Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Kiến thức đảng cộng sản lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (122.78 KB, 18 trang )

1. Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam-Bài 7:
Tổng tiến cơng và nổi dậy giải phóng hồn tồn miền Nam
thống nhất nước nhà (1973 - 1975)

I. LỰC LƯỢNG SO SÁNH TA - ĐỊCH SAU HIỆP ĐỊNH PARI VÀ NGHỊ QUYẾT HỘI
NGHỊ LẦN THỨ 21 BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG (KHOÁ III)
1. Lực lượng so sánh ta - địch sau Hiệp định Pari
Cho đến cuối tháng 3-1973, tất cả các đơn vị quân đội Mỹ và quân đội chư hầu còn lại
đã rút hết về nước. Nhưng chiến tranh xâm lược thực dân mới không hề chấm dứt.
Với khối lượng viện trợ ồ ạt trước ngày 27-1-1973, Mỹ chủ trương hiện đại hoá và tinh
nhuệ hoá quân đội nguỵ bằng kế hoạch quân sự 6 năm (1974-1979). Mỹ cũng chủ
trương làm cho kinh tế miền Nam tự lực bằng kế hoạch kinh tế hậu chiến 8 năm
(1973-1980). Năm 1973, quân chính quy nguỵ tăng lên 710.000 tên, cùng 1,5 triệu
bảo an dân vệ được Mỹ trang bị đầy đủ. Cũng năm đó, Mỹ lại đưa thêm vào miền
Nam 90 máy bay, 100 pháo và khối lượng lớn phương tiện chiến tranh.
Với khối lượng phương tiện chiến tranh và quân số lớn. Mỹ - nguỵ âm mưu tiêu diệt
các lực lượng vũ trang và lực lượng chính trị cách mạng, xố bỏ tình trạng hai chính
quyền, hai qn đội và ba lực lượng hiện có, biến miền Nam Việt Nam thành lãnh thổ
chỉ có một chính quyền tay sai của Mỹ.
Để chỉ huy và điều hành cuộc chiến tranh cho phù hợp với tình hình mới, Mỹ đổi tên
cơ quan chỉ huy quân sự MACV thành Cơ quan tuỳ viên quốc phòng (DAO) (- là cơ
quan tuỳ viên quân sự Mỹ có nhiệm vụ điều khiển các hoạt động quân sự của chính
quyền và qn đội Sài Gịn dựa trên viện trợ Mỹ trong giai đoạn Việt Nam hoá chiến
tranh). Các cố vấn quân sự đều khoác áo dân sự, hoạt động trong các cơ quan đầu
não của nguỵ quyền, trong các đơn vị quân đội nguỵ ở địa phương và một số ngành
với chức năng không thay đổi: quyết định các chủ trương về quân sự, chính trị, kinh
tế và quyết định cả những vấn đề nhân sự của nguỵ quyền Sài Gịn.
Để xố "thế da báo", theo chủ trương của Mỹ, nguỵ quyền Sài Gòn liên tiếp mở hàng
loạt chiến dịch "tràn ngập lãnh thổ". Ngay trong đêm 27-1-1973, Mỹ - nguỵ đưa quân
địch chiếm cảng Cửa Việt (Quảng Trị). Trong năm 1973, với 325.255 vụ hành quân lấn
chiếm, địch đã chiếm lại hầu hết các vùng giải phóng mới và một số vùng giải phóng


cũ.
Thực tế chứng tỏ Mỹ - nguỵ không thi hành các điều khoản của Hiệp định Pari, cuộc
chiến tranh xâm lược thực dân mới của Mỹ ở miền Nam Việt Nam không hề chấm dứt
mà vẫn tiếp tục dưới hình thức mới. Đó là cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ mà
khơng có lính Mỹ.
Âm mưu làm cho nhân dân ta mất cảnh giác về hành động gây chiến tranh của chúng
và tạo điều kiện thuận lợi cho việc rút quân về nước, Mỹ làm một số động tác ra vẻ
như hồ bình, hữu nghị: rà phá mìn, hứa hẹn viện trợ, họp hội nghị hiệp thương.
Nhưng sau khi Mỹ rút hết quân về nước, nguỵ quyền lập tức đình chỉ các cuộc họp
hiệp thương, phá hoạt động của phái đoàn liên hiệp quân sự và Mỹ kéo dài vơ thời
hạn việc rà phá mìn.
Với ưu thế về quân số cộng với khối lượng vũ khí khổng lồ và tối tân của nguỵ được
Mỹ viện trợ và với sự chỉ huy của Mỹ thông qua đội ngũ cố vấn, Mỹ tin chắc cuộc


