Vũ khí do Bộ Quốc phịng dự trữ.
* Nguyên tắc sắp xếp quân nhân dự bị vào các đơn vị DBĐV:
- Sắp xếp người có trình độ chun nghiệp quân sự, chuyên môn kĩ thuật phù
hợp với chức danh biên chế, nếu thiếu thì sắp xếp người có trình độ chun nghiệp
qn sự, chun mơn kĩ thuật tương ứng.
- Sắp xếp quân nhân dự bị hạng một trước, nếu thiếu thì sắp xếp quân nhân dự
bị hạng hai.
- Sắp xếp những quân nhân dự bị cư trú gần nhau vào cùng đơn vị. Kết hợp giữa
đúng chuyên môn quân sự với gần, gọn địa bàn động viên, trong đó lấy đúng
chun nghiệp qn sự là chính

* Đối với phương tiện kỹ thuật được sắp xếp vào đơn vị DBĐV.
Phải có tính năng tác dụng và tiêu chuẩn kỹ thuật phù hợp với yêu cầu sử dụng
trong biên chế của từng đơn vị qn đội, trường hợp khơng có phương tiện kỹ
thuật đáp ứng yêu cầu sử dụng thì được sắp xếp phương tiện kỹ thuật tương ứng.
Chú ý: Theo quy định của Bộ QP thì QNDB và PTKT khi sắp xếp vào đơn vị
DBĐV phải có tỉ lệ dự phịng thích hợp.
1.3. Giáo dục chính trị, huấn luyện quân sự , diễn tập, kiểm tra.
1.3.1. Giáo dục chính trị:
- Mục đích: Giáo dục chính trị là nhiệm vụ hàng đầu trong xây dựng lực lượng
DBĐV.
- Nội dung giáo dục cần tập trung vào đường lối, chủ trương, chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước, quan điểm quốc phịng tồn dân, chiến tranh nhân
dân, xây dựng lực lượng DBĐV, âm mưu thủ đoạn của kẻ thù đối với cách mạng,
truyền thống đánh giặc giữ nước của dân tộc ta.
1.3.2. Huấn luyện quân sự.
Theo phương châm “Chất lượng, thiết thực, hiệu quả, tập trung có trọng tâm,
trọng điểm”.
- Nội dung huấn luyện gồm kĩ thuật bộ binh, binh chủng; chiến thuật từng
người đến cấp đại đội, công tác hậu cần, băng bó cứu thương và hoạt động chống
"Diễn biến hồ bình”, bạo loạn lật đổ.
- Tổ chức phương pháp: Có thể huấn luyện tập trung tại các đơn vị DBĐV hoặc
phân tán tại các địa phương, cơ sở. Cần vận dụng sáng tạo, linh hoạt những
phương pháp huấn luyện thích hợp sát đối tượng, sát thực tế.
1.3.3. Diễn tập.
14


Nhằm nâng cao chất lượng toàn diện cho lực lượng DBĐV, đáp ứng yêu cầu
sẵn sàng động viên, sẵn sàng chiến đấu. Diễn tập thường được tiến hành cuối năm
hoặc sau khoá huấn luyện. Sau diễn tập sẽ rút ra được những ưu điểm, khuyết

điểm của các cấp, có kế hoạch huấn luyện bổ sung nâng cao trình độ cho từng đơn
vị và từng QNDB.
1.3.4. Kiểm tra.
- Là một trong những biện pháp giúp lãnh đạo và chỉ huy các cấp nắm được
thực trạng việc tổ chức xây dựng và chuẩn bị huy động các đơn vị DBĐV để có
chủ trương, biện pháp phù hợp nhằm thúc đẩy việc tổ chức thực hiện nhiệm vụ các
cấp.
- Theo quy định của Bộ trưởng Bộ Quốc Phòng, thủ trưởng hoặc cơ quan chức
năng cấp trên thực hiện việc kiểm tra cấp dưới vào những thời gian nhất định hoặc
vào bất kì thời gian nào. Lãnh đạo, chỉ huy từng cấp quyết định việc tổ chức kiểm
tra công tác xây dựng LLDBĐV của cấp dưới. Bộ trưởng Bộ QP hoặc Tổng tham
mưu trưởng kiểm tra công tác xây dựng lực lượng DBDV đối với các bộ, cơ quan
ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, các địa phương, các đơn vị trong cả Nước.
Chỉ huy trưởng cơ quan QS cấp tỉnh, huyện giúp chủ tịch UBND cấp mình kiểm
tra việc xây dựng lực lượng DBĐV ở địa phương mình (trừ những đơn vị, cơ sở có
nhiệm vụ xây dựng lực lượng DBĐV do cấp Bộ giao).
1.4. Bảo đảm hậu cần, TBKT và tài chính cho việc xây dựng lực lượng
DBĐV.
- Vật chất, kinh phí là một yếu tố quan trọng để bảo đảm xây dựng lực lượng
DBĐV gồm vũ khí, trang bị, hậu cần, kỹ thuật, tài chính.
- Yêu cầu vật chất, kinh phí cho xây dựng, huấn luyện lực lượng DBĐV phải có
số lượng đảm bảo đúng mức, đủ để triển khai khi xây dựng lực lượng DBDV.
- Hàng năm Chính phủ giao chỉ tiêu, nhiệm vụ cụ thể cho các Bộ, ngành, địa
phương. Trên cơ sở chỉ tiêu được giao, các đơn vị lập kế hoạch cho công tác bảo
đảm xây dựng lực lượng DBĐV.
- Trong tình hình hiện nay cần quán triệt phương châm: Trung ương và địa
phương, Nhà nước và nhân dân cùng chăm lo xây dựng lực lượng DBĐV.
III. Một số biện pháp xây dựng lực lượng DBĐV.
- Thường xuyên giáo dục sâu rộng trong toàn Đảng, toàn dân, tồn qn về vị
trí, nhiệm vụ, những quan điểm của Đảng, Nhà nước đối với lực lượng DBĐV.

