Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

skkn vài kinh nghiệm đọc – hiểu một số tác phẩm thơ chữ hán của văn học trung đại việt nam trong chương trình lớp 10 thpt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (173.23 KB, 15 trang )

VÀI KINH NGHIỆM ĐỌC – HIỂU
MỘT SỐ TÁC PHẨM THƠ CHỮ HÁN CỦA VĂN HỌC
TRUNG ĐẠI VIỆT NAM TRONG CHƯƠNG TRÌNH
LỚP 10 TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Văn học viết Việt Nam từ thế kỷ X đến thế kỷ XIX còn gọi là văn học trung
đại - tồn tại và phát triển trong xã hội phong kiến. Hai thành phần chủ yếu của văn
học trung đại là văn học chữ Hán và văn học chữ Nôm. Trong văn học chữ Hán, dù
là thơ hay văn xuôi, trữ tình hay tự sự, chính luận ,ở loại hình nào cũng có những
thành tựu nghệ thuật to lớn. Một trong những thành tựu nghệ thuật đặc sắc là thơ
chữ Hán. Trong trường phổ thông, thơ chữ Hán của văn học trung đại Việt Nam
được giảng dạy từ bậc trung học cơ sở (THCS) đến trung học phổ thông (THPT).
Nó đã góp phần hình thành những phẩm chất tốt đẹp cho thế hệ trẻ, giáo dục cho
học sinh lòng yêu nước, yêu quê hương thiết tha, lòng nhân ái, nhạy cảm trước cái
đẹp, biết vượt qua khó khăn, thử thách để vươn tới lý tưởng cao đẹp.
Thơ chữ Hán là một trong những thành tựu rực rỡ của văn học trung đại Việt
Nam. Thơ chữ Hán không chỉ đa dạng về đề tài, phong phú về số lượng tác phẩm,
mà còn đạt đến trình độ nghệ thuật điêu luyện, hình tượng thơ hàm súc, ngôn ngữ
thơ tinh tế, sáng tạo. Thơ chữ Hán của văn học trung đại Việt Nam thể hiện hai nội
dung lớn là yêu nước và nhân đạo, phát triển theo quy luật vừa tiếp thu và dân tộc
hóa tinh hoa văn học nước ngoài, chủ yếu là văn học Trung Quốc. Thành tựu của
thơ chữ Hán có sự đóng góp của những tài năng lớn như: Phạm Ngũ Lão, Pháp
Thuận, Nguyễn Trung Ngạn, thiền Sư Mãn Giác, Nguyễn Du….Thơ chữ Hán có
một giá trị nhân bản rất cao, chứa đựng những nỗi niềm mà các nhà thơ gửi gắm.
Đó là những tiếng lòng của các nhà thơ nên có sức truyền cảm mạnh mẽ, lắng sâu
trong lòng người, tồn tại mãi với thời gian, còn tỏa sáng đến muôn đời sau.
Trong trường phổ thông, các tác phẩm thơ chữ Hán giúp cho học sinh hiểu
biết thêm về lịch sử – xã hội Việt Nam thời kỳ trung đại, tinh thần yêu nước, lòng
tự hào dân tộc, lòng yêu thương con người bao la, những triết lý nhân sinh sâu
sắc…Học sinh còn được cung cấp thêm những hiểu biết về cái hay, cái đẹp của
ngôn từ, hình tượng nghệ thuật, độ súc tích theo hướng “ quý hồ tinh bất quý hồ


đa” trong nghệ thuật của văn học trung đại. Một bài thơ chữ Hán hay gợi mở cho
học sinh những tư duy bay bổng, những tình cảm lắng đọng, những rung động
thấm đẫm tình người, cái đẹp hài hòa về nội dung về hình thức của thơ chữ Hán
cuốn hút, hấp dẫn học sinh. Nó bồi dưỡng cho học sinh năng lực thẩm mỹ, nhạy
cảm với cái đẹp, hướng các em tới những điều đẹp đẽ tốt lành. Như vậy, người
giáo viên ở trường THPT cần rèn luyện cho học sinh kỹ năng đọc-hiểu tác phẩm
thơ chữ Hán thời kỳ văn học trung đại. Hoạt động dạy và học thơ chữ Hán đạt hiệu
quả sẽ góp phần nâng cao chất lượng môn Ngữ văn ở trường THPT. Thông qua
hoạt động giảng dạy, kiểm tra, đánh giá, người giáo viên cần trang bị cho học sinh
1
một số kỹ năng cần thiết để học sinh cảm thụ tốt một bài thơ chữ Hán của văn học
trung đại Việt Nam.
Từ yêu cầu đổi mới phương pháp, dạy học, phát huy năng lực tư duy sáng
tạo của học sinh, tôi biên soạn đề tài “Vài kinh nghiệm đọc – hiểu một số tác phẩm
thơ chữ Hán của văn học trung đại Việt Nam trong chương trình lớp 10 trung học
phổ thông”, góp một ý kiến nhằm nâng cao năng lực đọc – hiểu thơ chữ Hán cho
học sinh. Tôi rất mong nhận được sự đóng góp, xây dựng của các đồng nghiệp.
II. THỰC TRẠNG TRƯỚC KHI THỰC HIỆN CÁC GIẢI PHÁP CỦA ĐỀ
TÀI:
1. Thuận lợi:
- Vấn đề nâng cao chất lượng dạy và học môn Ngữ văn luôn được sự quan
tâm rộng rãi của các ban ngành, nhà trường, giáo viên và cha mẹ học sinh. Sở Giáo
dục và Đào tạo tỉnh Đồng Nai đã tổ chức các hội nghị chuyên đề nhằm nâng cao
chất lượng dạy và học môn Ngữ văn ở trường trung học phổ thông, tổ chức hội
giảng cấp tỉnh trong nhiều năm, tuyên dương những giáo viên đạt danh hiệu giáo
viên giỏi cấp tỉnh. Ban Giám hiệu nhà trường, tổ chuyên môn có nhiều đổi mới
trong tổ chức các buổi họp tổ chuyên môn, không nặng về thủ tục hành chính.
- Đội ngũ giáo viên trong tổ chuyên môn nhiệt tình, có nhiều kinh nghiệm
trong giảng dạy, tâm huyết với nghề, luôn đổi mới trong phương pháp dạy và học
nhằm nâng cao chất lượng dạy và học môn Ngữ văn. Giáo viên trong tổ nhiệt tình