chiến tranh thực dân mới sẽ giành được thắng lợi.
Nhưng những chỗ mạnh trên đây của địch chỉ là nhất thời và bề ngoài. Sau khi Mỹ rút
quân, nguỵ quyền Sài Gòn ở vào thế đi xuống. Chỗ yếu căn bản nhất của quân nguỵ
là mất hẳn chỗ dựa vào quân Mỹ. Sau khi rút quân, khả năng quay trở lại miền Nam
Việt Nam của Mỹ khơng cịn nữa. Trải qua gần 8 năm sa lầy vào cuộc chiến tranh tốn
kém nhất, kéo dài nhất, đã tới lúc Mỹ không thể tiếp tục kiểu chiến tranh làm cho
nước Mỹ suy yếu, dân Mỹ khó khăn. Từ sau thất bại Mậu Thân (năm 1968) cho đến
khi ký kết Hiệp định Pari tháng 1-1973, Quốc hội Mỹ đã chủ trương dứt khoát rút qn
Mỹ về nước để cho chính quyền Sài Gịn tự tiến hành cuộc chiến dưới sự đạo diễn của
Mỹ. Tiếp theo việc Thượng nghị viện bỏ phiếu bác bỏ tuyên bố hứa viện trợ của
Níchxơn (ngày 5-4-1973), từ tháng 5 đến tháng 11 - 1973, Thượng nghị viện và Hạ
nghị viện Mỹ đã nhiều lần bỏ phiếu địi chính phủ Mỹ chấm dứt mọi hành động quân
sự tại Đông Dương. Ngày 17-5-1973, Thượng nghị viện Mỹ công khai điều tra vụ
Oatơghết (- vụ đặt máy nghe trộm Đại hội Đảng Dân chủ) để đánh đổ Níchxơn. Mâu
thuẫn nội bộ giai cấp thống trị Mỹ đã lên đến đỉnh cao.

