Tải bản đầy đủ (.pdf) (110 trang)

Đảng bộ tỉnh hải dương lãnh đạo xây dựng lực lượng dân quân du kích trong kháng chiến chống thực dân pháp từ năm 1946 đến năm 1954

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.02 MB, 110 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

------------------

ĐẶNG THỊ DUNG

ĐẢNG BỘ TỈNH HẢI DƯƠNG LÃNH ĐẠO
XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG DÂN QUÂN DU KÍCH
TRONG KHÁNG CHIẾN TOÀN QUỐC CHỐNG THỰC
DÂN PHÁP TỪ NĂM 1946 ĐẾN NĂM 1954

Luận văn thạc sỹ chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Mã số: 60 22 56

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. VŨ QUANG HIỂN

Hà Nội - 2012


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 4
1.Lý do chọn đề tài ......................................................................................... 4
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài ........................................................ 7
2.1. Các công trình viết về cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp trong đó có
đề cập đến vấn đề xây dựng lực lượng dân quân du kích ................................ 7
2.2. Những công trình đề cập đến sự lãnh đạo của Đảng và Đảng bộ trong
xây dựng lực lượng dân quân du kích ............................................................. 9
2.3. Đánh giá chung...................................................................................... 11
2.4 Các vấn đề cần tiếp tục được nghiên cứu sâu sắc và đầy đủ ................... 11
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................ 12


3.1. Mục đích nghiên cứu ............................................................................. 12
3.2. Nhiệm vụ .............................................................................................. 12
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu............................................................. 12
4.1. Đối tượng nghiên cứu ............................................................................ 12
4.2. Phạm vi nghiên cứu ............................................................................... 12
5. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu .............................................. 13
5.1. Nguồn tài liệu ........................................................................................ 13
5.2. Phương pháp nghiên cứu ....................................................................... 13
6. Đóng góp mới của luận văn ...................................................................... 14
7. Kết cấu của luận văn ................................................................................ 14
Chƣơng 1:CHỦ TRƢƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG BỘ VỀ XÂY
DỰNG LỰC LƢỢNG DÂN QUÂN DU KÍCH TRONG GIAI ĐOẠN
TRIỂN KHAI CUỘC KHÁNG CHIẾN TOÀN DÂN, TOÀN DIỆN (1946
– 1950 ) ........................................................................................................ 15
1.1. Điều kiện lịch sử và chủ trương của Đảng bộ ........................................ 15
1.1.1. Điều kiện lịch sử ......................................................................... 15
1


1.1.2 Chủ trương của Đảng và Đảng bộ ................................................ 30
1.2. Chỉ đạo xây dựng lực lượng dân quân du kích ....................................... 40
1.2.1. Xây dựng tổ chức và phát triển lực lượng ................................... 40
1.2.2. Xây dựng về chính trị và vật chất................................................ 46
Tiểu kết chƣơng 1 ....................................................................................... 52
Chƣơng 2:TĂNG CƢỜNG XÂY DỰNG LỰC LƢỢNG DÂN QUÂN ... 53
DU KÍCH TRONG GIAI ĐOẠN TIẾN CÔNG CHIẾN LƢỢC CỦA
CUỘC KHÁNG CHIẾN ( 1951 – 1954 ) ................................................... 53
2.1. Yêu cầu mới và chủ trương mới của Đảng bộ ........................................ 53
2.1.1. Yêu cầu mới của cuộc kháng chiến ............................................. 53
2.1.2. Chủ trương của Đảng và Đảng bộ .............................................. 56

2.2. Chỉ đạo xây dựng lực lượng dân quân du kích địa phương .................... 64
2.2.1. Phát triển lực lượng, củng cố tổ chức .......................................... 64
2.2.2 Đẩy mạnh công tác giáo dục tư tưởng chính trị, trang bị huấn luyện
............................................................................................................. 66
Tiểu kết chƣơng 2 ....................................................................................... 76
Chƣơng 3:MỘT SỐ NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM LICH
SƢ̉.......... 78
̣
3.1. Một số nhận xét ..................................................................................... 78
3.1.1. Ưu điểm ...................................................................................... 78
3.1.2. Hạn chế ....................................................................................... 89
3.2. Một số kinh nghiệm lịch sử ................................................................... 90
3.2.1. Nhận thức đúng yêu cầu phát triển lực lượng dân quân du kích của
địa phương để xác định chủ trương phù hợp ......................................... 90
3.2.2. Muốn xây dựng lực lượng dân quân du kích có số lượng và chất
lượng cao, quá trình chỉ đạo thực hiện phải linh hoạt, thích hợp với hoàn
cảnh địa phương. .................................................................................. 92

2


3.2.3. Kết hợp đúng đắn giữa xây dựng lực lượng dân quân du kích với
lực lượng vũ trang khác. Gắn xây dựng lực lượng dân quân du kích với
xây dựng cơ sở vững mạnh toàn diện. .................................................. 95
Tiểu kết chƣơng 3 ....................................................................................... 97
KẾT LUẬN ................................................................................................. 99
TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................ 104

3



MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài
Trong tiến trình lịch sử Việt Nam, dựng nước luôn đi đôi với giữ nước
chống lại giặc ngoại xâm đe dọa sự an nguy của dân tộc. Vì vậy, các cuộc
khởi nghĩa và chiến tranh chống ngoại xâm đã diễn ra hầu như liên tục, tần
xuất cao, mang tính qui luật chi phối quá trình phát triển lịch sử của đất nước.
Có thể nói, chiến tranh chống ngoại xâm vừa là thử thách gay go, ác liệt nhất,
vừa thể hiện ý chí quật cường, đồng thời cũng là niềm tự hào vĩ đại nhất của
nhân dân Việt Nam. Trong phần lớn các cuộc chiến tranh, dân tộc Việt Nam
luôn phải đối đầu với những thế lực xâm lược to lớn, giầu mạnh, có lực lượng
quân đông gấp nhiều lần, có phương tiện vật chất và kĩ thuật quân sự tiên tiến.
Vì vậy, dân tộc Việt Nam luôn phải “ lấy nhỏ đánh lớn, lấy ít địch nhiều”,
“Dựa vào dân, xây dựng lực lượng vũ trang từ nhân dân, thực hiện chiến tranh
nhân dân và nghệ thuật quân sự toàn dân, cả nước đánh giặc, là phương thức
thích hợp nhất, là bài học thành công trong sự nghiệp giữ nước của dân tộc
Việt Nam”.
Lực lượng vũ trang ba thứ quân bao gồm bộ đội chủ lực, bộ đội địa
phương và dân quân du kích. Dân quân du kích là lực lượng vũ trang quần
chúng gồm những công dân tình nguyện tham gia công tác quân sự địa
phương, không thoát ly sản xuất, có nhiệm vụ chiến đấu chống giặc, bảo vệ
chính quyền, nhân dân và làm những nhiệm vụ quân sự khác; là một bộ phận
hợp thành của lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam.
Xây dựng lực lượng dân quân du kích là một trong những nội dung lớn
trong đường lối quân sự của Đảng. Đó là một trong ba thứ quân của lực lượng
vũ trang, đáp ứng yêu cầu to lớn của cách mạng Việt Nam. Trong suốt cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp, lực lượng dân quân du kích đã góp phần to