tham gia các đợt thao giảng dự giờ, học hỏi kinh nghiệm giảng dạy. Nhiều học sinh
đạt giải cao trong các kỳ thi học sinh giỏi cấp tỉnh.
- Nhà trường được cung cấp nhiều trang thiết bị: máy chiếu, tranh ảnh, đồ
dùng dạy học….tạo hứng thú cho học sinh học tập môn Ngữ văn. Nhiều giáo viên
trong tổ chuyên môn tự làm đồ dùng dạy học, tìm tòi tư liệu phục vụ cho việc
giảng dạy môn Ngữ văn.
- Chương trình phân ban đòi hỏi thầy và trò phải sáng tạo trong giảng dạy và
học tập, phải phát huy tính chủ động, tích cực của học sinh. Giáo viên phải đổi mới
cách soạn giáo án, thiết kế bài dạy, tổ chức các khâu lên lớp và chuẩn bị ở nhà.
Nhờ vậy, chất lượng giảng dạy các bộ môn, trong đó có môn Ngữ văn ngày càng
cao. Tỉ lệ học sinh khá giỏi ngày càng tăng so với năm học trước.
- Học sinh học chương trình phân ban muốn đạt danh hiệu học sinh tiên tiến,
học sinh giỏi phải cố gắng học tập môn Ngữ văn.
2. Khó khăn:
- Trình độ học sinh trong nhà trường nhìn chung tương đối đồng đều. Học
sinh được tuyển vào lớp 10 trong các năm học đều là các học sinh có học lực
khá, giỏi. Học sinh có tinh thần ham học hỏi, thông minh, sáng tạo. Nhưng trong
mỗi lớp học, học lực của học sinh chưa đồng đều. Nhiều học sinh ý thức phấn
đấu chưa cao, bằng lòng với học lực trung bình. Một số học sinh học tập còn lơ
là, ham chơi, chưa tập trung nghe giảng, thụ động. Nhiều học sinh dành thời
2
gian cho các môn học khoa học tự nhiên, ôn thi vào đại học, môn Ngữ văn chỉ
mong đạt điểm trung bình.
- Chương trình học của học sinh THPT hiện còn nặng nề, kiến thức nhiều,
quỹ thời gian hạn chế. Giáo viên chưa có điều kiện đào sâu, nâng cao kiến thức
cho học sinh.
- Một số giáo viên chưa dành nhiều thời gian và công sức cho việc soạn
giảng về thơ chữ Hán. Giáo án đánh máy còn có hiện tượng sao chép của nhau
hoặc lấy nguyên từ trên mạng, ít chỉnh sửa cho phù hợp với tình hình học tập của
từng trường, với trình độ học sinh của từng lớp.

- Nhiều học sinh khi soạn bài ở nhà còn chép lại nguyên văn trong sách tham
khảo, lười suy nghĩ, thiếu sáng tạo, trả lời các câu hỏi theo khuôn mẫu có sẵn.
Nhiều giáo viên chưa chú ý đến việc ra đề, chưa phân loại chính xác học sinh khá,
giỏi và trung bình.
- Một số học sinh còn “học tủ”, “học vẹt”, môn Ngữ văn ở lớp chỉ đạt điểm
trung bình, nhưng thi học kỳ lại đạt điểm cao do “học tủ” trúng đề.
- Một số học sinh chưa có hứng thú học thơ chữ Hán do thơ chữ Hán không
dễ hiểu, học sinh ngại học thuộc lòng bản phiên âm và bản dịch thơ.
3. Số liệu thống kê:
Khi thực hiện phương pháp mới trong việc đọc-hiểu tác phẩm thơ chữ Hán,
chất lượng của học sinh được nâng cao. Nhiều học sinh đạt điểm khá, giỏi.
Kết quả khảo sát trong 3 năm học gần đây (Chấm điểm bài tự luận về thơ
chữ Hán):
Năm học
Số học
sinh được
khảo sát
Điểm dưới
5- Tỉ lệ
Điểm trung
bình- Tỉ lệ
Điểm khá,
giỏi- Tỉ lệ
2009- 2010 42 4- 9,5% 6- 14,3% 32- 76,2%
2010- 2011 38 1- 2,6% 7- 18,4% 30-79%
2011- 2012 37 0- 0% 5- 13,5% 32-86,5%
III. NỘI DUNG ĐỀ TÀI:
A. Cơ sở lý luận:
Do quan hệ đặc biệt giữa Việt Nam và Trung Quốc, văn học viết nước ta
ngay từ buổi đầu ra đời đã chịu ảnh hưởng sâu sắc nhiều yếu tố văn học Hán, văn

hóa Hán. Từ chữ viết là chữ Hán đến các thế tài sáng tác như thơ luật Đường (gồm
thất ngôn bát cú, thất ngôn tứ tuyệt) thơ cổ phung, phú, truyện, bi, ký… Thơ chữ
Hán là một thành tựu xuất sắc của văn học trung đại Việt Nam. Con đường tiến lên
của văn học trung đại là vừa phải tiếp thu, vừa phải Việt hóa, nhằm làm cho văn
học trung đại đậm đà tính dân tộc, không chỉ trong nội dung mà còn trong cả hình
3
thức. Thơ chữ Hán là thành tích quý báu của cha ông ta, được đưa vào giảng dạy ở
nhiều cấp học. Vì vậy, giúp học sinh có hứng thú học thơ chữ Hán, nâng cao chất
lượng đọc – hiểu tác phẩm thơ chữ Hán của văn học Việt Nam thời kỳ trung đại là
một việc rất cần thiết của người giáo viên giảng dạy bộ môn Ngữ văn ở trường
trung học phổ thông.
B. Nội dung, biện pháp thực hiện các giải pháp của đề tài :
1. Công việc chuẩn bị cho tiết đọc – hiểu tác phẩm thơ chư Hán:
1.1. Công việc của người giáo viên :
- Để nâng cao chất lượng dạy và học thơ chữ Hán, người giáo viên phải đầu
tư nhiều thời gian và công sức. Người giáo viên phải đọc kỹ phần Tiểu dẫn và phần
Văn bản. Những kiến thức được truyền đạt cho học sinh phải thật chính xác, khoa
học từ những nét chính về cuộc đời tác giả, những tác phẩm tiêu biểu, hoàn cảnh
sáng tác, nội dung và nghệ thuật của văn bản … Đặc biệt là phải tìm hiểu ý nghĩa
của từ, các điển cố, điển tích.
- Thiết kế bài học một cách khoa học, phù hợp với thực tiễn giảng dạy trong
nhà trường, phù hợp với đối tương học sinh. Chuẩn bị hệ thống câu hỏi chuẩn bị
bài, câu hỏi rèn luyện kỹ năng đọc - hiểu văn bản chữ Hán, câu hỏi và bài tập
hướng dẫn học sinh tự học ở nhà. Phát hiện, bồi dưỡng học sinh khá, giỏi, phát huy
năng lực đọc – hiểu văn bản thơ chữ Hán. Chuẩn bị hoạt động thảo luận theo tổ
nhóm của học sinh. Hệ thống câu hỏi đặt ra để học sinh thảo luận phải hướng vào
trọng tâm bài học, vào mục tiêu bài học đặt ra. Bài học phải đảm bảo chuẩn kiến
thức, kỹ năng, không lan man, dàn trải.
- Người giáo viên nắm vững trọng tâm kiến thức, kỹ năng của bài học, chuẩn
bị nhuần nhuyễn các khâu lên lớp, sẽ làm chủ được kiến thức, chủ động về thời