- Thực hiện cơ chế Đảng lãnh đạo, chính quyền điều hành, cơ quan quân sự và
các cơ quan chức năng làm tham mưu và tổ chức thực hiện.
- Thường xuyên củng cố, kiện toàn, bồi dưỡng cơ quan và đội ngũ cán bộ làm
công tác xây dựng lực lượng DBĐV.
- Thực hiện đầy đủ, nghiêm túc các chế độ, chính sách của Đảng và Nhà nước
đối với lực lượng DBĐV.
Phần 3. ĐỘNG VIÊN CƠNG NGHIỆP QUỐC PHỊNG (CNQP)
I. Khái niệm, ngun tắc, yêu cầu động viên CNQP.
1. Khái niệm: Động viên CNQP là huy động một phần hoặc toàn bộ năng lực sản
xuất, sửa chữa trang bị cho Quân đội của doanh nghiệp cơng nghiệp ngồi lực
lượng quốc phịng.
- Mục đích: Nhằm huy động mọi nguồn lực của đất nước hoặc một số địa
phương,... phục vụ cho quốc phòng, nhằm giành thế chủ động, bảo toàn, phát huy
15


tiềm lực mọi mặt của quốc gia, duy trì, ổn định sản xuất và đời sống của nhân dân,
giữ vững chủ quyền và tồn vẹn lãnh thổ trong mọi tình huống, bảo vệ vững chắc
Tổ quốc Việt Nam XHCN.
- Nội dung.
+ Động viên CNQP được chuẩn bị từ thời bình, là việc làm thường xuyên từ
Trung ương đến địa phương.
+ Động viên CNQP không áp dụng đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngồi tại Việt Nam.
+ Động viên CNQP được thực hiện khi có lệnh tổng động viên hoặc động viên
cục bộ.
2. Nguyên tắc động viên CNQP.
- Động viên CNQP được tiến hành trên cơ sở năng lực sản xuất, sửa chữa đã có
của các doanh nghiệp công nghiệp, Nhà nước chỉ đầu tư thêm trang thiết bị chuyên
dùng để hoàn chỉnh dây chuyền sản xuất, sửa chữa trang bị cho Quân đội.

- Việc lựa chọn, giao nhiệm vụ động viên CNQP cho các doanh nghiệp công
nghiệp phải bảo đảm tính đồng bộ theo nhu cầu sản xuất, sửa chữa trang bị của
Quân đội và phù hợp với năng lực sản xuất, sửa chữa trang bị của doanh nghiệp.
- Nhà nước bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp công nghiệp,
người lao động trong chuẩn bị và thực hành động viên CNQP.

3. Yêu cầu động viên CNQP.
- Chuẩn bị và thực hành động viên CNQP phải bảo đảm bí mật, an tồn, tiết
kiệm, hiệu quả, đúng kế hoạch, nhanh chóng tăng cường sức mạnh về mọi mặt,
sẵn sàng đối phó với các tình huống chiến tranh.
- Chuẩn bị và thực hành động viên CNQP phải bảo đảm cho yêu cầu thực hiện
nhiệm vụ chính trị, kinh tế, xã hội của các địa phương trong thời chiến.
II. Một số nội dung động viên CNQP.
1. Chuẩn bị động viên CNQP.
- Khảo sát, lựa chọn doanh nghiệp công nghiệp có khả năng sản xuất, sửa chữa
trang bị. Sau đó xây dựng kế hoạch động viên CNQP.
- Giao chỉ tiêu động viên CNQP cho các đơn vị thuộc quyền.
- Hoàn chỉnh dây chuyền sản xuất, sửa chữa trang bị.
- Quản lí, duy trì dây chuyền sản xuất.
- Bồi dưỡng chuyên môn cho người lao động và diễn tập động viên CNQP.
- Dự trữ vật chất.
2. Thực hành động viên CNQP.
- Quyết định và thông báo quyết định động viên CNQP (do Chính phủ quy
định).
- Tổ chức di chuyển địa điểm các đơn vị công nghiệp phải di chuyển.
- Tổ chức bảo đảm vật tư, tài chính.
- Tổ chức thực hiện nhiệm vụ sản xuất, sửa chữa trang bị.
- Giao, nhận sản phẩm động viên CNQP.
III. Một số biện pháp chính thực hiện động viên CNQP.
16



- Nhà nước, Chính phủ chỉ đạo chặt chẽ các Bộ, cơ quan ngang bộ, địa phương,
tổng công ty, thực hiện nghiêm Pháp lệnh động viên CNQP. Các Bộ, cơ quan
ngang bộ, địa phương, Tổng công ti phối hợp hiệp đồng chặt chẽ thực hiện nghiêm
túc nhiệm vụ động viên CNQP.
- Các Bộ, cơ quan ngang bộ, các địa phương, các Tổng công ty cần quán triệt
sâu sắc cho cán bộ, công nhân viên về Pháp lệnh, Nghị định, các văn bản hướng
dẫn về động viên CNQP của Nhà nước, Chính phủ.
- Các doanh nghiệp cơng nghiệp được lựa chọn và giao chỉ tiêu động viên công
nghiệp quốc phong cần chủ động lập kế hoạch động viên CNQP và sẵn sàng thực
hiện nhiệm vụ theo kế hoạch, chỉ tiêu trên giao.
KẾT LUẬN
Xây dựng lực lượng DQTV, DBĐV và động viên cơng nghiệp là vấn đề lớn có
tính chiến lược của quốc gia để đất nước chủ động đối phó với mọi tình huống. Là
nhiệm vụ hết sức quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Vì vậy,
hơn lúc nào hết ngay từ thời bình, cơng tác xây dựng lực lượng DQTV, DBĐV và
động viên CNQP phải được sự quan tâm một cách đầy đủ của toàn xã hội, trong đó
có trách nhiệm của học sinh và sinh viên.
C. CÂU HỎI ƠN TẬP
Câu 1: Nêu vị trí vai trị, nhiệm vụ DQTV và những nội dung chính trong
giáo dục chính trị, huấn luyện quân sự đối với DQTV.
TÀI LIỆU
Sáng mãi các chiến công của 11 cô gái Sơng Hương
Thời gian trơi qua, những gì thuộc về q khứ có thể bị mờ dần hoặc lãng
quên theo năm tháng, nhưng với dân tộc, quân đội Việt Nam và với những người
trải qua những mùa chiến dịch, những trận chiến các liệt trên chiến trường chống
Mỹ, thì cuộc Tổng tấn công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 là ký ức lịch sử
không thể nào quên, nhất là đối với những người nữ du kích của Tiểu đội 11 cô gái
sông Hương ngày ấy.