4



lớn vào việc phân tán, chia cắt, giam chân, đánh tiêu diệt và tiêu hao lực
lượng địch, làm thất bại những âm mưu quân sự và chính trị của kẻ thù, góp
phầnlàm cho lực lượng Việt Nam ngày càng phát triển mạnh mẽ cả về
sôốlượng và chất lượng, từng bước đua cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp đến thắng lợi.
Nhân dân Việt Nam đã phát triển rộng rãi chiến tranh du kích và coi đó
là một trong những hình thức chiến tranh cơ bản, một chiến lược quân sự
nhằm đánh bại thực dân Pháp xâm lược. Du kích, dân quân tự vệ, bộ đội địa
phương và những bộ phận bộ đội chủ lực hoạt động phân tán đã dùng cách
đánh du kích bất ngờ, linh hoạt, "lai vô ảnh, khứ vô tung", đánh nhanh, di
chuyển nhanh, khi phân tán, lúc tập trung, đánh địch mọi lúc, mọi nơi, đánh
địch bằng mọi thứ vũ khí và bằng mọi hình thức, làm cho quân địch tiêu hao
sinh lực, sa sút về tinh thần, ăn không ngon, ngủ không yên. Do thông thạo
địa hình, lại được nhân dân che chở, bộ đội địa phương, dân quân du kích đã
sử dụng chông, mìn, cạm, bẫy, "ong bò vẽ"...để đánh giặc, góp phần làm nên
thắng lợi chung của dân tộc.
Hải Dương - một vùng đất thuộc châu thổ Sông Hồng, là một địa bàn
có vị trí chiến lược vô cùng quan trọng nối liền Thủ đô Hà Nội với Hải Phòng
và Quảng Ninh. Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, dưới sự lãnh đạo của
Đảng, lực lượng dân quân du kích tỉnh Hải Dương đã lập nên nhiều chiến
công oanh liệt, góp sức vào thắng lợi chung của dân tộc và làm rạng rỡ thêm
truyền thống anh hùng bất khuất trong lịch sử chống giặc ngoại xâm của một
vùng đất “giàu của, giàu người, giàu chiến công”.
Thực hiện chủ trương của Đảng ngay từ khi mới thành lập, Đảng bộ
tỉnh Hải Dương đã chú trọng lãnh đạo xây dựng lực lượng dân quân du kích
từ không đến có, từ yếu đến ngày càng vững mạnh, đáp ứng yêu cầu của cuộc

5



kháng chiến chống ngoại xâm cùng cả nước đánh đuổi quân thù. Nhân tố
quan trọng nhất cho sự phát triển và trưởng thành của lực lượng dân quân du
kích ở Hải Dương là vai trò lãnh đạo của Đảng, trực tiếp là Đảng bộ tỉnh Hải
Dương. Căn cứ vào những điều kiện thực tiễn của địa phương như: điều kiện
tự nhiên, điều kiện kinh tế - xã hội, truyền thống dựng nước giữ nước của
nhân dân địa phương, nhiệm vụ quân sự của địa phương, Đảng bộ tỉnh Hải
Dương đã có những chủ trương, biện pháp đúng đắn, sáng tạo trong việc xây
dựng và phát triển lực lượng dân quân du kích địa phương.
Đất nước đang trên con đường đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Dưới
sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân Việt Nam đang ra sức thực hiện hai nhiệm vụ
chiến lược: xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Trong khi đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng đất nước, nhân dân Việt Nam
vẫn luôn nâng cao cảnh giác, củng cố quốc phòng, bảo vệ an ninh chính trị,
trật tự an toàn xã hội, bảo vệ Tổ quốc và thành quả cách mạng. Đó là một
trong những phương hướng cơ bản được xác định trong “Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” do Đại hội lần thứ
VII của Đảng thông qua (6/1991) và được các Đại hội VIII (6/1996), IX
(4/2001), X (4/2006) của Đảng khẳng định lại.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, các lực lượng dân quân du kích thường
xuyên được quan tâm xây dựng và phát triển về mọi mặt, đáp ứng được yêu
cầu xây dựng nền quốc phòng toàn dân, toàn diện, hăng say lao động sản xuất
và sẵn sàng bảo vệ Tổ quốc khi cần. Do vậy, việc nghiên cứu đề tài này
không chỉ góp phần làm rõ một giai đoạn trong quá trình xây dựng và phát
triển của lực lượng dân quân du kích địa phương, mà còn góp phần tổng kết
những kinh nghiệm lịch sử cách mạng cần thiết phục vụ cho sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày nay.

6



Để góp phần tìm hiểu cuộc kháng chiến chống Pháp của quân và dân
Hải Dương, đặc biệt là vai trò lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Hải Dương trong
việc xây dựng lực lượng dân quân du kích địa phương, đáp ứng yêu cầu nâng
cao trình độ chuyên môn và tự hào về truyền thống quê hương, tôi chọn đề
tài: “Đảng bộ tỉnh Hải Dương lãnh đạo xây dựng lực lượng dân quân du
kích trong kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp từ năm 1946 đến
năm 1954” làm luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu về xây dựng và phát triển lực lượng dân quân du kích trên
cả nước nói chung và lực lượng dân quân du kích ở Hải Dương nói riêng cho
đến nay đã có nhiều cuốn sách đã xuất bản, nhiều công trình nghiên cứu của
nhiều tác giả về cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân Hải Dương. Có
thể khái quát thành các nhóm sau đây:
2.1. Các công trình viết về cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
trong đó có đề cập đến vấn đề xây dựng lực lượng dân quân du kích
- Lịch sử cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp ( 1945 – 1954 ), tập I,
II, Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (Nxb, Quân đội nhân dân, Hà Nội 2001).
Cuốn sách đã khẳng định một trong những yếu tố thắng lợi của cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp là chủ trương đúng đắn của Đảng về xây dựng lực
lượng dân quân du kích trên phạm vi cả nước. Nhân dân trong cả nước có tinh
thần đoàn kết, thống nhất ý chí cao giữa Đảng và nhân dân. Đảng tin dân,
bám vào dân; dân tin Đảng, theo Đảng. Đây là sức mạnh to lớn để đánh bại
âm mưu thủ đoạn của kẻ thù trong suốt cuộc kháng chiến.
- Lịch sử cuộc kháng chiến chống Pháp trên địa bàn Hải Hưng
(1945 – 1954 ), (Bộ chỉ huy Quân sự Hải Hưng xuất bản năm 1988 ); Lịch sử