Cuộc khủng hoảng kinh tế 1969 - 1971 vừa chấm dứt, lại tiếp đến cuộc khủng hoảng
1973 - 1974 làm cho nước Mỹ chìm ngập trong cơn sốt bội chi, lạm phát, nhập siêu và
thất nghiệp. Dân Mỹ ngày càng phản đối chiến tranh. Lợi dụng thời cơ nước Mỹ đang
lún sâu trong cuộc khủng hoảng toàn diện, Nhật Bản và Tây Âu đã vượt Mỹ về sản
lượng công nghiệp. Liên Xô vượt Mỹ về kỹ thuật quân sự, than đá, dầu mỏ. Cuộc
"chiến tranh dầu lửa" năm 1973 của các nước Trung Cận Đơng hướng địn tiến cơng
vào Tây Âu, Nhật Bản và Mỹ. Cao trào đấu tranh dân tộc, dân chủ ở châu Á, châu Phi
hướng mũi nhọn vào Mỹ.
Những khó khăn trong và ngồi nước buộc Mỹ phải liên tiếp cắt giảm viện trợ cho
nguỵ quyền Sài Gòn. Trong vùng nguỵ quyền kiểm soát, giá cả tăng vọt, nạn đói phát
triển. Hai triệu người thất nghiệp vì mất nguồn thu nhập từ khi quân đội Mỹ rút đi.
Nạn đào ngũ, rã ngũ trong nguỵ quân và phong trào chống bắt lính đã đẩy nhanh
qn đội Sài Gịn vào tai họa thiếu hụt quân số. Phong trào chống tham nhũng, chống
chính sách độc tài, hiếu chiến của Thiệu, địi Thiệu từ chức, đòi thi hành Hiệp định
Pari, đòi thả tù chính trị,địi cơng ăn việc làm, địi chấm dứt chiến tranh lập lại hồ
bình,địi cứu đói... ngày càng lan rộng trong nhiều tầng lớp.
Tuy nhiên, những chỗ yếu này của địch phát triển nhanh hay chậm, chủ yếu vẫn là do
cách mạng có đủ sức giáng cho địch những địn chí mạng hay khơng.
Cách mạng miền Nam đang đứng trước tình thế mới: nguỵ quyền Sài Gịn có nguy cơ
sụp đổ, nhân dân ta có khả năng đập tan chính quyền nguỵ trên tồn miền Nam.
Nhu cầu bức thiết của lịch sử lúc đó địi hỏi Đảng ta phải tìm ra lời giải cho các bài
tốn chiến lược. Một là, Hiệp định Pari được thực hiện hay chiến tranh lại tiếp diễn?
Hai là, đây là giai đoạn quá độ hay là giai đoạn cuối của sự nghiệp giải phóng miền
Nam? Ba là, trước mắt phải bắt đầu từ giải pháp gì để phá âm mưu gây chiến của
địch đưa cách mạng miền Nam tiến lên hồ bình, hồ hợp dân tộc hay phản công,
tiến công chống lấn chiếm?
2. Hội nghị lần thứ 21 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá III)
Ngày 28-1-1973, Ban Chấp hành Trung ương đã khẳng định cuộc kháng chiến chống
Mỹ, cứu nước đã giành được thắng lợi rất vẻ vang, song Mỹ - nguỵ vẫn chưa từ bỏ âm
mưu phá hoại hồ bình, ngăn trở con đường độc lập, thống nhất của nhân dân ta.

Trong tháng 1-1973, Bộ Chính trị thơng qua nghị quyết của Quân uỷ Trung ương về
trường hợp địch vi phạm Hiệp định Pari, các lực lượng vũ trang cần chuẩn bị sẵn sàng


đối phó với các cuộc tiến cơng qn sự của địch, trước mắt đòi nguỵ quyền Sài Gòn
nghiêm chỉnh thực hiện Hiệp định.
Tuy nhiên, trong nhân dân ta lúc đó xuất hiện hiện tượng mệt mỏi, khuynh hướng ảo
tưởng hoà bình, mất cảnh giác. Sau này, Hội nghị Bộ Chính trị tháng 10-1974 nhận
định rằng đã có khuynh hướng "ảo tưởng, chờ đợi, thụ động, thậm chí có nơi rút lui".
Trước tình hình mới, Bộ Chính trị thấy cần tập trung nghiên cứu, phân tích âm mưu
hành động của Mỹ - nguỵ. Ngày 24-5-1973, Bộ Chính trị họp hội nghị mở rộng với đại
diện các chiến trường để nghiên cứu, thảo luận những vấn đề chuẩn bị cho Hội nghị
lần thứ 21 Ban Chấp hành Trung ương khoá III. Hội nghị đánh giá ưu, khuyết điểm và
bài học kinh nghiệm của 18 năm kháng chiến chống Mỹ (1954 - 1972). Hội nghị nhất
trí cho rằng, miền Nam chưa có hồ bình. Hội nghị xác định nhiệm vụ trước mắt của
cách mạng miền Nam là: đoàn kết toàn dân đấu tranh trên cả ba mặt trận là chính
trị, quân sự và ngoại giao nhằm kiên quyết đánh bại âm mưu và hành động của địch
phá hoại Hiệp định Pari; giữ vững và phát triển lực lượng cách mạng về mọi mặt,
thắng địch từng bước, chuẩn bị điều kiện đầy đủ nhất để có thể chủ động đối phó với
địch trong mọi tình huống, sẵn sàng đưa cách mạng miền Nam tiến lên giành thắng
lợi hoàn toàn.
Kết luận của Hội nghị Bộ Chính trị tháng 5-1973 là nội dung chủ yếu của Báo cáo
chính trị trình Hội nghị lần thứ 21 Ban Chấp hành Trung ương khoá III. Căn cứ vào
nhận định của Bộ Chính trị ngày 25-6-1973, Quân uỷ Trung ương ra nghị quyết sẵn
sàng chiến đấu, đánh bại mọi hành động lấn chiếm của địch, chuẩn bị về mọi mặt
nếu địch gây lại chiến tranh quy mơ lớn thì kiên quyết tiêu diệt chúng. Tháng 7-1973,
hội nghị Khu V thông qua nghị quyết ra sức đánh bại kế hoạch lấn chiếm, bình định
của địch, giành dân, giữ dân, mở rộng quyền làm chủ, phát triển thực lực của ta.
Tháng 9-1973, Hội nghị lần thứ 12 Trung ương Cục bàn cụ thể hố tư tưởng chiến lược
tiến cơng và quan điểm cách mạng bạo lực.Ở miền Tây Nam Bộ, từ tháng 2-1973,

