Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

Tim hieu chu giai van hoc trung dai Viet Nam trong SGKNgu van THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (767.05 KB, 90 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<i>Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên </i>
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN


<b>TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM </b>


<b>NGƠ TUẤN ANH </b>


<b>TÌM HIỂU CHÚ GIẢI VĂN HỌC TRUNG ĐẠI VIỆT NAM </b>


<b>TRONG SÁCH GIÁO KHOA NGỮ VĂN </b>



<b>TRUNG HỌC PHỔ THÔNG </b>



<b>LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN </b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

<i>Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên </i>
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN


<b>TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM </b>


<b>NGƠ TUẤN ANH </b>


<b>TÌM HIỂU CHÚ GIẢI VĂN HỌC TRUNG ĐẠI VIỆT NAM </b>


<b>TRONG SÁCH GIÁO KHOA NGỮ VĂN </b>



<b>TRUNG HỌC PHỔ THÔNG </b>


<b>Chuyên ngành: Văn học Việt Nam </b>


<b>Mã số: 60.22.34 </b>


<b>LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN </b>




<b>Người hướng dẫn khoa học: </b>
<b>PGS. TS NGUYỄN ĐĂNG NA </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

<i>Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên </i>
<b>QUY ƯỚC VIẾT TẮT </b>


GS : Giáo sư


GV : Giáo viên


HS : Học sinh


HDHB : Hướng dẫn học bài


NXB : Nhà xuất bản


PGS – TS : Phó giáo sư – Tiến sĩ
SGK : Sách giáo khoa
SGV : Sách giáo viên


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

<i>Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên </i>

<b>MỤC LỤC</b>



<b>MỞ ĐẦU </b>


1. Lý do chọn đề tài………...………1


2. Mục đích nghiên cứu………...2


3. Lịch sử vấn đề ... 3



4. Đối tượng, phạm vi và nhiệm vụ nghiên cứu………6


5. Phương pháp nghiên cứu………...7


6. Kết cấu của luận văn………..7


<b>NỘI DUNG </b>
<b>Chương 1: Những vấn đề chung về văn học trung đại liên quan đến việc </b>
<b>nghiên cứu các chú giải văn học trung đại Việt Nam trong sách giáo khoa </b>
<b>Ngữ văn THPT </b>
1.1. Các giai đoạn phát triển của văn học trung đại Việt Nam………..9


1.2. Những đặc điểm cơ bản của văn học viết trung đại Việt Nam………….12


1.3. Hai loại hình văn học cơ bản của văn học trung đại phương Đông ... 19


<b>Chương 2: Nghiên cứu và hệ thống hoá các chú giải văn học trung đại </b>
<b>Việt Nam trong sách giáo khoa Ngữ văn THPT </b>
2.1. Thống kê và phân loại các tác phẩm văn học trung đại Việt Nam trong
sách giáo khoa Ngữ văn THPT ... 33


2.2. Nghiên cứu các phần tiểu dẫn, chú giải và câu hỏi hướng dẫn học bài
phần văn học trung đại Việt Nam trong sách giáo khoa Ngữ văn THPT……39


<b>Chương 3: Tìm hiểu việc giảng dạy và tiếp thu các chú giải văn học trung </b>
<b>đại Việt Nam trong sách giáo khoa Ngữ văn của giáo viên và học sinh ở </b>
<b>trường THPT </b>
3.1. Đối tượng và tư liệu khảo sát ... 62



3.2. Quá trình khảo sát và kết quả khảo sát……….…64


3.3. Các đề xuất và hướng giải quyết ... 73


<b>KẾT LUẬN</b> ... 75


<b>THƯ MỤC THAM KHẢO</b> ... 79


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

<i>Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên </i>

<b>LỜI CAM ĐOAN </b>



Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu, kết quả
nghiên cứu trong luận văn là trung thực và chưa có ai cơng bố trong một cơng trình nào
khác.


<b>Tác giả </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

<i>Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên </i>


1


<b>MỞ ĐẦU </b>



<b>1. Lý do chọn đề tài </b>


Văn học Việt Nam từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIX (hay còn gọi là văn
học trung đại) mang dấu ấn đậm nét của một thời một đi không trở lại và
mang ý nghĩa to lớn trong lịch sử văn học nước nhà. Nó là nguồn động
viên tinh thần lớn lao đối với thời đại bấy giờ.



Việc dùng các từ Hán Việt, các điển tích, điển cố là đặc trưng của
văn học trung đại Việt Nam. Các tác giả thời xưa ngay cả khi viết bằng chữ
Nôm (một loại chữ của dân tộc) cũng sử dụng các từ ngữ cổ, các điển, tích
điển cố trong tác phẩm của mình.


Ở môn Ngữ văn trường THPT, tác phẩm văn học trung đại chiếm số
lượng rất lớn, bao gồm hai loại hình văn học. Đó là: loại hình văn học chức
năng và loại hình văn học nghệ thuật. Xét về mặt tư duy nghệ thuật, ta
nhận thấy phương thức biểu hiện trong văn học trung đại khác xa so với
phương thức biểu hiện của văn học hiện đại. Vì thế <i><b>chú giải có vị trí rất </b></i>
quan trọng để hiểu tác phẩm, bởi nó hướng đến đối tượng là giáo viên và
học sinh. Do đó việc chú thích, cắt nghĩa các từ Hán Việt, các điển tích,
điển cố rõ ràng, chính xác sẽ giúp giáo viên và học sinh nắm được tác
phẩm một cách toàn diện hơn, cũng như nắm được ý đồ tư tưởng, nghệ
thuật mà tác giả gửi gắm trong đó.


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

<i>Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên </i>


2


trung học phổ thông thường kèm theo việc chú thích các từ ngữ Hán cổ,
các điển tích, điển cố…Phần chú thích nhằm phục vụ cho việc tìm hiểu tác
phẩm trong từng hoàn cảnh nên thường sinh động và ngắn gọn.


Khi trình độ tư tưởng chính trị và văn hóa của nhân dân ngày càng
được nâng cao, thì nhân dân ngày càng có ý thức đầy đủ hơn về những giá
trị tinh thần mà ơng cha để lại, trong đó có phần đóng góp quan trọng của
thơ văn Việt Nam thời trung đại. Để hiểu bước thông điệp nghệ thuật mà
các tác phẩm văn học Việt Nam thời trung đại gửi gắm đến người đọc thì
chúng ta khơng thể khơng tìm hiểu, cắt nghĩa các từ Hán Việt, các điển


tích, điển cố - một đặc trưng nghệ thuật phổ biến của thơ văn thời kỳ này.
<b>2. Mục đích nghiên cứu. </b>


2.1. Nghiên cứu và việc giải mã các chú giải nhằm khẳng định giá trị, tác
dụng của nó trong việc dạy và học tác phẩm văn học Việt Nam thời trung
đại ở môn Ngữ văn THPT.


2.2. Trên cơ sở nghiên cứu, khảo sát, phân tích các chú giải được sử dụng
trong văn học Việt Nam thời trung đại ở sách giáo khoa <i>Ngữ văn</i> THPT,
luận văn vừa có thể tìm hiểu sâu hơn nền văn học ở thời kỳ này, vừa có thể
thấy được sự chi phối và ảnh hưởng của nó đối với văn học ở thời kỳ sau,
đặng phục vụ tốt hơn cho việc giảng dạy phần văn học này ở bậc THPT.
<b>3. Lịch sử vấn đề </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

<i>Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên </i>


3


cùng với các bộ sách <i>Ngữ văn</i> được dùng trong trường phổ thông như: <i>sách </i>
<i>giáo khoa, sách giáo viên, sách bài tập...</i> để giải mã các <i><b>chú giải, khẳng </b></i>
định sự đóng góp của bộ phận văn học này cho nền văn học nước nhà.


Như chúng ta đã biết văn học thời kỳ này thường sử dụng ngơn ngữ
mang đậm tính ước lệ, tượng trưng, quy phạm và nhiều điển tích, điển cố
trong tác phẩm là một trong những đặc điểm chính của thơ văn Việt Nam
thời trung đại.


Việc dùng các từ ngữ Hán Việt, các điển tích, điển cố trong tác phẩm
văn học trung đại Việt Nam được đông đảo giới nghiên cứu quan tâm tìm
hiểu. Mỗi tác giả bàn đến một khía cạnh khác nhau về vấn đề mà luận văn


nghiên cứu. Qua tìm hiểu các cơng trình nghiên cứu về các chú giải trong
văn học trung đại Việt Nam, chúng tơi thấy có một số tài liệu đáng chú ý
sau:


3.1. Sách Thơ văn Lý - Trần (3 tập), Nxb KHXH, H.1977


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

<i>Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên </i>


4


Qua tìm hiểu chúng tơi nhận thấy cuốn sách này khẳng định việc sử
dụng các từ ngữ cổ, các điển tích, điển cố trong tác phẩm là “lẽ tất nhiên”
và là đặc trưng không thể thiếu của thơ văn giai đoạn này. Hơn nữa sách đã
chú thích nghĩa của các từ ngữ Hán cổ, các điển tích, điển cố…giúp người
đọc bước đầu tiếp cận được tác phẩm. Tuy nhiên có những tác phẩm mà từ
ngữ, các điển tích, điển cố trong đó hàm chứa những ý nghĩa to lớn nếu chỉ
theo chú thích của sách thì chưa đủ. Chẳng hạn bài thơ <i><b>Nam quốc sơn hà </b></i>
có các từ ngữ đáng chú ý: quốc, đế…đã khơng được sách chú thích cụ thể,
tỉ mỉ. Vì vậy để hiểu sâu sắc tác phẩm nếu chỉ dựa vào chú thích, cắt nghĩa
ở trong cuốn sách này thì chưa đủ.


3.2 Bộ sách Cơ sở ngữ văn Hán – Nôm do Giáo sư Lê Trí Viễn chủ biên
(Nxb Gi¸o dơc – H.1986). Bộ sách gồm 4 tập. Sách này nghiên cứu các tác
phẩm khơng theo trình tự thời gian, lịch sử mà nghiên cứu theo từng nhóm
thể loại. Có chương nghiên cứu về: <i><b>chiếu, biểu, hịch, cáo; có chương </b></i>
nghiên cứu về: <i><b>phú, văn tế...Khi bắt đầu mỗi chương, sách mang đến cho </b></i>
người đọc cái nhìn khái quát về nguồn gốc, đặc trưng nội dung, nghệ thuật
của thể loại được nói tới. Ở mỗi một thể loại sách lại đưa ra một vài tác
phẩm làm dẫn chứng. Trong số tác phẩm đó, các soạn giả đã cho in nguyên
bản chữ Hán, phiên âm Hán Việt, bản dịch nghĩa, giải nghĩa từ, ngữ pháp,


hoàn cảnh ra đời của tác phẩm; phân tích, bình luận khái qt về mặt nội
dung cũng như nghệ thuật của nó. Điều đáng chú ý ở bộ sách này là sau
mỗi tác phẩm thuộc mỗi thể loại đa phần đều có nhận xét về nghệ thuật
dùng các điển tích, điển cố…


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

<i>Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên </i>


5


sách còn đưa ra những nhận xét xác đáng về cách dùng từ ngữ trong từng
tác phẩm, đặc biệt là việc nhận xét nghệ thuật sử dụng điển cố.


3.3. Cuốn <i><b>Ngữ văn Hán – Nôm (3 tập) và </b><b>Thực hành ngữ văn Hán – </b></i>
<i><b>Nôm</b></i> do Đặng Đức Siêu chủ biên. Hai cuốn sách này bổ sung, hỗ trợ cho
nhau, cung cấp cho người đọc “cứ liệu chủ yếu” để “tiếp cận và đi sâu giải
quyết vấn đề chữ nghĩa trong việc học tập ngữ văn Hán – Nôm”, thứ chữ
nghĩa “mang đậm dấu ấn lịch sử, có nhiều điểm khác biệt so với lời lẽ
trong hoạt động giao tiếp hàng ngày”. Sách khẳng định: “Một từ trong Hán
văn cổ thường có nhiều nghĩa. Những nghĩa đó thường có mối liên quan
lịch sử. Nắm được nghĩa gốc, nghĩa cổ, nghĩa mở rộng của từ là việc cần
thiết để hiểu văn bản một cách chính xác theo đúng khuôn thước lịch sử
của nó”. Thơng qua một số văn bản tiêu biểu, mẫu mực, sách đã giải thích,
cắt nghĩa những từ cổ, những điển tích, điển cố tương đối rõ ràng, dễ
hiểu…


Những cuốn sách chúng tôi nêu trên về cơ bản đã nghiên cứu một
chặng đường văn học dài từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XIX bao gồm những
sáng tác bằng chữ Hán và chữ Nôm.


3.4. Các sách khác



</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

<i>Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên </i>


6


được đưa ra. Luận văn kế thừa tất cả những thành tựu nghiên cứu trên và đi
sâu hơn nữa để phục vụ tốt cho mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đã đề ra.
3.4.2. Bộ sách giáo khoa Ngữ văn lớp 10, lớp 11 – Nxb Gi¸o dơc, H. 2005
– 2006. Hai bộ sách này đã được các soạn giả dụng công tuyển chọn những
tác phẩm văn học trung đại tiêu biểu để đưa vào chương trình học. Bên
cạnh việc tuyển chọn những tác phẩm đó, các soạn đã đã rất chú ý tới việc
chú giải các từ ngữ cổ, các từ Hán Việt, các điển tích, điển cố một cách
tương đối rõ ràng, chính xác. Tuy nhiên ở một, hai trường hợp, phần <i>tiểu </i>
<i>dẫn </i>vẫn nói một cách chung chung, chưa cụ thể hoặc là bỏ qua việc giới
thiệu đặc trưng thể loại của tác phẩm được trích giảng. Ngồi ra phần <i>chú </i>
<i>thích </i>ở sau mỗi tác phẩm, soạn giả chỉ mới để ý đến việc giải nghĩa các từ
Hán Việt mà không giới thiệu xuất xứ, nguồn gốc của các từ Hán Việt
đó…Vì thế ở những trường hợp này nếu chỉ dựa vào <i>chú giải</i> thì sẽ khơng
thể hiểu sâu sắc được giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật của tác phẩm.
<b>4. Đối tượng, phạm vi và nhiệm vụ nghiên cứu. </b>


<i>4.1. Đối tượng</i>: Các tác phẩm được trích giảng trong văn học trung đại Việt
Nam ở SGK <i>Ngữ văn</i> THPT.


<i>4.2. Phạm vi nghiên cứu</i>: Hệ thống <i>chú giải</i> được sử dụng trong các tác
phẩm văn học trung đại Việt Nam ở SGK <i>Ngữ văn</i> THPT.


<i>4.3. Nhiệm vụ nghiên cứu. </i>


- Giải mã lại một số từ Hán Việt, các điển tích, điển cố phần văn học trung


đại trong SGK <i>Ngữ văn</i> THPT.


- Chỉ ra vai trò của các <i>chú giải</i> trong việc tìm hiểu một tác phẩm văn học
trung đại Việt Nam ở SGK <i>Ngữ văn</i> THPT.


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

<i>Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên </i>


7


<b>5. Phương pháp nghiên cứu. </b>


Xuất phát từ mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu, chúng tôi
đưa ra những phương pháp cụ thể để tiến hành nghiên cứu và giải quyết
luận văn này như sau:


5.1. Phương pháp nghiên cứu lý thuyết.


Sử dụng phương pháp này chúng tôi nhằm làm rõ các khái niệm:
Văn, văn học chức năng, văn học nghệ thuật và những đặc điểm của văn
học trung đại Việt Nam.


5.2. Phương pháp thống kê phân loại.
5.3. Phương pháp đối chiếu so sánh.
<b>6. Kết cấu của luận văn. </b>


Luận văn gồm 81 trang, chia làm 4 phần.
<i>6.1. Mở đầu</i>: 09 trang.


<i>6.2. Nội dung</i>: 65 trang.



<b>Chương 1: Những vấn đề chung về văn học trung đại Việt Nam </b>(23
trang)


1.1. Các giai đoạn phát triển của văn học trung đại Việt Nam
1.2. Những đặc điểm cơ bản của văn học viết trung đại Việt Nam
1.3. Hai loại hình văn học cơ bản của văn học trung đại phương Đông
1.3.1. Khái niệm "văn" thời cổ trung đại phương Đơng


1.3.2. Loại hình văn học chức năng
1.3.3. Loại hình văn học nghệ thuật


<b>Chương 2: Nghiên cứu và hệ thống hoá các chú giải văn học trung đại </b>
<b>Việt Nam trong sách giáo khoa Ngữ văn THPT (29 trang) </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

<i>Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên </i>


8


2.2. Nghiên cứu các phần tiểu dẫn, chú giải và câu hỏi hướng dẫn học bài
phần văn học trung đại Việt Nam trong sách giáo khoa Ngữ văn THPT
2.2.1. Về phần tiểu dẫn ở đầu mỗi tác phẩm được trích giảng


2.2.2. Về những chú thích phần văn học trung đại Việt Nam trong sách
giáo khoa Ngữ văn THPT


2.2.3. Về các câu hỏi hướng dẫn học bài và hướng dẫn đọc thêm


<b>Chương 3: Tìm hiểu việc giảng dạy và tiếp thu các chú giải văn học </b>
<b>trung đại Việt Nam trong sách giáo khoa Ngữ văn của giáo viên và học </b>
<b>sinh ở trường THPT (13 trang) </b>



3.1. Đối tượng và tư liệu khảo sát.


3.2. Quá trình khảo sát và kết quả khảo sát.
3.3. Các đề xuất và hướng giải quyết.
<i>6.3. KÕt luận</i>: 04 trang.


</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

<i>Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên </i>


9


<b>NỘI DUNG</b>



<b>Chương 1</b>


<b>NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ </b>
<b>VĂN HỌC TRUNG ĐẠI VIỆT NAM </b>


Trước khi giải quyết nhiệm vụ chính ở chương 2 (<i>Nghiên cứu và </i>
<i>hệ thống hoá các chú giải văn học trung đại Việt Nam ở sách giáo khoa </i>
<i>Ngữ văn THPT</i>), luận văn thấy cần thiết phải trình bày nội hàm một số
khái niệm lý thuyết có liên quan đến vấn đề nghiên cứu như là <i>khái niệm </i>
<i>văn, khái niệm</i> <i>văn học chức năng và văn học nghệ thuật</i>. Bởi đã có hiện
tượng là một số nhà nghiên cứu và biên soạn sách giáo khoa đã xếp tác
phẩm từ loại hình văn học này sang loại hình văn học khác (thí dụ: Coi
một bài Kệ viết dưới hình thức một bài thơ là một bài thơ trữ tình) dẫn
đến hậu quả là các chú giải và câu hỏi hướng dẫn học bài khơng phù hợp
với bản chất loại hình của tác phẩm văn học đó. Tất nhiên việc làm như
thế sẽ dẫn đến một hậu quả tiếp theo là việc giảng dạy của thầy và tiếp
nhận tri thức của trò về mặt giá trị nội dung và nghệ thuật khơng chính


xác. Xong trước khi trình bày những vấn đề lý luận nêu trên, để có cái
nhìn khái qt về bước đi và diện mạo của văn học trung đại Việt Nam,
chúng tơi sẽ trình bày ngắn ngọn quá trình phát triển của văn học viết
trung đại Việt Nam và những đặc điểm cơ bản của nó.