7



Đảng bộ tỉnh Hải Dương (1930 – 1975), (Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
2008).
Các sách trên đã đề cập khái quát về mảnh đất, con người và truyền
thống lịch sử hào hùng của nhân dân Hải Dương trong cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp. Khẳng định: “ Các lực lượng vũ trang trong tỉnh phát
huy truyền thống quê hương, được giác ngộ về chính trị, có ý chí chiến đấu
cao, kiên cường, dũng cảm, mưu trí, sáng tạo, bám đất, phối hợp với các đơn
vị chủ lực tiến công địch cả về chính trị, quân sự và binh vận, tiêu hao, tiêu
diệt và làm tam rã hàng ngũ địch, càng đánh càng mạnh, càng trưởng thành về
mọi mặt” [44, tr. 265-266]. Ngoài ra còn khẳng định mỗi bước phát triển của
sự nghiệp kháng chiến đều gắn liền với sự đóng góp to lớn của nhân dân, từ
của cải vật chất đến đùm bọc, che chở nuôi dưỡng cán bộ, đảng viên, dân
quân, du kích, xây dựng lực lượng về mọi mặt, mà trọng tâm là xây dựng
củng cố lực lượng vũ trang, phát triển mở rộng lực lượng dân quân du kích để
làm nòng cốt cho cuộc kháng chiến, làm chỗ dựa và thúc đẩy phong trào đấu
tranh chính trị của quần chúng phát triển.
- Các bài viết, bài báo khoa học đã được đăng đề cập đến xây dựng lực
lượng dân quân du kích như: “45 năm xây dựng chiến đấu và trưởng thành
của lực lượng vũ trang tỉnh nhà”, Báo cáo kinh nghiệm chiến tranh du kích,
Hội nghị Quân chính, Ban thông sự tỉnh Hải Dương(Tháng 9/1948 ).
Các bài viết đã nêu lên các thành tích của lực lượng vũ trang tỉnh Hải
Dương trong kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, trong đó góp phần
không nhỏ là lực lượng dân quân du kích. Tổng kết thành kinh nghiệm trong
việc xây dựng lực lượng dân quân du kích, quá trình phát triển của dân quân
du kích Hải Dương, các hình thức chiến đấu của dân quân du kích.

8


2.2. Những công trình đề cập đến sự lãnh đạo của Đảng và Đảng bộ

trong xây dựng lực lượng dân quân du kích
- “Đảng chỉ đạo phong trào chiến tranh du kích đường số 5 trong
kháng chiến chống Pháp” (luận văn của Nguyễn Tiến Trưởng). Luận văn đã
đề cập đến tầm quan trọng của việc xây dựng lực lượng dân quân du kích
trong kháng chiến, các phong trào chiến tranh tiêu biểu của quân dân ta trên
đường số 5, bước đầu tổng kết những thành tựu và hạn chế trong xây dựng lực
lượng dân quân du kích.
- “Đảng lãnh đạo xây dựng lực lượng dân quân du kích trong kháng
chiến chống Pháp 1946 – 1954” ( khoá luận tốt nghiệp Đại học của Nguyễn
Thị Ngọc Hoa). Khoá luận đã nghiên cứu sự lãnh đạo của Đảng về tình hình
xây dựng lực lượng dân quân du kích trên phạm vi cả nước. Những chủ
trương của Đảng trong các năm 1946 – 1950, 1951 – 1954 về sự cần thiết và
chủ trương, chỉ đạo thực hiện xây dựng lực lượng dân quân du kích. Khoá
luận khẳng định: “Đường lối xây dựng lực lượng dân quân du kích của Đảng
là đúng đắn và sáng tạo. Nó đáp ứng yêu cầu khách quan của lịch sử, đáp ứng
ý chí và nguyện vọng của quần chúng nhân dân là đứng lên chiến đấu vì độc
lập, tự do. Chính vì thế mà lực lượng dân quân du kích đã trở thành lực lượng
chiến lược, góp phần quyết định đến thắng lợi của chiến tranh” [48, tr. 96].
- Đảng bộ và nhân dân Kinh Môn kháng chiến chống thực dân Pháp
xâm lược ( 12/ 1946 đến 4/ 1955 ),( Nhà in Hải Dương ). Sách đã đề cập đến
sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện Kinh Môn cụ thể hoá đường lối lãnh đạo của
Đảng trong kháng chiến toàn dân, vấn đề quan trọng trong kháng chiến là xây
dựng lực lượng về mọi mặt, mà trọng tâm là xây dựng củng cố lực lượng vũ
trang, phát triển mở rộng lực lượng dân quân du kích để làm nòng cốt cho
cuộc kháng chiến. Chính vì vậy, ngay từ ngày đầu bùng nổ cuộc kháng chiến,

9


lực lượng dân quân du kích Kinh Môn còn hết sức non yếu, vũ khí thô sơ

thiếu thốn, trình độ chiến kỹ thuật còn hạn chế, song quán triệt phương châm
“Trường kỳ kháng chiến, tự lực cánh sinh” của Trung ương Đảng, Đảng bộ
Kinh Môn luôn dựa vào sức mạnh của toàn dân để chăm lo xây dựng lực
lượng dân quân du kích, lấy vũ khí địch trang bị cho ta.
- Hải Dương - Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc
Mỹ (1945 – 1975), (Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội năm 2008) ; Địa chí Hải
Dương, tập II, phần III: Lịch sử xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội năm 2008 ); Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của
quân và dân Liên khu III, 1945 – 1955 ( Nxb Quân đội nhân dân, Bộ tư lệnh
Quân khu III, Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam, năm 2005).
Các sách trên đã đề cập đến các đảng bộ lãnh đạo nhân dân trong huyện
đứng lên kháng chiến như: đảng bộ Tứ Kỳ ra đời và lãnh đạo nhân dân củng
cố chính quyền, chuẩn bị kháng chiến (30/8/1945 đến 19/12/1946), lãnh đạo
nhân dân sản xuất, vừa chiến đấu chống địch (12/1946 đến 12/1949), nhân
dân vượt qua gian khổ, chống lại các cuộc hành quân càn quét bình định của
địch (12/1949 đến 10/1951), lãnh đạo nhân dân chủ động tiến công địch giải
phóng quê hương (11/1951 đến 10/1954). Đảng bộ và nhân dân Kinh Môn
kháng chiến (12/1946 đến 4/1955). Đảng bộ và nhân dân Nam Sách kháng
chiến (19/12/1946 đến 10/1954). Nhân dân Hải Hưng chiến đấu anh dũng
chống phá kế hoạch bình định của địch, xây dựng hậu phương, mở rộng khu
du kích và căn cứ du kích (10/1949 đến 2/1952)…Các sách này còn khái quát
một số bài học kinh nghiệm và nguyên nhân thắng lợi đúc rút trong kháng
chiến chống Pháp, chủ trương xây dựng lực lượng dân quân du kích trong
tỉnh, là cơ sở hoạch định đường lối kháng chiến lâu dài về sau này.