Thành phố Huế đã dựng bia tưởng niệm và ghi công 11 cô gái sông Hương
tại phường Xuân Phú, nơi gắn với những chiến công của họ trong những ngày
đánh Mỹ.
Nơi đây đã trở thành địa điểm sinh hoạt văn hố, thắp lửa truyền thống cho
đồn viên thanh niên và các thế hệ cách mạng, nhất là trong những ngày Tết đến
Xn về.
Nói về chiến cơng của tiểu đội du kích 11 cơ gái sơng Hương ngày ấy, ơng
Hồng Lanh, ngun Bí thư thành ủy Huế lúc bấy giờ cho biết ban đầu, họ tập hợp
nhau lại trong một tiểu đội xung phong làm nhiệm vụ tải thương, dẫn đường cho
bộ đội tiến công vào giải phóng thành phố.
Về sau, chính họ đã anh dũng chiến đấu đẩy lùi một tiểu đoàn thủy quân lục
chiến Mỹ được trang bị vũ khí hiện đại, có xe tăng, máy bay yểm trợ ngay giữa
lòng thành phố Huế.

17


Riêng với chị Hoàng Thị Nở, một trong số các cơ gái Sơng Hương thì nhớ
như in tất cả các cơ gái sinh ra và lớn lên tại làng nón Thủy Thanh, huyện Hương
Thủy, tỉnh Thừa Thiên-Huế, nhưng đều lấy tên sơng Hương làm tên chung.
Cuối năm 1967, họ tình nguyện tham gia đội nữ vũ trang bí mật gồm 11
người, với nhiệm vụ được giao là nắm tình hình hoạt động của bọn địch tại địa bàn
các xã vùng ven như Thuỷ Thanh, Thuỷ An, đến Xuân Phú (thành phố Huế); tham
gia chuyển thương binh ra ngoài, và bổ sung lực lượng chiến đấu khi cần thiết.
Xuân Mậu Thân năm 1968, bộ đội bắt đầu đánh lớn ở thành phố Huế. Do
thông thuộc địa bàn, 11 cô gái sông Hương được tổ chức thành một tiểu đội, ban
ngày đi tổ chức xây dựng lực lượng nòng cốt, chiều tối đi gài đặt lựu đạn giết ác
ôn và tổ chức đưa đón, dẫn đường cho các chiến sĩ vào chiến đấu giải phóng thành
phố.
Riêng trận đánh đêm 11 sáng 12/2/1968 cả tiểu đội 11 cô gái sông Hương,

với các vũ khí được trang bị AK, K44, một số mìn và lựu đạn nhưng đã dàn trận
khắp các địa điểm tại khách sạn Hương Giang, Đại học sư phạm, chợ Cống, Xuân
Phú để cầm cự và đánh lui cả một tiểu đồn lính Mỹ có nhiều xe bọc thép và máy
bay chiến đấu yểm trợ, diệt 70 lính và 4 xe tăng, thu nhiều vũ khí của địch để trang
bị lại phục vụ cho chiến đấu.
Chị em háo hức đánh giặc quên ăn quên ngủ, lúc xông xáo với việc thả
truyền đơn, đậy hầm bí mật ni giấu cán bộ, lúc liên lạc và vận động binh lính
ngụy trở về với nhân dân. Bất chấp hiểm nguy, trong công sự, chị em cịn đùa nhau
lính Mỹ to xác càng dễ bắn, chị em mình phải nhanh chóng, quyết liệt để chúng
khơng thể trốn thoát.
Xuân năm ấy se lạnh, Huế rét ngọt, mưa phùn lất phất. Chị em vừa chiến
đấu, vừa ăn Tết ngay trên cơng sự khét lẹt mùi khói thuốc. Bánh Tết được các mẹ,
các chị trong phố đem ra tiếp tế.
Nhiều chị em đã anh dũng hy sinh ngay trong trận chiến đấu đó, trong đó có
tiểu đội trưởng Phạm Thị Liên và tiểu đội phó Đỗ Thị Cúc khi tuổi đời họ cịn rất
trẻ.
Chiến cơng của 11 cơ gái sông Hương đã được Bác Hồ gửi thư khen:
"Dõng dạc tay cầm khẩu súng trường
Khôn ngoan dàn trận khắp trong phường
Bác khen các cháu dân quân gái
Đánh giặc Hoa Kỳ phải nát xương"
Năm 2009, tiểu đội du kích 11 cơ gái sơng Hương cịn vinh dự được Chủ
tịch nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân vì những
chiến cơng xuất sắc trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Gặp lại chị Hoàng Thị Nở tại ngôi nhà số nhà 131/1 đường Bà Triệu, thành
phố Huế bây giờ, chị cho biết sau giải phóng, trở về với đời thường, 5 trong số 11
cô gái sông Hương ngày ấy cịn sống đã có 4 lần gặp lại nhau trong các chương
trình giao lưu các thế hệ phụ nữ tham gia kháng chiến.
Những người đồng đội từng chung một chiến hào xưa thì nay mỗi người
sinh sống một nơi. Chị Chế Thị Mừng và Nguyễn Thị Xê lấy chồng xa ở thành

phố Hồ Chí Minh và Nam Định; còn lại các chị Nguyễn Thị Hoa, Nguyễn Thị Hợi,
và chị Hoàng Thị Nở đều ở tại Thừa Thiên-Huế.
18


Chị Nguyễn Thị Hoa sau giải phóng về tham gia làm công tác ở Ban quản lý
chợ Đông Ba, chị Chế Thị Mừng làm y sĩ ở phòng khám khu vực 3, chị Hồng Thị
Nở làm Chủ tịch Hội Nơng dân thành phố Huế, nay tất cả đã ngoài 60 tuổi và đều
nghỉ hưu.
Mỗi người mỗi hồn cảnh và cịn nhiều khó khăn, vất vả nhưng các chị đã
vượt lên tất cả, xứng danh người phụ nữ "anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm
đang".../.
/>O DU KÍCH NHỎ
O
du

kích
nhỏ
giương
cao
súng.
Thằng Mỹ lênh khênh bước cúi đầu.
Ra
thế!
To
gan
hơn
béo
bụng.
Anh hùng đâu cứ phải mày râu!