<b>1.1. Các giai đoạn phát triển của văn học trung đại Việt Nam. </b>
<i><b>1.1.1. Giai đoạn từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XIV. </b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15>

<i>Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên </i>


10


nhiều kỳ tích trong các cuộc kháng chiến chống xâm lược (chống quân
Tống ở thế XI – XII; chống quân Nguyên Mông ở thế kỷ XIII); sau những
cuộc chiến tranh vệ quốc là công cuộc xây dựng đất nước trong hồ bình.
Chế độ phong kiến Việt Nam đang ở thời kì ổn định và phát triển.


Giai đoạn văn học này có những bước ngoặt lớn. Trước hết là văn
học viết chính thức ra đời ở thế kỷ X ( bài thơ sớm nhất là bài <i>Quốc tộ</i> –
Đỗ Pháp Thuận) và tiếp đến là xuất hiện của văn học chữ Nôm ở thế kỷ
XIII. Những bước ngoặt này mở ra sự phát triển mạnh mẽ của văn học
dân tộc: Bên cạnh văn học dân gian đã có văn học thành văn, bên cạnh
văn học chữ Hán đã có văn học chữ Nơm.


<i><b>1.1.2. Giai đoạn từ thế kỷ XV đến hết thế kỷ XVIII. </b></i>


Đây là thời kì mà nhân dân ta tiếp tục lập lên những chiến công trong
cuộc kháng chiến chống Minh ở thế kỷ XV, đưa chế độ phong kiến Việt
Nam đạt đến cực thịnh ở cuối thế kỷ đó (dưới triều đại Lê Thánh Tông).
Bước sang thế kỷ XVI, tuy chế độ phong kiến đã có những biểu hiện khủng


hoảng dẫn đến nội chiến và đất nước bị chia cắt song nhìn chung tình hình
xã hội vẫn tạm thời ổn định. Văn học giai đoạn này có bước phát triển mới,
trong đó nổi bật nhất là những thành tựu nghệ thuật của văn học chữ Nôm
(tiêu biểu là <i>Hồng Đức quốc âm thi tập</i> của Lê Thánh Tông; <i>Quốc âm thi tập</i>
của Nguyễn Trãi; <i>Bạch Vân quốc ngữ thi</i> của Nguyễn Bỉnh Khiêm; <i>Thiên Nam </i>
<i>ngữ lục</i>; các truyện Nôm…). Hiện tượng văn - sử - triết bất phân khá đậm trong
văn học Lý – Trần đã mờ dần từ thế kỷ XV, khi xuất hiện ngày càng nhiều tác
phẩm giầu chất văn chương hình tượng.


<i><b>1.1.3. Giai đoạn từ thế kỷ XVIII đến nửa đầu thế kỷ XIX. </b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(16)</span><div class='page_container' data-page=16>

<i>Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên </i>


11


của chế độ phong kiến và bão táp của phong trào nông dân khởi nghĩa mà
đỉnh cao là khởi nghĩa Tây Sơn. Khởi nghĩa Tây Sơn cùng một lúc lật đổ
các tập đoàn phong kiến thống trị ở trong nước cả đàng Trong và đàng
Ngoài, đánh tan ngoại xâm ở phía Nam (quân Xiêm) và phía Bắc (quân
Thanh). Nhưng phong trào Tây Sơn suy yếu và thất bại. Triều Nguyễn
thống nhất đất nước thiết lập một chế độ phong kiến quan liêu mới và đất
nước đứng trước hiểm hoạ xâm lăng của chủ nghĩa thực dân Pháp.


Ở giai đoạn này, văn học phát triển vượt bậc, có nhiều đỉnh cao nghệ
thuật (<i>Chinh phụ ngâm khúc</i> của Đặng Trần Cơn - Đồn Thị Điểm; <i>Cung </i>
<i>ốn ngâm khúc </i>của Nguyễn Gia Thiều; <i>Truyện Kiều</i> của Nguyễn Du; thơ
Nôm của Hồ Xuân Hương; <i>Thượng kinh ký sự</i> của Lê Hữu Trác…). Đây là
giai đoạn rực rỡ nhất của văn học trung đại Việt Nam vì nó vừa phong phú
về mặt nội dung, vừa đa dạng về hình thức nghệ thuật. Đây cũng là thời kì
mà lần đầu tiên các thể loại văn học dân tộc ra đời như: Ngâm khúc;


Truyện Nôm; Thơ ca trù - hát nói…


<i><b>1.1.4. Giai đoạn nửa cuối thế kỷ XIX. </b></i>


Năm 1858 thực dân Pháp nổ phát súng xâm lăng đầu tiên vào cảng
Đà Nẵng và từng bước xâm lược Việt Nam. Nhân dân cả nước kiên cường
đứng lên chống giặc ngoại xâm, nhưng rồi đất nước dần dần rơi vào tay
giặc và cuối cùng trở thành thuộc địa của thực dân Pháp. Xã hội Việt Nam
chuyển dần từ xã hội phong kiến sang xã hội thực dân nửa phong kiến. Văn
hoá Nho giáo truyền thống ngày bị mai một; văn hố phương Tây bắt đầu
có những ảnh hưởng tới đời sống xã hội Việt Nam.


</div>
<span class='text_page_counter'>(17)</span><div class='page_container' data-page=17>

<i>Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên </i>


12


văn học chữ Nơm vẫn là chính. Sáng tác văn học chủ yếu vẫn theo thể loại
và thi pháp truyền thống (Hịch – Văn tế…). Tuy nhiên sự xuất hiện một số
tác phẩm văn xuôi viết bằng chữ Quốc ngữ đã bước đầu đem đến cho văn
học những nét mới theo xu hướng hiện đại hoá.


<b>1.2. Những đặc điểm cơ bản của văn học viết trung đại Việt Nam. </b>
Về những đặc điểm của văn học viết trung đại Việt Nam, chúng tôi
thấy quan niệm của các nhà nghiên cứu như GS Lê Trí Viễn trong cuốn
<i>Quy luật phát triển của văn học trung đại Việt Nam</i> và PGS – TS Nguyễn
Đăng Na trong cuốn <i>Con đường giải mã văn học trung đại Việt Nam</i> là
hồn tồn chính xác. Vì thế chúng tơi đã dựa vào đó, đồng thời có bổ sung
thêm những suy nghĩ của mình. Tựu trung văn học trung đại Việt Nam có
những đặc điểm sau:



<i><b>1.2.1. Lấy văn học dân gian làm nền tảng. </b></i>


Văn học dân gian của các dân tộc bao giờ cũng là cơ sở cho văn học
thành văn nảy sinh, phát triển. Đặc biệt đối với Việt Nam thì điều này lại
càng vơ cùng quan trọng. Trải qua hơn 1000 năm Bắc thuộc, bọn xâm lược
đã phá hoại tàn nhẫn truyền thống văn hiến Việt để phục vụ cho mưu đồ
"Hán hoá" của chúng. Nhưng linh hồn Việt vẫn trường tồn và quật khởi để
cuối cùng giành lại được độc lập vào giữa thế kỷ X. Có được sức mạnh kỳ
diệu ấy là bởi dân tộc ta có truyền thống văn hiến lâu đời mà văn học dân
gian chính là một trong những phương tiện bảo lưu gìn giữ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(18)</span><div class='page_container' data-page=18>

<i>Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên </i>


13


cho văn học viết trung đại Việt Nam trong suốt 10 thế kỷ hình thành và
phát triển của nó. Chỉ cần đọc một số tác phẩm tiêu biểu của văn học trung
đại qua các giai đoạn như: <i>Việt điện u linh</i>, <i>Lĩnh Nam chích quái</i>, <i>Thiền </i>
<i>uyển tập anh ngữ lục</i>… thời Lý – Trần; <i>Quốc âm thi tập, Bạch vân quốc </i>
<i>ngữ thi</i> thời Lê – Mạc; <i>Chinh phụ ngâm khúc, Cung oán ngâm khúc, </i>
<i>Truyện Kiều, thơ Hồ Xuân Hương</i>… ta sẽ thấy rất rõ điều đó.


<i><b>1.2.2. Tiếp thu có chọn lọc và sáng tạo tinh hoa văn hoá và văn học </b></i>
<i><b>nước ngoài. </b></i>


Trước khi bị đế quốc phong kiến phương Bắc thống trị (năm 111
trước công nguyên) nước ta hình như chưa có chữ viết (mặc dù có thuyết
nói rằng người Việt thời cổ đã có chữ viết giống hình con nịng nọc gọi là
chữ Khoa đẩu, nhưng cho đến nay giới khoa học vẫn chưa khẳng định
được). Vì thế sau khi giành được độc lập người Việt đã dùng chữ Hán như


một phương tiện văn hoá trong hoạt động giao tiếp xã hội cũng như trong
sáng tác văn học. Tuy nhiên người Việt dùng chữ Hán theo cách riêng của
mình và đây chính là điều kiện cho chúng ta dần tách khỏi phạm vi ảnh
hưởng của văn hoá Hán.


</div>
<span class='text_page_counter'>(19)</span><div class='page_container' data-page=19>

<i>Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên </i>


14


Cuối thế kỷ XVIII do giao lưu với phương Tây, một loại hình văn tự
ghi âm tiếng Việt bằng mẫu tự La Tinh ra đời. Loại văn tự này dần dần
thay thế loại văn tự Hán và Nôm trong giao tiếp xã hội và trong sáng tác
văn học. Từ đây nền văn dân tộc có thêm mảng văn học sáng tác bằng chữ
Quốc ngữ hiện đại và cho đến nay nó chiếm ưu thế tuyệt đối.


Cùng với việc tiếp thu và sáng tạo ngôn ngữ văn tự là việc tiếp thu và
sáng tạo các giá trị văn học từ nội dung cho đến hình thức nghệ thuật.


Về nội dung, chúng ta tiếp thu khá nhiều các tích truyện, cốt truyện
và thi liệu văn học nước ngoài, nhất là của Trung Hoa trên tinh thần sáng
tạo, mang đậm dấu ấn bản sắc Việt Nam. Những ví dụ điển hình như <i>Hoa </i>
<i>tiên ký </i>của Nguyễn Huy Tự; <i>Truyện Kiều</i> của Nguyễn Du; <i>Chinh phụ </i>
<i>ngâm khúc </i>của Đặng Trần Côn – bản dịch của Đoàn Thị Điểm; <i>Tuồng</i> của
Đào Tấn…


Về hình thức thể loại: Thời kì đầu từ thế kỷ X đến thế kỷ XVII chúng
ta tiếp thu hầu hết các thể văn và thể loại văn học Trung Hoa như <i><b>văn học </b></i>
<i><b>chức năng hành chính có các thể: Chiếu, cáo, hịch, tấu…; </b><b>văn học chức </b></i>
<i><b>năng lễ nghi </b></i>có Kệ, biến văn, văn tế, câu đối, trướng…; <i><b>văn học nghệ </b></i>
<i><b>thuật có thơ ca, từ khúc, truyện truyền kỳ, tiểu thuyết chương hồi… Vẫn là </b></i>


tiếp thu trên tinh thần sáng tạo người Việt đã Việt hố khá thành cơng một
số thể văn và thể loại văn học Trung Hoa như là thể phú, thể thơ Đường
luật (Hồ Xuân Hương là một thí dụ tiêu biểu). Cũng từ thể thất ngôn Trung
Quốc kết hợp với thơ ca dân gian, người Việt đã sáng tạo ra thể thơ song
thất lục bát - Một hình thức tối ưu cho thể loại thơ trữ tình Ngâm khúc.


</div>
<span class='text_page_counter'>(20)</span><div class='page_container' data-page=20>

<i>Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên </i>


15


nền văn học trung đại Việt Nam đã sản sinh ra cùng một lúc ba thể loại văn
học lớn. Đó là <i>thơ</i> <i>trữ tình ngâm khúc, truyện Nơm, thơ ca trù – hát nói.</i> .
Đây là thời điểm đánh dấu sự trưởng thành vượt bậc của văn học trung đại
Việt Nam, bởi vì theo M.Bakhtin – nhà khoa học nhân văn lỗi lạc người
Nga thì “thể loại chứ không phải là phương pháp hoặc trường phái sáng tác
mới là nhân vật số một của tấn kịch lịch sử văn học” [3, 7].


Cùng với việc tiếp nhận văn học Trung Hoa, người Việt còn tiếp thu
từ nền văn học Ấn Độ, đặc biệt là hệ tư tưởng Phật giáo và các loại hình
văn học Phật giáo. Ngồi ra chúng ta cịn tiếp nhận tất cả những cái hay,
cái đẹp của các nền văn hoá và văn học khác như Lào, Campuchia, Thái
Lan, Hàn Quốc… để làm giầu cho kho tàng văn học nghệ thuật Việt Nam.
<i><b>1.2.3. Gắn bó với vận mệnh đất nước và số phận của những con người </b></i>
<i><b>Việt Nam. </b></i>


Do hoàn cảnh lịch sử đặc biệt, nền văn học trung đại Việt Nam đã
gắn bó máu thịt với vận mệnh đất nước, số phận những con người Việt
Nam ngay từ khi mới ra đời. Chủ nghĩa yêu nước, tinh thần nhân đạo là sợi
chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ tiến trình phát sinh, phát triển của mười thế kỷ
văn học trung đại.



Buổi đầu dựng nước văn học tập trung khẳng định sự trường tồn, tất
thắng của dân tộc Việt Nam.


</div>
<span class='text_page_counter'>(21)</span><div class='page_container' data-page=21>

<i>Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên </i>


16


Giặc Minh đến xâm lược thì có văn học Lam Sơn và khép lại bằng
bản “Thiên cổ hùng văn” <i>Bình Ngơ đại cáo</i> của Nguyễn Trãi.


Hơn 300 năm sau cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại chống quân Thanh
xâm lược ở phía Bắc, quân Xiêm ở phía Nam đã được văn học Tây Sơn
phản ánh khá đầy đủ và mang âm hưởng anh hùng ca.


Kẻ thù truyền thống phương Bắc vừa rút khỏi thì một kẻ thù mới –
thực dân Pháp kéo vào. Văn học yêu nước chống Pháp với những tên tuổi
lớn như Nguyễn Đình Chiểu, Phan Văn Trị, Nguyễn Thơng, Nguyễn
Quang Bích… đã tốt lên tinh thần bất khuất của người Việt trong một thời
kỳ lịch sử " khổ nhục nhưng vĩ đại" (Phạm Văn Đồng)


Văn học chân chính cổ vũ tinh thần chiến đấu, hy sinh cho độc lập
dân tộc mỗi khi có ngoại xâm nhưng đồng thời nó cũng lên tiếng phản đối
nội chiến tương tàn vì quyền lợi ích kỷ của các tập đồn phong kiến thống
trị. Đó là những <i>Thiên Nam liệt truyện, Nam triều cơng nghiệp diễn trí</i>.


Văn học trung đại Việt Nam không chỉ quan tâm đến những vấn đề
lớn của vận mệnh đất nước mà còn thể hiện tình yêu đối với thiên nhiên
cảnh vật và những suy nghĩ day dứt về cuộc đời, về những số phận của con
người, đặc biệt là những con người bé nhỏ. Ở thế kỷ XVI, một <i>Truyền kỳ </i>


<i>mạn lục </i>của Nguyễn Dữ đã cho người đọc hiểu biết bao nhiêu những số
phận bi kịch của người phụ nữ. Đồng thời những khát vọng chân chính của
con người như là quyền được sống, quyền được yêu, quyền được mưu cầu
hạnh phúc mà tác phẩm này nhen lên đã được các văn nghệ sĩ thế kỷ XVIII
kế thừa, phát triển tới đỉnh cao, tô đậm thêm truyền thống nhân văn của
văn học trung đại Việt Nam.


</div>
<span class='text_page_counter'>(22)</span><div class='page_container' data-page=22>

<i>Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên </i>


17


trình phát triển của lịch sử với tất cả những niềm vui, hạnh phúc và cả
những giọt nước mắt đau thương.


<i><b>1.2.4. Không ngừng đổi mới để đáp ứng tốt hơn sứ mạng lịch sử giao </b></i>
<i><b>phó và hiện thực cuộc sống ngày càng phát triển. </b></i>


Giống như văn học trung đại của nhiều nước khác trên thế giới, mười
thế kỷ phát triển của văn học trung đại Việt Nam đều chịu sự tác động của
các quy tắc sáng tác trung đại, trước hết các tác gia trung đại Việt Nam
cũng thường vay mượn các đề tài có sẵn trong văn học dân gian hoặc trong
văn học viết quá khứ, tái tạo lại thành tác phẩm mới để phán ánh thời đại
mình. Có thể dẫn ra rất nhiều ví dụ như là <i>Thánh Tông di thảo</i>, <i>Truyền kỳ </i>
<i>mạn lục, Truyền kỳ tân phả, Phan Trần, Hoa Tiên</i>… Ngoài ra sử dụng các
thi liệu, văn liệu cổ, điển tích xưa thì hầu như là việc làm phổ biến của
những người cầm bút sáng tác. Thói quen này tạo nên một trong những bút
pháp đặc trưng của văn học trung đại. Ấy là bút pháp "tập cổ", bởi tập cổ
được xem như một phẩm chất tài hoa, trí tuệ uyên bác của người nghệ sĩ
trung đại. Trong thơ ca người ta bắt gặp nhiều câu na ná giống nhau và
trong văn chương trung đại Việt Nam, <i>Chinh phụ ngâm khúc</i> của Đặng


Trần Côn được xem là hiện tượng "tập cổ" tiêu biểu nhất. Tất nhiên bắt
chiếc người xưa, nhưng phải có sáng tạo cá nhân thì mới có giá trị bởi vì
văn chương khơng có con đường mịn.