10


2.3. Đánh giá chung
Phần lớn các công trình nghiên cứu và các bài viết nêu trên cung cấp

cách nhìn tổng thể và khái quát về cuộc kháng chiến của nhân dân cả nước
trong đó có nhân dân Hải Dương. Ở những mức độ khác nhau, những tác
phẩm này đã đề cập đến chủ trương của Đảng bộ tỉnh trong việc xây dựng lực
lượng dân quân du kích. Nhưng về cơ bản chỉ đề cập đến việc xây dựng lực
lượng dân quân du kích trên phạm vi cả nước, nói về số lượng nhiều hơn vấn
đề xây dựng lực lượng, việc tác chiến của lực lượng dân quân du kích với bộ
đội chủ lực, bộ đội địa phương.
Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu trên chưa tập trung đi sâu nghiên
cứu một cách có hệ thống như một công trình chuyên khảo; chưa hệ thống
hoá số liệu, kết quả làm được trong xây dựng lực lượng dân quân du kích về
số lượng, tư tưởng; chưa đánh giá về quá trình chỉ đạo của Đảng bộ trong xây
dựng lực lượng dân quân du kích; chưa tổng kết kinh nghiệm của Đảng bộ.
2.4 Các vấn đề cần tiếp tục được nghiên cứu sâu sắc và đầy đủ
- Trình bày luận giải một cách có hệ thống quá trình lãnh đạo xây dựng
lực lượng dân quân du kích với chủ trương, biện pháp cụ thể.
- Quá trình xây dựng và phát triển lực lượng dân quân du kích ở Hải
Dương qua các giai đoạn kháng chiến chống Pháp.
- Vai trò của lực lượng dân quân du kích Hải Dương trong kháng chiến
chống Pháp.
- Đánh giá ưu điểm và hạn chế của Đảng bộ Hải Dương trong lãnh đạo
xây dựng lực lượng dân quân du kích.
- Tổng kết kinh nghiệm lịch sử rút ra trong quá trình lãnh đạo xây dựng
lực lượng dân quân du kích.
11


3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Làm rõ sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Hải Dương trong việc xây dựng
và phát triển lực lượng dân quân du kích từ năm 1946 đến năm 1954. Từ đó

rút ra một số kinh nghiệm lịch sử.
3.2. Nhiệm vụ
- Luận văn tập trung vào việc tập hợp những tư liệu lịch sử có liên quan đến
việc xây dựng lực lượng dân quân du kích địa phương ở Hải Dương, đặc biệt
là những chủ trương của Đảng bộ Tỉnh trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp
xâm lược theo 2 giai đoạn (1946 – 1950; 1951 – 1954).
- Trình bày quá trình chỉ đạo thực hiện xây dựng, phát triển dân quân du kích.
- Đánh giá, phân tích để làm rõ ưu điểm, hạn chế của Đảng bộ Hải Dương
trong quá trình lãnh đạo xây dựng và phát triển lực lượng dân quân du kích.
- Phân tích nguyên nhân của những ưu điểm, hạn chế để từ đó tổng kết một số
kinh nghiệm lịch sử có liên quan đến sự lãnh đạo của Đảng bộ Hải Dương.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Chủ trương của Đảng và Đảng bộ tỉnh Hải Dương trong việc xây dựng dân
quân du kích.
- Quá trình triển khai thực hiện chủ trương xây dựng dân quân du kích.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung:
- Nghiên cứu sự lãnh đạo ( bao gồm chủ trương, chính sách và tổ chức thực
hiện) của Đảng về xây dựng lực lượng dân quân du kích.

12


- Nghiên cứu chủ trương xây dựng lực lượng dân quân du kích ở Hải Dương.
Về thời gian: Nghiên cứu quá trình lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Hải
Dương từ năm 1946 đến năm 1954.
Về không gian: Chủ yếu tập trung nghiên cứu trên địa bàn tỉnh Hải Dương.
5. Nguồn tài liệu và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Nguồn tài liệu

- Các Văn kiện Đảng, Đảng bộ tỉnh Hải Dương về cuộc kháng chiến
chống Pháp, những tài liệu về chỉ đạo cuộc đấu tranh vũ trang của Trung
ương Đảng và Quân ủy Trung ương, Bộ tư lệnh quân khu, các nghị quyết, chỉ
thị của Liên Khu Ba, của Tỉnh ủy Hải Dương.
- Các tài liệu báo cáo, tổng kết, ghi chép của các ban, ngành có liên
quan gồm cả những tài liệu đã công bố và chưa công bố, các tài liệu có lư trữ
tại Tỉnh uỷ, Uỷ ban nhân dân tỉnh, thư viện và các tài liệu khảo sát thực tiễn ở
địa phương.
- Các sách báo đã xuất bản ở Trung ương và địa phương tỉnh Hải
Dương viết về lịch sử kháng chiến chống Pháp của nhân dân Hải Dương.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở phương pháp luận: Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
trên cơ sở chủ nghĩa duy vật lịch sử, chủ nghĩa duy vật biện chứng, những
quan điểm cụ thể của Đảng về xây dựng dân quân du kích.
- Phương pháp nghiên cứu chủ yếu:
Phương pháp lịch sử ( để mô tả đúng sự thật lịch sử, phản ánh một cách khách
quan sự lãnh đạo của Đảng bộ, xây dựng và phát triển dân quân du kích đúng
như thực tế khách quan.