Khu uỷ Khu IX đã đề nghị cho kiên quyết đánh trả địch đồng thời đẩy mạnh đấu tranh
chính trị.
Tháng 7-1973, Hội nghị lần thứ 21 Ban Chấp hành Trung ương khoá III họp tại Hà Nội
và ra Nghị quyết Thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và nhiệm
vụ của cách mạng miền Nam Việt Nam trong giai đoạn mới.
Hội nghị nhận định: Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta là một
cuộc đọ sức điển hình, là tiêu điểm của cuộc đấu tranh vô cùng quyết liệt giữa cách
mạng và phản cách mạng trên thế giới, là cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo
vệ Tổ quốc mang tính thời đại sâu sắc. Hiệp định Pari đánh dấu một bước ngoặt trong
cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân ta, làm đảo lộn chiến lược toàn cầu của đế
quốc Mỹ, làm thất bại một bước quan trọng học thuyết Níchxơn.
Hội nghị rút ra 5 bài học kinh nghiệm lớn sau 18 năm kháng chiến chống Mỹ: 1) Giữ
vững tư tưởng chiến lược tiến công; 2) Nắm vững quan điểm cách mạng bạo lực; 3)
Giương cao ngọn cờ dân tộc dân chủ và ngọn cờ xã hội chủ nghĩa; 4) Biết thắng từng
bước, tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn; 5) Có phương pháp cách mạng thích hợp.
Hội nghị nêu rõ ở miền Nam vẫn chưa có ngừng bắn, nguỵ quyền Sài Gòn được Mỹ
giúp đỡ vẫn tiếp tục gây chiến. Âm mưu của đế quốc Mỹ là tiếp tục dùng nguỵ quyền
Sài Gịn làm cơng cụ thực hiện chủ nghĩa thực dân mới ở miền Nam Việt Nam, biến
miền Nam thành một nước riêng biệt, một quốc gia thân Mỹ. Sau khi quân Mỹ rút đi,
quân nguỵ có mạnh về phương tiện vật chất nhưng thực chất đang xuống dốc. Thế và
lực của cách mạng miền Nam lúc đó mạnh hơn bất cứ thời kỳ nào kể từ năm 1954.
Lực lượng vũ trang nhân dân đứng vững trên các địa bàn chiến lược. Nhân dân vùng
tạm bị chiếm bị kìm kẹp vẫn hướng về cách mạng. Miền Bắc đang phục hồi kinh tế, là
chỗ dựa vững chắc cho cách mạng miền Nam. Chỗ yếu của cách mạng miền Nam là


phong trào đấu tranh chính trị, bộ đội địa phương và dân qn du kích, cơ sở cách
mạng ở đơ thị và nông thôn chưa ngang tầm nhiệm vụ.
Cách mạng miền Nam có thể phát triển theo hai khả năng:
Một là: Ta có thể từng bước buộc địch phải thi hành Hiệp định Pari.

