Tải bản đầy đủ (.doc) (4 trang)

Chuyện về nữ Tiến sĩ đầu tiên của Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (139.22 KB, 4 trang )

Chuyện về nữ Tiến sĩ đầu tiên của Việt Nam
Thứ Hai, 06/06/2011, 10:14 SA | Lượt xem: 3

Tôi đã từng chia sẻ một bài viết về Đặng Thị Duệ, nữ Tiến sĩ đầu tiên của Việt
Nam cũng trong chuyên mục này, hôm nay chia sẻ thêm với bạn đọc một số tư
liệu vừa sưu tầm được.

Các triều đại phong kiến nước ta đều không cho nữ giới
được học hành, thi cử. Tuy vậy, sách vở cũng đã ghi lại
chuyện một phụ nữ đã cải trang thành nam giới để đến
trường học hành, thi cử và đỗ đại khoa. Đó là trường hợp Nguyễn Thị
Duệ (1574-?) quê xã An Lạc, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương ngày nay.
Bớn

t̉i

biết

viết

văn

Bà cịn có tên khác là Nguyễn Thị Ngọc Toàn, Nguyễn Thị Du. Quê bà
vốn là đất học, trước đó đã có nhiều người đỗ đạt cao, tiếng tăm lừng lẫy
như các Trạng nguyên Vũ Dương, Trần Sùng Dĩnh thời Hồng Đức thế kỷ
XV, Lê Nại thời Đoan Khánh đầu thế kỷ XVI. Ngay xã của bà cũng có
những tấm gương học hành như Nguyễn Phong (1560-1643), Nguyễn Lệ
(1543-1619) đỗ tiến sĩ khoa Mậu Thìn, đời Sùng Khang (Mạc Mậu Hợp)
(1568). Hoặc Nguyễn Dỗn Khâm (1530-1592) lúc đầu chỉ là đấu vật, rồi
yêu thích văn chương đã đi học và thi đỗ hoàng giáp khoa Kỷ Mùi, đời
Quang Bảo (Mạc Phúc Nguyên) (1550-?).


Thuở nhỏ cô gái Nguyễn Thị Duệ tỏ ra rất sáng dạ. Lên 4 tuổi đã biết
viết văn. Có cậu ấm trong vùng đến nghẹo, bà đã đọc châm 2 câu thơ: “
Xá chi vàng đá hỗn hào/ Thoảng đem cánh phượng bay cao thạch thành” . Nghe bà
đọc,
cậu
ấm
ta
phải
đánh
bài
chuồn.
Các tâm gương người cùng quê hương thi cử đỗ đạt cao cũng đã kích
thích hứng thú học tập của bà. Song thời đó cuộc nội chiến Trịnh – Mạc ở
vào giai đoạn quyết liệt. Cuối năm 1592, Trịnh Tùng đem quân đánh
vùng Hạ Hồng, Nam Sách, Kinh Môn, quê hương của Nguyễn Thị Duệ.
Vua nhà Mạc là Mạc Mậu Hợp bị bắt. Mấy năm tiếp sau đó, vùng Hải
Dương vừa bị chiến tranh cướp phá liên miên, lại vừa bị mất mùa đói
kém, người chết như rạ…Nhà Mạc bị quân Trịnh đánh bại, phải chạy lên
lập nghiệp ở Cao Bằng.
Cải
trang
thành
nam
để
đi
thi
Nguyễn Thị Duệ mới ở độ tuổi 20 cũng theo cha lên Cao Bằng tránh
loạn. Ở đây bà được học với một ông thầy họ Cao và cải trang thành
nam giới, nên người ta thường gọi là anh Du. Khi nhà Mạc mở khoa thi
hội, bà cùng với thấy học dự thi và đã đỗ đầu trong số tiến sĩ trúng cách.

Khoa thi hội này không thấy chép trong các sách viết về thi cử của nước
ta. Chỉ có sách “Chí Linh phong vật chí” nói đến và ghi là năm Mậu Thìn
(1568). Thời gian trên có lẽ khơng chính xác, vì năm này Mạc Mậu Hợp
còn ở Thăng Long, chưa xảy ra các sự kiện mà Mạc phải chạy lên Cao
Bằng. Theo chúng tơi có lẽ vào năm Giáp Thìn (1604) thì đúng hơn. Lúc
này Nguyễn Thị Duệ đã ở tuổi 30.
Tạm vào chùa tu
Trong buổi tiệc mừng tân khoa, vua Mạc nhận ra ơng nghè thủ khoa có
dáng vẻ u kiều, thanh tú giống nữ giới. Sực nhớ đến giấc mộng đêm