13


Phương pháp logic: tổng kết, đánh giá một cách đúng đắn ưu điểm và
hạn chế của Đảng bộ cũng như thành tựu, hạn chế trong xây dựng và phát
triển dân quân du kích Đảng bộ tỉnh Hải Dương. Đồng thời để bước đầu tổng
kết một số kinh nghiệm lịch sử.
- Ngoài ra, luận văn còn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cụ thể khác
như: phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh…
6. Đóng góp mới của luận văn
- Về mặt khoa học: Luận văn phân tích làm rõ vai trò lịch sử và sự lãnh đạo

của Đảng bộ đối với việc xây dựng lực lượng dân quân du kích trong cuộc
kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp và các nhân tố bảm bảo sự lãnh
đạo đó.
- Về mặt thực tiễn: Luận văn rút ra được những nhận xét và tổng kết được
những kinh nghiệm có giá trị lãnh đạo xây dựng dân quân du kích phục vụ sự
nghiệp xây dựng đất nước trong giai đoạn hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài các phần Mở đầu, Kết luận, Phụ lục và Tài liệu tham khảo, Luận
văn gồm 3 chương, 6 tiết.
Chương 1: Chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng bộ về xây dựnglực
lượng dân quân du kích trong giai đoạn triển khai cuộc kháng chiến toàn dân,
toàn diện ( 1946 – 1950 ).
Chương 2: Tăng cường lãnh đạo xây dựng lực lượng dân quân du kích
trong giai đoạn tiến công chiến lược của cuộc kháng chiến (1951 – 1954).
Chương 3: Một số nhận xét và kinh nghiệm lịch sử.

14


Chương 1
CHỦ TRƢƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG BỘ VỀ XÂY DỰNG
LỰC LƢỢNG DÂN QUÂN DU KÍCH TRONG GIAI ĐOẠN TRIỂN
KHAI CUỘC KHÁNG CHIẾN TOÀN DÂN, TOÀN DIỆN (1946 – 1950 )
1.1. Điều kiện lịch sử và chủ trƣơng của Đảng bộ
1.1.1. Điều kiện lịch sử
Những điều kiện ảnh hưởng tới việc xây dựng lực lượng dân quân du kích
- Vị trí địa lý
Hải Dương là tỉnh nằm ở Đông Bắc đồng bằng Bắc Bộ, thuộc châu thổ
sông Hồng. Diện tích tự nhiên là 1.662 km2. Phía Đông giáp thành phố cảng
Hải Phòng; phía Tây giáp tỉnh Hưng Yên; phía Nam giáp tỉnh Thái Bình; phía

Bắc giáp các tỉnh: Bắc Ninh, Bắc Giang, Quảng Ninh. Địa bàn Hải Dương
được giới hạn trong khoảng từ 20 độ 40’ vĩ độ bắc, từ 155 độ 55’ đến 106 độ
37’ độ kinh đông (theo bản đồ quân sự tỉ lệ 1/100.000). Nằm trải dài và án
ngữ phía Đông và Đông Bắc đồng bằng Bắc Bộ, từ Hưng Yên đến Hải Phòng,
từ tả ngạn sông Hồng đến sông Lục Đầu, nên Hải Dương chịu tác động mạnh
của hệ thống sông phía Bắc. Hải Dương nằm trong vùng kinh tế trọng điểm
phía Bắc và có vị trí chiến lược về chính trị, quân sự hết sức quan trọng của
cả nước.
Ngoài việc tự cung tự cấp, phục vụ quốc kế dân sinh, nguồn lương
thực, thực phẩm của Hải Dương còn đảm bảo nhu cầu thiết yếu cho các thời
kỳ kháng chiến cũng như thời bình một cách kịp thời và có hiệu quả. Hải
Dương vẫn dựa vào sản xuất nông nghiệp là chính. Được thiên nhiên ưu đãi,
khí hậu ôn hoà, đất đai phì nhiêu, nên nghề trồng lúa nước là nghề chính của
nhân dân trong tỉnh. Hải Dương có nhiều khoáng sản phục vụ cho dân sinh và
quốc phòng như: than đá Cổ Kênh (Chí Linh), đất chịu lửa ở Trúc Thôn (Chí
15


Linh) và bô xít, cao lanh, đá vôi, cát trắng, than non, khí đốt….Diện tích rừng
không lớn nhưng có nhiều gỗ quý ở Bắc An, Hoàng Hoa Thám. Song, tre,
mây thì khá nhiều được trồng bao bọc ở hầu khắp các làng xóm trong địa bàn
tỉnh, ngoài việc phát triển nghề thủ công, nó còn tạo nghề cho công binh
xưởng Chí – Nam – Kinh (Chí Linh, Nam Sách, Kinh Môn), cho các bễ lò rèn
của các làng kháng chiến, cả vật liệu rèn kiếm, vót chông, gậy tầm vông, đánh
dao, đúc mìn, lựu đạn, địa lôi… tự túc một phần quan trọng vũ khí thô sơ
phục vụ dân quân du kích đánh giặc ngay giữa lòng địch trong suốt cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp.
Hải Dương là vành đai trực tiếp bảo vệ thủ đô Hà Nội, là tuyến trong
của thành phố Hải Phòng và là hậu phương trực tiếp của tỉnh biên giới Quảng
Ninh. Điểm cực bắc là xã Hoàng Hoa Thám (Chí Linh ). Phía Đông tiếp giáp

với thành phố Hải Phòng, điểm gần biển nhất là Quý Cao (Tứ Kỳ). Từ phía
Đông Hải Dương được thông với biển bằng mạng lưới sông lớn đổ ra 6 cửa
sông là Bạch Đằng, Nam Triệu, Cửa Cấm, Lạch Tray, Văn Úc và cửa sông
Thái Bình. Từ những cửa sông này, tàu thuyền có thể từ biển đi vào Hải
Dương qua Lục Đầu Giang theo sông Đuống về thủ đô Hà Nội hoặc theo sông
Cầu, sông Thương, sông Lục Nam tiến sâu vào trung tâm Việt Bắc. Trong các
cuộc chiến tranh xâm lược đất nước, nhiều lần các thế lực phong kiến phía
Bắc, đế quốc đã sử dụng các tuyến sông này làm những hướng tiến quân chủ
yếu. Địa giới phía Nam tiếp giáp với tỉnh Thái Bình, ngăn cách bởi con sông
Luộc – con sông nối hai lưu vực Hồng Hà và Thái Bình, là tuyến đường thuỷ
quan trọng nối Hải Phòng với huyện Ninh Giang và thành phố Hưng Yên. Khi
các phương tiện vận tải đường không, đường sắt, đường bộ chưa phát triển,
mạng lưới đường sông trên địa bàn Hải Dương có vị trí quan trọng trong vận
tải nói chung, đặc biệt là trong vận tải quân sự. Trong thời đại nào tuyến