Hai là: Ta lại phải tiến hành chiến tranh cách mạng để đánh bại địch, giành thắng lợi
hoàn toàn.
Nhiệm vụ cơ bản của cách mạng miền Nam trong giai đoạn mới là:
Hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân; tập trung mũi nhọn vào đế quốc
Mỹ và tập đoàn thống trị tư sản mại bản quan liêu, quân phiệt, phát xít - tay sai đắc
lực của đế quốc Mỹ đang thống trị trong vùng địch kiểm soát - đẩy lùi và thắng địch
từng bước, đi đến xoá bỏ chế độ thực dân mới, thiết lập một chính quyền dân tộc dân
chủ thực sự, thực hiện hồ hợp dân tộc, thốt ly hẳn sự lệ thuộc vào Mỹ, thực hiện
một miền Nam hồ bình, độc lập, dân chủ, trung lập, phồn vinh, tiến tới hồ bình
thống nhất nước nhà.
Hội nghị lần thứ 21 Ban Chấp hành Trung ương khoá III vạch rõ nhiệm vụ trước mắt
của cách mạng miền Nam: 1- Trong bất cứ tình huống nào, phải nắm vững lực lượng
vũ trang, 2- Nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng miền Nam hiện nay là giành dân và
giành quyền làm chủ của nhân dân, 3- Binh vận là mũi tiến công rất quan trọng làm
tan rã chính quyền địch. 4- Đẩy mạnh phong trào đấu tranh đơ thị địi hồ bình, dân
chủ, dân sinh, địi thi hành Hiệp định Pari. 5- Củng cố vùng giải phóng. 6- Tăng cường
cơng tác Mặt trận và cơng tác chính quyền. 7- Cơng tác ngoại giao phải nắm vững
pháp lý Hiệp định Pari, kiên quyết và kịp thời vạch trần âm mưu và hành động vi
phạm hiệp định của địch.
Điều kiện chủ yếu để giành thắng lợi trong giai đoạn mới là Đảng bộ miền Nam phải
nắm vững tư tưởng chiến lược tiến công, nắm vững bạo lực cách mạng.
Hội nghị lần thứ 21 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khố III có ý nghĩa lịch sử quan
trọng, mở đường đưa cách mạng miền Nam tiến lên giành thắng lợi. Nhưng hạn chế
của Hội nghị là, trong lúc trên thực tế chiến trường, khả năng buộc địch thi hành Hiệp
định Pari đã khơng cịn nữa, Hội nghị vẫn cịn nhận định hai khả năng phát triển. Hạn
chế này đã được khắc phục qua thực tế diễn biến ở chiến trường những năm 1973 1974.
Xem thêm các bài viết liên quan:
o
o
o

o
o
o
o
o

Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam-Bài 9: Thực hiện...
21/12/2009
Cương lĩnh của Đảng – ý nghĩa lịch sử ra đời của...
17/04/2010
Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam-Bài 7: Tổng tiến...
20/12/2009
Đảng cộng sản Việt Nam ra đời và cương lĩnh đầu...
25/01/2010
Đảng cộng sản Việt Nam 01/01/2011
Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam-Bài 8:Tìm tịi con...
20/12/2009
Lịch sử Đảng Cộng Sản Việt Nam-Bài 5 24/11/2009
Phân tích vai trị của ĐCSVN đối với CM và dân tộc...
16/01/2011


o
o

Lịch sử Đảng Cộng Sản Việt Nam-Bài 2 14/11/2009
Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam-Bài 6: Xây dựng và...
20/12/2009

Trả Lời Với Trích Dẫn


2.

The Following User Says Thank You to Dĩ Vãng 10 For This Useful Post:
khoa_vtp (10-27-2010)

3.

12-20-2009 08:47 PM #2

Dĩ Vãng 10
Thành viên
Join Date
May 2009
Bài gởi
1,557
Thanks
0
Thanked 544 Times in 388 Posts