</div>
<span class='text_page_counter'>(23)</span><div class='page_container' data-page=23>

<i>Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên </i>


18


Lại nữa, thể văn và thể loại văn học trung đại có những quy định rất
chặt chẽ buộc người cầm bút phải tuân thủ nghiêm nhặt. Làm văn mà
không theo "khuôn phép" là không biết làm văn, hơn nữa người cầm bút
cịn phải phục tùng rất nhiều những cơng thức đã trở thành “mơ típ” miêu
tả trong văn chương. Thí dụ như “mắt phượng mày ngài”; “mặt hoa da
phấn”; “đăng cao viễn vọng”…


Mặc dù vay mượn đề tài, diễn tả theo những bút pháp truyền thống,
những cơng thức có sẵn, nhưng văn học trung đại không hề khô cứng và
ngưng trệ. Bởi vì các tác gia văn học trung đại Việt Nam trên con đường
sáng tạo văn chương luôn tự đổi mới mình theo khuynh hướng dân tộc và
bám sát hiện thực.


Về mặt nội dung, các tác gia khơng ngừng gắn bó mật thiết với vận
mệnh đất nước, với số phận con người Việt Nam nên thường xuyên biến
đổi cách viết cho phù hợp với việc phản ánh hiện thực luôn phát triển của
đời sống dân tộc. Xu hướng thần linh hoá trong văn chương giai đoạn đầu
đã dần dần được thay thế bằng xu hướng thế tục. Khi nội dung của thời
đại phong phú hơn, phức tạp hơn thì những hình thức thể hiện cũng phải
thay đổi cho phù hợp với nó. Vì thế quy mô tác phẩm ngày càng được mở
rộng và những thể loại văn học dân tộc lớn như: Ngâm khúc, truyện Nơm,
hát nói ra đời. Cách diễn đạt từ xu hướng ước lệ tượng trưng, công thức


hoá chuyển dần sang xu hướng phản ánh hiện thực dưới bản thân hình
thái của đời sống hiện thực. Thơ ca và văn xuôi tiến dần đến bến bờ của
văn học hiện đại.


</div>
<span class='text_page_counter'>(24)</span><div class='page_container' data-page=24>

<i>Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên </i>


19


Để hồn thành mục tiêu đó văn học trung đại Việt Nam, một mặt đã dựa
vững chắc vào nền tảng văn học dân gian; mặt khác biết chắt lọc tiếp thu
tinh hoa của văn học nước ngoài trên tinh thần sáng tạo để làm giàu cho
văn học nước nhà đưa văn học tiến lên hoà nhịp với văn học khu vực nhưng
vẫn mang đậm bản sắc dân tộc. Văn học trung đại Việt Nam cũng luôn luôn
biết cách tự đổi mới mình để làm tốt hơn nhiệm vụ phản ánh quá trình phát
triển, đi lên của lịch sử đất nước. Đầu thế kỷ XX, văn học trung đại đã hoàn
thành sứ mệnh lịch sử của mình để nhường bước cho văn học Việt Nam cận
– hiện đại. Tuy nhiên những giá trị chói ngời và những kinh nghiệm nghệ
thuật bất hủ của nó vẫn sẽ cịn tồn tại mãi mãi với cuộc sống của con người
nói chung và những người nghệ sĩ nói riêng trên mảnh đất này.


<b>1.3. Hai loại hình văn học cơ bản của văn học trung đại phương Đông. </b>
<i><b>1.3.1. Khái niệm “văn” thời cổ - trung đại phương Đông. </b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(25)</span><div class='page_container' data-page=25>

<i>Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên </i>


20


triển của lịch sử văn học dân tộc, loại hình văn học chức năng ngày càng
thu hẹp và mất dần vị trí, nhường chỗ cho văn học nghệ thuật.



<i><b>1.3.2. Văn học chức năng. </b></i>


Văn học chức năng là loại hình văn học sáng tác ra nhằm phục vụ
cho mục đích tuyên truyền những tư tưởng tơn giáo, chính trị hay đạo đức
nào đó. Đây là loại hình văn học mang chức năng ngoài văn học. Văn học
chức năng thường mang những đặc điểm như sau:


Thứ nhất: Tác giả không được tự do cầm bút sáng tác mà do nhiệm
vụ hoặc tình thế buộc phải viết chứ khơng chờ có cảm hứng mới làm. Ví dụ
như khi người ta chép sử, lập bia, viết hịch, viết cáo, viết văn tế… đều là
do nhiệm vụ tình thế quyết định.


Thứ hai: Văn học chức năng viết theo những địa chỉ nhất định cho
những đối tượng nhất định. Ví dụ viết cho Vua, cho thần dân, cho tỳ
tướng,… ,cho tướng giặc…


Thứ ba: Tác giả của các tác phẩm văn học chức năng phải gắn liền với
những chức danh cụ thể trong xã hội như Thiên tử, chủ sối, sứ thần, hịa
thượng…Do đó văn học chức năng đều gắn liền với những thể loại nhất định.
Văn học chức năng lại chia ra làm hai bộ phận: Văn học chức năng
hành chính và văn học chức năng lễ nghi.


<i><b>1.3.2.1. Văn học chức năng hành chính. </b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(26)</span><div class='page_container' data-page=26>

<i>Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên </i>


21


hàm như vậy các văn bản thuộc loại đơn từ, báo cáo, thậm chí kể cả nội
dung ghi trên bì thư… cũng đều là văn bản tác phẩm văn học chức năng


hành chính. Để phục vụ cho việc nghiên cứu các chú giải ở chương sau,
chúng tôi thấy cần thiết phải trình bày vắn tắt nội hàm một số các thể loại
văn học cơ bản của văn học chức năng hành chính như chiếu, cáo, hịch, sớ,
tự - bạt…


<b>* Chiếu: </b>


<i>Chiếu</i> còn gọi là “chiếu thư” , “chiếu chỉ”, “chiếu bản”. Đó là văn
cáo mà Thiên tử hạ đạt mệnh lệnh xuống cho thần dân. Chiếu có nhiều loại
như: Tức vị chiếu (chiếu lên ngôi); di chiếu; ai chiếu; phục chiếu; mật
chiếu; thủ chiếu; khẩu chiếu. Là một thể loại văn kiện hành chính, quan
phương mà tác giả của nó thường là những người có địa vị cao nhất trong
bộ máy chính quyền phong kiến (vua), nội dung của chiếu thường gắn với
những nhiệm vụ chính trị, xã hội.


Ví dụ: <i>Chiếu dời đô</i> - Lý Công Uẩn
<i>Chiếu cầu hiền</i> – Ngơ Thì Nhậm


Với tư cách là những văn kiện chính trị, chiếu trước hết là thể văn
nghị luận, trong đó khơng chỉ có lí lẽ, mà cịn phải thể hiện được hình ảnh
vị thiên tử có tầm nhìn xa trơng rộng, tâm hồn cao cả....


<b>*Cáo: </b>


<i>Cáo</i> là thể văn hoàng đế dùng để ban bố cho thần dân nhằm trình
bày một chủ trương, hoặc công bố một kết quả, một sự kiện nào đó; ngồi
ra nó cịn đươc dùng để bổ nhiệm hay phong tặng cho thần tử.


</div>
<span class='text_page_counter'>(27)</span><div class='page_container' data-page=27>

<i>Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên </i>



22


Chữ “<i>cáo</i>” không có bộ ngơn (告) dùng cho kẻ dưới trình lên bề
trên (như các loại báo cáo ngày nay) và thường làm động từ; chữ “cáo” có
bộ ngơn (誥) dùng để bề trên ban xuống kẻ dưới và thường làm danh từ.
<b>* Hịch: </b>


<i> Hịch </i>là một loại văn bố cáo (thông cáo) công khai như chiếu, cáo
nhưng sử dụng trong lĩnh vực quân sự nhằm lên tiếng tố cáo, lên án một đối
tượng nào đó. Cũng có khi hịch được dùng để hiểu rụ , răn dạy thần dân và
người dưới quyền. Hịch còn gọi là “lộ bố” nghĩa là loại văn thư không dán
kín (giống như ngày nay ta gọi là “thư ngỏ”) nhằm công bố cho tất cả mọi
người. Lưu Hiệp nói: “Lộ bố là văn bản để lộ, không phong, để cho mọi
người đọc và nghe”. Đời Hán, Mã Siêu làm lộ bố thảo phạt Tào Tháo. Thể
văn này có từ đời Hán.


<i>Hịch</i> tuy cũng là một thể loại văn nghị luận, đòi hỏi có lí lẽ, có dẫn
chứng thuyết phục, nhưng đặc điểm của nó là thể loại văn kích động tình
cảm và tinh thần người nghe.


<b>* Sớ: </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(28)</span><div class='page_container' data-page=28>

<i>Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên </i>


23


<b>* Tự – bạt. </b>


<i>Tự, bạt</i>: Đây là thể văn viết đặt ở đầu (tự tiếng Việt dịch là tựa)
hoặc cuối (bạt) các tác phẩm thơ, văn nhằm để thuyết minh việc trước


thuật, ý đồ xuất bản, thể lệ biên soạn hoặc tình hình tác giả. Tựa, bạt có thể
bao gồm cả lời bình luận đối với tác phẩm, hoặc bổ sung thêm những vấn
đề, chi tiết hữu quan.


<i>Tự, bạt</i> - Thể loại tự sự Việt Nam ra đời cùng với các tác phẩm
trước thuật Việt Nam. Vũ Quỳnh (1452 – 1516) viết Tựa <i>Lĩnh Nam chích </i>
<i>quái liệt truyện </i>ghi rõ ý đồ và nguyên tắc làm sách, nội dung sách và tình
cảm tác giả: “ Than ôi Lĩnh Nam liệt truyện sao không khắc vào đá, viết
vào tre mà chỉ truyền tụng ở ngoài bia miệng. Từ đứa trẻ đầu xanh đến cụ
già đầu bạc đều lấy đó làm răn tất cả là có quan hệ đến cương thường,
phong hố. Ơi! Há đâu phải là điều lợi nhỏ”.


Như vậy thể loại tự (tựa) cho biết rõ quan điểm, mục đích và việc
làm sách. Đó là những văn bản có giá trị về quan niệm tư tưởng và học
thuật của tiền nhân, là kho tàng vơ giá để tìm hiểu lịch sử trước thuật nước
nhà.


</div>
<span class='text_page_counter'>(29)</span><div class='page_container' data-page=29>

<i>Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên </i>


24


<i><b>1.3.2.2. Văn học chức năng lễ nghi. </b></i>


Văn học chức năng lễ nghi có chức năng thực thi các nghi lễ mang
tính chất tơn giáo hoặc tập tục. Những tác phẩm thuộc loại này là: văn tế,
trướng, câu đối (hiếu, hỉ), những tác phẩm triết học tôn giáo.


<b>* Văn tế: </b>


Trong thư tịch cổ Trung Hoa, <i>văn tế</i> xuất hiện khá sớm và có sự


phân biệt khác nhau: Điếu văn, tế văn, ai từ, lỗi.


<i>Văn tế </i>thời cổ xưa dùng để tế trời đất núi sơng, cịn gọi là kỳ văn
hay chúc văn. Về sau văn tế là bài văn dùng để tế người chết. Theo Từ Sư
Tăng đời Minh thì văn tế là lời văn để tế thân hữu. Thời cổ xưa khi tế
người chết thì mời về hưởng, thời sau mới có thêm lời ca tụng đức hạnh để
ngụ ý tiếc thương.


Ở Việt Nam, <i>văn tế</i> là một thể loại tổng hợp bày tỏ niềm tiếc
thương đối với người mất mà không phân biệt trên dưới, xa gần, thân hữu.
Nó kiêm cả lỗi, điếu, ai, tế.


Nội dung của một bài văn tế thường xoay quanh hai ý chính: Kể về
cuộc đời, tính cách, cơng tích của người quá cố trên tinh thần ngợi ca (chất
tự sự); bộc lộ tình cảm tiếc nuối, xót thương của người sống trong giờ phút
vĩnh biệt (chất trữ tình).


Về hình thức diễn đạt (từ góc độ văn tự), văn tế chia làm hai loại:
văn tế viết bằng chữ Hán và văn tế viết bằng chữ Nôm.


</div>
<span class='text_page_counter'>(30)</span><div class='page_container' data-page=30>

<i>Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên </i>


25


Đĩnh Chi)… Tuy nhiên đa phần <i>văn tế</i> được viết theo thể phú, vì thể đó
đàng hồng, trang trọng.


Về bố cục: Bài văn tế chia làm 4 phần:


<i>Phần một (Lung khởi):</i> Thường được xướng lên bằng hai chữ


"Thương ôi!". Nội dung chính: Luận chung về lẽ sống chết.


<i>Phần hai (Thích thực):</i> Thường được xướng bằng các từ “Nhớ linh
xưa”. Nội dung chính: Kể cơng đức của người chết khi còn sống.


<i>Phần ba (Ai điếu):</i> Than tiếc người chết (nói lên niềm tiếc thương
của người sống với người chết).


<i>Phần bốn (Ai vãn):</i> Tiếp tục bày tỏ niềm thương nhớ, tiếc thương,
lời cầu nguyện của người sống đối với người chết. Nội dung: Khẳng định
giá trị trường tồn của người chết.


<i>Văn tế</i> có nguồn gốc lâu đời từ Trung Quốc, nhưng khơng phát triển
thành một thể loại văn học quan trọng. Sang Việt Nam, văn tế đã phát triển và
trở thành một thể loại văn học có vị trí quan trọng trong nền học với nhiều tác
phẩm có giá trị.


Văn tế là thể văn thể hiện bi kịch của kiếp người. Dù tình cảm của
người sống dành cho người chết có ân tình thuỷ chung, đơn hậu đến đâu, và
dù có ý nghĩa muốn vĩnh hằng hố những bóng hình đã khuất, thì văn tế mãi
là tiếng nói đau thương, niềm hận khơn ngi của đủ loại kiếp người trong
thiên hạ.


<b>* Kệ: </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(31)</span><div class='page_container' data-page=31>

<i>Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên </i>


26


thơ ca. Hơn nữa ở chúng chứa đựng thứ triết học uyên áo với phép biện


chứng duy vật của đạo Phật vừa xưa lạ, vừa phức tạp và khó hiểu.


Ví dụ: <i>Ngơn hồi</i> – Dương Khơng Lộ.
<i>Cáo tật thị chúng</i> – Mãn Giác


<b>Như trên đã nói, các tác phẩm văn học chức năng (hành chính và lễ </b>
nghi) đều mang tính đơn phương, một chiều. Chẳng hạn, <i>chiếu</i> là thể loại
văn học chỉ riêng nhà vua mới được dùng. Thường dân không được phép
viết chiếu; nếu thường dân viết chiếu sẽ phạm tội "khi quân" "tạo
phản"…Vua ban chiếu, bề tôi phải đọc, phải thi hành. <i>Biểu</i> thuộc thể văn
dùng cho kẻ dưới trình lên bề trên. Bề tơi (hoặc chư hầu) viết biểu để dâng
lên nhà vua (hoặc dâng lên thiên tử). Khơng có chuyện ngược lại… Hơn
nữa, tính cơng thức của thể loại quy định nghiêm nhặt văn học chức năng ở
mọi thời đại. Về cơ bản, cấu trúc thể loại của văn học chức năng khơng có
sự phá cách.


<i><b>1.3.3. Văn học nghệ thuật. </b></i>


Văn học nghệ thuật là tác phẩm nhằm mục đích thoả mãn nhận
thức thẩm mỹ cho người đọc, người nghe. Chức năng nhận thức - thẩm mỹ
là thuộc tính cơ bản của tác phẩm văn học nghệ thuật. Dĩ nhiên, cụm từ
chức năng – thẩm mỹ đã hàm chứa ở đó nội dung nhận thức xã hội, nhận
thức hiện thực cuộc sống, chức năng giáo dục, thanh lọc tâm linh để vươn
tới chân – thiện – mỹ.


Văn học nghệ thuật có những nét đặc trưng sau:


</div>
<span class='text_page_counter'>(32)</span><div class='page_container' data-page=32>

<i>Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên </i>


27



Thứ hai: Văn học nghệ thuật là loại hình văn học viết cho tất cả
mọi người, không dành riêng cho bất cứ ai.


Thứ ba: Bất cứ ai trong xã hội cũng có thể cầm bút sáng tác, miễn
là người đó có năng lực văn chương và cảm hứng sáng tạo.


Văn học nghệ thuật bao gồm một số thể văn và thể loại văn học
như:


<b>* Văn xuôi: Ký, truyện ngắn, tiểu thuyết chương hồi. </b>
<b>* Vận văn: Phú. </b>


<b>* Thơ: </b>


<i>Thứ nhất:</i> Thơ chữ Hán: Cổ phong, Đường luật.


<i>Thứ hai:</i> Thơ chữ Nôm: Ngâm khúc với thể thơ song thất lục bát,
Truyện Nôm với thể thơ lục bát, thơ ca trù – hát nói.


<i><b>1.3.3.1. Văn xi: </b></i>
<b>* Kí. </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(33)</span><div class='page_container' data-page=33>

<i>Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên </i>


28


luận hồ lẫn, nên kí có thể phản ánh linh hoạt các sắc thái muôn màu của
cuộc sống. Trong kí, hư cấu giữ vai trị thứ yếu, nhưng vai trị chủ quan của
người viết kí cũng rất quan trọng. Tài nghệ của tác giả kí thể hiện ở chỗ


biết chọn đúng đối tượng và làm nổi bật tầm tư tưởng. Thêm nữa, người
viết cần biết chọn một hình thức kí thích hợp, một ngôn ngữ hấp dẫn và
nhất là có những cảm xúc chân thành làm rung động người đọc.


<b>* Truyện ngắn: </b>


<i>Truyện ngắn</i> thuộc loại hình tự sự, mỗi truyện đều có cốt truyện
bao gồm một hệ thống tình tiết, sự kiện gắn liền với cuộc đời một nhân vật
nào đó trong truyện. Cốt truyện được thể hiện qua giọng kể của tác giả và
người kể truyện. Căn cứ vào độ dài của truyện, người ta chia truyện ra làm
ba loại: Truyện ngắn, truyện vừa, truyện dài (tương đương với ba thuật ngữ
của Trung Hoa: Đoản thiên tiểu thuyết, trung thiên tiểu thuyết và trường
thiên tiểu thuyết)


Trước đây, truyện ngắn gắn liền với ký, cho nên việc phân loại giữa
truyện và ký hết sức phức tạp trong văn học trung đại. Theo PGS – TS
Nguyễn Đăng Na " Điều làm nên sự phân biệt giữa truyện và ký về bản
chất là thái độ người cầm bút. Nếu người cầm bút tách mình khỏi các sự
kiện, các nhân vật đang được miêu tả như người ngồi cuộc thì đấy là
truyện; còn tác giả hồ mình vào các sự kiện vào nhân vật với tư cách là
người trong cuộc thì đấy là ký" (<i>Con đường giải mã văn học trung đại Việt </i>
<i>Nam, trang 427</i>).