Từ ngày 2 tháng 3 năm 1965, Không quân Mỹ bắt đầu mở Chiến dịch Sấm
Rền (tiếng Anh: Operation Rolling Thunder) với mục tiêu dùng ưu thế áp đảo về
không quân để phá hủy cơ sở hạ tầng của miền Bắc Việt Nam nhằm cứu vãn tình
thế chiến tranh ở miền Nam Việt Nam. Trong chiến dịch kéo dài 3 năm này, Khơng
qn Mỹ và Khơng lực Việt Nam Cộng hịa đã sử dụng một lượng bom đạn khổng
lồ dội xuống lãnh thổ Việt Nam tuy nhiên họ đã vấp phải sự kháng cự quyết liệt từ
phíaquân đội và nhân dân miền Bắc Việt Nam.
ngày 20 tháng 9 năm 1965 vào khoảng 9 giờ sáng, nữ dân quân Nguyễn Thị
Kim Lai, lúc này mới học hết cấp II, nhận được tin một nhóm máy bay F4H tấn
cơng bắn phá cầu Đá Lậu (nay là cầu Lộc Yên) thuộc thị trấnHương Khê tỉnh Hà
Tĩnh. Một chiếc trong tốp máy bay này đã bị dân quân tự vệ Hà Tĩnh bắn rơi, họ
nhận thấy rằng viên phi công của chiếc F4 đã kịp nhảy dù thốt vì vậy một chiến
dịch vây bắt viên phi cơng này lập tức được triển khai. Cuối cùng thì trong đêm
ngày 20, chị Lai đã phát hiện viên phi cơng Mỹ có tên William Andrew Robinson
đang vướng trong bộ dây dù, lập tức chị bắn súng gọi đồng đội đến hỗ trợ và cũng
chính chị được cử áp giải viên phi cơng Mỹ. Theo chị Lai, lúc đó chị chỉ cao 1 mét
47, nặng 37 kg trong khi Robinson cao tới 2 mét 2 và nặng 125 kg
ĐẠI ĐỘI NỮ PHÁO BINH NGƯ THỦY (Lệ Thủy - Quảng Bình)
1. Đơn vị nữ dân quân địa phương ra đời
Đại đội dân quân nữ pháo binh Ngư Thủy được thành lập ngày 20 tháng 11
năm 1967.
Lúc mới thành lập, Đại đội nữ pháo binh Ngư Thủy gồm có 37 đồng chí với
đa số chị em tuổi đời còn rất trẻ, từ khoảng 16 đến 22 tuổi. Toàn Đại đội được biên
chế thành ba trung đội, một trung đội chỉ huy và hai trung đội trận địa. Về vũ khí
trang bị có 4 khẩu pháo 85 ly, 4 xe kéo pháo, máy móc đo đạc, thơng tin, vơ tuyến
hữu tuyến, bàn đạc , súng bộ binh AK và CKC. Khi mới thành lập, Đại đội do
đồng chí Ngơ Thị The làm Đại đội trưởng, đồng chí Trần Thị Thản làm chính trị
19



viên; trong thời kỳ 1970 - 1976, do đồng chí Trần Thị Hoanh làm Đại đội trưởng
và đồng chí Ngơ Thị Thới làm chính trị viên. Về sau, do điều kiện và tình hình
mới của cuộc chiến đấu, quân số của Đại đội được bổ sung thêm, nâng tổng quân
số lên 91 chị em. Tuy vậy, quân số này cũng không cố định bởi một số chị em do
điều kiện sức khỏe hoặc gia đình đã xin nghỉ khơng thể tiếp tục chiến đấu.
2. Những chiến công vang dội
Cuối năm 1964 đầu năm 1965, cùng với việc đẩy mạnh chiến tranh xâm
lược miền Nam, Mỹ mở rộng chiến tranh không quân và hải quân phá hoại miền
Bắc. Ngày 5 - 8 - 1964, sau khi dựng lên " Sự kiện vịnh Bắc Bộ ", Mỹ cho máy
bay ném bom một số nơi ở miền Bắc như cửa sông Gianh (Quảng Bình), Vinh Bến Thủy (Nghệ An), Lạch Trường (Thanh Hóa), thị xã Hòn Gai (Quảng Ninh) …
Ngày 7 - 2 - 1965, Mỹ cho máy bay ném bom bắn phá thị xã Đồng Hới (Quảng
Bình), đảo Cồn Cỏ (Vĩnh Linh - Quảng Trị)… chính thức gây ra cuộc chiến tranh
bằng không quân và hải quân phá hoại miền Bắc (lần thứ nhất)
Cùng với nhân dân toàn miền Bắc, quân dân huyện Lệ Thủy và xã Ngư
Thủy Bắc, Đại đội nữ pháo binh Ngư Thủy đã tham gia chống chiến tranh phá hoại
của Mỹ ngay từ những ngày đầu và lập nên những chiến cơng vang dội. Trong
vịng chưa đầy năm tháng của năm 1968, Đại đội nữ pháo binh Ngư Thủy đã đánh
4 trận và được công nhận bắn cháy 3 tàu chiến Mỹ.
- Trận đánh thứ nhất (ngày 7 - 2 - 1968)
Ngày 7- 2 - 1968, Mỹ cùng lúc điên cuồng huy động máy bay B.52 và Hạm
đội 7 trên biển bắn phá xuống Lệ Thủy mà trọng điểm là xã Ngư Thủy bởi ngồi vị
trí quan trọng là tuyến đầu của miền Bắc xã hội chủ nghĩa, QDHK cịn biết nơi đây
là nơi tập kết, đóng qn của nhiều đơn vị bộ đội chủ lực sẵn sàng chi viện cho
miền Nam. Với quyết tâm đánh thắng ngay từ trận đầu cùng lòng căm thù Mỹ đến
cao độ, dưới sự chỉ huy của Đại đội trưởng Ngô Thị The và Chính trị viên Trần Thị
Thản, các chị đã bám sát trận địa, mắt không rời mục tiêu mặc cho bom rơi đạn nổ
trên đầu. Khi mục tiêu vào tầm ngắm, với 3 loạt đạn Ca-nông đầu tiên, chỉ trong
vòng 7 phút với 48 viên đạn được bắn ra đã có 8 viên bắn trúng tàu HQGK, làm
cho chiếc tàu mang số hiệu 013 đã bốc cháy dữ dội giữa tiếng reo hị vui mừng của