gian, không lúng túng khi gặp tình huống học sinh đặt ra câu hỏi đề nghị giáo viên
lý giải hoặc nâng cao vấn đề.
- Người giáo viên có thể tự làm đồ dùng dạy học, tìm thêm tư liệu nhằm
nâng cao hiệu quả giờ dạy, hoặc phân công học sinh chuẩn bị sơ đồ, mô hình, dụng
cụ học tập. Chẳng hạn : bức tranh đồng quê Việt Nam, bức tranh chiến đấu chống
quân Nguyên – Mông, truyện về nàng Tiểu Thanh …
- Hướng dẫn học sinh sử dụng sách giáo khoa, soạn bài mới, hướng dẫn học
sinh đọc – hiểu tác phẩm thơ chữ Hán ở nhà.
1.2. Công việc của học sinh:
- Học sinh phải phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của mình, không
lơ là, thụ động. Học sinh phải soạn bài ở nhà, đọc kỹ văn bản, nắm được những nét
chính về cuộc đời, sự nghiệp văn học, hoàn cảnh ra đời của tác phẩm …
- Học sinh chuẩn bị đồ dùng học tập theo hướng dẫn của giáo viên: bảng
phụ, tranh ảnh, hình vẽ … Chuẩn bị việc thảo luận theo tổ nhóm, tranh luận …
theo yêu cầu của từng bài học và định hướng của người thầy.
4
- Học sinh chuẩn bị bài học bám sát sách giáo khoa, bám sát chuẩn kiến
thức, kỹ năng qua câu hỏi hướng dẫn chuẩn bị bài của giáo viên.
- Những chỗ chưa hiểu sâu, học sinh có thể chuẩn bị câu hỏi, nhờ thầy cô
giáo giải đáp trên lớp.
- Học sinh chuẩn bị tâm thế học tập hào hứng, phấn khởi, tránh bị dồn ép căn
thẳng, mệt mỏi dẫn đến không đạt hiệu quả trong học tập.
- Học sinh có thể đọc thêm một số bài thơ chữ Hán không có trong chương
trình lớp 10 nhằm mở rộng, nâng cao tri thức. Chẳng hạn các bài thơ Tỏ lòng của
Không Lộ thiền sư, Phò giá về kinh của Trần Quang Khải…
- Liên hệ với các bài thơ chữ Hán đã học để tích hợp kiến thức về thể loại,
chẳng hạn : Cửa biển Bạch Đằng của Nguyễn Trãi, Sông núi nước Nam …
- Ghi chép những ý kiến nhận định, đánh giá hay về tác giả, tác phẩm để làm
tư liệu học tập.
2. Hướng dẫn học sinh đọc – hiểu phần Tiểu dẫn, nắm vững những kiến thức

về tác giả, tác phẩm:
Giáo viên hướng dẫn học sinh đọc – hiểu phần Tiểu dẫn. Học sinh đọc phải
rõ ràng, chính xác những thông tin về cuộc đời nhà thơ, những tác phẩm tiêu biểu,
hoàn cảnh sáng tác bài thơ. Giáo viên và những học sinh khác chú ý lắng nghe, đối
chiếu với sách giáo khoa. Nhận xét cách đọc, phát hiện, sửa chữa những chỗ đọc
sai dẫn đến những thông tin thiếu chính xác. Sau đó, giáo viên yêu cầu học sinh
tóm tắt những nội dung chính của phần Tiểu dẫn về tác giả, tác phẩm.
Giáo viên có thể cung cấp cho học sinh những tư liệu về tác giả, tác phẩm:
tranh chân dung, tranh phong cảnh, những lời nhận định về tác giả, lời bình hay về
tác phẩm … Mục đích giúp học sinh hiểu sâu sắc hơn về các tác giả, những đóng
góp về nội dung, nghệ thuật, hoàn cảnh ra đời của bài thơ. Ví dụ: sách Đại Việt sử
ký toàn thư viết về Phạm Ngũ Lão: “Ngũ Lão thích đọc sách, người phóng khoáng,
có chí làm việc lớn, thích ngâm thơ, về việc võ hình như ít bận tâm. Nhưng đội
quân của ông đều một lòng thân yêu như cha với con, đánh đâu được đấy”. Về
hoàn cảnh ra đời của bài thơ Cáo bệnh, bảo mọi người (Cáo tật thị chúng) của
thiền sư Mãn Giác, sách Thiền uyển tập anh chép : “Ngày 30 tháng 11, thiền sư
Mãn Giác cáo bệnh, có kệ dạy rằng : Xuân qua, trăm hoa rụng … Từ đó sư ngồi
kiết già mà mất, thọ bốn mươi lăm tuổi”. Nắm vững những tri thức trong phần
Tiểu dẫn giúp cho học sinh có cơ sở hiểu sâu sắc hơn nội dung bài thơ chữ Hán.
3. Đọc – hiểu bài thơ chữ Hán phải đối chiếu phần phiên âm với bản dịch
nghĩa và bản dịch thơ, bám sát kết cấu và cảm xúc chủ đạo của bài thơ, nắm
vững phần chú thích, hiểu được nghĩa của từ, điển cố, điển tích.
Các bài thơ chữ Hán của văn học trung đại Việt Nam được dạy và học trong
trường phổ thông đều được phiên âm theo cách đọc Hán Việt, tiếp theo là bản dịch
nghĩa và bản dịch thơ. Trong quá trình đọc – hiểu bài thơ, phải bám sát bản phiên
âm và bản dịch nghĩa, bản dịch thơ, phát hiện những chỗ bản dịch thơ chưa sát với
nội dung trong phần phiên âm hoặc bỏ sót từ trong phần phiên âm. Phải bám sát
5
kết cấu và cảm xúc chủ đạo của bài thơ để có cách đọc cho phù hợp, đạt hiệu quả.
Ví dụ : bài thơ Tỏ lòng của Phạm Ngũ Lão, câu thơ thứ nhất trong nguyên tác