<i><b>1.3.3.2. Vận văn (phú). </b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(34)</span><div class='page_container' data-page=34>

<i>Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên </i>


29


Mỗi một thể đều có quy cách nhất định nhưng vẫn phục tùng một


kết cấu chung. Ở Việt Nam, phú xuất hiện từ đời Trần và chia thành hai
loại (theo ngôn ngữ văn tự): phú Hán và phú Nôm. Bài <i>Bạch Đằng giang </i>
<i>phú</i> của Trương Hán Siêu được trích giảng ở sách giáo khoa <i>Ngữ văn</i>
THPT là một bài phú Hán cổ thể, đa vận.


<i><b>1.3.3.3. Thơ. </b></i>
<i><b>a. Thơ chữ Hán. </b></i>


Thứ nhất: Là loại thơ mô phỏng theo phong cách thơ cổ (gọi là thơ
cổ phong) và được chia ra làm nhiều thể tài: Ngâm, khúc, ca, hành… Đặc
điểm của lối thơ này mang tính chất tự do phóng khống, khơng bị gị bó
về số câu, số chữ ở trong câu (có thể dài ngắn xen nhau), về niêm – luật, về
luật bằng – trắc, vần, điệu… Bài <i>Sa hành đoản ca</i> của Cao Bá Quát (được
trích giảng ở sách giáo khoa Ngữ văn THPT) thuộc một trong những thể tài
nói trên.


Thứ hai: Thơ Đường luật chỉnh thể là loại thơ tuân thủ nghiêm
nhặt các quy định về niêm – luật. Tuy nhiên có một số bài thơ Đường
không tuân thủ tuyệt đối các quy định đó, cho nên người ta gọi đó là những
bài thơ Đường phá cách (Bài thơ <i>Độc Tiểu Thanh ký</i> được trích giảng ở
sách giáo khoa Ngữ văn THPT là một ví dụ: vì câu 1 và câu 8 thất niêm).
<i><b>b. Thơ chữ Nôm. </b></i>


Thứ nhất: Thơ Nôm Đường luật.


</div>
<span class='text_page_counter'>(35)</span><div class='page_container' data-page=35>

<i>Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên </i>


30


Trung Hoa nhưng thơ Nôm Đường luật đã được Việt hoá và mang đậm bản


sắc văn hoá dân tộc với nhiều đại biểu xuất sắc như: Nguyễn Trãi, Hồ
Xuân Hương, Nguyễn Du, Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương…


Thứ hai: Một số thể loại thơ dân tộc:


<i><b>* Thể loại thơ trữ tình ngâm khúc: Ngâm khúc là những ca khúc </b></i>
trữ tình trường thiên phản ánh tâm trạng bi kịch của con người cá nhân
trong một giai đoạn lịch sử. Ngâm khúc được viết bằng ngôn ngữ dân tộc
(chữ Nôm) và bằng thể thơ dân tộc (song thất lục bát). <i>Chinh phụ ngâm </i>
<i>khúc</i> là tác phẩm mở đầu cho thể loại văn học này, xuất hiện vào khoảng
giữa thế kỷ XVIII (có được trích giảng một phần tác phẩm trong sách giáo
khoa ngữ văn THPT), và đạt đến đỉnh cao về mặt nghệ thuật ngôn từ là tác
phẩm <i>Cung oán ngâm khúc</i> của Nguyễn Gia Thiều (vào cuối thế kỷ
XVIII). Tiếp theo là sự xuất hiện của một loạt khúc ngâm vào nửa đầu thế
kỷ XIX.


<i><b>* Truyện Nơm: Truyện Nơm thuộc loại hình tự sự. Mỗi truyện có </b></i>
một cốt truyện bao gồm một hệ thống các tình tiết, sự kiện kể lại cuộc đời
nhân vật chính trong mối quan hệ với các nhân vật khác. Truyện Nôm được
viết bằng ngôn ngữ dân tộc (chữ Nôm) và thể thơ dân tộc (Thể thơ lục bát).
Nó ra đời vào cuối thế kỷ XVI và được sáng tác bằng thể thơ Đường gọi là
truyện Nôm Đường luật. Về sau khơng cịn tồn tại loại truyện Nôm này.
Đến thế kỷ XVIII truyện Nơm được định hình thành một thể loại văn học
và được chia ra thành hai kiểu thể loại là truyện Nơm bình dân và truyện
Nơm bác học.


</div>
<span class='text_page_counter'>(36)</span><div class='page_container' data-page=36>

<i>Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên </i>


31



Những bài thơ dùng để <i>ca</i> cũng được làm theo những thể thức nhất
định nhưng tự do phóng khống hơn thơ Đường luật, nên rất thích hợp với
việc thể hiện con người cá nhân. Đến thế kỷ XVIII thì thơ ca trù – hát nói
trở thành một thể loại dân tộc độc đáo và phát triển mãi về sau. Bài ca trù
tương đối hoàn chỉnh xuất hiện vào khoảng thế kỷ XVIII là bài <i>Chim trong </i>
<i>lồng</i> tương truyền là của Nguyễn Hữu Cầu. Đến thế kỷ XIX ca trù phát
triển đến đỉnh cao với những tên tuổi lớn: Cao Bá Quát, Nguyễn Công Trứ,
Chu Mạnh Trinh, Dương Lâm, Dương Khuê, Nguyễn Khuyến… Và <i>Bài ca </i>
<i>ngất ngưởng </i>được trích giảng ở sách giáo khoa <i>Ngữ văn</i> THPT là một
trong những bài ca trù đặc sắc của Nguyễn Công Trứ.


Hai loại hình văn học chức năng và văn học nghệ thuật cùng tồn tại
trong văn học trung đại phương Đơng là một quy luật có thật nhưng việc
phân định chúng qua các hiện tượng văn học là việc làm đòi hỏi sự thận
trọng và tinh tế. Bởi vì thực tế các tác phẩm thuộc loại hình văn học chức
năng và văn học nghệ thuật thuần tuý không nhiều. Ngược lại các tác phẩm
vừa có tính văn học chức năng vừa có tính văn học nghệ thuật là khá phổ
biến; đây là những tác phẩm văn học nằm trong giai đoạn giao thoa (tương
đối dài trong quá trình phát triển của văn học trung đại phương Đơng).


Theo lẽ đó việc phân chia các tác phẩm thuộc loại hình văn học
chức năng hay văn học nghệ thuật thuộc văn học trung đại Việt Nam trong
sách giáo khoa <i>Ngữ văn</i> THPT (mà chúng tôi sẽ tiến hành ở chương II) ở
một số trường hợp cũng chỉ mang tính chất tương đối.


<i><b>* Tiểu kết. </b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(37)</span><div class='page_container' data-page=37>

<i>Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên </i>


32



ngoài những nét riêng đó văn học trung đại Việt Nam vẫn nằm trong quỹ
đạo của văn học phương Đông nên nó vẫn mang một số những nét chung
của văn học trung đại phương Đơng. Đó là hiện tượng văn học mang tính
phức hợp bởi nó bao gồm cả loại văn học mang chức năng ngoài văn học
(mà ta gọi tắt là văn học chức năng); cả loại hình văn học nghệ thuật đích
thực. Mỗi loại hình văn học lại bao gồm một số thể văn và thể loại văn học.
Ví dụ: Văn học chức năng có chiếu, cáo, hịch, văn tế, kệ…; văn học nghệ
thuật có thơ ca, từ phú, truyện truyền kỳ, tiểu thuyết chương hồi, ngâm
khúc, truyện Nôm… Quy luật phát triển của hai loại hình văn học này,
thoạt đầu văn học chức năng chiếm vai trò chủ đạo, dần dần văn học nghệ
thuật phát triển và thay thế vai trị của nó. Trong q trình thay thế vị trí
của văn học chức năng, văn học nghệ thuật tạo ra giai đoạn giao thoa giữa
nó và văn học chức năng. Các tác phẩm được sáng tác trong giai đoạn giao
thoa này là các tác phẩm văn học lưỡng tính: chúng vừa có chức năng văn
học lại vừa có chức năng ngồi văn học. Người nghiên cứu hoặc giảng dạy
cần phải hiểu được những đặc điểm trên của văn học trung đại phương
Đơng nói chung và Việt Nam nói riêng, có vậy mới tiếp cận được giá trị
đích thực của mỗi hiện tượng văn học và công việc họ làm mới đạt hiệu
quả cao.


</div>
<span class='text_page_counter'>(38)</span><div class='page_container' data-page=38>

<i>Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên </i>


33


<b>Chương 2 </b>


<b>NGHIÊN CỨU VÀ HỆ THỐNG HOÁ </b>


<b>CÁC CHÚ GIẢI VĂN HỌC TRUNG ĐẠI VIỆT NAM </b>


<b>TRONG SÁCH GIÁO KHOA NGỮ VĂN THPT </b>


<b>2.1. Thống kê và phân loại các tác phẩm văn học trung đại Việt Nam </b>
<b>trong sách giáo khoa Ngữ văn THPT. </b>


<i><b>2.1.1. Thống kê các tác phẩm văn học trung đại Viêt Nam trong sách </b></i>
<i><b>giáo khoa Ngữ văn THPT </b></i>


<i><b>2.1.1.1. Lớp 10: 19 bài (trong đó chính khố 14 bài; đọc thêm 05 bài) </b></i>
Bài 1: <i>Tỏ lịng</i> (<i>Thuật hồi</i>) – Phạm Ngũ Lão


Bài 2: <i>Cảnh ngày hè</i> (<i>Bảo kính cảnh giới- 43</i>) – Nguyễn Trãi.
Bài 3: <i>Nhàn</i> – Nguyễn Bỉnh Khiêm


Bài 4: <i>Đọc Tiểu Thanh ký</i> <i>(Độc Tiểu Thanh </i>ký) – Nguyễn Du.
Bài 5: <i>Vận nước</i> (<i>Quốc tộ</i>) – Pháp Thuận (Đọc thêm)


Bài 6: <i>Có bệnh, bảo mọi người</i> (Cáo tật thị chúng) – Mãn Giác (đọc thêm)
Bài 7: <i>Phú sông Bạch Đằng</i> (<i>Bạch Đằng giang phú</i>) – Trương Hán Siêu.
Bài 8: <i>Đại cáo bình Ngơ</i> (<i>Bình Ngơ đại cáo</i>) – Nguyễn Trãi.


Bài 9: Tựa <i>" Trích diễm thi tập</i>" – Hồng Đức Lương.


Bài 10: <i>Hiền tài là nguyên khí của quốc gia</i> ( Trích <i>Bài ký đề danh tiến sĩ</i>
<i>khoa Nhâm Tuất, niên hiệu Đại Bảo thứ ba</i>) – Thân Nhân Trung (Đọc
thêm)


Bài 11: <i>Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn</i> (Trích <i>Đại Việt sử ký tồ</i>n
<i>thư</i>) – Ngơ Sỹ Liên.



</div>
<span class='text_page_counter'>(39)</span><div class='page_container' data-page=39>

<i>Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên </i>


34


Bài 13<i>: Chuyện chức phán sự đền Tản Viên</i> (<i>Tản Viên từ phán sự lục</i> –
Trích <i>Truyền kỳ mạn lục</i>) – Nguyễn Dữ.


Bài 14: <i>Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ</i> ( Trích <i>Chinh phụ ngâm</i>) -
Đặng Trần Cơn - Đồn Thị Điểm.


Bài 15: <i>Truyện Kiều</i> - Nguyễn Du


Bài 16: <i>Trao duyên</i> ( Trích <i>Truyện Kiều</i>) – Nguyễn Du.
Bài 17: <i>Nỗi thương mình</i> (Trích <i>Truyện Kiều</i>) – Nguyễn Du.
Bài 18: <i>Chí khí anh hùng</i> (Trích <i>Truyện Kiều</i>) – Nguyễn Du.
Bài 19: <i>Thề nguyền</i> (Trích <i>Truyện Kiều</i>) – Nguyễn Du (Đọc thêm)


<i><b>2.1.1.2. Lớp 11: 14 bài (trong đó học chính khố 10 bài; đọc thêm 04 bài) </b></i>
Bài 1: <i>Vào phủ chúa Trịnh</i> (Trích <i>Thượng kinh ký sự</i> ) – Lê Hữu Trác.
Bài 2: <i>Tự tình</i> (Bài II ) – Hồ Xuân Hương.


Bài 3: <i>Câu cá mùa thu </i>(<i>Thu điếu</i>) – Nguyễn Khuyến.
Bài 4: <i>Thương vợ</i> – Trần Tế Xương


Bài 5: <i>Khóc Dương Khuê</i> – Nguyễn Khuyến (Đọc thêm)
Bài 6: <i>Vịnh khoa thi Hương</i> – Trần Tế Xương ( Đọc thêm)
Bài 7: <i>Bài ca ngất ngưởng</i> – Nguyễn Công Trứ


Bài 8: <i>Bài ca ngắn đi trên bãi cát ( Sa hành đoản ca</i>) – Cao Bá Quát.
Bài 9: <i>Lẽ ghét thương </i>(trích <i>Truyện Lục Vân Tiên</i>) – Nguyễn Đình Chiểu)


Bài 10: <i>Chạy giặc</i> – Nguyễn Đình Chiểu (Đọc thêm).


Bài 11: <i>Bài ca phong cảnh Hương Sơn</i> (<i>Hương Sơn phong cảnh ca</i>) – Chu
Mạnh Trinh (Đọc thêm).


</div>
<span class='text_page_counter'>(40)</span><div class='page_container' data-page=40>

<i>Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên </i>


35


Bài 14: <i>Xin lập khoa luật</i> (trích <i>Tế cấp bát điều)</i> – Nguyễn Trường Tộ.
<b>2.1.2. Phân loại loại hình các tác phẩm văn học trung đại Việt Nam </b>
<b>trong sách giáo khoa Ngữ văn THPT và số lượng các chú giải, câu hỏi </b>
<b>hướng dẫn học bài trong từng tác phẩm được trích giảng. </b>


<i><b>2.1.2.1. Các tác phẩm thuộc loại hình văn học chức năng. </b></i>
<i><b>* Tác phẩm thuộc loại hình văn học chức năng hành chính</b>. </i>
Bài 1<i>. Quốc tộ</i> – Pháp Thuận


Tác phẩm có 20 âm tiết, trong đó có 3 chú giải và 4 câu hỏi hướng dẫn
học bài.


Bài 2: <i>Đại cáo bình Ngơ</i> - Nguyễn Trãi


Tác phẩm có 1304 âm tiết, trong đó có 44 chú giải và 6 câu hỏi
hướng dẫn học bài.


Bài 3: Tựa " <i>Trích diễm thi tập</i>" – Hồng Đức Lương.


Tác phẩm có 682 âm tiết, trong đó có 9 chú giải và 4 câu hỏi hướng
dẫn học bài.



Bài 4. <i>Hiền tài là nguyên khí của quốc gia</i> – Thân Nhân Trung


Tác phẩm có 429 âm tiết, trong đó có 14 chú giải và 4 câu hỏi hướng
dẫn học bài.


Bài 5: <i>Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn</i> (Trích <i>Đại Việt sử ký tồn</i>
<i>thư</i>) - Ngơ Sỹ Liên.


Tác phẩm có 1176 âm tiết, trong đó có 11 chú giải và 5 câu hỏi
hướng dẫn học bài.


</div>
<span class='text_page_counter'>(41)</span><div class='page_container' data-page=41>

<i>Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên </i>


36


Bài 7: <i>Chiếu cầu hiền</i> – Ngơ Thì Nhậm


Tác phẩm có 549 âm tiết, trong đó có 16 chú giải và 5 câu hỏi hướng
dẫn học bài.


Bài 8: <i>Xin lập khoa luật</i> – Nguyễn Trường Tộ.


Tác phẩm có 637 âm tiết, trong đó có 16 chú giải và 5 câu hỏi hướng
dẫn học bài.


<b>* Tác phẩm thuộc loại hình văn học chức năng lễ nghi. </b>
Bài 1: <i>Cáo tật thị chúng</i> – Mãn Giác.


Tác phẩm có 34 âm tiết và 4 câu hỏi hướng dẫn học bài.


Bài 2: <i>Văn tế nghĩa sỹ Cần Giuộc</i> – Nguyễn Đình Chiểu


Tác phẩm có 705 âm tiết, trong đó có 58 chú giải và 4 câu hỏi hướng
dẫn học bài.


<i><b>2.1.2.2. Các tác phẩm thuộc loại hình văn học nghệ thuật. </b></i>
<i><b>* Văn xi. </b></i>


Bài 1. <i>Chuyện chức phán sự đền Tản Viên</i> (Trích <i>Truyền kỳ mạn lục</i>) –
Nguyễn Dữ.


Tác phẩm có 1859 âm tiết, trong đó có 20 chú giải và 4 câu hỏi
hướng dẫn học bài.


Bài 2: <i>Vào phủ chúa Trịnh</i> ( Trích <i>Thượng kinh ký sự</i>) – Lê Hữu Trác
Tác phẩm có 1980 âm tiết, trong đó có 21 chú giải và 4 câu hỏi
hướng dẫn học bài.


<i><b>* Thơ. </b></i>


Bài 1: <i>Tỏ lòng</i> – Phạm Ngũ Lão.


</div>
<span class='text_page_counter'>(42)</span><div class='page_container' data-page=42>

<i>Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên </i>


37


Bài 2. <i>Cảnh ngày hè</i> – Nguyễn Trãi.


Tác phẩm có 54 âm tiết, trong đó có 8 chú giải và 5 câu hỏi hướng dẫn
học bài.



Bài 3. <i>Nhàn</i> – Nguyễn Bỉnh Khiêm.


Tác phẩm có 56 âm tiết, trong đó có 4 chú giải và 3 câu hỏi hướng dẫn
học bài.


Bài 4: <i>Đọc Tiểu Thanh ký</i> – Nguyễn Du.