16


đường giao thông thuỷ cũng đóng vai trò quan trọng về phát triển kinh tế cũng
như quân sự.
Hệ thống giao thông đường bộ của tỉnh gồm đường quốc gia, đường
tỉnh, đường huyện, đường đô thị và đường giao thông nông thôn. Tổng chiều
dài đường ô tô (chỉ tính đường quốc lộ, đường tỉnh, đường thành phố, đường
huyện, đường xã), là 2.235 km. Chính vì vậy mà Hải Dương có vị trí chiến
lược về giao thông đường bộ, đường sắt nối thủ đô Hà Nội với thành phố cảng
Hải Phòng và vùng công nghiệp mỏ Quảng Ninh. Quốc lộ số 5 và đường sắt
Hà Nội - Hải Phòng chạy trên phần đất Hải Dương, thị trấn Cẩm Giàng tới
cuối xã Kim Lương (Kim Thành). Trong cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp, địch đã coi tuyến đường này là “cái yết hầu” nối “cuống họng” Hải
Phòng với cái “dạ dày” Hà Nội. Ở phía Bắc tỉnh, đường số 18 chạy xuyên hai

huyện Chí Linh và Đông Triều. Trong thời kỳ chống Pháp, địch đã dựa vào
đây để thiết lập hệ thống ngăn chặn chủ yếu, chống bộ đội chủ lực của ta từ
căn cứ Việt Bắc thâm nhập vào địch hậu.
Cùng với các tuyến đường chiến lược trên, Hải Dương còn có mạng lưới
đường bộ khá phát triển, chạy dọc ngang trên địa bàn toàn tỉnh, có ý nghĩa về
quân sự quốc phòng cũng như trong xây dựng phát triển kinh tế và phục vụ đời
sống nhân.Với ưu thế tuyệt đối về binh khí kỹ thuật và phương tiện cơ động,
trong cuộc chiến tranh từ năm 1946 đến năm 1954, Bộ chỉ huy quân sự Pháp
đã triệt để lợi dụng hệ thống đường sá, sông ngòi là những lợi thế của chúng ở
đồng bằng Bắc Bộ để thực hiện các ý đồ chiến dịch, chiến thuật và tiến hành
càn quét.
Điều kiện tự nhiên của Hải Dương thuận lợi cho việc phát triển kinh tế,
văn hoá - xã hội và củng cố quốc phòng an ninh.Trong kháng chiến chống
Pháp, vùng đồi núi được cắt về Quảng Yên, địa bàn Hải Dương hoàn toàn là

17


đồng bằng. Hải Dương là địa bàn lý tưởng thuận tiện cho không quân địch
hoạt động trong các cuộc chiến tranh. Vùng trời trên địa bàn Hải Dương cũng
đặt ra cho công tác phòng không quốc gia những vấn đề lớn về xây dựng lực
lượng, bố trí trận địa, triển khai phương án chống tập kích đường sông, đường
bộ, đường không chiến lược và chiến dịch của địch trong chiến tranh bảo vệ
Tổ quốc.
Địa hình của Hải Dương khá đa dạng, phần lớn là đồng bằng (chiếm
89%), bán sơn địa và rừng núi (chiếm 11%). Nhìn chung địa hình tương đối
bằng phẳng, nghiêng từ Tây sang Đông và từ Bắc xuống Nam. Mặt khác, Hải
Dương nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, chịu ảnh hương chủ yếu là
gió Đông Nam và Đông Bắc, được chia thành hai mùa rõ rệt, mùa mưa
thường từ tháng tư đến tháng mười, mùa khô từ cuối tháng mười năm trước

đến hết tháng ba năm sau. Những tháng mùa khô, cơ giới hoạt động thuận
tiện, các loại xe vận tải quân sự và xe chiến đấu loại xe nhẹ đi lại dễ dàng trên
cả quốc lộ và đường liên tỉnh, liên huyện; xe bánh xích có thể cơ động trên
các cánh đồng thuộc huyện Cẩm Giàng, Tứ Kỳ, Bình Giang, Bắc Gia Lộc,
Bắc Kim Thành, Kinh Môn, Chí Linh. Về mùa mưa xe cơ giới chỉ có thể hoạt
động được trên các khu ruộng sình lầy hoặc ngập nước thuộc huyện Thanh
Hà, khu trung và hạ Tứ Kỳ, Nam Sách, Ninh Giang, Thanh Miện, Nam Gia
Lộc, Nam Bình Gang. Những địa hình này cũng khó xây dựng các kho bãi để
cất giấu tài sản, vũ khí, khí tài, lương thực, thực phẩm. Ở các huyện phía
Đông và Đông Nam của tỉnh do sông, ngòi chằng chịt nên ngoài những khó
khăn trên còn có thêm trở ngại lớn là địa bàn bị chia cắt, chiến trường dễ bị
bao vây, cô lập. Một số huyện trong tỉnh, do ít sông lạch, nguồn nước khó
khăn, nên làng mạc thưa thớt, phần nhiều ở thế độc lập, thậm chí có nơi từ
làng này sang làng kia từ 2 đến 3km, tạo nên những khoảng trống lớn, những
cánh đồng rộng hàng 100 ha, như cánh đồng Ba Tổng ở Ninh Giang, cánh
18


đồng Tứ Tổng ở Thanh Miện. Tuy nhiên, các làng xã trên địa bàn Hải Dương
hầu hết nằm dọc hai bên các triền sông. Vùng ven sông Luộc, sông Thái Bình,
sông Kinh Thầy, sông Văn Úc…đã hình thành các khu vực làng mạc dầy đặc, rất
thuận tiện cho việc trú quân và giấu quân, cơ động lực lượng và tổ chức chiến
đấu liên hoàn. Bên cạnh đó, ở các huyện Thanh Hà, Tứ Kỳ, Kim Thành, các xã
ven sông thuộc huyện: Ninh Giang, Thanh Miện và Nam Sách các làng phần lớn
trống trải, nhiều đường ngang ngõ tắt dễ tiếp cận làng này sang làng kia, không
thuận tiện cho việc tổ chức chiến đấu theo lối cố thủ.
Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, nhân dân Hải Dương đã phát huy
tối đa kiểu chiến tranh du kích, gây cho địch nhiều tổn thất. Với địa hình có
nhiều ao xen kẽ, đường đi lối lại trong làng ngoằn ngèo và hiểm trở; đường
vào làng phần nhiều được lát gạch nghiêng hay đá phiến và độc đạo, có cổng

làng khá kiên cố thuận tiện cho người và phương tiện thô sơ qua lại, có luỹ tre
bao bọc kín đáo và chắc chắn. Loại làng này chủ yếu ở các huyện: Cẩm
Giàng, Ninh Giang, Gia Lộc, Tứ Kỳ, Nam Sách, Kim Thành, Thanh Miện.
Huyện Chí Linh và Kinh Môn (trừ các làng thuộc hai xã Đồng Lạc, Tân Dân
– Nam Chí Linh; năm xã thuộc khu Nam và khu Bắc dẫy Yên Phụ (Kinh
Môn) vừa là làng đồng bằng, vừa gần núi. Làng mạc ở đây thường nằm ven
sườn núi, sông, ở trong các thung lũng, khe, một số nơi có hang động; một số
làng nằm ngay cửa rừng hoặc nằm ăn liền vào dãy núi Yên Phụ rất hiểm trở.
Những nơi đây vừa tiện cho cấu trúc công sự, vừa tiện cho xây dựng các căn
cứ hậu phương cho chiến tranh khi áp dụng lối đánh phòng thủ. Nhưng đây
cũng dễ bị địch chia cắt, là nơi ta dễ gặp khó khăn khi tiếp tế hậu cần và các
loại vũ khí, khí tài.
Như vậy, với vị trí quan trọng, địa hình, khí hậu thuận lợi, Đảng bộ và
nhân dân Hải Dương có điều kiện phát huy thế mạnh xây dựng lực lượng dân