“Hoành sóc giang sơn kháp kỷ thu” (Cầm ngang ngọn giáo giữ gìn non sông đã
mấy thu), bản dịch thơ của Bùi Văn Nguyên là “Múa giáo non sông trải mấy thu”
làm mất đi vẻ đẹp hiên ngang, vững chãi, lẫm liệt của con người mang hào khí
Đông A. Trong câu thơ thứ hai “Tam quân tì hổ khí thôn ngưu” (Ba quân như hổ
báo, khí thế hùng dũng nuốt trôi trâu”, bản dịch thơ là “Ba quân khí mạnh nuốt trôi
trâu), bản dịch thơ đã bỏ mất từ tì hổ (hổ báo). Nhiều học sinh có ý thức học tập
tốt, tham khảo thêm nhiều tư liệu, đã đặt câu hỏi cho giáo viên : Tại sao khí thôn
ngưu bản dịch trong sách giáo khoa là “khí mạnh nuốt trôi trâu” mà không phải là
“khí thế át sao Ngưu”? Chúng ta cần phải giải thích cho học sinh khí thôn ngưu có
hai cách dịch : khí thế nuốt trâu và khí thế át sao Ngưu. Theo các nhà nghiên cứu,
ở đây nên hiểu khí thôn ngưu là khí thế nuốt trôi trâu. Đỗ Phủ có câu thơ : “Tiểu
nhi ngũ tuế, khí thôn ngưu” (Đứa trẻ năm tuổi đã có khí thế mạnh mẽ có thể nuốt
trôi trâu). Nhà thơ Việt Nam Nguyễn Trung Ngạn cũng có câu thơ : “Mậu linh dĩ
hữu thôn ngưu chí” (Thuở thiếu niên đã có chí nuốt trôi trâu). Người giáo viên còn
phải hướng dẫn học sinh sử dụng sách giáo khoa, tìm hiểu nghĩa của từ Hán Việt
trong bản dịch thơ, liên hệ với thực tiễn lịch sử. Giáo viên đặt câu hỏi cho học sinh
tìm hiểu ý nghĩa của từ Hán Việt, điển tích. Ví dụ : “Ý nghĩa của “nợ công danh”
là gì? Vũ Hầu “là nhân vật nào? Tại sao tác giả lại nói đến nhân vật này?” Giáo
viên có thể giải thích một số khái niệm như : giang sơn, khí, nam nhi …thường
xuất hiện trong thơ trung đại.
Trong quá trình đọc – hiểu một bài thơ chữ Hán của văn học trung đại Việt
Nam, cần đối chiếu nguyên tác với bản dịch thơ. Nguyên tác bài thơ biểu hiện
những tâm tư, tình cảm ý chí, tài năng nghệ thuật của bài thơ. Đọc – hiểu một bài
thơ chữ Hán, giáo viên và học sinh phải xuất phát từ nguyên tác. Có nhiều bản dịch
thơ dùng từ hay, hình ảnh đẹp, nhịp điệu uyển chuyển, nhưng chưa thể hiện đầy đủ
tư tưởng, tình cảm, nghệ thuật điêu luyện của tác giả. Khi bám sát nguyên tác,
chúng ta sẽ tránh được sự suy diễn tùy tiện, thiếu căn cứ. So sánh, đối chiếu
nguyên tác với bản dịch thơ giúp chúng ta hiểu sâu sắc giá trị tư tưởng, giá trị nghệ
thuật của tác phẩm, giúp cho học sinh phát triển khả năng tư duy độc lập và sáng
tạo. Ví dụ: trong bài thơ Đọc Tiểu Thanh ký của Nguyễn Du, hai câu thơ đầu gợi

lên sự “biến thiên dâu bể” của cuộc đời và nỗi ngậm ngùi, luyến tiếc trước cái đẹp
bị tiêu tan nghiệt ngã:
Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư
Độc điếu song tiền nhất chỉ thư
(Tây Hồ cảnh đẹp hóa gò hoang
Thổn thức bên song mảnh giấy tàn)
(Câu thơ trong bản dịch chưa thể hiện đầy đủ nội dung trong nguyên tác. Từ
hoa uyển (vườn hoa), đây là vườn hoa bên Tây Hồ, dịch là cảnh đẹp chưa cụ thể về
địa điểm. Từ tẫn nghĩa là hết, triệt để, dịch là hóa thì không hay bằng nguyên tác.
Hình tượng thơ đặt trong sự đối lập vườn hoa – gò hoang gợi nghịch cảnh éo le.
Từ tẫn trong “hoa uyển tẫn thành khư” gợi sự đổi thay khốc liệt: Vườn hoa Tây Hồ
6
đẹp là thế mà nay đã thành gò hoang, không lưu lại dấu vết nào. Câu thơ trong
nguyên tác là nỗi niềm xót thương, day dứt của tác giả. Từ độc trong câu thơ thứ
hai có nghĩa là “một mình” khác với chữ độc trong nhan đề bài thơ, nghĩa là “đọc”,
điếu nghĩa là viếng , chữ độc và chữ nhất (một) trong câu thơ chữ Hán là để nói
một lòng đau tìm gặp một hồn đau. Một mình nhà thơ viếng người đã khuất qua
một tập sách mỏng đọc trước song cửa. Nhất chỉ thư (một tập sách) dịch thành
mảnh giấy tàn thì tình cảm quá lộ, mất đi vẻ kín đáo, thâm trầm. Câu thơ trong
nguyên tác gợi lên ý nghĩa: người chết cô đơn mà người viếng cũng cô đơn. Câu
thơ là cách Nguyễn Du vượt thời gian và sinh tử để tri âm với Tiểu Thanh. Khi dạy
hai câu thơ này, giáo viên lưu ý học sinh đối chiếu bản dịch nghĩa, dịch thơ với
nguyên tác. Giáo viên yêu cầu học sinh nêu nội dung của hai câu thơ đầu, giải
thích và phân tích ý nghĩa của các từ hoa uyển, tẫn, độc, điếu, nhất chỉ thư … Học
sinh suy nghĩ, phát biểu cách hiểu, cách cảm nhận của bản thân.
Dịch một bài thơ chữ Hán sang tiếng Việt vừa đảm bảo ý nghĩa, vừa hay là
một việc rất khó khăn. Vì người dịch phải có vốn từ ngữ phong phú, giỏi chữ Hán,
có khả năng cảm thụ tác phẩm, phát hiện ra cái hay, cái đẹp của bài thơ … Trong
quá trình dạy và học thơ chữ Hán, giáo viên phải thường xuyên đối chiếu nguyên
tác và bản dịch thơ để lý giải sâu sắc, thuyết phục hơn giá trị của tác phẩm.

Đọc – hiểu tác phẩm thơ chữ Hán cần bám sát kết cấu và cảm xúc chủ đạo
của bài thơ. Chẳng hạn bài Vận nước của Pháp Thuận cần đọc chậm, rõ, thể hiện
tính chất chính luận của bài thơ. Bài Cáo bệnh, bảo mọi người của thiền sư Mãn
Giác, bốn câu đầu thể hiện quy luật sinh tử của tự nhiên, cần đọc chậm, giọng trầm
thể hiện tính chất triết lý. Hai câu cuối thể hiện niềm lạc quan của tác giả, cần đọc
sôi nổi, hứng khởi hơn. Đọc đúng, đọc diễn cảm một bài thơ chữ Hán là một việc
không dễ dàng. Bởi vì mỗi học sinh có một giọng đọc khác nhau, có sự cảm thụ
khác nhau về bài thơ. Việc rèn luyện năng lực đọc – hiểu một bài thơ chữ Hán cho
học sinh là rất cần thiết, giúp cho các em chiếm lĩnh các giá trị của tác phẩm.
4. Nắm được những tri thức văn hóa, tri thức về thể loại:
Đọc – hiểu tác phẩm thơ chữ Hán là đi sâu tìm hiểu văn bản với cấu trúc,
hình tượng, ngôn ngữ của văn bản. Nhưng nếu giáo viên cung cấp cho học sinh
những tri thức về văn hóa, về thể loại của văn bản thì việc đọc – hiểu tác phẩm sẽ
đạt hiệu quả cao hơn. Chẳng hạn Tiểu Thanh là một người phụ nữ tài sắc có số
phận bi thảm thuộc đề tài người phụ nữ tài hoa bạc mệnh trong thơ Nguyễn Du.
Nhưng đề tài này lại nằm trong một phạm vi quan tâm rộng hơn, đó là vấn đề thân
phận của những người tài năng nói chung. Nguyễn Du đã viết về Khuất Nguyên,
Đỗ Phủ, Giả Nghị, những nhân vật có tài mà bất hạnh trong lịch sử. Nguyễn Du
viết về Đỗ Phủ, một nhà thơ nổi tiếng thời Đường: Nhất cùng chí thử khởi công thi
(Một đời ông cùng khổ như thế há phải vì tài thơ). Như vậy, Nguyễn đã đề cập đến
một vấn đề rất mới, nhưng cũng rất quan trọng của chủ nghĩa nhân đạo trong văn
học. Ông đòi hỏi xã hội phải biết trân trọng tài năng, trân trọng những người làm ra
các giá trị tinh thần. Đó là điều cần nắm vững qua bài thơ Đọc Tiểu Thanh ký.
Chương trình môn Ngữ văn ở bậc THPT hiện nay được xây dựng và thực
hiện đổi mới phương pháp theo tinh thần tích hợp. Trong đó trọng tâm của yêu cầu
7
dạy học phần văn học là học sinh phải biết cách đọc – hiểu văn bản theo đặc trưng
thể loại. Yêu cầu này xác định những nội hàm cụ thể để học sinh thực hiện một
chuỗi thao tác chiếm lĩnh giá trị tác phẩm, hướng tới hiệu quả thực hành vận dụng
và nối kết kiến thức với phần Tiếng Việt, Làm văn.