Tác phẩm có 56 âm tiết, trong đó có 4 chú giải và 4 câu hỏi hướng dẫn
học bài.


Bài 5: <i>Tình cảnh le loi của người chinh phụ</i> (Trích <i>Chinh phụ ngâm</i>) -
Đặng Trần Côn - Đồn Thị Điểm.


Đoạn trích học gồm 168 âm tiết, trong đó có 12 chú giải và 5 câu hỏi
hướng dẫn học bài.


Bài 6: <i>Trao duyên</i> (trích <i>Truyện Kiều</i>) – Nguyễn Du.


Đoạn trích có 238 âm tiết, trong đó có 13 chú giải và 4 câu hỏi
hướng dẫn học bài.


Bài 7: <i>Nỗi thương mình</i> (trích <i>Truyện Kiều</i>) – Nguyễn Du.


Đoạn trích gồm 140 âm tiết, trong đó có 6 chú giải và 5 câu hỏi
hướng dẫn học bài.


Bài 8: <i>Chí khí anh hùng</i> (trích <i>Truyện Kiều</i>) – Nguyễn Du.


Đoạn trích gồm 126 âm tiết, trong đó có 12 chú giải và 3 câu hỏi


hướng dẫn học bài.


Bài 9: <i>Thề nguyền</i> (trích <i>Truyện Kiều</i>) – Nguyễn Du.


</div>
<span class='text_page_counter'>(43)</span><div class='page_container' data-page=43>

<i>Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên </i>


38


Bài 10<i>: Tự tình</i> (Bài II) - Hồ Xuân Hương


Tác phẩm có 56 âm tiết, trong đó có 3 chú giải và 2 câu hỏi hướng dẫn
học bài.


Bài 11: <i>Câu cá mùa thu</i> – Nguyễn Khuyến


Bài thơ có 56 âm tiết và 5 câu hỏi hướng dẫn học bài.
Bài 12: <i>Thương vợ</i> – Trần Tế Xương.


Tác phẩm có 56 âm tiết, trong đó có 5 chú giải và 4 câu hỏi hướng dẫn
học bài.


Bài 13<i>: Khóc Dương Khuê</i> - Nguyễn Khuyến


Bài thơ có 266 âm tiết, trong đó có 9 chú giải và 3 câu hỏi hướng dẫn
học bài.


Bài 14: <i>Vịnh khoa thi Hương</i> – Trần Tế Xương.


Bài thơ có 56 âm tiết, có 6 chú giải và 4 câu hỏi hướng dẫn học bài.
Bài 15<i>: Bài ca ngất ngưởng</i> – Nguyễn Cơng Chứ.



Tác phẩm có 141 âm tiết, trong đó có 14 chú giải và 4 câu hỏi hướng
dẫn học bài.


Bài 16: <i>Bài ca ngắn đi trên bãi cát</i> – Cao Bá Quát


Tác phẩm có 101âm tiết, trong đó có 4 chú giải và 4 câu hỏi hướng
dẫn học bài.


Bài 17: <i>Lẽ ghét thương</i> (Trích <i>Truyện Lục Vân Tiên</i>) – Nguyễn Đình Chiểu
Đoạn trích có 224 âm tiết, trong đó có 19 chú giải và 3 câu hỏi
hướng dẫn học bài.


Bài 18<i>. Chạy giặc</i> – Nguyễn Đình Chiểu


</div>
<span class='text_page_counter'>(44)</span><div class='page_container' data-page=44>

<i>Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên </i>


39


Bài 19. <i>Bài ca phong cảnh Hương Sơn</i> – Chu Mạnh Trinh


Tác phẩm có 137 âm tiết, trong đó có 13 chú giải và 3 câu hỏi hướng
dẫn học bài.


<i><b>* Vận văn (phú) </b></i>


Bài: <i>Phú sông Bạch Đằng</i> – Trương Hán Siêu


Tác phẩm có 473 âm tiết, trong đó có 33 chú giải và 6 câu hỏi hướng
dẫn học bài.



<b>2.2. Nghiên cứu các phần tiểu dẫn, chú giải và câu hỏi hướng dẫn học </b>
<b>bài phần văn học trung đại Việt Nam trong sách giáo khoa Ngữ văn </b>
<b>THPT. </b>


<i><b>2.2.1. Về phần tiểu dẫn ở đầu mỗi tác phẩm được trích giảng. </b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(45)</span><div class='page_container' data-page=45>

<i>Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên </i>


40


văn học trung đại thực chất là nghiên cứu đặc trưng thể loại và phải xuất
phát từ đặc trưng thể loại. Nắm được đặc trưng thể loại của tác phẩm, ta có
thể hiểu được ý đồ nghệ thuật của nhà văn và bút pháp của anh ta, tạo điều
kiện thuận lợi cho việc tiếp cận chân giá trị của tác phẩm ở cả hai măt: nội
dung và hình thức. Đáng tiếc vấn đề này trong các phần tiểu dẫn về văn
học trung đại Việt Nam chưa được chú ý đúng mức. Điều đó được thể hiện
qua các dạng thức sau:


<b> Một là: Tiểu dẫn khơng hề giải thích tiêu đề thể loại của tác phẩm, </b>
tiêu biểu là các trường hợp <i>Quốc tộ </i>và <i>Đoạn trường tân thanh</i> (tức <i>Truyện </i>
<i>Kiều</i>).


- Về tác phẩm <i>Quốc tộ:</i> trong phần tiểu dẫn có viết “ Tác phẩm của
ơng- Đỗ Pháp Thuận- hiện còn một bài thơ trả lời Lê Đại Hành hỏi về việc
nước”[26, 138]. Đã khẳng định như vậy thì phải khơi phục đầy đủ nhan đề
bài thơ như trong sách <i>Thơ văn Lý - Trần</i> là “ <i>Đáp quốc vương quốc tộ chi </i>
<i>vấn</i>”[55, 204]. Nếu bài thơ có nhan đề như đã nêu thì nó thuộc thể loại thư
(thư trả lời) viết dưới dạng một bài thơ ngũ ngôn tứ tuyệt. Vậy nó thuộc
loại hình văn học chức năng. Còn nếu để nhan đề <i>Quốc tộ</i> sẽ dẫn đến cách


hiểu: đó là bài thơ thuộc loại hình văn học nghệ thuật. Khơng xác định rõ
loại hình văn học của tác phẩm sẽ dẫn đến cách hướng dẫn khai thác tác
phẩm không đúng hướng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(46)</span><div class='page_container' data-page=46>

<i>Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên </i>


41


</div>
<span class='text_page_counter'>(47)</span><div class='page_container' data-page=47>

<i>Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên </i>


42


được viết ra bằng “máu chảy ở đầu ngọn bút, nước mắt thấm trên tờ giấy”.
Do đó nhan đề <i>Đoạn trường tân thanh</i> khơng chỉ là tấc lịng của Nguyễn
Du mà còn là lời khẳng định bản quyền tác phẩm của ông, của dân tộc Việt
Nam”[21, 274]. Bỏ qua nó khơng giải thích đúng là một điều đáng tiếc.


<b> Hai là: Giải thích nhan đề chung chung ở cấp độ thể văn mà chưa </b>
giải thích nó ở cấp độ đặc trưng thể loại. Đó là các trường hợp tiêu biểu
như <i>Bình Ngô đại cáo </i>và<i> Truyền kỳ mạn lục: </i>


- Về <i>Bình Ngơ đại cáo</i>: Đây là tác phẩm thuộc loại hình văn học
chức năng. Tuy nhiên khi vâng mệnh Lê Lợi viết bài cáo này, Nguyễn Trãi
đã thể hiện rất sâu sắc cảm xúc của một người nghệ sĩ, tức là đã để cả “tâm
thuật” (lời Phan Huy Chú) ngụ vào trong tác phẩm. Vì thế yếu tố văn học
nghệ thuật của tác phẩm này cũng hết sức nổi bật. Sách giáo khoa <i>Ngữ văn</i>
<i>10</i> (tập 2), Nxb GD, H.2006, trang 16 viết: “Bài Đại cáo này mang đặc
trưng cơ bản của thể cáo nói chung, đồng thời có những sáng tạo riêng của
tác giả”. Tuy nhiên sự “sáng tạo riêng” trên cái nền chung mà trước hết thể
hiện ngay ở nhan đề mang đặc trưng thể loại của tác phẩm “Bình Ngơ đại


cáo” thì đã khơng được giải thích đầy đủ. Sách chỉ tập trung nói về thể cáo
nhưng vấn đề cần làm sáng tỏ ở đây là nghĩa của “đại cáo” và vì sao
Nguyễn Trãi đã dùng thể loại cáo đặc trưng này?


</div>
<span class='text_page_counter'>(48)</span><div class='page_container' data-page=48>

<i>Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên </i>


43


</div>
<span class='text_page_counter'>(49)</span><div class='page_container' data-page=49>

<i>Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên </i>


44


</div>
<span class='text_page_counter'>(50)</span><div class='page_container' data-page=50>

<i>Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên </i>


45


nói lên rằng, tác phẩm khơng phải loại ghi chép lại những cái có sẵn như
<i>Việt điện u linh</i> hay <i>Lĩnh Nam chích quái </i>mà là một sáng tác văn học. Giáo
sư Lê Trí Viễn ví “20 đoản thiên tiểu thuyết trong <i>Truyền kỳ mạn lục</i> có giá
trị như 20 truyện ngắn hiện đại” là một sự khẳng định giá trị sáng tạo văn
học đó của Nguyễn Dữ.


Thể loại là một phạm trù đặc biệt quan trọng của văn học trung đại
Việt Nam. Nhà văn chọn một thể loại nào đó để sáng tác là xuất phát từ ý
đồ nghệ thuật của anh ta và cái gọi là “cá tính sáng tạo” của người nghệ sĩ
trung đại nhiều khi cũng được thể hiện ngay trong sự lựa chọn đó. Đối với
một tác phẩm văn học trung đại, đặc trưng thể loại của nó đa phần được
nêu ngay ở tiêu đề tác phẩm. Vì vậy nghiên cứu một tác phẩm văn học
trung đại, trước hết là phải quan tâm ngay đến tên gọi của nó. Bỏ qua hoặc
không chú ý đúng mức điều này sẽ dẫn đến sự nhận thức tác phẩm, hoặc là


chưa sâu, hoặc là chưa chính xác giá trị đích thực của nó.


<i><b>2.2.2. Về những chú thích phần văn học trung đại Việt Nam trong sách </b></i>
<i><b>giáo khoa Ngữ văn THPT. </b></i>


<i><b>2.2.2.1. Về chú thích các điển tích, điển cố. </b></i>


Qua khảo sát các tác phẩm, đoạn trích thuộc văn học trung đại Việt
Nam có trong chương trình, chúng tơi thấy hầu hết các điển tích, điển cố có
dùng trong các tác phẩm (đoạn trích) đều đã được các soạn giả quan tâm
đúng mức. Nội dung các điển tích, điển cố đó đều được <i>dẫn</i> và <i>chú</i> tương
đối rõ ràng, đồng thời cũng nêu lên cách vận dụng chúng của tác giả. Tuy
nhiên ở một số trường hợp, chúng tôi thấy vẫn cần phải bổ sung và trao đổi
thêm:


</div>
<span class='text_page_counter'>(51)</span><div class='page_container' data-page=51>

<i>Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên </i>


46


Sách <i>Ngữ văn 10</i> (tập 2) trang 18, chú thích chữ “về đông” như sau:
“Chữ lấy trong <i>Hán thư</i>, từ câu nói của Lưu Bang (Hán Cao Tổ). Khi bị
Hạng Vũ đẩy vào đất Tây Thục, Lưu Bang bực tức nói “Dư diệc dục đông
nhĩ, an năng uất uất cửu cư thử hồ” (ta cũng muốn trở về đông sao chịu
chết ải ở chốn này).


</div>
<span class='text_page_counter'>(52)</span><div class='page_container' data-page=52>

<i>Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên </i>


47


<b>"Un</b> "ngo."o w"w "gn"wnùgn"onng"ã "."w"wợng.


Wùgn"goùo"onog"<i>Ng</i>

<i>"wn"33</i>"*ww"3+"wwgng"337."<i>gn</i>"gn "


<i>Uw</i>

<i>ng"nwnn</i>"nợ;"]g"g"ng o"nnợ"ngnợo"onng"g"ợn"
" g"wùgn."wno"fw"oo"o"nợo"ợn"n g."Do đó <i>trướng huỳnh</i>
được dùng để chỉ phòng học của nho sinh đồng thời gợi ý hiếu học”.


Lẽ ra phải chú thích nghĩa của <i>trướng huỳnh</i> trước: “màn có ánh
sáng đom đóm” rồi mới dẫn chữ này bắt nguồn từ một <i>điển</i>. <i>Tấn thư</i> chép:
Xa Dận người Nam Bình tự Vũ Tử thuở nhỏ rất chăm học; nhà nghèo
khơng có dầu thắp đèn phải lấy đom đóm cho vào vỏ trứng lấy ánh sáng để
đọc sách. Về sau <i>trướng huỳnh</i> được dùng với nghĩa là phòng học. Khơng
nên chú thích vắn tắt: “Xưa có người nhà nghèo…”


Sách <i>Ngữ văn11</i> (tập1) trang 61, chú thích chữ “phong hạc” là “Lấy
ở câu phong thanh hạc lê thảo mộc giai binh”, nghĩa gốc: chỉ sự hồi hộp lo
lắng, nghe tiếng gió thổi, chim hạc kêu, thấy cây cỏ cũng tưởng là quân
giặc đuổi đánh. Câu này xuất xứ từ một <i>điển</i>. <i>Tấn thư </i>chép: “Một trăm vạn
quân Bồ Kiên nước Tần bị quân Tấn do Tạ Huyền chỉ huy đánh cho tan tác
ở Hợp Phì, ban đêm chạy hồi, sợ hãi đến nỗi nghe tiếng gió thổi, chim hạc
kêu, trông thấy cây cỏ trên Công Sơn cũng tưởng là quân Tấn đuổi theo”.
Rõ ràng đây là một <i>điển</i> chứ có phải là một từ hay cụm từ mà nói đến nghĩa
gốc.


</div>
<span class='text_page_counter'>(53)</span><div class='page_container' data-page=53>

<i>Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên </i>


48


lấy cụm từ “da ngựa bọc thây” để chỉ cái chết ở chiến trường cũng khơng
thể khơng dẫn gốc tích, xuất xứ của nó.



Chú thích đầy đủ nội dung, chính xác các <i>điển</i> được sử dụng trong
các tác phẩm văn học trung đại chẳng những cung cấp cho giáo viên và học
sinh những tri thức văn hoá, văn học cổ góp phần làm giàu cho vốn tri thức
của họ mà hơn nữa còn giúp cho họ nhận thức được cách vận dụng sáng
tạo linh hoạt của nhà văn khi sử dụng những điển đó. Sách giáo khoa –
một loại sách trường quy – cần phải chú ý đặc biệt đến điều này, không nên
để tồn tại bất cứ một sơ suất nhỏ nào.


<i><b>2.2.2.2.</b></i> <i><b>Chú thích các từ Hán Việt </b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(54)</span><div class='page_container' data-page=54>

<i>Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên </i>


49


chú giải về lớp từ này đều rõ ràng chính xác. Tuy nhiên ở một, hai trường
hợp ít ỏi, luận văn xin được trao đổi thêm:


Thứ nhất, chữ “tộ” trong bài <i>Quốc tộ</i>. Bài thơ này vốn khơng có
nhan đề. Về sau những người làm sách căn cứ vào hoàn cảnh ra đời, nội
dung và chữ nghĩa của bài thơ mà đặt tên cho nó. Sách <i>Thơ văn L</i>ý<i> – Trần</i>
(tập 1),Nxb KHXH, H.1977, trang 202 thì đề là “<i>Đáp quốc vương quốc tộ </i>
<i>chi vấn”</i> (Trả lời nhà vua hỏi về ngơi nước). Cịn sách <i>Ngữ văn 10</i> (tập 1),
trang 138 thì lại đề là Quốc tộ (Vận nước). Chữ <i>tộ</i> trong bài thơ này có bốn
nghĩa là: phúc; tuổi tác; vận may của quốc gia; ngôi vị (vua hoặc hồng
đế). Theo chúng tơi ở bài thơ này, chữ <i>tộ</i> phải lấy nghĩa là ngôi vua mới
hợp lý (sách <i>Thơ văn Lý – Trần</i> dịch là ngôi nước). Vì đây là thư trả lời vua
Lê Đại Hành (dưới dạng thơ) của cố vấn tối cao Đỗ Pháp Thuận. Trả lời về
vấn đề gì thì nội dung bài thơ đã cho ta rõ. Ấy là ngôi vua là như thế nào và
người ngôi trên ngôi báu ấy cần phải cai trị nước ra sao.



</div>
<span class='text_page_counter'>(55)</span><div class='page_container' data-page=55>

<i>Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên </i>


50


nước ta. Tình thế quả là vô cùng phức tạp, đòi hỏi người ngồi trên ngai
vàng phải kiên định và có những biện pháp đối phó sáng suốt. Nếu hiểu <i>tộ</i>
là <i>vận nước</i> và dịch là “Vận nước như dây mây leo quấn quýt” thì câu thơ
mang nghĩa gì? Khi nói đến vận nước, người ta thường nghĩ đến chiều
hướng thịnh suy, hưng vong của một triều đại, một quốc gia. Ví <i>vận nước</i>
với dây mây leo quấn quýt thì thật là khó hiểu. Nếu dùng hình ảnh thảo
mộc để nói lên “sự phát triển thịnh vượng” thì phải dùng hình ảnh một thân
cây tươi tốt xum x chứ ít thấy dùng hình ảnh “dây mây leo quấn quýt”.
Vả lại chữ <i>tộ</i> đứng một mình đã mang nghĩa là vận may của quốc gia; ghép
nó với chữ <i>quốc</i> thì dịch như thế nào cho thoát, chẳng lẽ lại dịch là vận
may của nước nước?


Câu 2: <i>Nam thiên lí thái bình</i> – ở góc trời Nam (mở ra) cảnh thái
bình.


Đây là câu thơ hàm ý ca ngợi Lê Đại Hành. Mặc dù hồn cảnh khó
khăn phức tạp như vậy (đã nói ở trên) nhưng bằng tài năng kiệt xuất của
mình nhà vua vẫn vượt qua được tất cả (khuất phục được những người
chống đối ở trong nước, đập tan cuộc xâm lăng của nhà Tống) để đem lại
nền hồ bình cho đất nước.