II. TẠO THẾ, TẠO LỰC VÀ TẠO THỜI CƠ CHO TRẬN ĐÁNH CUỐI CÙNG, QUYẾT
ĐỊNH LỊCH SỬ THÁNG 10-1974
1. Tạo thế, tạo lực, tạo thời cơ cho trận đánh cuối cùng
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 21 Ban Chấp hành Trung ương khoá III được thực hiện,
làm cho cục diện cách mạng miền Nam có sự thay đổi lớn.Từ thế bị động đối phó,
chiến tranh cách mạng miền Nam chuyển lên chủ động phản công và tiến công, bẻ
gẫy kế hoạch lấn chiếm của Mỹ - nguỵ. Từ chỗ mất đất, mất dân, chuyển lên thu hồi
và mở rộng vùng giải phóng, đẩy Mỹ - nguỵ vào tình trạng bế tắc, suy sụp. Quán triệt
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 21, tháng 10-1973, Hội nghị Quân uỷ Trung ương vạch
rõ : nhiệm vụ trung tâm số 1 về mặt quân sự lúc này là phá bình định, lấn chiếm,

giành quyền làm chủ.
Trong những tháng cuối năm 1973, phong trào phản cơng, tiến cơng, chống lấn
chiếm, phá bình định bùng lên mạnh mẽ trong toàn miền. Ở miền Tây Nam Bộ, quân
dân ta đã đập tan cuộc hành quân lấn chiếm dài ngày của 76 tiểu đoàn nguỵ trên địa


bàn Chương Thiện. Ở Trung Nam Bộ, quân dân ta phản công lấy lại một số vùng Nam
- Bắc lộ 4, Mỹ Tho, Bến Tre, khơi phục vùng giải phóng. Ở Đơng Nam Bộ, giải phóng
Bù Bơng (Tuy Đức), tiến cơng sân bay BiênHồ và kho xăng Nhà Bè, lực lượng vũ
trang áp sát vùng ven Sài Gòn. Ở Cực Nam Trung Bộ, đánh phá tuyến đường sắt Phan
Rang - Phan Thiết, bức rút một số đồn. Ở Trung Trung Bộ, giành lại nhiều vùng bị địch
lấn chiếm ở Duy Xuyên, Điện Bàn (Quảng Nam), Phù Mỹ (Bình Định), Sơn Tịnh (Quảng
Ngãi), bẻ gẫy cuộc tiến công lấn chiếm của qn nguỵ ở Hồi Nhơn (Bình Định). Ngày
22-9-1973, lực lượng vũ trang Tây Ngun giải phóng Chư Nghé, đánh thơng đường
tiếp vận chiến lược Đông Trường Sơn. Ở Trị Thiên, ta giữ vùng giải phóng như trước
Hiệp định.
Song song với địn phản cơng và tiến cơng, nhân dân miền Nam đã mở nhiều đợt đấu
tranh chính trị địi hồ bình, hiệp thương, đòi thi hành Hiệp định Pari, phá ấp chiến
lược, làm tan rã nguỵ quyền, đòi quyền dân sinh dân chủ. Hàng trăm ngàn đồng bào
ở các vùng đồng bằng sông Cửu Long, Đông Nam Bộ và Trung Bộ bỏ ấp chiến lược trở
về nhà sản xuất. Ở đô thị, các phong trào chống thuế gia tăng, chống nạn khan hiếm
lúa gạo, chống bắt lính kết hợp với cuộc vận động đào, rã ngũ trong binh sĩ nguỵ liên
tiếp nổ ra. Trong năm 1973 có khoảng 135.000 binh sĩ nguỵ bỏ về nhà.
Chiến tranh chuyển lên quy mô lớn, yêu cầu mở rộng lực lượng vũ trang và bổ sung
tổn thất đặt ra hết sức khẩn trương. Yêu cầu đó chủ yếu đặt lên vai hậu phương miền
Bắc.
Tháng 12-1973, Hội nghị thứ 22 Ban Chấp hành Trung ương khoá III họp bàn về khôi
phục kinh tế ở miền Bắc.
Hội nghị xác định nhiệm vụ của miền Bắc trong giai đoạn mới là nâng cao cảnh giác,
sẵn sàng đánh bại mọi âm mưu của đế quốc Mỹ và tay sai; ra sức làm tròn nghĩa vụ