19


quân du kích và phát huy lối đánh du kích trong kháng chiến chống thực dân
Pháp góp phần làm nên thắng lợi chung của đất nước trước giặc ngoại xâm.
- Truyền thống lịch sử của tỉnh Hải Dương.
Trong quá trình dựng nước và giữ nước, cư dân trên mảnh đất Hải
Dương có truyền thống yêu nước nồng nàn, đứng lên đấu tranh chống thù
trong giặc ngoài, dày công khai phá, tạo dựng nên quê hương giàu đẹp.
Cư dân Hải Dương chiếm số lượng đông đảo và có truyền thống đấu
tranh bất khuất là điều kiện thuận lợi để Đảng đề ra chủ trương và chỉ đạo
thực hiện xây dựng lực lượng dân quân du kích và phát động chiến tranh nhân
dân của Đảng.
Nhân dân Hải Dương tự hào về những truyền thống vẻ vang của quê
hương trong suốt quá trình dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam.

Trong cái nôi của nền văn minh nông nghiệp sông Hồng, người dân Hải Dương
vừa mang trong mình bản sắc chung của dân tộc Việt Nam, vừa mang những
nét riêng truyền thống đậm đà bản sắc văn hoá của vùng châu thổ sông Hồng.
Đó là những con người thông minh, nhạy bén, cần cù, sáng tạo trong lao động
và học tập, kiên cường, tài trí trong đấu tranh, giản dị, chân thành trong cuộc
sống, bao dung, nghĩa khí trong ứng xử.
Đóng góp vào nền văn hoá của dân tộc, xứng danh vùng đất “địa linh,
nhân kiệt”, Hải Dương là nơi sinh ra và nuôi dưỡng nhiều tài năng lỗi lạc của
quê hương, đất nước. Đó là truyền thống thượng võ – nơi sinh ra và nơi dựng
binh của nhiều vị tướng tài, nhiều nhà quân sự tài ba trong lịch sử; truyền
thống hiếu học nổi tiếng, lĩnh vực nào Hải Dương cũng có những nhân tài nổi
danh khắp đất nước như: Khúc Thừa Dụ- ông đã lãnh đạo nhân dân đứng lên
giành lại quyền tự chủ từ tay bọn phong kiến nhà Đường, đặt nền móng đầu
tiên cho sự nghiệp khôi phục độc lập dân tộc sau hơn 1.000 năm Bắc thuộc;

20


Trần Quốc Tuấn là người thông minh, thiên tài về quân sự, lãnh đạo quân dân
Đại Việt giành chiến thắng vang dội ở Chương Dương, Hàm Tử, Vạn Kiếp
đuổi giặc ra khỏi đất nước, phá tan mộng xâm lăng của giặc Nguyên; Yết
Kiêu là người có công đầu trong trận đại thắng quân Nguyên trên sông Bạch
Đằng. Ngoài ra, Hải Dương còn tự hào về Chu Văn An - “Người thầy của
muôn đời”, Mạc Đĩnh Chi - có đầu óc “kinh bang tế thế vào bậc nhất”,
Nguyễn Trãi - nhà văn hoá lớn, anh hùng dân tộc, danh nhân văn hoá thế giới,
tác giả lớn của nền văn học dân tộc, là niềm tự hào của nhân dân Hải
Dương…
Thiên nhiên và con người Hải Dương với các yếu tố về địa lý, dân cư,
nghề nghiệp, cùng những di sản văn hoá, truyền thống dựng nước, giữ nước
từ bao đời nay là một chỉnh thể thống nhất, song hành và có tác động sâu sắc

đến nhận thức, tư tưởng của nhân dân Hải Dương. Tất cả những yếu tố đó đã
thấm sâu vào tiềm thức mỗi người dân, trở thành nguồn động lực to lớn bên
trong thôi thúc và phát huy sức mạnh cộng đồng trong sự nghiệp đấu tranh,
xây dựng và bảo vệ đất nước.Cũng như nhân dân cả nước, trong quá trình
dựng nước và giữ nước, nhân dân Hải Dương có nguồn sức mạnh vô cùng to
lớn được hun đúc từ thế hệ này sang thế hệ khác. Hải Dương cũng là một
trong những miền đất tiêu biểu của các công cuộc trị thuỷ, khẩn hoang và lao
động cần cù sáng tạo.
Không chỉ bền bỉ và kiên trì trong quá trình chinh phục thiên nhiên,
nhân dân Hải Dương còn có tài trí, dũng cảm kiên cường trong đấu tranh
chống kẻ thù xâm lược. Lịch sử đấu tranh chống xâm lược của tỉnh là lịch sử
của những chiến công hào hùng. Trải qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ
nước, nhân dân Hải Dương đã hun đúc nên truyền thống yêu nước, ý chí
chiến đấu kiên cường trong các cuộc chiến tranh chống kẻ thù xâm lược.

21


Với nguồn tài nguyên phong phú và vị trí chiến lược quan trọng, Hải
Dương luôn là mục tiêu chiếm đóng và đặt ách cai trị của các thế lực phong
kiến và bè lũ thực dân, đế quốc xâm lược.
Ngay từ thời cổ - trung đại, với sức mạnh của truyền thống đoàn kết,
yêu nước nhân dân Hải Dương đã lập nên biết bao chiến công hiển hách trong
chống ngoại xâm phương Bắc. Nhân dân Hải Dương cùng cả nước đương đầu
với hàng chục cuộc chiến tranh của các đội quân xâm lược: Tần, Hán, Tống,
Nguyên, Minh, Thanh và tham gia nhiều cuộc khởi nghĩa lớn nhỏ để giành
độc lập tự do. Đó là, chiến công từ thời Hai Bà Trưng phất cờ khởi nghĩa,
chặn đánh quân Mã Viện nhà Đông Hán ở cửa sông Văn Úc.
Đầu thế kỷ thứ X (905), Khúc Thừa Dụ từ Hồng Châu - Ninh Giang đã
lãnh đạo nhân dân khởi nghĩa lật đổ chính quyền đô hộ nhà Đường, lập nên