</div>
<span class='text_page_counter'>(56)</span><div class='page_container' data-page=56>

<i>Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên </i>


51


(không làm nghĩa là không can thiệp) mà “vô bất vi” (khơng gì khơng


làm). Thuận theo mà được tất cả. Chung qui là mọi vật đều phải thuận theo
tự nhiên có nghĩa là “tự nhiên nhi nhiên”, tức là khơng can thiệp mặc nó
vận hành tự nhiên. Chủ trương “vô vi nhi vô bất vi” của ơng bắt nguồn từ
tư tưởng đó. Vận dụng quan điểm triết học “vơ vi” vào chính trị, Lão Tử
cũng chủ trương một nền chính trị “vơ vi”, nghĩa là không can thiệp vào
đời sống của nhân dân, áp đặt cho họ những luật lệ phiền hà để nhân dân
sống tự nhiên thoải mái. Đó là “vơ vi nhi trị”. Trong chương Thuần phong
(sách <i>Đạo đức kinh</i>) Lão Tử khẳng định: “Ta vô vi mà dân tự cải hoá, ta ưa
thanh tịnh mà dân tự thuần chính, ta khơng thi hành giáo lệnh mà dân tự
giàu có, ta vơ dục mà dân tự hố ra chất phác”[9, 125]. Về sau khái niệm
này được các nhà Nho sử dụng rộng rãi nhưng không hồn tồn mang nội
hàm cũ. Bởi vì tư tưởng chính trị của Nho giáo về bản chất là chủ trương
“hữu vi”. Vì thế Trang Tử – người kế tục tư tưởng Lão Tử và có quan điểm
chính trị giống Lão Tử đã thẳng thừng cơng kích tư tưởng “hữu vi” của
Nho giáo (xem các thiên Tiêu dao du, Khứ khíp, Đạo Chích trong Nam hoa
kinh)[56, 29-109-303]. Theo chúng tôi Đỗ Pháp Thuận chịu ảnh hưởng của
tư tưởng Đạo gia là chính chứ khơng chịu ảnh hưởng tư tưởng của Nho gia.
Bởi lẽ một mặt, Pháp Thuận là nhà sư mà quan điểm sống của Phật giáo và
Đạo giáo thì có điểm tương đồng là chủ trương diệt trừ “tư dục”; mặt khác
thời Tiền Lê, tư tưởng Nho giáo chưa có ảnh hưởng gì lớn trong đời sống
tinh thần và xã hội. Đây là thời của Phật giáo. Bởi thế cần phải xem lại lời
khẳng định “trong bài thơ này, vơ vi cịn được hiểu theo nghĩa của Nho
gia”[26, 138]


</div>
<span class='text_page_counter'>(57)</span><div class='page_container' data-page=57>

<i>Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên </i>


52


Bản dịch của sách <i>Ngữ văn 10</i> (tập 1) đang dùng ghi là của Đoàn
Thắng (trong sách <i>Thơ văn Lý – Trần</i> tập 1) nhưng thực tế thì bản dịch của


Đồn Thắng ghi là “ngôi nước” chứ không phải là “vận nước”. Soạn giả sẽ
giải thích ra sao về sự “cải chính” đó?


Tựu trung có thể tóm lược đại ý của bài thơ <i>Trả lời nhà vua hỏi về</i>
<i>ngôi nước</i> của Đỗ Pháp Thuận như sau: ngôi vua là vô cùng quan trọng
nhưng trách nhiệm cũng hết sức nặng nề phức tạp. Mặc dù vậy nhà vua đã
mở ra vận hội thái bình cho đất nước. Nếu nhà vua dùng đường lối chính
trị vơ vi để trị nước thì sẽ chẳng nơi nào xảy ra nạn binh đao nữa. Có thể
xem đây là bài thơ mở đầu thể hiện truyền thống trị nước mang tính nhân
văn của người Việt. Ấy là truyền thống nương dân, thân dân và ái dân: Đỗ
Pháp Thuận là “vô vi để dân tự lạc”; Trần Quốc Tuấn là “dưỡng sức dân để
làm kế sâu rễ bền gốc”; Lê Lợi, Nguyễn Trãi là “lấy dân làm gốc” và Hồ
Chí Minh là “làm sao cho nước ta được độc lập, dân ta được tự do, đồng
bào ta ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”, tuy họ chịu ảnh
hưởng của những trường phái tư tưởng khác nhau.


</div>
<span class='text_page_counter'>(58)</span><div class='page_container' data-page=58>

<i>Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên </i>


53


xưng người già, người trên. “Tái thượng” là ông già nơi biên tái. Chữ này
bắt nguồn từ <i>điển</i> “Tái ông thất mã”: Một ông già nơi biên tái mất ngựa.
Hàng xóm đến chia buồn, ơng nói: “Biết đâu mất ngựa khơng phải là điều
may?”. Ít lâu sau quả nhiên ngựa về, lại dẫn thêm một con ngựa khác tốt
hơn cùng về. Hàng xóm đến chia vui. Ơng nói: “Biết đâu được ngựa lại
không phải là điều rủi?”. Quả nhiên sau đó con trai ơng già cưỡi con ngựa
mới bị ngã què chân. Hàng xóm lại đến chia buồn. Ơng già nói: “Q biết
đâu khơng phải là điều may?” Quả nhiên ít lâu sau ngoại tộc đến xâm lăng
mọi người phải ra trận, riêng con ông già què chân nên được miễn. Người
ta thường dùng điển “tái ông thất mã” để minh hoạ cho quy luật tiêu -


trưởng của Dịch học: Âm-dương sinh thành nên mọi vật và nằm trong mọi
vật. Chúng tương tác với nhau theo quy luật: cái này “tiêu” (nhỏ đi) thì cái
kia “trưởng” (lớn lên) và ngược lại. Âm cực sinh dương; dương cực sinh
âm; trong dương có âm và trong âm có dương. Đó là quy luật vĩnh hằng, vì
thế ở đời: thịnh suy, hưng vong, bĩ thái, phúc họa, may rủi, được
mất…luôn luôn đổi chỗ cho nhau: hết bĩ thì đến thái; hết phúc thì đến hoạ;
hết may thì đến rủi…mà bĩ nằm ngay trong thái; phúc nằm ngay trong hoạ;
may thì nằm ngay trong rủi…và ngược lại. Bởi thế đừng thấy được mà
mừng, mất mà lo, thắng mà kiêu, bại mà nản…Vậy là từ “tái thượng” chứ
không phải “thái thượng” được rút ra từ một <i>điển</i> nên phải chú thích <i>điển</i>
cho thật đầy đủ. Sách <i>Văn học</i> <i>11</i> (tập 1), Nxb GD, H.2000 (sách chỉnh lí
hợp nhất) cũng chú thích như chúng tơi đã diễn giải. Cịn sách <i>Ngữ văn</i> <i>11</i>
(tập 1) hiện thời không biết căn cứ vào đâu mà chú thích như thế.


</div>
<span class='text_page_counter'>(59)</span><div class='page_container' data-page=59>

<i>Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên </i>


54


dù bất cứ một bộ óc uyên thâm nào cũng khơng dám nói là dễ dàng, thuận
lợi.


<i><b>2.2.2.3. Chú thích các từ cổ, từ khó và những ý thơ khó hiểu. </b></i>


Một nhận xét chung là hầu hết những từ cổ, từ khó và những ý thơ
khó hiểu đều được các soạn giả sách <i>Ngữ văn 10, 11</i> chú thích đầy đủ về số
lượng, rõ ràng và chính xác về ý nghĩa. Song người viết luận văn vẫn xin
được trao đổi thêm một vài trường hợp, đặc biệt là những ý thơ khó.


Trường hợp thứ nhất, đó là câu: “Chi phấn hữu phần liên tử hậu”
trong bài <i>Độc Tiểu Thanh ký</i> của Nguyễn Du (sách <i>Ngữ văn 10</i> – tập 1,


Nxb GD, H.2006, trang 131) dịch nghĩa là: Son phấn có thần chắc phải xót
xa vì những việc sau khi chết.


Dịch thơ: Son phấn có thần chơn vẫn hận.


</div>
<span class='text_page_counter'>(60)</span><div class='page_container' data-page=60>

<i>Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên </i>


55


vận mệnh gì mà cũng mắc oan. Thật là nỗi oan chồng chất nỗi oan. Đúng là
kỳ oan vậy. Vì kỳ oan nên hận mà chết, chết rồi người đời vẫn không để
cho yên! Nỗi hận ấy, mối hờn oan ấy không chỉ xảy ra với riêng Tiểu
Thanh mà xảy ra đối với mọi kiếp người trong thế gian này và đi suốt thời
gian kim - cổ. Nguyễn Du sẽ còn nhắc lại điệp khúc này trong <i>Phản chiêu </i>
<i>hồn</i> và trong cả kiệt tác<i> Đoạn trường tân thanh </i>(qua hình tượng Từ Hải).
Chú như sách (đã nêu trên) thì khơng thể làm nổi bật được cái mối “hận cổ
kim” và mối “kỳ oan” kia mà nhà thơ nhấn mạnh ở những câu thơ tiếp
theo; Để rồi nhà thơ nâng lên thành quy luật muôn đời của con người sống
nơi “địa ngục ở miền nhân gian” này.


</div>
<span class='text_page_counter'>(61)</span><div class='page_container' data-page=61>

<i>Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên </i>


56


nghe một thành ngữ Hán (qua một ông thầy lang người Trung Quốc biết
nhiều chữ nghĩa và giỏi văn chương), chúng tơi mạnh dạn trình bày những
suy nghĩ riêng của mình về vấn đề này. Trước hết là nói về “đông phong”.
Đúng như các soạn giả đã chú, đông phong là gió thổi từ miền dun hải
đơng nam Trung Hoa vào lục địa về mùa xuân. Đó là ngọn gió lành làm
hồi sinh mn vật. Nhà thơ Vương An Thạch đời Tống có câu thơ rất hay


ca ngợi ngọn gió này: “Đơng phong hựu lục giang nam ngạn” – gió đơng
giúp làm xanh cả bờ giang nam. Tuy nhiên ngọn gió lành đó có thổi qua tai
con ngựa thì nó cũng chẳng cảm nhận được gì, bởi vậy mới có câu thành
ngữ “Đông phong suy mã nhĩ” mà nghĩa của nó cũng tương tự câu thành
ngữ “Đàn gảy tai trâu” của ta. Hai câu thành ngữ này đều bao hàm ý cái
chê bai những kẻ “thiểu năng trí tuệ”, “đui điếc tâm hồn” khơng cảm nhận
được cái hay, cái đẹp trên đời; nhưng mặt khác cũng nói lên thái độ bất cần
đời của con người khi bỏ ngoài tai tất cả những lời thị phi, khen chê. Biết
đâu Nguyễn Công Trứ chẳng lấy ý từ câu thành ngữ này. Nếu đúng thế thì
hai câu: “Được mất dương dương người tái thượng/ Khen chê phơi phới
ngọn đông phong” phải được hiểu là chuyện được mất (ta) cứ nhởn nhơn
như ông già biên ải mất ngựa (chẳng bận lòng về chuyện mất ngựa hay
được ngựa, rủi hay may); chuyện khen chê (ta) cứ hồn nhiên vơ tư như
ngọn gió đông thổi qua tai con ngựa (chẳng cần biết nó “cảm xúc” hay
“không cảm xúc”, “khen” hay “chê”).


Nếu đúng như thế thì đây lại là một bằng chứng nữa thể hiện cái
“ngông”, cái “ngất ngưởng” của Nguyễn Cơng Trứ. Đó là cái "ngông"
trong việc làm văn chương bởi hai câu ca đối nhau chan chát, lại lấy từ
những <i>điển</i> đều có dính dáng đến chuyện ngựa.


</div>
<span class='text_page_counter'>(62)</span><div class='page_container' data-page=62>

<i>Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên </i>


57


Một chữ “đàn” hay “đạn” trong <i>Truyện Kiều</i> cũng khiến người ta tranh
luận với nhau hàng bao nhiêu năm. Do đó ý kiến của chúng tôi về hai
trường hợp trên chỉ nên xem là biểu hiện của tấm lịng nhiệt tình đối với
văn chương, với sự nghiệp dạy văn, chứ không nên xem là con đường tiếp
cận chân lý.



<i><b>2.2.3. Về các câu hỏi HDHB và hướng dẫn đọc thêm. </b></i>


Khảo sát 130 câu hỏi HDHB và hướng dẫn đọc thêm (trong đó:
chính khóa: 98 câu hỏi; đọc thêm: 32 câu hỏi), chúng tơi có một nhận xét
chung là: các soạn giả đã bám rất chắc vào đặc trưng nội dung, hình thức
nghệ thuật của tác phẩm (thể hiện qua hình tượng, hình ảnh, kết cấu, ngơn
từ…) mà chế tác những câu hỏi thích hợp mang tính gợi mở để hướng dẫn
học sinh tự chủ tiếp cận tác phẩm. Qua hệ thống các câu hỏi này, chúng tôi
thấy được một tinh thần trách nhiệm cao và trình độ chuyên môn vững
vàng của tập thể soạn giả. Những ý kiến nhỏ mà chúng tôi đề xuất sau đây
nên xem như là những thắc mắc mong được giải đáp thêm. Đó là vấn đề về
những câu hỏi hướng dẫn học bài hoặc hướng dẫn đọc thêm trong những
tác phẩm thuộc loại hình văn học chức năng thuần túy như <i>Quốc tộ</i> của Đỗ
Pháp Thuận; <i>Cáo tật thị chúng</i> của Mãn Giác. Đọc những tác phẩm loại
này, ta thường thấy chúng thiên về lí trí, trực giác hơn là những xúc cảm
nội tâm. Vì thế có nên hướng dẫn cho học sinh khai thác tâm trạng nhân
vật như khai thác tâm trạng nhân vật trữ tình trong bài thơ trữ tình hay
khơng? Chúng tơi xin nêu hai ví dụ:


Một là bài <i>Quốc tộ </i>của Đỗ Pháp Thuận thuộc loại hình văn học chức
năng hành chính<i>.</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(63)</span><div class='page_container' data-page=63>

<i>Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên </i>


58


tâm trạng tác giả” [26, 139] và Sách giáo viên thì giải đáp “Hai câu thơ đầu
mượn hình tượng thiên nhiên để nói về vận nước. Nghệ thuật so sánh vận
nước với dây mây leo quấn quýt, vừa nói lên sự lâu dài, sự phát triển thịnh


vượng.


Câu thơ khẳng định vận may của đất nước (chữ Tộ trong Hán tự có nghĩa
là vận may) đồng thời nói lên niềm tin của tác giả vào vận nước. Hai câu
thơ phản ánh một tâm trạng phơi phới niềm vui, niềm tự hào lạc quan<i>.</i>”[30,
178]


Về nội hàm nghĩa của hai câu thơ này và của toàn bài thơ, chúng tơi
đã nói ở mục trên. Ở đây xin nhắc lại ý chính. Đây là thư trả lời viết dưới
dạng thơ. Hai câu đầu chỉ xoay quanh một ý chính là định nghĩa về ngôi
vua (quan trọng như thế nào, trách nhiệm nặng nề và khó khăn ra sao) sau
đó là lời ca ngợi, động viên nhà vua để nhà vua có thêm nghị lực, sức mạnh
thực hiện tốt chức trách của mình. Chẳng có từ ngữ nào phản ánh “một tâm
trạng phơi phới niềm vui, niềm tự hào lạc quan” kiểu như những từ ngữ mà
sau này Tố Hữu dùng để ca ngợi đất nước trong bài <i>Vui bất tuyệt</i>. Không
chỉ hai câu đầu mà toàn bộ bài thơ đều thể hiện những suy nghĩ đầy lí tính
của cố vấn Đỗ Pháp Thuận. Tất cả đều nhằm vào một mục đích chính trị là
giúp nhà vua (Lê Đại Hành) trị quốc tốt nhất để đất nước mãi mãi được hịa
bình ổn định. Tiếng nói của cảm xúc nội tâm ở bài này rất mờ nhạt bởi nó
khơng phải là một bài thơ trữ tình thuộc loại hình văn học nghệ thuật.
Hướng dẫn khai thác nội tâm nhân vật ở những bài thơ loại này cần phải
hết sức thận trọng.


Hai là bài <i>Cáo tật thị chúng</i>.


</div>
<span class='text_page_counter'>(64)</span><div class='page_container' data-page=64>

<i>Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên </i>


59


người? Anh (chị) cảm nhận như thế nào về tâm trạng tác giả qua hai câu


thơ ấy (Thản nhiên? Nuối tiếc? Xót xa?)? Nguyên nhân dẫn đến tâm trạng
ấy”; Câu 4 của phần này viết “Qua bài Kệ này anh (chị) hãy làm sáng tỏ
<i>lịng u đời và cái nhìn lạc quan của tác giả..</i>. <i>Tâm trạng tác giả trong hai </i>
<i>câu 3, 4 và trong hai câu thơ kết có gì khác nhau</i>”. Chúng tôi thiết nghĩ
những câu hướng dẫn đại loại như trên nên dành cho một bài thơ trữ tình
thì thích hợp hơn cho một bài Kệ được viết ra bởi một nhà tu hành theo
triết lí thốt tục của Phật giáo.


Bài Kệ này xuất hiện trong bối cảnh Thiền sư Mãn Giác đang bị
bệnh nặng; các đệ tử của ngài rất thương cảm và lo lắng. Mãn Giác Thiền
sư viết bài Kệ này vừa là để truyền lại những điều cốt yếu của đạo Phật –
đạo Sắc – Không và lẽ Sinh - Diệt của con người và muôn vật vừa là để an
ủi các học trị của mình.


</div>
<span class='text_page_counter'>(65)</span><div class='page_container' data-page=65>

<i>Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên </i>


60


đầu bạc) để rồi lại chết đi (Diệt). Nhưng không phải chết đi (Diệt) là hết là
“chấp đoạn” mà lại là điều kiện của một sinh thành mới nữa (Câu 5, 6).
Tựu trung không phải sinh ra mới gọi là Sinh, mất đi mới gọi là Diệt mà
trong Sinh có Diệt, trong Diệt có Sinh (Câu 5 và câu 6 thể hiện rất rõ ý
này). Sinh – Diệt là hai quá trình đồng thời của sự vật, hiện tượng, con
người và của cả thế giới. Thành trụ của pháp này, thế giới này là Hoại –
Không của thế giới khác, pháp khác liên tục không dứt (Câu đầu tiên của
bài thơ nói về Diệt, câu thứ hai nói về Sinh, câu 3, 4 lại gián tiếp nói về
Diệt, hai câu cuối lại nói về Diệt - Sinh). Con người ngộ đạo không nên
bận lòng về chuyện Sinh – Diệt vì đó là quy luật muôn đời của tạo hóa.
Vậy là trước khi tịch diệt, qua bài Kệ, Mãn Giác vừa muốn an ủi học trò
vừa muốn truyền cho họ tâm ấn về một trong những tư tưởng cốt yếu nhất


của đạo Phật. Cũng qua bài Kệ ta chỉ thấy một thái độ bình tĩnh, thản nhiên
của một thiền sự ngộ đạo hơn là một “tinh thần lạc quan yêu đời” hoặc là
“nuối tiếc chưa làm được việc gì có ý nghĩa” như tâm trạng của con người
thế tục.