Vì vậy, khi đọc – hiểu một văn bản văn học, trong đó có đọc – hiểu tác phẩm
thơ chữ Hán thời kỳ trung đại, giáo viên cần cung cấp cho học sinh những tri thức
về thể loại. Ví dụ, bài thơ Tỏ lòng của Phạm Ngũ Lão là bài thơ Đường luật tứ
tuyệt. Hai câu thơ đầu dành cho cảnh và sự , hai câu sau dành cho suy tư, cảm xúc
(tình). Bài thơ Đọc Tiểu Thanh ký của Nguyễn Du là bài thơ thất ngôn bát cú
Đường luật, nên cũng được tổ chức theo công thức chung là cảnh và sự gợi lên nên
tình. Hai câu thơ đầu tả cảnh và kể sự, sáu câu sau dành cho suy tư, cảm xúc.
Phần tri thức về văn hóa và tri thức về thể loại cần được vận dụng linh hoạt,
tùy theo nội dung bài học, thời gian được phân phối và đối tượng học sinh mà cung
cấp kiến thức cần thiết. Ví dụ ở các bài đọc thêm: bài Vận nước của Pháp Thuận,
thuộc thể thơ ngữ ngôn tuyệt cú Đường luật, bài Cáo bệnh, bảo mọi người của
thiền sư Mãn Giác thuộc thể kệ, một thể văn Phật giáo, được viết bằng văn vần, có
giá trị văn chương như một bài thơ. Bài Hứng trở về của Nguyễn Trung Ngạn là
bài thơ thất ngôn tuyệt cú Đường luật. Cả ba bài thơ này được dạy trong 1 tiết, giáo
viên chỉ cung cấp những tri thức về văn hóa, về thể loại ngắn gọn, chọn lọc, tránh
sa đà, lan man.
5. Đọc – hiểu ý nghĩa của ngôn từ, của hình tượng trong bài thơ:
Khi đọc – hiểu một tác phẩm thơ chữ Hán, phải đọc – hiểu ý nghĩa của ngôn
từ vì yếu tố đầu tiên mà chúng ta tiếp xúc với bài thơ là ngôn từ. Cần tạo ấn tượng
toàn vẹn về văn bản bằng cách đọc văn bản từ đầu đến cuối, hiểu được từ khó, từ
lạ, ý nghĩa của các hình tượng. Ví dụ: trong bài thơ Vận nước, Pháp Thuận mượn
hình tượng thiên nhiên để nói về vận nước. Nghệ thuật so sánh “Vận nước như dây
mây leo quấn quýt”, vừa nói lên sự bền chặt, vừa nói lên sự lâu dài, sự phát triển
thịnh vượng. Để khám phá được ý này, giáo viên cần đặt câu hỏi: “Tác giả dùng
hình ảnh so sánh “Vận nước như dây mây leo quấn quýt” nhằm diễn tả điều gì?”
Giáo viên cần giải thích cho học sinh hiểu được khái niệm vô vi. Nghĩa đen của từ
này là “không làm gì”. Khái niệm vô vi được nhiều trường phái triết học, tôn giáo
sử dụng. Trong Đạo đức kinh của Lão Tử, vô vi là một thuật ngữ chỉ một thái độ
sống thuận theo tự nhiên, không làm điều trái tự nhiên. Trong bài thơ Vận nước, từ
này còn được hiểu theo nghĩa của Nho giáo. Một đường lối chính trị cho đấng quân

vương: để xây dựng được nền hòa bình vững chắc, cần “vô vi”, không làm gì trái
với tự nhiên, dùng phương sách “đức trị”, lấy đức mà giáo hóa dân. Được như vậy
thì đất nước thái bình, thịnh trị, nhân dân ấm no, hạnh phúc, không còn nạn đao
binh. Đây cũng là một truyền thống dân tộc. Để phát hiện được ý này, giáo viên có
thể đặt câu hỏi cho học sinh “Hãy giải thích vì sao tác giả lại khẳng định: “Vô vi
trên điện các – Chốn chốn dứt đao binh”? “Hai câu thơ cuối phản ánh truyền thống
tốt đẹp gì của dân tộc Việt Nam?”. Hoặc gợi ý cho học sinh so sánh tư tưởng tiến
bộ trong bài thơ với tư tưởng thân dân trong thơ văn Nguyễn Trãi sau này.
8
Khi đọc – hiểu một bài thơ chữ Hán của văn học trung đại, người giáo viên
cần hướng dẫn học sinh cảm nhận hình tượng văn học từ các hình ảnh, chi tiết,
hiểu và cảm nhận một cách tổng thể về nội dung, ý nghĩa của hình tượng. Ví dụ,
hai câu cuối trong bài Cáo bệnh, bảo mọi người của thiền sư Mãn Giác nói lên một
hiện tượng tưởng như ngược quy luật:
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai
(Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết,
Đêm qua sân trước một cành mai)
Giữa cảnh xuân tàn, một cành mai xuất hiện, như bất chấp quy luật bao đời :
hoa mai thường nở vào cuối đông và đầu xuân, đến cuối xuân không còn hoa mai
nữa. Có thể xem hình tượng hoa mai ở đây biểu trưng cho sức sống mãnh liệt của
vạn vật và con người, vượt lên trên sự sống chết, thịnh suy, bất chấp sự thay đổi
của thời gian và thời tiết. Có thể gọi cành mai ở đây có giá trị tượng trưng cho sự
bất biến của tinh thần, ý chí, tư tưởng. Cành mai là một biểu tượng đẹp cho tinh
thần của con người, con người có ý chí kiên cường, vượt lên sự nghiệt ngã của quy
luật tự nhiên. Trong văn học trung đại, hoa mai là hình ảnh ước lệ trong bộ tranh tứ
bình. Để tìm hiểu ý nghĩa hình tượng cành mai, giáo viên đặt câu hỏi: “Cảm nhận
của anh (chị) về hình tượng cành mai trong câu thơ cuối?”.
Tìm hiểu ý nghĩa hình tượng trong một bài thơ chữ Hán còn là tìm hiểu tài
năng sử dụng ngữ từ, hình ảnh, sự sắp xếp kết cấu gợi cảm của nhà thơ, sự thống