bà con làng xóm. Khi cuộc chiến đấu kết thúc, bà con vẫn còn sửng sốt, không tin
nổi vào chuyện đàn bà, con gái có thể sử dụng pháo bắn cháy tàu chiến Mỹ. Chính
HQHK cũng khơng ngờ rằng ở vùng đất cát trắng này lại có một đại đội nữ pháo
binh có thể bắn cháy tàu chiến của HQHK.
- Trận đánh thứ hai (ngày 27 - 3 - 1968)
Năm mươi ngày sau trận thắng đầu tiên, mờ sáng ngày 27 tháng 3 năm
1968, Đại đội lại bắn cháy thêm tàu khu trục của Mỹ mang số hiệu 719
- Trận đánh thứ ba (ngày 16 - 5 - 1968)
Chiến thắng dồn dập chiến thắng đã làm nức lịng qn dân Lệ Thủy nói
chung và xã Ngư Thủy nói riêng. Phát huy những thắng lợi đầu tiên đó, nhằm lập
thành tích chào mừng Bác Hồ kính yêu 78 tuổi, lại thêm 50 ngày sau trận thắng
thứ hai, trưa ngày 16 - 5 - 1968, chiếc tàu khu trục Mỹ mang số hiệu 742 lại bị " ăn
đạn " của Đại đội, bốc cháy dữ dội, phải tháo chạy ra biển xa
- Trận đánh thứ tư (ngày 14 - 6 - 1968)
20


Đến ngày 14 - 6 - 1968, Đại đội tiếp tục bắn cháy thêm chiếc tàu khu trục
thứ tư của Mỹ mang số hiệu 72.
Với những chiến công vang dội đó, Đại đội được trở thành một trong những
đơn vị dân quân đầu tiên trên vùng biển ở miền Bắc nước ta lập được nhiều chiến
công xuất sắc và được Bác Hồ tặng cho huy hiệu của Người. Ngoài ra, Đại đội cịn
nhiều lần vinh dự được đón nhận những tặng thưởng xứng đáng như: Huân
chương Quân công hạng Ba, Huân chương Chiến công hạng Nhất, Huy hiệu " Ba
đảm đang ", Huy hiệu " Nguyễn Văn Trỗi "..., được đoàn đại biểu phụ nữ Ba Lan
tặng toàn Đại đội 10 huy chương vàng. Vinh dự và tự hào hơn, ngày 25 - 8 - 1970,
đơn vị được Đảng, Nhà nước tuyên dương Đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang,
trở thành đơn vị dân quân thứ hai của Lệ Thủy vinh dự được công nhận đơn vị
Anh hùng.
Bước sang những năm 1969 - 1973, sau thất bại của chiến lược " Chiến

tranh cục bộ ", Mỹ chuyển sang chiến lược " Việt Nam hóa chiến tranh " ở miền
Nam và mở rộng chiến tranh ra tồn Đơng Dương, thực hiện chiến lược " Việt
Nam hóa chiến tranh ". Tuy nhiên, cuộc tiến công chiến lược năm 1972 của ta đã
giáng đòn nặng nề vào chiến lược " Việt Nam hóa chiến tranh ", buộc Mỹ phải
tuyên bố " Mỹ hóa " trở lại chiến tranh xâm lược. Nhằm cứu vãn cho tình thế của
cuộc chiến tranh QLVNCH và QD Mỹ lại leo thang bắn phá miền Bắc lần thứ hai.
Ngày 6 - 4 - 1972, Mỹ cho máy bay ném bom bắn phá một số nơi từ Thanh
Hóa vào Quảng Bình. Ngày 16 - 4 - 1972, tổng thống Mỹ Ních - xơn tuyên bố
chính thức tiến hành cuộc chiến tranh bằng không quân và hải quân phá hoại miền
Bắc ( lần thứ hai ). Đến ngày 9 - 5 - 1972, Ních - xơn tuyên bố phong tỏa cảng Hải
Phịng cùng các cửa sơng, luồng lạch, vùng biển miền Bắc nước ta
Quảng Bình là một trong những nơi mà địch tiến hành đánh phá dữ dội nhất.
Trong tháng 4 - 1972, máy bay và tàu chiến Mỹ đã đánh trên 500 trận vào 360
điểm trên địa bàn tỉnh, sử dụng hơn 500 loạt bom các loại, 7000 quả đạn pháo
đánh phá đất Quảng Bình. Chỉ riêng trong ngày 30 - 4, Mỹ bắn phá 33 mục tiêu
trên tất cả các huyện của tỉnh. Tại Lệ Thủy, trong những tháng đầu, chúng tập
trung đánh phá rất ác liệt, nhằm vào những mục tiêu chiến lược như các tuyến giao
thông dọc đường Quốc lộ 1A, dọc đường 15, những nơi tập kết lực lượng và vũ
khí, thuốc men … ở miền Tây của huyện. Các vùng ven bờ biển, trong đó có xã
Ngư Thủy, chúng huy động từng hải đội tàu khu trục uy hiếp và nã đạn pháo vào
đất liền.
Thực chủ trương của Huyện ủy về tăng cường hơn nữa khả năng chủ động
đối phó với mọi âm mưu, thủ đoạn mới của kẻ thù, Đại đội nữ pháo binh Ngư
Thủy được tăng cường thêm quân số. Trước khi bước vào trận đánh, có một số chị
đã được cử đi học ở Trường sĩ quan Pháo binh Sơn Tây như chị Trần Thị Hoanh,
Nguyễn Thị Toan, Trần Thị Lựa, Nguyễn Thị Sâm, Nguyễn Thị Thiêm, Lê Thị
Nghịn. Sau 4 tháng huấn luyện trở về, các chị đã tích lũy thêm nhiều kinh nghiệm,
sử dụng khá thành thạo các loại vũ khí hiện đại , sẵn sàng cùng các chị em khác
trong Đại đội chiến đấu. Trong thời gian từ 1972 - 1976, Đại đội do chị Trần Thị
Hoanh làm Đại đội trưởng, chị Ngơ Thị Thới làm Chính trị viên và đã tham gia

đánh bốn trận, tiếp tục làm nên những thắng lợi giịn giã làm kinh hồng QDHK.
- Trận đánh thứ nhất (ngày 5 - 5 - 1972):
21