Qua hai ví dụ trên, chúng tôi thiết nghĩ khi nêu những câu hỏi hướng
dẫn, các soạn giả cần hết sức chú trọng đến nét đặc trưng của tác phẩm xét
từ góc độ loại hình văn học, đặc biệt là các tác phẩm thuộc loại hình văn
học chức năng thuần túy.


</div>
<span class='text_page_counter'>(66)</span><div class='page_container' data-page=66>

<i>Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên </i>


61


THPT từng trực tiếp giảng dạy phần văn học này qua nhiều năm, chúng tôi
mạnh dạn nêu lên những suy nghĩ riêng của mình. Chẳng hạn như phần
Tiểu dẫn chưa quan tâm đến vấn đề thể loại của tác phẩm, một số chú thích
còn thiếu nội dung và chưa hồn tồn chính xác, một vài câu hỏi hướng
dẫn học bài hoặc đọc thêm chưa tương thích với đặc tính loại hình của tác
phẩm; tất cả chỉ nhằm một mục đích duy nhất là làm sao có được bộ sách
<i>Ngữ văn</i> (mà trong đó đặc biệt là phần Văn học trung đại) thật sự hoàn
thiện, tạo điều kiện cho việc giảng dạy của giáo viên và học tập của học
sinh tốt hơn nữa về phần văn học này.


</div>
<span class='text_page_counter'>(67)</span><div class='page_container' data-page=67>

<i>Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên </i>


62


<b>Chương 3 </b>



<b>TÌM HIỂU VIỆC GIẢNG DẠY VÀ TIẾP THU CÁC CHÚ GIẢI </b>
<b>VĂN HỌC TRUNG ĐẠI VIỆT NAM TRONG SÁCH GIÁO KHOA </b>


<b>NGỮ VĂN CỦA GIÁO VIÊN VÀ HỌC SINH Ở TRƯỜNG THPT. </b>


<b>3.1. Đối tượng và tư liệu khảo sát. </b>
<i><b>3.1.1. Đối tượng khảo sát. </b></i>


Trong khi tiến hành khảo sát về việc tìm hiểu quá trình giảng dạy và
tiếp thu các chú giải văn học trung đại Việt Nam trong sách giáo khoa <i>Ngữ </i>
<i>văn </i>THPT (lớp 10 và lớp 11), chúng tôi tập trung khảo sát trên cơ sở đối
tượng sau:


+ Giáo viên trực tiếp giảng dạy.


+ Học sinh khối lớp 10 và 11 – THPT.
<i><b>3.1.2. Tư liệu khảo sát. </b></i>


* Sách giáo khoa <i>Ngữ văn lớp 10</i> – chương trình chuẩn (tập1 và 2 –
phần văn học trung đại Việt Nam), Nxb GD, H.2006.


* Sách giáo khoa <i>Ngữ văn lớp 11</i> – chương trình chuẩn (tập 1), Nxb
GD, H.2007.


</div>
<span class='text_page_counter'>(68)</span><div class='page_container' data-page=68>

<i>Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên </i>


63


* Sách giáo viên <i>Ngữ văn lớp 11 </i>– chương trình chuẩn (tập 1 – phần
văn học trung đại Việt Nam), Nxb GD, H.2007.



* Giáo án soạn giảng của một số thầy cô trực tiếp giảng dạy phần
văn học trung đại Việt Nam trong sách giáo khoa <i>Ngữ văn lớp 10</i> và <i>11</i> ở
trường THPT.


<b>* Phiếu điều tra. </b>


Chúng tôi tiến hành điều tra, khảo sát đối với một số giáo viên trực
tiếp giảng dạy phần văn học trung đại Việt Nam lớp 10 và lớp 11 ở hai
trường THPT Hiệp Hoà 1 và Hiệp Hoà 2 - Bắc Giang, với một số câu hỏi
sau:


1. Trong quá trình dạy các tác phẩm văn học trung đại Việt Nam có
sử dụng các từ Hán Việt, các điển tích, điển cố, thầy (cơ) giáo đã quan tâm
đến việc cắt nghĩa và giải thích các từ Hán Việt, các điển tích, điển cố một
cách rõ ràng, cụ thể cho học sinh lớp mình dạy chưa? Lý do?


2. Thầy (cơ) giáo có nhận xét gì về việc tiếp thu các chú giải của học
sinh ở lớp mình dạy?


3. Thầy (cơ) giáo có nhận xét gì về các chú giải văn học trung đại
Việt Nam trong sách giáo khoa <i>Ngữ văn</i> THPT?


Với đối tượng học sinh, chúng tôi cũng tiến hành khảo sát bằng
phiếu điều tra có ghi câu hỏi:


</div>
<span class='text_page_counter'>(69)</span><div class='page_container' data-page=69>

<i>Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên </i>


64



2. Ngoài việc tiếp thu phần chú thích sau mỗi tác phẩm văn học
trung đại Việt Nam được học, anh (chị) cịn tự tìm hiểu các chú giải không,
khi đọc một tác phẩm văn học trung đại Việt Nam? Lý do?


<b>3.2. Quá trình khảo sát và kết quả khảo sát </b>


Trong quá trình nghiên cứu, tìm hiểu để làm đề tài này, chúng tôi
tiến hành khảo sát trong giai đoạn từ tháng 02 đến 09 năm 2009 trên phạm
vi địa bàn huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang. Đây là khoảng thời gian mà
chương trình văn học được giảng dạy ở lớp 10 và lớp 11 – THPT, chủ yếu
tập trung vào phần văn học trung đại Việt Nam.


Việc khảo sát, chúng tôi tiến hành ở hai trường THPT và chủ yếu tập
trung vào đối tượng học sinh có lực học trung bình:


+ Lớp 10 và lớp 11 trường THPT Hiệp Hòa 1 – Bắc Giang.


+ Lớp 10 và lớp 11 trường THPT Hiệp Hòa 2 – Bắc Giang.


Từ quá trình khảo sát và thời gian khảo sát ở các đối tượng và tư liệu
trên, chúng tôi thu được một số kết quả sau:


<i><b>3.2.1. Sách giáo khoa Ngữ văn lớp 10, lớp 11 – THPT (phần văn học </b></i>
<i><b>trung đại Việt Nam). </b></i>


<i><b>* Về văn </b><b>bản: Qua hai bộ sách trên, những người biên soạn đã rất công </b></i>
phu, cẩn trọng trong việc lựa chọn các tác phẩm để đưa vào chương trình
học, từ việc phiên âm, dịch nghĩa, dịch thơ cho đến việc chú thích các từ
Hán Việt, các điển tích điển cố.



</div>
<span class='text_page_counter'>(70)</span><div class='page_container' data-page=70>

<i>Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên </i>


65


đặng có điều kiện thuận lợi để tiếp nhận tác phẩm một cách trọn vẹn cả về
nội dung và hình thức nghệ thuật (một số vấn đề cần bàn, chúng tôi đã giải
quyết ở chương 2).


<i><b>* Về hệ thống câu hỏi hướng dẫn học bài: sau mỗi tác phẩm văn học </b></i>
trung đại Việt Nam được trích học, người biên soạn đã cố gắng đưa ra
được những câu hỏi hướng dẫn học bài sát với nội dung của văn bản, để từ
đó học sinh có hướng khai thác và chiếm lĩnh tốt tác phẩm về mặt nội dung
và hình thức nghệ thuật.


Tuy nhiên, ở một số tác phẩm được trích học, phần câu hỏi hướng
dẫn học bài còn thiếu những câu hỏi gợi mở, kích thích tìm tịi, phát hiện từ
phía học sinh, khơng tạo điều kiện cho học sinh bộc lộ cảm xúc và bày tỏ ý
kiến riêng của mình. Khi đi vào hướng dẫn, tìm hiểu nội dung của tác
phẩm, các câu hỏi chưa thực sự đi sâu, chưa hướng học sinh vào việc tìm
hiểu giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm vì soạn giả còn nhầm lẫn
tác phẩm ở đặc trưng thể loại.


<b>Nhận xét: </b>


Dựa vào kết quả thu được từ thực tiễn khảo sát, chúng tôi rút ra
nhận xét sau:


Nhìn một cách khái quát, thì hầu như tất cả các văn bản, các chú
thích, các câu hỏi hướng dẫn học bài đều đã phản ánh được những nét
chính, cơ bản của tác phẩm. Đó là giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật của


tác phẩm. Đây là những yêu cầu và tầm quan trọng bậc nhất, để giúp cho
người dạy cũng như người học tiếp nhận tác phẩm một cách đúng hướng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(71)</span><div class='page_container' data-page=71>

<i>Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên </i>


66


người dạy và người học tiếp cận không đúng với giá trị nội dung và nghệ
thuật của tác phẩm (ví dụ: bài <i>Quốc tộ</i> - Đỗ Pháp Thuận; <i>Độc Tiểu Thanh </i>
<i>kí</i> – Nguyễn Du…); hay như ở một số tác phẩm người biên soạn đã không
chú thích rõ, hoặc bỏ qua một phần nhan đề của tác phẩm, điều này đã ảnh
hưởng không nhỏ tới việc tiếp thu tác phẩm theo đúng ý đồ của tác giả (ví
dụ: từ “Đại cáo” trong <i>Bình Ngô đại cáo</i> của Nguyễn Trãi; từ “Mạn lục”
trong <i>Truyền kỳ mạn lục</i> của Nguyễn Dữ…).


<i><b>3.2.2. Kết quả khảo sát từ giáo viên. </b></i>
<b>* Qua những câu hỏi: </b>


Ở câu hỏi thứ nhất, sau khi tiếp xúc với một số thầy, cơ giáo đã có
kinh nghiệm giảng dạy lâu năm về môn Văn ở trường THPT Hiệp Hòa 1,
THPT Hiệp Hòa 2, chúng tôi thấy hầu hết các thầy cơ đều có chung một
quan điểm: khi tiến hành dạy một tác phẩm văn học trung đại Việt Nam,
giáo viên chủ yếu là bám vào phần dịch thơ để phân tích, đặt câu hỏi phát
vấn, đối thoại. Ngồi ra còn phải bám vào phần phiên âm, dịch nghĩa hoặc
các chú thích của tác phẩm đó. Trên thực tế, những phần này có vai trị
quan trọng khơng kém, bởi nó định hướng cho giáo viên và học sinh chiếm
lĩnh và cảm nhận tối đa tác phẩm một cách sâu sắc, toàn diện.


</div>
<span class='text_page_counter'>(72)</span><div class='page_container' data-page=72>

<i>Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên </i>



67


(ví dụ: Bài <i>Bình Ngô đại cáo</i> – Nguyễn Trãi có 44 chú giải; Bài <i>Văn tế </i>
<i>nghĩa sĩ Cần Giuộc</i> – Nguyễn Đình Chiểu có 58 chú giải…). Nên, nếu q
đi sâu vào việc giải thích, cắt nghĩa các từ Hán Việt, các điển tích, điển cố
thì thời gian dành cho việc phân tích tác phẩm khơng đủ, điều đó sẽ dẫn tới
việc khơng hồn thành mục tiêu bài dạy. Mặc dù việc tìm hiểu các chú giải
là rất cần thiết và quan trọng, nhưng theo tôi, vấn đề chính của giờ dạy là
làm thế nào để các em học sinh nắm được giá trị nội dung cũng như giá trị
nghệ thuật mới là cơ bản nhất”.


Ngồi ra cịn một số ý kiến đại ý đều khẳng định việc sử dụng
phương pháp phân tích, thuyết giảng, phát vấn, gợi tìm trong quá trình dạy
một tác phẩm văn học trung đại Việt Nam là giúp học sinh hiểu, nắm được
và cảm nhận một cách đúng đắn, sâu sắc, phát huy được tính tích cực, chủ
động tìm tịi, sáng tạo trong giờ học là vấn đề đúng và rất cần thiết. Song,
giáo viên chỉ bám vào phần dịch thơ (hoặc bản dịch) để phân tích, thuyết
giảng, phát vấn…mà bỏ qua việc giải thích, cắt nghĩa các từ Hán Việt, các
điển tích, điển cố, thì một điều chắc chắn rằng giờ học đó sẽ khơng thành
cơng, đặc biệt là sẽ không khai thác được chiều sâu cơ bản, những nét độc
đáo, riêng biệt của tác phẩm…


</div>
<span class='text_page_counter'>(73)</span><div class='page_container' data-page=73>

<i>Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên </i>


68


các chú thích đã đưa ra là rất nhiều, điều đó dẫn đến sự cảm thụ tác phẩm
về mặt nội dung cũng như giá trị nghệ thuật chưa sâu sắc, toàn diện.


</div>
<span class='text_page_counter'>(74)</span><div class='page_container' data-page=74>

<i>Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên </i>



69


chính là chìa khóa để người đọc hiểu được ý đồ nghệ thuật của tác giả và
nội dung tư tưởng của tác phẩm.


Ngồi ra, cơ Nhung cịn nói: “Chú thích ở sách giáo khoa <i>Ngữ văn</i>
THPT có giá trị cần thiết để học sinh cũng như giáo viên lấy đó làm căn cứ
để hiểu đúng, hiểu trúng ý nghĩa lời văn ý thơ. Nhưng do khuôn khổ hạn
hẹp, sách giáo khoa không thể đi sâu giải thích nguồn gốc cũng như ý
nghĩa của các từ Hán Việt, các điển tích, điển cố trong từng văn cảnh cụ
thể. Vì vậy có rất nhiều các từ ngữ khó, các điển tích, điển cố nếu chỉ dựa
vào chú thích ở sách giáo khoa <i>Ngữ văn</i> THPT thì chưa đủ để hiểu được
nội dung tư tưởng mà tác giả gửi gắm trong đó. Chẳng hạn trong bài <i>Bình </i>
<i>Ngơ đại cáo </i>của Nguyễn Trãi, nếu chỉ dựa vào chú thích ở sách giáo khoa
thì người đọc chỉ hiểu <b>Hàm Tử, Bạch Đằng… như một địa danh lịch sử </b>
chứ không thể biết được những địa danh lịch sử ấy đã trở thành những điển
tích điển cố trong nền văn học của dân tộc…”


<b>* Nhận xét: </b>


Từ những ý kiến, những nhận xét của thầy (cô) giáo thông qua cơng
việc khảo sát, chúng tơi thấy có những điểm sau:


</div>
<span class='text_page_counter'>(75)</span><div class='page_container' data-page=75>

<i>Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên </i>


70


thường bỏ qua, nếu có thì cũng chỉ là giải thích, cắt nghĩa chung chung
hoặc nói lại như trong sách giáo khoa….



Thứ hai, qua các ý kiến nhận xét về các chú giải, chúng tôi thấy
phần lớn giáo viên đã có ý thức tự tìm hiểu, đối chiếu giữa các chú thích
sau mỗi tác phẩm văn học trung đại trong sách giáo khoa với các cuốn sách
nghiên cứu khác. Từ đó họ có thể rút ra được những kiến thức bổ ích để bổ
sung cho giờ giảng của mình về một tác phẩm văn học trung đại. Ngoài ra,
một số giáo viên cũng bày tỏ quan điểm của mình về các chú thích văn học
trung đại Việt Nam trong sách giáo khoa <i>Ngữ văn</i> THPT. Theo họ các chú
thích trong sách giáo khoa tương đối đầy đủ, rõ ràng, đảm bảo được lượng
thông tin kiến thức phục vụ cho việc tìm hiểu giá trị nội dung và giá trị
nghệ thuật của tác phẩm; song ở một số tác phẩm, các chú thích cịn chung
chung chưa giải thích, cắt nghĩa một cách rõ ràng, cụ thể, điều đó đã khiến
cho việc tiếp cận tác phẩm của giáo viên và học sinh cịn gặp nhiều khó
khăn.


<i><b>3.2.3. Kết quả khảo sát thu được từ phía học sinh. </b></i>
<b>* Qua những câu hỏi: </b>


Ở câu hỏi thứ nhất, sau khi dự giờ và tiếp xúc với học sinh, chúng
tôi thấy việc các nhà làm sách giáo khoa <i>Ngữ văn</i> THPT đã dụng công biên
soạn phần chú thích một cách cụ thể, rõ ràng, giúp ích rất nhiều cho học
sinh trong việc tiếp thu tác phẩm. Vì nó là cơ sở định hướng cho các em
hiểu đúng, hiểu trúng giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật của tác phẩm.


</div>
<span class='text_page_counter'>(76)</span><div class='page_container' data-page=76>

<i>Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên </i>


71


phẩm khi được nghe giảng trên lớp”[Phụ lục, 91]. Tuy nhiên, khi hỏi
những học sinh khác, chúng tôi nhận thấy các em học sinh này ít để ý đến


các chú thích mà chủ yếu tiếp nhận lượng kiến thức được truyền đạt từ giáo
viên. Do đó, khả năng nắm bắt và hiểu được các chú thích chưa sâu, điều
đó dẫn đến việc hỏi nội dung của tác phẩm cịn mơ hồ, khơng tồn diện.