hậu phương lớn đối với miền Nam và nghĩa vụ quốc tế đối với cách mạng Lào và
Campuchia.
Hội nghị thông qua phương hướng, kế hoạch khôi phục và phát triển kinh tế trong 2
năm 1973 - 1974 nhằm đưa mức sản xuất lên bằng hoặc cao hơn mức đã đạt được
năm 1965 và năm 1971.
Năm 1974, hai vụ lúa được mùa,sản xuất hoa màu phát triển mạnh khắp các địa
phương. Nông dân tập thể nộp và bán đủ nghĩa vụ cho Nhà nước. Giá trị tổng sản
lượng công nghiệp vượt kế hoạch 4%. Sản xuất đã đạt và vượt mức năm 1965 và
năm 1971. Năm học 1974 - 1975 có 6.630.900 người đi học (so với số dân miền Bắc
lúc ấy là 21.700.000 người). Tính bình qn cứ 1 vạn dân có 11,7 bác sĩ, y sĩ (năm
1965: 5,2).
Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ trước mắt, Đảng ta không quên chuẩn bị cho kế
hoạch lâu dài. Tháng 2 -1973, Bộ Chính trị ra nghị quyết về công tác cán bộ trong giai
đoạn mới. Nghị quyết nêu 5 tiêu chuẩn cán bộ: 1- Trung thành với Tổ quốc và chủ
nghĩa xã hội; 2- Nhất trí với đường lối, quan điểm của Đảng; 3- Có năng lực hồn
thành tốt nhiệm vụ; 4- Tơn trọng và phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân; 5Có ý thức tổ chức và kỷ luật.
Tháng 12-1974, Ban Chấp hành Trung ương khoá III họp Hội nghị lần thứ 23 bàn về :
Tăng cường sự lãnh đạo và nâng cao sức chiến đấu của Đảng.
Đúc kết kinh nghiệm công tác xây dựng Đảng giai đoạn đã qua, Hội nghị nêu ra 3
phương châm: 1- Xây dựng Đảng phải gắn liền với việc nâng cao năng lực quản lý,
kiện toàn tổ chức của Nhà nước và việc xây dựng, củng cố các đoàn thể quần chúng;
2- Nâng cao chất lượng đảng viên phải kết hợp với nâng cao chất lượng cán bộ, với


kiện toàn cơ quan lãnh đạo từng cấp, từng ngành; 3- Phát triển Đảng phải coi trọng
chất lượng, phát triển phải đi đôi với củng cố.
Thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 21 Ban Chấp hành Trung ương khoá III tháng
10-1973, Bộ Chính trị phê chuẩn kế hoạch của Quân uỷ trung ương và Bộ Quốc phòng
xây dựng các quân đoàn chủ lực. Từ tháng 10 -1973 đến tháng 3 -1975, bốn quân
đoàn lần lượt ra đời. Song song với việc hình thành và bố trí các qn đồn trên các