20 giờ ngày 5 - 5 - 1972, Đài chỉ huy phát hiện mục tiêu lập tức thông báo
cho chị em sẵn sàng chiến đấu. Sau 30 phút, các khẩu đội đã sẵn sàng chiến đấu.
Đài chỉ huy điện xin cấp trên và được cấp trên đồng ý.
Trận đánh bắt đầu.
Đúng 21 giờ ngày hơm đó, sau khi Đài chỉ huy đo được độ hướng, thước
tầm, bốn khẩu đội bắn loạt đạn đầu tiên. Mặc cho HQHK bắn phá, Đại đội bắn trả
quyết liệt, khó khăn do chiến đấu trong điều kiện đêm tối và một số người bị
thương nhẹ, chị em vẫn bình tĩnh đứng vững trên trận địa, liên tục nã đạn vào
HQHK. Giữa những tiếng đùng đoàng náo động của đạn pháo, mịt mù của đêm tối
và khói bụi, khẩu lệnh chỉ huy của đồng chí Đại đội trưởng vẫn vang lên đanh
thép, lanh lảnh, thúc giục chị em hăng hái chiến đấu. Kết quả, chỉ sau 10 phút
chiến đấu quyết liệt, chị em nhận ra tàu Mỹ đang bốc cháy giữa bầu trời đêm. Cả
Đại đội ai nấy nhảy cẫng lên, ôm chầm lấy nhau vui sướng vì ta đã thắng. Bà con
trong xóm cũng ùa ra reo hị khi nhìn tàu chiến của Mỹ bị Đại đội bắn cháy.
- Trận đánh thứ hai (ngày 9 - 6 - 1972)
Từ tháng 6 - 1972, Mỹ huy động càng nhiều máy bay và tàu chiến hơn tập
trung đánh phá với cường độ cao vào khu vực Quảng Bình, Vĩnh Linh hịng cắt
đứt tuyến chi viện của miền Bắc đối với miền Nam cả trên bộ lẫn trên biển. Huyện
Lệ Thủy cũng như xã Ngư Thủy lại trở thành trọng điểm bắn phá của KQHK
Ngày 9 - 6 -1972, cũng như những lần bắn phá trước, Mỹ huy động cả máy
bay B.52 và tàu chiến ném bom và bắn đạn pháo để phá hủy các cầu cống, đường
sá và khu dân cư. Rút kinh nghiệm từ trận đánh trước, cũng chiến đấu trong điều
kiện ban đêm nhưng Đại đội đã nhanh chóng triển khai trận địa, xác định mục tiêu,
độ hướng, thước tầm và đồng loạt nổ súng. Quả nhiên, mấy phút sau khi khai hỏa,
một lần nữa ở ngoài khơi, lửa lại bốc cháy trên tàu HQHK. Chiến công này của

Đại đội cùng với chiến công của các lực lượng bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương,
dân quân tự vệ đã góp phần bảo vệ vùng biển quê hương.
- Trận đánh thứ ba (ngày 14 - 7 - 1972)
Trong thời gian từ tháng 7 đến tháng 10 - 1972, Mỹ liều lĩnh cho tàu chiến
áp sát vào các vùng ven biển Quảng Bình, Quảng Trị, phong tỏa các cửa sông, cửa
biển bằng ngư lôi và bom từ trường, đồng thời liên tục nã trọng pháo vào các vùng
đông dân cư. Đại đội nữ pháo binh Ngư Thủy lúc này phải tăng cường hoạt động,
cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu khi có tàu chiến Mỹ xuất hiện.
Ngày 14 - 7 - 1972, khoảng 21 giờ, tàu chiến Hoa Kì lại xuất hiện và bắn
trọng pháo vào đất liền. Với tinh thần cảnh giác và sẵn sàng chiến đấu cao độ, các
chị đã nhanh chóng xác định mục tiêu và bắn trả quyết liệt. Cũng như trận đánh
trước, chỉ sau vài phút, một phần tàu chiến của Mỹ đã bị bốc cháy, buộc phải tháo
chạy ra khơi xa.
- Trận đánh thứ tư (ngày 29 - 7 - 1972)
Sau trận đánh thứ ba khoảng 15 ngày, đến ngày 29 - 7 - 1972, Đại đội pháo
của các chị tiếp tục đánh trận thứ hai trong tháng 7 và cũng là trận đánh cuối cùng
trong cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ hai của Mỹ.
Trong trận này, tàu chiến Mỹ bị đạn pháo của Đại đội cùng các đơn vị pháo binh
khác uy hiếp, hoảng sợ tháo chạy trong niềm hân hoan của mọi người
22


Như vậy, trong năm 1972, Đại đội nữ pháo binh Ngư Thủy đã tham gia đánh
bốn trận và có hai lần được trên công nhận là bắn cháy tàu chiến Mỹ (hai trận
đầu). Chiến công của các chị đã cùng với nhân dân trên toàn xã, huyện, tỉnh và
quân dân tồn miền Bắc đã góp phần đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc
lần thứ hai của đế quốc Mỹ
Kết thúc 8 năm chiến đấu chống chiến tranh phá hoại miền Bắc của Mỹ,
nhân dân xã Ngư Thủy trở thành tấm gương sáng của huyện Lệ Thủy trong chiến
đấu và sản xuất, xứng đáng với sứ mệnh là một xã nằm ở tuyến đầu của miền Bắc

xã hội chủ nghĩa. Với thành tích đánh 8 trận, trong đó có 5 trận được trên cơng
nhận bắn cháy và chìm tàu chiến Mỹ, Đại đội nữ pháo binh Ngư Thủy xứng đáng
với danh hiệu mà Đảng và Nhà nước trao tặng - Đơn vị Anh hùng lực lượng vũ
trang nhân dân. Tên tuổi và chiến công của Đại đội cũng như của các chị mãi mãi
được lịch sử ghi nhận để các thế hệ sau luôn tự hào về truyền thống " Anh hùng,
bất khuất, trung hậu, đảm đang " của người phụ nữ Việt Nam.
(Lethuy.edu.vn; qdnd.vn;....)
Chủ đề: người lính Israel, mà cụ thể hơn–quân nhân dự bị-động viên.
Nguồn tư liệu là bài của giáo sư Zakhar Gelman gửi cho báo “Bình luận quân sự độc lập” (Nga)
từ Jerusalem đầu năm 2015.