</div>
<span class='text_page_counter'>(77)</span><div class='page_container' data-page=77>

<i>Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên </i>


72


<b>* Qua phiếu điều tra: </b>


<i><b>Bảng 1: Khả năng nắm được các chú giải ở học sinh </b></i>


Trường Số H/S
điều tra


H/S nắm được
các chú giải tại


lớp


H/S nắm
được sau khi


học ở nhà


H/S không
nắm được


Số H/S Tỉ lệ
%


Số
H/S
Tỉ lệ
%
Số
H/S
Tỉ lệ
%
THPT


Hiệp Hòa 1 50 20 40% 18 36% 12 24%


THPT


Hiệp Hòa 2 47 21 44.7% 19 40.4% 07 14.9%
<i><b>Bảng 2: Khả năng tự tìm hiểu các chú giải của học sinh </b></i>


Trường Số H/S
điều tra


Số H/S tự tìm
hiểu


Số H/S tự tìm
hiểu dưới sự
hướng dẫn của


GV


Số H/S


khơng tự


tìm hiểu
được dù có


sự hướng
dẫn của GV
Tại


lớp Ở nhà Tại lớp Ở nhà


THPT


Hiệp Hòa 1 50


</div>
<span class='text_page_counter'>(78)</span><div class='page_container' data-page=78>

<i>Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên </i>


73


THPT


Hiệp Hòa 2 47


11
23.4%


10
21.3%


09


19.15%


08
17%


09
19.15%


<b>3.3. Các đề xuất và hướng giải quyết </b>


Do chương trình và số tiết học quy định, giáo viên khơng thể có đủ
thời gian để đi sâu và cắt nghĩa, giải thích các từ Hán Việt, các điển tích,
điển cố một cách đầy đủ chi tiết. Giáo viên cần có sự chọn lọc trong việc
giảng giải, cắt nghĩa từ Hán Việt cũng như các điển tích, điển cố. Ngồi ra
giáo viên cần kết hợp với sự chuẩn bị bài của học sinh ở nhà và căn cứ vào
yêu cầu của bài giảng mà lựa chọn từ các từ Hán Việt, các điển tích, điển
cố tiêu biểu để giảng giải, cắt nghĩa cho phù hợp. Trong phạm vi khả năng
và kinh nghiệm của bản thân cịn có hạn chế, luận văn khơng có tham vọng
thay thế phần chú giải văn học trung đại Việt Nam ở sách giáo khoa <i>Ngữ </i>
<i>văn</i> THPT mà chỉ nhằm mục đích bổ sung vào những chỗ do phạm vi và
yêu cầu của phần chú thích ấy khơng cho phép đi sâu. Vì thế, chúng tôi
mạnh dạn đề xuất một số giải pháp với hy vọng sẽ góp phần hữu ích vào
việc nâng cao hiệu quả giảng dạy và tiếp nhận tác phẩm văn học trung đại
Việt Nam của giáo viên và học sinh trong sách giáo khoa <i>Ngữ văn</i> THPT,
khắc phục tình trạng phải cắt nghĩa, giảng giải chi tiết, rõ ràng các từ Hán
Việt, các điển tích, điển cố trong khoảng thời gian hạn chế trên lớp.


<b>Một vài giải pháp đó là: </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(79)</span><div class='page_container' data-page=79>

<i>Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên </i>



74


* Giáo viên dẫn giải về nguồn gốc, xuất xứ nhan đề của tác phẩm
hoặc một vài từ Hán Việt, một vài điển tích, điển cố tiêu biểu trong tác
phẩm để gây hứng thú cho học sinh.


* Khuyến khích học sinh tìm hiểu, sưu tầm các từ Hán Việt, các
điển tích, điển cố.


* Thơng qua tổ chức ngoại khóa văn học (dưới một vài hình thức
như: tọa đàm văn học ở lớp, nói chuyện ngoại khóa ở lớp về các điển tích,
điển cố, các từ ngữ khó).


</div>
<span class='text_page_counter'>(80)</span><div class='page_container' data-page=80>

<i>Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên </i>


75


<b>KẾT LUẬN </b>



Nghiên cứu tiến trình phát triển của văn học trung đại Việt Nam và
những đặc điểm của nó đồng thời qua khảo sát phần tiểu dẫn, chú thích,
câu hỏi HDHB, hướng dẫn đọc thêm trong sách <i>Ngữ văn</i> THPT chúng tôi
rút ra một số nhận xét sau:


</div>
<span class='text_page_counter'>(81)</span><div class='page_container' data-page=81>

<i>Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên </i>


76


học chức năng. Các tác phẩm được sáng tác trong giai đoạn giao thoa này


đa phần là các tác phẩm văn học lưỡng tính: chúng vừa có chức năng văn
học, vừa có chức năng ngoài văn học. Người nghiên cứu hoặc giảng dạy
văn học trung đại cần phải nắm vững những đặc điểm của nó mới có thể
tiếp cận được giá trị đích thực của mỗi hiện tượng văn học và việc giảng
dạy mới đạt hiệu quả cao.


2. Qua nghiên cứu các phần Tiểu dẫn, Chú thích, câu hỏi HDHB và hướng
dẫn đọc thêm trong các tác phẩm văn học trung đại ở sách <i>Ngữ văn</i> THPT,
chúng tôi thấy tập thể soạn giả đã làm khá tốt công việc chuyên môn của
mình: Phần Tiểu dẫn thì tương đối đủ ý, phần Chú thích (điển cố, từ Hán
Việt, từ cổ, từ khó, ý thơ khó) thì nhìn chung là đầy đủ và rõ ràng, phần
Câu hỏi HDHB thì sát với đặc trưng nội dung và nghệ thuật của tác phẩm.
Những ưu điểm đó sẽ tạo điều kiện tốt cho học sinh chủ động chiếm lĩnh
tác phẩm. Tuy nhiên, với tư cách là một giáo viên THPT từng trực tiếp
giảng dạy phần văn học này qua nhiều năm, chúng tơi thấy vẫn cịn đôi
thắc mắc trao đổi với các soạn giả: Thứ nhất là, phần Tiểu dẫn chưa quan
tâm đúng mức đến vấn đề thể loại của tác phẩm (mà ai cũng hiểu là vấn đề
thể loại đối với một tác phẩm văn học trung đại quan trọng như thế nào);
Thứ hai là, ở một số Chú thích (nhất là các <i>điển</i>) còn chưa đủ nội dung và
có lúc cịn thiếu chính xác; Thứ ba là, một số Câu hỏi HDHB, đọc thêm
chưa tương thích với đặc trưng thể loại của tác phẩm (đặc biệt là đối với
những tác phẩm thuộc loại hình văn học chức năng thuần túy). Chúng tôi
không muốn nói rằng những ý kiến của mình nêu ra là đúng mà chỉ là
những thắc mắc mong được giải đáp để công việc giảng dạy của người giáo
viên văn học được thuận lợi và ngày càng đạt hiệu quả cao hơn.


</div>
<span class='text_page_counter'>(82)</span><div class='page_container' data-page=82>

<i>Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên </i>


77



trường trên) – những người trực tiếp dạy và học phần văn học trung đại
Việt Nam, chúng tôi tổng kết và hệ thống hóa thành các vấn đề sau:


3.1. Ý kiến của các thầy, cô: khẳng định ưu điểm của SGK là: phần Tiểu
dẫn, Chú thích, tương đối đủ ý; phần Câu hỏi HDHB bám sát vào đặc trưng
tác phẩm. Tuy nhiên, một số chú thích chưa đủ ý và chưa rõ ý, nên khi
chuẩn bị giáo án, giáo viên cũng lúng túng. Bởi nhìn chung ở bậc phổ
thông, các thầy cô không nhiều tài liệu tham khảo và vốn liếng Hán tự
cũng chẳng được là bao. Thêm nữa là số tiết quy định cho một tác phẩm
dạy trên lớp rất nghiêm nhặt. Nếu sa đà giải thích (mà khơng giải thích thì
học sinh khơng hiểu) các điển, các từ khó thì khơng đủ thời gian.


3.2. Ý kiến của học sinh: Trừ một số ít em say mê văn chương cịn đa số
ngại học, ngại đọc văn đặc biệt là văn chương trung đại. Những em say mê
và có năng lực văn chương đều muốn SGK <i>Ngữ văn</i> nên có cách dẫn giải
và hướng dẫn cụ thể hơn, hay hơn nữa để các em có thể chiếm lĩnh tác
phẩm tốt hơn.


4. Từ thực tế nghiên cứu các phần Tiểu dẫn, Chú thích, Câu hỏi HDHB
phần văn học trung đại Việt Nam, qua kinh nghiệm thực tế giảng dạy phần
văn học này và qua tham khảo ý kiến của đồng nghiệp, học sinh, chúng tôi
mạnh dạn đề xuất một số ý kiến sau:


Một là: Đối với các tác phẩm văn học trung đại, soạn giả SGK cần
phải tiểu dẫn, chú thích thật cụ thể, tỉ mỉ và chính xác hơn nữa dù phải nới
dài số lượng trang sách. Đó là cách tốt nhất giúp cho cả giáo viên và học
sinh đỡ mất thì giờ ở trên lớp để đảm bảo tiến độ bài giảng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(83)</span><div class='page_container' data-page=83>

<i>Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên </i>



78


giảng dạy phần văn học này (chứ không phải phương pháp giảng dạy văn
chung chung).


</div>
<span class='text_page_counter'>(84)</span><div class='page_container' data-page=84>

<i>Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên </i>


79


<b>THƯ MỤC THAM KHẢO </b>



<b> </b>

1. Đào Duy Anh: <i>Từ điển Hán – Việt</i>, Nxb KHXH, H.1992


2. Lại Nguyên Ân (chủ biên): <i>Từ điển văn học Việt Nam</i>, Nxb GD.
H.1997.


3. M. Bakhtin: <i>Lý luận và thi pháp tiểu thuyết</i>, Trường viết văn
Nguyễn Du xuất bản, H.1992.


4. Nguyễn Huệ Chi: <i>Vấn đề thơ cổ cho các em. Tạp chí văn học</i>, số 4
- 1982.


5. Nguyễn Đình Chú: <i>Nói thêm về chuyện Người con gái Nam </i>
<i>Xương. Văn học và tuổi trẻ</i>, Tập 76 - 2002.


6. Mai Hữu Công, Cao Tổ Lân: <i>Nghệ thuật ngôn ngữ thơ Đường</i>,
Nxb Văn học, H.2000.


7. Đinh Văn Định: <i>Văn học với trẻ em trong nhà trường. Tạp chí </i>
<i>văn học</i>, số1 - 1993.



8. Liên Giang: <i>Biện chính hai tiếng "thằng Ngơ". Tạp chí Tri tân,</i>
số5, tháng 5 - 1941.


9. Nguyễn Thạch Giang, Lữ Huy Nguyên: <i>Từ ngữ điển cố văn học</i>,
Nxb Văn học, H.1998.


</div>
<span class='text_page_counter'>(85)</span><div class='page_container' data-page=85>

<i>Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên </i>


80


11. Tràn Quốc Hồn: <i>Về chữ "Ngơ" trong Bình Ngơ đại cáo của </i>
<i>Nguyễn Trãi. Văn học và tuồi trẻ</i>, Tập 39 - 1999.


12. Nguyễn Thuý Hồng: <i>Việc sử dụng điển cố Hán học trong Chinh </i>
<i>phụ ngâm. Tạp chí văn học</i>, số 1 - 1997.


13. Sông Hương: <i>Từ Hán Việt trong "Chiều hôm nhớ nhà" và </i>
<i>"Thăng Long thành hoài cổ" của Bà Huyện Thanh Quan. Văn học và tuổi </i>
<i>trẻ,</i> Tập 33 - 1998.


14. Đinh Thu Hương - Chu Huy - Nguyễn Hữu Sơn: <i>Điển tích văn </i>
<i>học trong nhà trường</i>. Nxb GD, H.2007.


15. Đỗ Văn Hỷ: <i>Cái hay trong thơ xưa dưới con mắt nhà thơ xưa. </i>
<i>Tạp chí văn học</i>, số 4 - 1983.


16. Đỗ Văn Hỷ: <i>"Cung kiếm" với "Gươm đàn". Tạp chí văn học</i>, số
4 - 1983.



17. Đinh Gia Khánh (chủ biên): <i>Điển cố văn học</i>, Nxb KHXH,
H.1997.


18. Đinh Gia Khánh (chủ biên): <i>Văn học Việt Nam thế kỷ X đến nửa </i>
<i>đầu thế kỷ XVIII</i>, Nxb GD, H.1998.


19. Khổng Tử: <i>Kinh thư</i> (Trần Lê Sáng, Kỳ Nam dịch chú), Nxb
Văn hóa thơng tin, H.2004.


20. Nguyễn Hiến Lê: <i>Lão Tử - Đạo Đức kinh</i>, Nxb Văn hóa,
H.1994.


</div>
<span class='text_page_counter'>(86)</span><div class='page_container' data-page=86>

<i>Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên </i>


81


22. Nguyễn Đăng Na (chủ biên): <i>Giáo trình văn học trung đại Việt </i>
<i>Nam</i>, Nxb ĐHSP, H.2007.


23. Nguyễn Đăng Na: <i>Văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại</i> (3
tập), Nxb GD, H.1999 – 2000 – 2001.


24. Trần Đại Nghĩa: <i>Về câu thơ "Cá đâu đớp động dưới chân bèo". </i>
<i>Văn học và tuổi trẻ</i>, Tập 165 - 1999.


25. Bùi Văn Nguyên: <i>Mấy vấn đề cần được xác minh thêm trong </i>
<i>văn thơ Nguyễn Trãi. Tạp chí văn học</i>, số 5 - 1972.


26. <i>Ngữ văn 10 </i>( tập 1), Nxb GD, H.2006.
27. <i>Ngữ văn 10</i> ( tập 2), Nxb GD, H.2006


28. <i>Ngữ văn 11</i> ( tập 1), Nxb GD, H.2006.
29<i>. Ngữ văn 11</i> ( tập 2), Nxb GD, H.2006


31. <i>Ngữ văn 10</i> (SGV - tập 1), Nxb GD, H.2006
32<i>. Ngữ văn 10</i> (SGV - tập 2), Nxb GD, H.2006
33<i>. Ngữ văn 11</i> (SGV - tập 1), Nxb GD, H.2006
34. <i>Ngữ văn 11</i> (SGV - tập 2), Nxb GD, H.2006


35. Nhiều tác giả: <i>Ngữ văn 10 - những vấn đề thể loại và lịch sử</i>.
Nxb GD, H.2008.


36. Nguyễn Khắc Phi: <i>Hình tượng "cây chuối" (ba tiêu) trong thơ ca </i>
<i>cổ điển. Văn học và tuổi trẻ</i>, Tập 39 - 1999.


</div>
<span class='text_page_counter'>(87)</span><div class='page_container' data-page=87>

<i>Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên </i>


82


38. Đỗ Huy Quang: <i>Về phương pháp phân tích tác phẩm văn </i>
<i>chương. Tạp chí văn học</i>, số 8 - 1984.


39. Nguyễn Ngọc San: <i>Thử xác định khái niệm từ thuần Việt. Văn </i>
<i>học và tuổi trẻ</i>, Tập 25 - 1997.


40. Nguyễn Ngọc San (chủ biên): <i>Từ điển điển cố văn học trong nhà </i>
<i>trường</i>, Nxb GD, H.1998


41. Đặng Đức Siêu, Nguyễn Ngọc San: <i>Ngữ văn Hán – Nôm</i>, Nxb
GD, H.1995.



42. Đặng Đức Siêu (chủ biên): <i>Ngữ liệu văn học</i>, Nxb GD, H.1999.
43. Trần Đình Sử: <i>Mấy vấn đề thi pháp văn học trung đại Việt Nam</i>,
Nxb GD, H.1999.


44. Trần Đình Sử (tuyển chọn): <i>Giảng văn chọn lọc văn học Việt </i>
<i>Nam</i>, Nxb ĐHQG, H.2001.


45. Trần Đình Sử: <i>Đọc hiểu văn bản là thế nào?. Văn học và tuổi trẻ</i>,
Tập 40 - 1999.


46. Trần Đình Sử: <i>Tùng - một bài thơ tâm huyết của Nguyễn Trãi. </i>
<i>Giáo dục cấp III</i>, số 4 - 1982.


47. Trần Đình Sử: <i>Về bài thơ Cảm hồi. Văn học và tuổi trẻ</i>, Tập 56
- 2001.


48. <i>Tài liệu BDGV thực hiện chương trình, sách giáo khoa lớp 10 </i>
<i>THPT môn Ngữ văn</i>, Nxb GD, H.2006.


</div>
<span class='text_page_counter'>(88)</span><div class='page_container' data-page=88>

<i>Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên </i>


83


50. <i>Tài liệu BDTX giáo viên THPT, chu kì III (2004 – 2007) môn </i>
<i>Ngữ văn</i>, Nxb ĐHSP, H.2005.


51. Bùi Duy Tân: <i>Theo dòng khảo luận văn học trung đại Việt Nam</i>.
Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, H.2005.


52. Trần Thị Băng Thanh: <i>Về Bài ca ngất ngưởng. Giảng văn văn </i>


<i>học Việt Nam</i>, Nxb GD, H.1997.


53. Vĩnh Thanh: <i>"Ba quân" là gì? Văn học và tuổi trẻ,</i> Tập 7 - 1995.
54. Lê Trung Thành: <i>Nên hiểu thế nào về "hoa năm ngoái" và...Văn </i>
<i>học và tuổi trẻ</i>, Tập 39 - 1999.


55. <i>Thơ văn Lý - Trần</i>, Nxb KHXH, H.1977.


56. Trang Tử: <i>Nam hoa kinh </i>(bản dịch của Nhượng Tống), Nxb
Văn học, H.2001.


57. <i>Văn học 10 </i>(tập 1) – Sách chỉnh lí hợp nhất năm 2000, Nxb GD,
H.1999.


58. <i>Văn học 10</i> (tập 2) - Sách chỉnh lí hợp nhất năm 2000, Nxb GD,
H.1999.


59. <i>Văn học 11</i> (tập 1) – Sách chỉnh lí hợp nhất năm 2000, Nxb GD,
H.1999.


60. <i>Văn học 10</i> (SGV - tập 1) - Sách chỉnh lí hợp nhất năm 2000,
Nxb GD, H.1999.


61<i>. Văn học 10</i> (SGV - tập 2) - Sách chỉnh lí hợp nhất năn 2000, Nxb
GD, H.1999.


</div>
<span class='text_page_counter'>(89)</span><div class='page_container' data-page=89>

<i>Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên </i>


84



63. Đoàn Thị Thu Vân: Vài nhận xét nề ngôn ngữ thơ thiền Lý -
Trần. Tạp chí văn học, số 3 - 1993.


64. Lê Trí Viễn (chủ biên): <i>Từ điển văn học Việt Nam</i>, Nxb GD,
H.1986.


65. Lê Trí Viễn (chủ biên): <i>Cơ sở ngữ văn Hán - Nôm</i>, Nxb GD,
H.1986.


</div>
<span class='text_page_counter'>(90)</span><div class='page_container' data-page=90>

<i>Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên </i>


</div>

<!--links-->

×