nhất giữa những mặt đối lập trong hình tượng. Các nhà thơ thời trung đại thường
tạo ra cách tiếp cận thế giới từ các quan hệ đối lập. Ví dụ hai câu thơ mở đầu bài
Cáo bệnh, bảo mọi người của thiền sư Mãn Giác:
Xuân khứ bách hoa lạc,
Xuân đáo bách hoa khai
(Xuân qua, trăm hoa rụng
Xuân tới, trăm hoa nở)
Về nghệ thuật sử dụng và sắp xếp từ ngữ, mỗi từ ngữ đều chứa đựng khả
năng biểu hiệu ý tứ sâu sắc. Bách hoa lạc (trăm hoa rụng), bách hoa khai (trăm hoa
nở), chỉ một từ hoa nhưng là biểu trưng cho vạn vật, biểu trưng cho mùa xuân đến,
mùa xuân đi. Nghệ thuật điệp, đối được phát huy cao độ để tạo nên tính hàm súc
cho hai câu thơ. Cách sắp xếp các hình ảnh đối nhau càng làm tăng sự đối lập giữa
sự mất đi và sinh ra của vạn vật, diễn tả quy luật tuần hoàn của tự nhiên.
6. Đọc – hiểu để cảm nhận được cái hay, cái đẹp của tác phẩm, tư tưởng, tình
cảm của tác giả:
“Nhiệm vụ then chốt trước hết của giáo viên văn học đối với học sinh là
giúp các em “biết đọc” tác phẩm, biết tái hiện hình tượng, nội dung chứa đựng
trong tác phẩm, để trên cơ sở đó giúp các em biết phân tích cái hay, cái đẹp của
nó”. (Nguyễn Duy Bình) Đây là một hoạt động có vai trò quan trọng trong việc
9
giảng dạy thơ chữ Hán. Hoạt động này giúp học sinh qua việc tự mình tiếp xúc với
thế giới sáng tạo của tác phẩm mà tiếp thu những tinh hoa văn học của dân tộc và
nhân loại, tiếp theo những cái hay, cái đẹp của tác phẩm vì nội dung và nghệ thuật.
Từ đó, rèn luyện kỹ năng đọc – hiểu một bài thơ chữ Hán. Người giáo viên phải
đặt câu hỏi, hướng dẫn học sinh phát hiện cái hay, cái đẹp của tác phẩm thơ chữ
Hán. Ví dụ, sau khi học bài thơ Vận nước của Pháp Thuận, giáo viên đặt câu hỏi :
“Hãy đánh giá chung về nội dung và nghệ thuật của bài thơ?”. Giáo viên định
hướng, gợi ý học sinh trả lời: Bài thơ biểu hiện lòng yêu nước, khát vọng sống hòa
bình và sự quan tâm đến việc nước của tác giả. Bài thơ được viết theo thể ngũ ngôn
tuyệt cú Đường luật, ngôn ngữ hàm súc, hình ảnh sinh động và gợi cảm. Bằng tâm

huyết và tấm lòng luôn trải rộng tình đời, nhà thơ đã góp cho văn học dân tộc một
tác phẩm văn học có giá trị nghệ thuật cao và giá trị triết lý sâu sắc.
Học sinh phải đọc – hiểu tư tưởng, tình cảm của tác giả vì đó là linh hồn của
tác phẩm văn học, được thể hiện qua ngôn ngữ, qua hình tượng nghệ thuật. Ví dụ,
sau khi hiểu được vẻ đẹp của ngôn từ và hình ảnh nghệ thuật trong bài Hứng trở về
của Nguyễn Trung Ngạn: cây dâu già lá rụng, nong tằm vừa chín, lúc sớm trổ bông
thoang thoảng hương thơm, cua đang lúc béo … giàu sức gợi cảm làm nên những
hương vị riêng của thôn quê, học sinh cảm nhận được lòng yêu nước và niềm tự
hào dân tộc sâu sắc của tác giả. Tình yêu ấy thể hiện bằng nỗi nhớ quê hương và sự
gắn bó tha thiết với cuộc sống bình dị ở quê nhà. Nỗi nhớ quê hương da diết thôi
thúc tác giả quay về dù đang sống sung sướng giữa chốn phồn hoa.
7. So sánh, liên hệ, tích hợp các kiến thức :
Hoạt động tích hợp giúp cho học sinh hiểu được tính hệ thống của văn bản,
1iên hệ với những kiến thức đã học ở phần này hoặc sẽ học ở phần kia. Mặt khác,
trong quá trình đọc – hiểu tác phẩm thơ chữ Hán, giáo viên cần so sánh, liên hệ với
các tác phẩm thơ có cùng đề tài, chủ đề, cảm hứng nghệ thuật để mở rộng, nâng
cao kiến thức cho học sinh. Từ đó, rèn luyện cho học sinh cách tư duy lôgic, chính
xác, khoa học, giúp học sinh tái hiện kiến thức cũ, tiếp cận với kiến thức mới.
Chẳng hạn, khi đọc – hiểu bài thơ Tỏ lòng của Phạm Ngũ Lão, giáo viên so sánh
với các bài thơ : Tỏ lòng của Không Lộ thiền sư, Nỗi lòng của Đặng Dung. Khi đọc
– hiểu hai câu thơ đầu trong bài Đọc Tiểu Thanh ký của Nguyễn Du, giáo viên cho
học sinh tích hợp với tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du mà học sinh đã được
học ở THCS. Giáo viên gợi ý cho học sinh tích hợp kiến thức : Nguyễn Du đến với
Tiểu Thanh có phần giống Thúy Kiều đến với Đạm Tiên. Nấm mồ Đạm Tiên “Sè
sè nấm đất bên đường” gợi lên ở Thúy Kiều bao mối thương tâm. Cái gò hoang nơi
chôn Tiểu Thanh gợi lên ở Nguyễn Du bao điều thổn thức “Tây Hồ cảnh đẹp hóa
gò hoang”. Khi tìm hiểu ý nghĩa nỗi “thẹn” trong bài thơ Tỏ lòng (Phạm Ngũ Lão),
giáo viên so sánh, liên hệ với nỗi thẹn của Nguyễn Khuyến trong bài thơ Vịnh mùa
thu “Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào”. Xưa nay, những người có nhân cách vẫn
thường mang trong mình nỗi thẹn. Phạm Ngũ Lão “thẹn” chưa có tài mưu lược