Được phục vụ trong lực lượng dự bị là niềm hãnh diện đối với mọi công
dân Israel . Ảnh Reuters
Trước hết, nếu chúng ta để ý sẽ thấy là Israel không bao giờ tiến hành một chiến dịch quân sự
lớn nếu như chưa huy động lực lượng dự bị.
Theo Học thuyết quân sự Israel, chính lực lượng dự bị là sức mạnh tác chiến chủ yếu của Quân
đội phòng vệ Israel. Quốc gia Do Thái khơng thể cho phép mình duy trì một đội qn thường
trực q đơng.
Qn số của các đơn vị thường trực trong Quân đội Israel gồm cả binh lính và sỹ quan tại ngũ
khơng nhiều nhưng hoạt động rất hiệu quả, được trang bị những phương tiện kỹ thuật quân sự và
vũ khí hiện đại nhất.
Nhiệm vụ của các đơn vị thường trực trong trường hợp có xung đột quân sự xảy ra là chặn đứng
các đợt tấn công của đối phương, không cho chúng tiến sâu vào trong nội địa cho đến khi các
23


đơn vị quân dự bị được điều đến để tăng cường. Sau khi quân dự bị được triển khai, Quân đội
Israel thường chuyển sang phản công.
Thời gian phục vụ của quân nhân dự bị
Theo luật Israel, có thể gọi quân nhân dự bị đi “tập huấn quân sự” hoặc tham gia vào các hoạt

động tác chiến trong một thời gian khơng q 25 ngày trong vịng 3 năm.
Nói cách khác, Quân đội có quyền đưa quân nhân dự bị vào tham gia các hoạt động tác chiến
hoặc là một đợt liên tục 25 ngày trong khoảng thời gian 03 năm, hoặc là chia thành các đợt ngắn
ngày hơn trong 3 năm đó nhưng tổng thời gian triệu tập khơng vượt quá 25 ngày.
Nhưng trong thời bình, luật lại quy định khác: quân nhân dự bị không phải là sỹ quan có thể bị
gọi tập trung với thời hạn 54 ngày trong thời gian 3 năm. Quân nhân dự bị giữ các chức vụ chỉ
huy nhưng không phải là sỹ quan thì thời gian tập trung là 70 ngày (cũng trong 3 năm).
Các quân nhân dự bị là sỹ quan thì tổng thời gian tập trung trong 03 năm không vượt q 84
ngày. Trong trường hợp có tình huống khẩn cấp hoặc tun bố tình trạng chiến tranh thì Bộ
Quốc phịng được ủy quyền triệu tập các quân nhân dự bị tập trung trong một thời gian dài hơn
các quy định như đã liệt kê ở trên.
Theo quy định của Cục cán bộ Bộ Quốc phòng Israel, nếu thời gian tập huấn quân sự kéo dài từ
7 đến 14 ngày, quân nhân dự bị được nghỉ phép 01 ngày (24 giờ), còn nếu từ 15 đến 21 ngày,
thời gian nghỉ phép sẽ được nâng lên thành 28 giờ. Nếu quân nhân dự bị tập trung hơn 22 ngày,
họ sẽ được nghỉ phép 72 giờ và có thể chia thời gian đó thành nhiều đợt.
Ngoài ra, nếu quân nhân dự bị được triệu tập theo “cơng thức 8” (có nghĩa là tham gia vào các
hoạt động tác chiến) thì sỹ quan chỉ huy đơn vị có thể cho phép quân nhân dự bị nghỉ phép 48
giờ để giải quyết các công việc tổ chức và việc riêng.
Thời gian tập trung của quân nhân dự bị phụ thuộc vào mức độ mối đe dọa quân sự. Tuổi tối đa
của quân nhân dự bị được gọi tập trung đã được luật quy định từ năm 2008.
Qn nhân dự bị là chiến sỹ thì có tên trong danh sách lực lượng dự bị cho đến năm 40 tuổi, các
sỹ quan chiến đấu – đến 42 tuổi. Qn nhân dự bị có các chun mơn đặc thù như bác sỹ, nhân
viên kỹ thuật, lái xe hạng nặng – đến 49 tuổi. Phụ nữ thường ít được gọi tập trung.
Nhưng về mặt nguyên tắc họ có thể nhận được giấy triệu tập cho đến khi họ tròn 38 tuổi. Từ
năm 2004, vào mùa xuân hàng năm, người Do Thái có thêm một ngày lễ gọi là “Ngày quân nhân
dự bị” - ngày tháng cụ thể được xác định theo lịch Do Thái.
Trong những năm đầu tiên sau khi thành lập nhà nước Do Thái, khi dân số Israel chỉ bằng 1/8
dân số hiện nay, trần tuổi của quân nhân dự bị là 54 và thời gian tập trung của quân nhân dự bị
hàng năm là 2 tháng.
Hiện nay, Bộ Quốc phịng Israel thường khơng gửi giấy triệu tập đến những người đã quá 45

tuổi. Phụ nữ cũng ít nhận được giấy triệu tập. Nhưng trong trường hợp có chiến sự thì sẽ có rất
nhiều cơng dân Israel tình nguyện tham gia chiến đấu.
Thêm một điểm khá thú vị nữa là các quân nhân dự bị thường được gọi tập trung thực hiện
nghĩa vụ dự bị tại một phân đội cố định nào đó.
Và như vậy, người lính dự bị Israel trong khoảng thời gian gần 25 năm được thường tập trung tại
một phân đội (đơn vị) đã q quen thuộc và có nhiều bạn bè. Khơng có gì đáng ngạc nhiên khi
nhiều quân nhân dự bị Israel nóng lịng chờ lệnh tập trung để có điều kiện gặp lại bạn cũ.
Bảo đảm tài chính và các ưu đãi
Trước hết, cần phải thấy rằng “quan nhân dự bị” khi được gọi tập trung không hề phải chịu một
“thiệt thịi” nào về mặt tài chính. Chủ sử dụng lao động phải tiếp tục trả lương cho “quân nhân
dự bị” trong suốt thời gian anh ta vắng mặt, còn về phần mình chủ lao động sẽ được nhận khoản
tiền đền bù từ “Cơ quan bảo hiểm quốc gia”.
Dĩ nhiên, thời gian quân nhân dự bị phục vụ trong quân ngũ phải được xác nhận bằng văn bản.
Nếu không, chủ sử dụng lao động sẽ không được nhận khoản đền bù đó.
Mức tiền trả cho quân nhân dự bị sẽ được tính căn cứ vào mức lương trung bình 3 tháng trước
khi gọi tập trung tại các đơn vị quân đội hoặc tham gia các khóa tập huấn quân sự.
Thêm nữa, tất cả các ngày phục vụ đều được tính lương. Nói cách khác, Cơ quan bảo hiểm phải
trả cho chủ sử dụng lao động số tiền lương của tất cả các ngày mà quân nhân dự bị vắng mặt, kể
cả thứ sáu và thứ bảy (ngày nghỉ của người Israel).
24