trước, thấy người đỗ tiến sĩ là nữ, nhà vua bèn gặng hỏi và bà Nguyễn
Thị Duệ đành phải thú thực. Vua Mạc chẳng những không khép tội mạo
danh theo quy chế thi cử thời phong kiến mà còn giữ nguyên học vị của
bà và phong là “Diệu Huyền Sao Sa” nghĩa chữ là “Tinh phi” (sao sa) rồi
đưa vào cung. Bà được vua sủng ái, giao cho việc dạy bảo các phi tần.
Thời gian này họ Mạc ở Cao Bằng thỉnh thoảng cũng đem quân về xuôi
đánh phá một số vùng, ví như năm 1601, Mạc Kính Cung chiếm cứ Hải
Dương. Sau đó bị Bình An Vương, Trịnh Tùng đánh bại, lại chạy lên Cao
Bằng. Khoảng năm 1623. Mạc Kính Khoan lại kéo quân về tới tận Gia
Lâm sát kinh đô Thăng Long. Trịnh Cán cho đại quân chặn đánh, khiến
quân Mạc đại bại, Kính Khoan may mắn chạy thoát. Năm 1625 Trịnh
Tráng sai con là Trịnh Kiều đem quân lên Cao Bằng đánh họ Mạc, bắt
giết Mạc Kính Cung. Mạc Kính Khoan chạy sang Tàu, sau trở về dâng
biểu xin hàng, được phong làm Thái úy thống Quốc Cơng, lại cho giữ đất
Cao
Bằng.
Có lẽ khoảng thời gian 1623, nhân chuyến Mạc Kính Khoan kéo qn về
xi, Nguyễn Thị Duệ đã theo về thăm quê. Quân Mạc bị đánh bại tán
loạn, về quê thì e ngại, mà trở lên Cao Bằng đường đã tắc nghẽn, nên

Nguyễn Thị Duệ đành cải trang, xin vào tu trong một ngôi chùa.
Trở

thành

Lễ

phi

trong

phủ

chúa

Khi quân Trịnh đánh đuổi quân Mạc, kéo đến ngôi chùa này thì phát hiện
được Nguyễn Thị Duệ. Tướng Trịnh bấy giờ là Nguyễn Quý Nhạ, vốn cùng
quê với bà Duệ, lại quen nhau từ lúc thiếu thời, nên đem lòng quý mến,
đã thảo một tờ khải dâng lên chúa Trịnh Tráng tâu trình về việc nữ sĩ
Nguyễn Thị Duệ. Chúa Trịnh Tráng đọc tờ khải cũng thấy lạ, bèn truyền
đòi đưa Nguyễn Thị Duệ về kinh. Qua hỏi chuyện, chúa nhận thấy bà
Duệ có học thức uyên thâm, thấu đạt nhiều sách vở, tư cách đoan trang,
bèn phong cho bà giữ chức Lễ Phi, làm công việc dạy dỗ các phi tần bên
phủ
chúa

cung
vua.
Cũng trong thời này, Nguyễn Thị Duệ được gần gũi với hoàng hậu Trịnh
Thị Ngọc Trúc, một bà hoàng nổi danh chữ nghĩa đương thời. Nguyên bà

hoàng hậu họ Trịnh này là con chúa Trịnh Tráng, đã lấy Quận Công Lê
Trụ, bác họ của vua Lê Thần Tông và sinh hạ được bốn con. Lê Trụ bị tội,
Trịnh Tráng đem bà gả cho vua. Lúc đầu vua miến cưỡng lấy bà, nên khi
nghe mấy viên quan can ngăn, đành nói: Xong việc thì thơi, lấy gượng
vậy! Nhưng về sau do quý trọng tài đức, nhà vua đã lập bà làm hồng
hậu. Trịnh Thị Ngọc Trúc là người thích văn chương, chữ nghĩa. Bởi vậy
khi gặp tiến sĩ Nguyễn Thị Duệ thì hai người trở nên thân thiết, tri kỷ.
Hồng hậu họ Trịnh đã tiến cử bà Duệ với vua Lê Thần Tơng. Nhà vua
qua những lần hỏi han trị chuyện, đã thấy bà là một phụ nữ tài năng,
đức độ nên phong cho bà chức Chiêu Nghi, đứng trên các cung tần. Bà
lấy hiệu là Nghi Ái Quan, được nhà vua ưu ái, cho bày tỏ ý kiến về một
số văn bản của triều đình, cũng như nhận xét, đánh giá bài làm của thí
sinh
các
khoa
thi
hội,
thi
đình.
Sách chép khoa thi hội năm Tân Mùi niện hiệu Đức Long (1631) có một