như Gia Cát Lượng thời Hán để trừ giặc, cứu nước. Nguyễn Khuyến bày tỏ nỗi
thẹn khi nghĩ tới Đào Tiềm, một danh sĩ cao khiết thời Tấn (Trung Quốc). Đó là
nỗi thẹn có giá trị nhân cách.
10
8. Đọc sáng tạo tác phẩm thơ chữ Hán :
Đọc – hiểu văn bản văn học nói chung và đọc – hiểu tác phẩm thơ chữ Hán
nói riêng là một việc sáng tạo vì ngoài những yếu tố đã có như ngôn từ, hình tượng
nghệ thuật, người đọc suy nghĩ, liên tưởng để khái quát thành những điều cao hơn,
sâu sắc hơn. Người đọc hiểu được lớp nghĩa tinh tế là tài năng và phong cách nhà
văn, những nét đẹp tiềm ẩn trong văn bản. Đọc sáng tạo là liên hệ những gì đang
đọc với những gì đã đọc, liên hệ mở rộng tầm hiểu biết của bản thân. Macxim
Gorki đã nói đến việc làm cho người đọc “có khả năng xây dựng hình tượng”, “có
khả năng tưởng tượng bổ sung vào bức tranh, những hình tượng, những bóng
dáng, những tích cực mà nhà văn đưa ra, bằng cách rút từ cái vốn kinh nghiệm
của bản thân, từ cái kho dự trữ ấn tượng và kiến thức của người đọc”. Nguyễn
Duy Bình bổ sung thêm : “Tài năng sáng tạo của tác giả và tính năng đọc “cùng
sáng tạo” của người học đã biến tác phẩm văn học thành một sinh mệnh đặc biệt,
có sức sống bền vững, với một nội dung phong phú, phát triển vô hạn, vô cùng,
trong một vẻ đẹp luôn luôn tươi mới”. Từ chỗ cảm nhận được văn bản, giáo viên
có thể hướng dẫn học sinh liên hệ mở rộng để phát hiện thêm những ý nghĩa sâu
xa, hiểu được tính đa nghĩa, giàu sức gợi cảm của tác phẩm, cá tính sáng tạo của
tác giả. Ví dụ, khi đọc – hiểu hai câu thơ “Son phấn có thần chôn vẫn hận – Văn
chương không mệnh đốt còn vương” trong bài thơ Đọc Tiểu Thanh ký của Nguyễn
Du, giáo viên hướng dẫn học sinh liên hệ, mở rộng để hiểu được ý nghĩa sâu xa
của nó. Son phấn là nói đến nhan sắc, văn chương là nói đến tài năng. Với hai câu
thơ, tác giả đã đặt ra câu hỏi : phải chăng “son phấn có thần” nên Tiểu Thanh chết
đi rồi vẫn để cho người đời sau thương cảm? Nguyễn Du muốn nói đến giá trị cao
quý, giá trị bất diệt của cái đẹp. Nguyễn Du thể hiện sự trân trọng tài năng, ngưỡng
mộ cái đẹp. Cái đẹp có sức sống bất diệt, vì thế mà “ba trăm năm lẻ” sau dù cho
“Tây Hồ cảnh đẹp hóa gò hoang” nhưng Tiểu Thanh vẫn sống, vẫn không bị lãng

quên. Cuộc đời của nàng vẫn còn làm xúc động sâu xa tấm lòng con người “Son
phấn có thần chôn vẫn hận” đã khẳng định một tấm lòng nhân đạo hiếm có giữa xã
hội trung đại – xã hội không công nhận tài hoa, trí tuệ của người phụ nữ. Nguyễn
Du đã ca ngợi nhan sắc Thúy Kiều, ca ngợi nhan sắc Đạm Tiên và nhà thơ đã
khẳng định “những đấng tài hoa – Sống là thể phách, thác là tinh anh”. Các từ
ngữ son phấn có thần và thác là tinh anh đã khẳng định tâm hồn, tư tưởng Nguyễn
Du vượt lên trên thời đại. Với con mắt sắc sảo, tinh thần trân trọng, yêu thương,
Nguyễn Du còn phát hiện ở người phụ nữ một vẻ đẹp khác – vẻ đẹp tài hoa, trí tuệ
ẩn giấu bên trong nhan sắc khuynh thành. Đọc – hiểu bài thơ Cáo bệnh, bảo mọi
người của thiền sư Mãn Giác, học sinh cảm nhận được trong thời Lý, khi Phật giáo
đang thịnh hành, dù xuất gia tu hành nhưng các thiền sư vẫn không quay lưng lại
với cuộc đời, vẫn đầy bản lĩnh, ý chí và tham gia tích cực vào công cuộc dựng xây
và bảo vệ đất nước.
9. Tổ chức thảo luận – lĩnh hội tác phẩm thơ chữ Hán của văn học trung đại
Việt Nam:
Việc cho học sinh thảo luận để lĩnh hội tác phẩm thơ chữ Hán của văn học
trung đại Việt Nam, tôi đã tiến hành trong nhiều năm trong các tiết đọc văn và đọc
thêm. Việc thảo luận giúp các em tự chiếm lĩnh kiến thức, vừa thấy hiểu bài hơn và
11
có thể hiểu thêm một số bài thơ chữ Hán không được giới thiệu trong chương trình
THPT. Chính vì thế, học sinh càng có hứng thú hơn khi học thơ chữ Hán của văn
học Việt Nam thời kỳ trung đại.
Trong quá trình tổ chức dạy và thảo luận, tôi có một số ghi nhận sau :
- Không phải tiết học nào cũng tiến hành thảo luận. Trong một tiết học
không nên tổ chức thảo luận nhiều lần.
- Không đưa ra những vấn đề quá dễ, quá đơn giản để thảo luận. Vấn đề thảo
luận phải bám sát văn bản thơ chữ Hán.
- Trong khi thảo luận, giáo viên phải theo dõi để hỗ trợ học sinh kịp thời
cũng như nhắc nhở các em lơ là, thúc đẩy sự hứng thú học thơ chữ Hán của học
sinh.

- Thảo luận để cảm nhận được cái hay, cái đẹp về nội dung, nghệ thuật của
bài thơ chữ Hán, tư tưởng, tình cảm của tác giả ẩn chứa sau những từ ngữ, hình
ảnh thơ.
- Có những vấn đề thảo luận tại lớp, cũng có vấn đề giao cho các nhóm
chuẩn bị ở nhà, lên lớp trình bày kết quả.
Có rất nhiều hình thức nêu câu hỏi thảo luận theo tổ nhóm có thể thảo luận
về cuộc đời nhà thơ, về vẻ đẹp tâm hồn nhà thơ. Câu hỏi thảo luận phải hướng vào
trọng tâm của bài học, phát huy được khả năng tư duy độc lập, sáng tạo của học
sinh, phải hướng đến làm sáng tỏ cái “thần” của câu chữ, của hình ảnh, cảm nhận
được chiều sâu tâm hồn, tư tưởng của nhà thơ. Ví dụ, khi đọc – hiểu hai câu thơ
cuối của bài thơ Tỏ lòng (Phạm Ngũ Lão), giáo viên nêu câu hỏi thảo luận “Nội
dung của hai câu thơ sau nói lên tâm sự gì? Vì sao tác giả lại nói đến “nợ công
danh” và “Vũ hầu”? Có ý kiến cho rằng, Phạm Ngũ Lão không nên tự thẹn khi so
mình với Gia Cát Lượng. Ý kiến anh (chị) như thế nào?” Khi học bài Đọc Tiểu
Thanh ký của Nguyễn Du, giáo viên đặt câu hỏi, hướng dẫn học sinh thảo luận:
“Đặt trong thi pháp văn học trung đại, việc Nguyễn Du hai lần tự xưng “ngã” (tôi)
và “Tố Như” (tên chữ) đã hé mở điều gì?
10. Sơ đồ hóa, củng cố kiến thức, luyện tập:
Sơ đồ hóa là thao tác mã hóa kiến thức cơ bản của bài học, giúp học sinh ghi
nhớ kiến thức một cách lôgic, biết nhận diện, lý giải mối quan hệ nội tại của vấn
đề, vận dụng các kỹ năng phân tích đối chiếu, tổng hợp kiến thức để giải quyết các
vấn đề thực tiễn. Ví dụ : dạy bài Hứng trở về của Nguyễn Trung Ngạn, giáo viên
nêu câu hỏi: “Lập sơ đồ những biểu hiện tình yêu quê hương của tác giả”, từ đó
nêu chủ đề của bài thơ?”
12
Ta có sơ đồ sau :
Ví dụ : Sau khi học xong bài thơ Tỏ lòng của Phạm Ngũ Lão, giáo viên hướng
dẫn học sinh lập sơ đồ qua câu hỏi “ Lập sơ đồ những biểu hiện vẻ đẹp của hào khí
Đông A qua bài thơ?”
Ta có sơ đồ sau :