nhà nước phong kiến độc lập, cơ bản kết thúc ách thống trị hơn một nghìn
năm của phong kiến phương Bắc.
Thế kỷ thứ XIII, khi vó ngựa Nguyên – Mông xâm lược, vua Trần
Nhân Tông đã triệu tập và chủ trì họp bàn với các Vương hầu, bách quan bàn
kế sách đánh giặc. Lời thề “Sát Thát” với ý chí quyết đánh sang sảng vang
lên, thể hiện quyết tâm đánh giặc giữ nước của cả dân tộc.
Trong khoảng thế kỷ XVI – XVII, khi chế độ phong kiến Việt Nam dần
suy tàn và mục nát, cũng là lúc phong trào nổi dậy của nông dân bùng lên
khắp miền Bắc (Đàng Ngoài). Nhân dân Hải Dương hăng hái tham gia các
cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Tuyển, Nguyễn Cừ (Nam Sách). Sang thế kỷ
XVIII đầu thế kỷ XIX, các cuộc khởi nghĩa của nông dân đã lên tới đỉnh cao,
lan rộng khắp cả nước. Tiêu biểu nhất cho ý chí và nguyện vọng của nông dân
là cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Hữu Cầu (Lôi Động, Thanh Hà). Cuộc khởi
nghĩa này đã lôi kéo hàng chục vạn nông dân trong tỉnh và các tỉnh lân cận:
22


Hưng Yên, Kiến An, Thái Bình cùng tham gia, sau đó lan rộng ra toàn đồng
bằng Bắc Bộ, thu hút được nhiều nhân sỹ yêu nước, tiến bộ. Lá cờ “Đông đạo
tổng quốc bảo dân đại tướng quân” của ông giương lên từ Đồ Sơn (Hải
Phòng) với khẩu hiệu “lấy của nhà giàu chia cho dân nghèo”, nghĩa quân của
Nguyễn Hữu Cầu đã từ các tỉnh sông Hồng tiến lên Kinh Bắc, uy hiếp thành
Thăng Long rồi tiến xuống Sơn Nam vùng Thanh Hoá, Nghệ An, làm lung
lay chế độ phong kiến Lê - Trịnh và cổ vũ cuộc kháng chiến của nông dân ở
Đàng Trong.
Đến thời kỳ cận đại, phát huy truyền thống yêu nước bất khuất, kiên
cường trong các thế kỷ trước, nhân dân Hải Dương lại một lần nữa vùng lên
chống thực dân Pháp xâm lược bằng những cách đánh sáng tạo, mưu trí và
những vũ khí tự làm đã lối dài truyền thống lịch sử chống giặc ngoại xâm của
quê hương, đất nước.

Hoàn cảnh lịch sử
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, chính quyền mới được
thành lập, cùng với cả nước, Đảng bộ và nhân dân Hải Dương phải đối phó
với nhiều khó khăn phức tạp: nạn đói chưa chấm dứt, nạn lụt chưa được giải
quyết, thù trong giặc ngoài đe doạ, tình hình như "nghìn cân treo sợi tóc".
Sản xuất nông nghiệp suy giảm. Mùa lũ năm 1945, nước sông Thái Bình
lên to, nhiều đoạn đê có nguy cơ bị vỡ, nước tràn vào đồng làm úng ngập
hàng trăm hécta ở các huyện Nam Sách, Thanh Hà, Tứ Kỳ. Sau nạn đói tháng
3- 1945, sức khoẻ của người dân giảm sút, bệnh tật nhiều, thiếu ăn, thiếu
ruộng hoặc không có ruộng cày cấy do bị địa chủ tước đoạt hoặc cầm cố.
Ngành công nghiệp, tiếu thủ công nghiệp trên địa bàn gần như đình trệ.
Một số xí nghiệp, nhà máy, hầm mỏ của tư bản như: Nhà máy Chai, Nhà máy
Nước, Nhà máy Rượu, Mỏ than Mạo Khê... do chiến tranh tàn phá, thiếu

23


nguyên liệu cũng ngừng hoạt động. Hàng trăm công nhân, thợ thủ công và
dân nghèo thành thị không có việc làm, đời sống cơ cực, đói kém. Hàng hoá
khan hiếm.
Dưới danh nghĩa quân Đồng minh vào tước vũ khí quân đội Nhật, quân
đội Tưởng Giới Thạch tràn vào đóng ở thị xã Hải Dương, Phả Lại tới trên
1.000 tên, có lúc lên tới trên 2.000 tên. Theo chân chúng là bọn Việt Quốc,
Việt Cách phản động, câu kết với nhau ra sức gây rối, âm mưu lật đổ chính
quyền cách mạng còn non trẻ. Chúng lập trụ sờ ở một số huyện như: Bình
Giang, Tứ Kỳ, thị xã Hải Dương. Chúng tăng cường hoạt động khiêu khích
trắng trợn như rải truyền đơn, áp phích, báo chí nói xấu cộng sản, nói xấu
Việt Minh, hoặc bắt bớ cán bộ du kích. Quân Tưởng đã bao vây trụ sở công
an tỉnh, bắt đồng chí Trưởng Ty Công an đưa đi Hải Phòng, bao vây huyện
Kinh Môn bắt đồng chí Chủ tịch uỷ ban hành chính huyện và bắn chết đồng

chí tự vệ ở huyện Ninh Giang.
Trong khi tình hình kinh tế còn nhiều khó khăn, tình hình chính trị phức
tạp, quân Tưởng sách nhiễu ta đủ điều, chúng yêu cầu ta cung cấp lương thực,
thực phẩm, bắt ta tiêu tiền quan kim của chúng. Trắng trợn hơn, chúng còn
gây sức ép bắt ta cho bọn Việt Quốc, Việt Cách được tự do hoạt động và tham
gia chính quyền. Lợi dụng tình hình rối ren, bọn phản động địa phương (Quốc
dân đảng) cũng ngóc đầu hoạt động chống phá cách mạng. Nạn thố phỉ lại nối
lên hoạt động ở các huyện phía bắc, nhất là ở Chí Linh, Đông Triều.
Quân Pháp vào Hải Dương đóng tại các vị trí trên đường 5, thị xã Hải
Dương, thị trấn Phả Lại. Tại thị xã Hải Dương có 300 quân Pháp, đóng ở cầu
Phú Lương, Trường Con gái, nhà máy Chai, Nông Phố, ngân hàng. Chúng tỏ
thái độ ngang ngược, hống hách, khiêu khích, sách nhiễu, gây nhiều khó
khăn. Quân Pháp còn duyệt binh ở thị xã Hải Dương nhân ngày Quốc khánh
nước Pháp (ngày 14 tháng 7). Ngày 18-3-1946 có khoảng 1.200 quân Pháp từ
24


×