thí sinh đề ra 12 mục, nhưng bài thi chỉ làm 4 mục, song văn bút rất
xuất sắc, độc đáo. Các khảo quan lấy làm lạ chưa dám quyết, tâu trình
lên vua. Nhà vua giao cho số đỗ đại khoa trong triều xem lại bài.Bà Nghi
Ái Quan cũng được tham dự. Bà đọc đi đọc lại bài văn, thấy quả thí sinh
này là người học rộng, có tài, bèn nhất trí với các quan tâu vua lấy đỗ
nhất. Đến khí khớp phách, bà mới hay đó là bài của Nguyễn Minh Triết,
cậu
em

họ
mình.
Trong thời gian ở cung, Nguyễn Thị Duệ thường đi lễ chùa với Hoàng hậu
Trịnh Thị Ngọc Trúc và có dịp gặp gỡ, đàm đạo văn chương đạo lý với
một số danh nho tiết tháo đương thời như các thám hoa Nguyễn Đăng
Cảo, Giang Văn Minh, Khương Thế Hiển. Bà luôn hướng về quê hương,
lập ra “ Văn Hội” ở huyện Chí Linh cho học trị vùng này đến ôn luyện
văn chương sách vở. Bà ra đề gửi cho họ làm, rồi đóng hịm trở về kinh
để cho bà chấm, chữa…
Tuy nhiên đứng trước thời cuộc bấy giờ, bà Nguyễn Thị Duệ đã mang
nặng nỗi niềm suy tư, trăn trở. Nhà Mạc ở Cao Bằng thì đã đến ngày tàn.
Vua Lê chỉ ngồi làm vì, khơng có quyền hành, thực lực. Sau nội chiến
Trịnh - Mạc lại tiếp đến Trịnh - Nguyễn khiến đất nước, dân tình khốn
khổ. Càng nghĩ ngợi bà Duệ thêm chán ngán nên quyết xin rời cung trở
về quê. Nhà vua và chúa Trịnh Tráng thấy không khuyên giữ được dành
để cho bà về và cấp cho làng Kiết Đặc (An Lạc) quê bà ruộng lộc điền,
miễn sưu thuế phu phen tạp dịch, để bà có nơi tĩnh dưỡng.

Văn miếu Mao Điền nơi thờ Nguyễn Thị Duệ.

Sống lâu, không rõ năm mất
Nguyễn Thị Duệ sống lâu nhưng mất năm nào không rõ. Theo sách ghi
lại thì xưa kia tại làng Kiết Đặc có chùa thờ bà, bia mộ và ngôi tháp
“Tinh phicổ pháp” khắc mười chữ hán: “Lễ sư sinh thơng tuệ. Nhất kính
chiếu tam Vương” (là Lễ sư sinh thời rất thông tuệ, một cái nhìn thấu cả
ba vua). Ngơi tháp này được xếp một trong “Chí Linh bát cổ” ( 8 vật cổ
của
Chí
Linh).
Ngơi

chùa

đơi
câu
đối:


“Giáp
Đại

khoa
bút

Nghĩa
“Khoa
giáp
Văn
Chương

tiên
do

chiếm
truyền

đứng
đầu
bảng
lừng
danh

để
lại

Cao
Bát

Bình
Cổ




bia

Cao
Bát

bảng
bi”
là:
Bằng
Cổ”

Văn bia “Chí Linh Bát cổ”, khắc dựng năm Gia Long nguyên niên (1802),
còn bài thơ sau ca ngợi tài danh nữ tiến sĩ Nguyễn Thị Duệ.
“Ngọc
Kính
Tùng
Chí
Hoa

Ngư
Sơn
Thu
Tạm

“Tay
Mặt
Từ
Đến
Hoa
Ngư
Sắc
Tiếng

thủ
nhan
cổ
kim
thảo
tiều
sắc
thanh
ngọc
gương
xưa
nay
cỏ
tiều
núi
thu


chiết
lưu
thử
kỷ
tự
tương
chính

bẻ
in
núi
cịn
tự
cũng
vẫn
sao

cao
cổ
giang
mình
tạ
vấn
thanh
tiêu
cành
cổ
sơng
man

nở
hỏi
trong
xào

chí
tháp
sơn
giáp
khai
đáp
thương
táp”
dịch:

cao
tháp
này
mác
tàn
đáp
xanh
xạc?”

Nhưng hiện nay, theo một số nhà nghiên cứu cho biết, những di vật trên
khơng cịn, nên những chuyện về vị nữ tiến sĩ duy nhất của đất nước ta
thời phong kiến, chỉ là sự chắp nhặt một số tư liệu còn lại trong sách vở
là những giai thoại mà thôi!
Theo Khoa học & Đời sống Online




×