Sau khi tiến hành đọc – hiểu bài thơ chữ Hán, giáo viên hướng dẫn học sinh
tổng kết lại bài học, củng cố lại kiến thức. Giáo viên gọi học sinh nêu ý nghĩa văn
bản, sau đó giáo viên chốt lại ý. Hoạt động đọc – hiểu phải coi trọng tính ứng dụng
vào thực tiễn, liên hệ với thực tiễn. Ở phần Hướng dẫn tự học, giáo viên nêu các
câu hỏi, bài tập hướng dẫn học sinh tự học ở nhà. Đổi mới cách kiểm tra đánh giá,
khuyến khích học sinh tự học sáng tạo, tìm đọc các bài thơ chữ Hán nằm ngoài
chương trình phổ thông để nâng cao tri thức về văn học dân tộc và văn học nhân
loại.
13
Tình yêu quê hương
Nỗi nhớ quê hương
xứ sở
Khát vọng
được trở về
Lòng yêu nước, tự
hào dân tộc
Vẻ đẹp của
thời đại
Vẻ đẹp của
con người
thời Trần
Tầm vóc tư thế
lớn lao kỳ vĩ
Lý tưởng, hoài
bão cao cả
Vẻ đẹp của
hào khí
Đông A
Khí thế
hào hùng

Tinh thần
quyết thắng
IV. KẾT QUẢ:
Chất lượng đọc – hiểu tác phẩm thơ chữ Hán của văn học trung đại Việt
Nam qua việc kiểm tra tự luận 36 học sinh trường THPT Long Khánh, năm học
2011 – 2012.
- Điểm dưới 5 : 1 – 2,8%.
- Điểm trung bình : 5 – 13,9%.
- Điểm khá : 17 – 47,2%.
- Điểm giỏi : 13 – 36,1%.
V. BÀI HỌC KINH NGHIỆM :
Để đọc – hiểu có hiệu quả một tác phẩm thơ chữ Hán, chúng ta phải:
- Bám sát nguyên tác, đối chiếu bản dịch thơ với nguyên tác để tìm ra những
ý dịch còn thiếu hoặc bỏ sót từ ngữ.
- Chọn phương pháp dạy học phù hợp với từng bài dạy.
- Tăng cường sử dụng tranh ảnh, đồ dùng dạy học, bảng phụ khi lên lớp.
- Nội dung bài học phải bám sát chuẩn kiến thức – kỹ năng.
- Hướng dẫn học sinh soạn bài kỹ ở nhà, biết sử dụng tốt sách giáo khoa.
Tăng cường luyện tập, rèn luyện kỹ năng đọc - hiểu tác phẩm thơ chữ Hán.
- Tích hợp với các kiến thức liên quan đã được học trong chương trình
THCS hoặc sẽ được học trong chương trình THPT.
- Phát huy tính chủ động, tích cực của học sinh bằng phương pháp dạy học
nêu vấn đề, đọc diễn cảm, thuyết trình, thảo luận tổ nhóm, trắc nghiệm khách quan
… Học sinh thuyết trình, nêu cảm nghĩ của mình về tác giả, tác phẩm, phát hiện ra
cái hay cái đẹp trong từ ngữ hình tượng bài thơ … trong các tiết học tự chọn, câu
lạc bộ văn học. Khuyến khích những học sinh khá giỏi, có tư duy sáng tạo.
VI. KẾT LUẬN :
Việc rèn luyện cho học sinh năng lực đọc – hiểu tác phẩm thơ chữ Hán trong
văn học trung đại Việt Nam đòi hỏi nhiều thời gian và công sức của người giáo
viên. Nâng cao chất lượng đọc – hiểu văn bản thơ chữ Hán góp phần nâng cao chất

lượng môn Ngữ văn trong trường THPT, tạo điều kiện cho học sinh có nhửng kiến
thức phục vụ cho cuộc sống mai sau. Người giáo viên phải khơi dậy cho học sinh
hứng thú học thơ chữ Hán, thích tìm tòi kiến thức nâng cao chất lượng học tập.
Muốn vậy, người giáo viên cần đọc thêm sách báo để tích lũy kiến thức, luôn tiếp
cận với những tri thức mới, phương pháp dạy học mới, đồng thời phải có năng lực
sư phạm, yêu thích thơ chữ Hán, nhạy cảm với cái hay, cái đẹp của tác phẩm, trân
trọng những tinh hoa văn học dân tộc. Ngoài ra người giáo viên phải trang bị thêm
kiến thức vì chữ Hán, về từ Hán Việt phục vụ cho việc giảng dạy thơ chữ Hán.
Đọc – hiểu tác phẩm thơ chữ Hán không chỉ yêu cầu đọc bằng kỹ thuật mà còn
bằng cả tâm hồn, vốn sống, những trải nghiệm của người đọc.
14
Sáng kiến của tôi đang trong quá trình áp dụng vào thực tiễn giảng dạy, cần
được tìm tòi, bổ sung cho hoàn chỉnh. Rất mong sự góp ý tận tình của các đồng
nghiệp.
VII. TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Sách giáo khoa Ngữ văn 10 - tập I – Nhà xuất bản Giáo dục – năm 2006.
2. Sách giáo viên Ngữ văn 10 – tập I – Nhà xuất bản Giáo dục – năm 2006.
3. Sách hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức, kỹ năng môn Ngữ văn - Nhà
xuất bản Giáo dục – năm 2010.
4. Dạy và học từ Hán Việt ở trường phổ thông – Đặng Đức Siêu - Nhà xuất
bản Giáo dục – năm 2002.
5. Thiết kế bài giảng Ngữ văn 10 – Nguyễn Văn Đường - Nhà xuất bản Giáo
dục – năm 2006.
Người thực hiện
Huỳnh Thị Mỹ Trang
15

×