Thành thử, người chủ sử dụng lao động có thể nhận được số tiền đền bù còn lớn hơn mức tiền lẽ
ra họ phải trả cho người lao động. Trong trường hợp này, chủ sử dụng lao động có trách nhiệm
phải chuyển phải vào tài khoản của người lao động được gọi tập trung số tiền chênh lệch đó.
Ngay cả người thất nghiệp thì trong 01 tháng gọi tập trung cũng được nhận 5.700 shekels (hơn
1.500 đô la). Nếu quân nhân dự bị là người làm việc bán thời gian và thu nhập của anh ta ít hơn
mức trợ cấp mà người thất nghiệp được hưởng thì sau khi được gọi tập trung anh ta sẽ nhận
khoản tiền tương đương với mức trợ cấp thất nghiệp.
Có thể coi đây là mức sàn. Cũng có những quy định về mức trần - cụ thể , tổng số tiền chi trả

trong một tháng cho quân nhân dự bị Israel khi được gọi tập trung không được vượt quá 5 lần
mức thu nhập trung bình hàng tháng của người dân Israel. Tất cả các quân nhân dự bị đều được
giảm thuế thu nhập.
Các quân nhân dự bị là chủ các doanh nghiệp tư nhân tham gia tập huấn sẽ được nhận số tiền
đền bù tương đương với mức doanh thu trong khoảng thời gian đó.
Những quân nhân dự bị được triệu tập theo giấy gọi “công thức 8” (tức tham gia các hoạt động
tác chiến như đã nói ở phần đầu) được nhận các ưu đãi khác nhau.
Một ví dụ là cách đây không lâu Quốc hội Israel đã thông qua một đạo luật cho phép những
quân nhân dự bị được gọi tập trung tại các đơn vị quân đội không phải thực hiện các cam kết tài
chính trong suốt thời gian phục vụ và trong 5 tuần sau đó. Nhưng xin nhấn mạnh là chỉ hỗn
thực hiện các cam kết tài chính chứ không phải là miễn hoặc giảm.
Nghĩa vụ cao hơn tất cả
Tất nhiên là sự đảm bảo vật chất cho các quân nhân dự bị tham gia các đợt tập huấn quân sự và
các hoạt động tác chiến là rất quan trọng. Nhưng đối với quân nhân dự bị Israel, cao hơn tất cả
vẫn là ý thức trách nhiệm của họ trong việc bảo vệ quốc gia mà họ là công dân.
Cả những người đi công tác xa hoặc nhiều năm làm ăn ở nước ngoài cũng nhận thức được tầm
quan trọng của việc tham gia các đợt tập huấn quân sự và sẵn sàng quay về Israel để thực hiện
nghĩa vụ theo giấy triệu tập mà Bộ Quốc phòng gửi qua gia đình hoặc bạn bè.
Thường thì các cơng dân Israel, ngoài 03 năm thực hiện nghĩa vụ quân sự tại các đơn vị thường
trực cịn có thêm khoảng thời gian từ 2 đến 3 năm thực hiện nghĩa vụ của quân nhân dự bị (tính
tổng cộng). Tuy nhiên, cũng có trường hợp ngoại lệ, xin dẫn ra sau đây.
Thiếu tá nghỉ hưu Iakov Merer, 66 tuổi, được coi là người giữ kỷ lục tuyệt đối về tổng thời gian
tham gia các đợt tập huấn quân sự. Sau 03 năm thực hiện nghĩa vụ trong các đơn vị thường trực
và 02 năm kéo dài thời hạn phục vụ, Merer đã tham gia các đợt tập huấn quân sự với tổng quỹ
thời gian là 2.492 ngày. Vị trí thứ hai thuộc về trung tá Iosef Hagoel, - 2.022 ngày .
Người được coi là quân nhân dự bị cao tuổi nhất là Raif Kopel, năm nay (2015) đã 89 tuổi, vốn
sinh ra tại thành phố Kolomya ở Tây Ucraine. Tất cả các người thân của ơng trên lãnh thổ Phát
xít Đức chiếm đóng đều đã bị sát hại. Ơng Raif gia nhập Hồng quân từ năm 16 tuổi, tham gia
giải phóng Budapest.
Năm 1948, (đang mang quốc tịch Ba Lan) ông chuyển đến sống ở Israel và tham gia vào cuộc

chiến tranh giành độc lập. Bị thương trong chiến đấu và được đưa đến bệnh viện. Tại đây ông
quen với người vợ tương lai là Anita và sống hạnh phúc với bà gần 60 năm.
Họ đã có 03 người con, 08 cháu và 15 chắt. Dĩ nhiên, không ai gửi giấy triệu tập cho ông già
Kopel đã gần 90 tuổi. Nhưng mỗi khi ơng biết là có giấy gọi con cháu tập trung thì bao giờ cũng
tự mình đến các các điểm tập trung và giúp tất cả những gì có thể. Chính vì vậy mà ơng được coi
là qn nhân dự bị cao tuổi nhất.
Chiếm vị trí thứ hai theo tiêu chí này là Đại tá về hưu David Telerson, 84 tuổi . Vị sỹ quan tác
chiến này vào năm 2014 sau khi đi kiểm tra sức khỏe đã gửi một bức thư cho Bộ trưởng quốc
phòng Israel đề nghị cho ông tham gia các đợt tập huấn quân sự và tham gia chiến đấu nếu cần
thiết.
Quân nhân dự bị cao tuổi nhất khi bị thương trong chiến đấu là Trung tá công binh Lahaim
Tomam, - ông bị thương khi đã 56 tuổi trong chiến dịch chống khủng bố “Bức tường phòng thủ”
năm 2014. Tomam, vốn là một chuyên gia về các cơng trình ngầm đã tự mình đến Hội đồng
qn sự địa phương và yêu cầu được cử đến dải Gaza để giúp bộ đội công binh Israel phát hiện
và phá hủy các đường ngầm do các chiến binh HAMAS đào.
25


×