địa bàn chiến lược, các sư đoàn, trung đoàn chủ lực cơ động trực thuộc Bộ Quốc
phòng và các quân khu cũng được tăng cường.
Từ cuối năm 1973, các cuộc tập huấn cán bộ quân sự được tổ chức để nâng cao nghệ
thuật tổ chức và chỉ huy các chiến dịch tiến cơng, chiến dịch phịng ngự. Trong những
năm 1973 - 1975 đã có gần nửa triệu thanh niên nhập ngũ, lên đường ra mặt trận.
Tháng 11-1973, Hội đồng Chính phủ phê chuẩn thiết kế xây dựng hệ thống đường
vận tải chiến lược Trường Sơn Đông và nâng cấp đường Trường Sơn Tây. Tháng 11975, xăng dầu vận hành bằng đường ống đã vào đến miền Đông Nam Bộ.
Trong tháng 3, 4 và 5 năm 1974, Quân giải phóng mở cuộc tiến công ở biên giới Việt
Nam - Campuchia, giải phóng các vị trí Lệ Ngọc (ngày 8-3), Tống Lê Chân (ngày 124), Con Rốc (ngày 24-4), Riné (ngày 15-4). Rạch Bắp, Đắc Pét (ngày 16-5), Iaxúp
(ngày 30-5). Vùng giải phóng Tây Ngun mở rộng, liên hồn với vùng giải phóng
Đơng Nam Bộ, mở ra thế trận áp sát Sài Gịn. Vùng giải phóng đồng bằng Khu V và
đồng bằng Nam Bộ mở rộng, vùng kiểm soát của địch ngày càng thu hẹp.
Ngày 18-7-1974, qn giải phóng tiến cơng cụm cứ điểm Nông Sơn - Trung Phước
(Quảng Nam), diệt 2 tiểu đồn chủ lực cơ động nguỵ, giải phóng 13.000 dân. Vùng
giải phóng tỉnh Quảng Nam mở rộng đến sát đường số 1. Vùng giải phóng tỉnh Quảng
Ngãi mở rộng đến sát biển. Vùng nơng thơn Bắc Bình Định căn bản được giải phóng.
Vùng giải phóng tỉnh Phú Yên được khôi phục.
Phát huy chiến thắng Nông Sơn - Trung Phước, ngày 7-8-1974, quân giải phóng giành
được thắng lợi vang dội, hoàn toàn làm chủ chi khu quận lỵ Thượng Đức (Quảng
Nam), tiêu diệt 1.600 tên, giải phóng 11.000 dân. Chiến thắng Nông Sơn - Thượng
Đức đã tạo cho quân ta một bàn đạp tiến cơng mới, tuyến phịng thủ ngồi cùng của
Đà Nẵng bị xố bỏ, Thành phố Đà Nẵng bị uy hiếp từ phía Tây Nam. Thừa thắng xốc
tới, qn giải phóng hồn tồn làm chủ các chi khu, quận lỵ Minh Long (ngày 10-8),
Măng Bút (ngày 20-8); Giá Vụt (ngày 20-9), Măng Đẻn (ngày 30-10). Cho đến tháng
12-1974, một loạt chi khu, quận lỵ đã được giải phóng: Bà Mi, Châu Thành A, Đức
Phong, Bố Đúc, Hưng Long, Tánh Linh, Đồng Xồi, Bù Đốp. Ở Đơng Nam Bộ, thời gian
này, quân dân ta đã giải phóng một vùng rộng ở Nam đường số 7, Bắc sông Đồng
Nai, tiến cơng hàng chục vị trí địch ven Sài Gịn, đặc biệt là trận tập kích kho xăng
Nhà Bè (ngày 2-6-1974).
Từ tháng 7 đến tháng 10-1974, quân dân Tây Nam Bộ đã đánh bại các cuộc hành

quân lấn chiếm, giải phóng gần 800.000 dân. Quân dân Trung Nam Bộ mở rộng vùng
giải phóng Đồng Tháp Mười, giải phóng 130.000 dân. Trung Trung Bộ giải phóng
200.000 dân.
Trên tồn miền Nam, vùng giải phóng có gần 5 triệu người dân, vùng tranh chấp trên
5 triệu dân. Địch chỉ cịn kiểm sốt được 9,5 triệu dân.
Năm 1974, tình thế mới xuất hiện trên chiến trường miền Nam. Quân, dân ta đã giải
phóng và giữ được hàng chục chi khu, quận lỵ, nguỵ quyền Sài Gịn đành chịu bó tay,
khơng cịn khả năng lấy lại được. Tình thế này chứng tỏ quân chủ lực cơ động của ta
đã mạnh hơn hẳn quân chủ lực cơ động của địch, khả năng giải phóng hồn tồn


miền Nam đã chín muồi.
Trong khi lực lượng mọi mặt của nhân dân ta lớn mạnh, thì lực lượng mọi mặt của Mỹ
- nguỵ ở miền Nam đang suy sụp, tan rã. Tiếp theo việc cắt bỏ kinh phí ném bom
Campuchia, tháng 6 - 1994, Quốc hội Mỹ lại bác bỏ u sách của Níchxơn địi viện trợ
bổ sung 216 triệu đơla cho chính quyền Sài Gịn.
Ngày 9-8-1974, Tổng thống Níchxơn buộc phải tuyên bố từ chức, điều này chứng tỏ
chính sách kéo dài chiến tranh của Mỹ đã hồn toàn phá sản. Xu thế chung của nhân
dân Mỹ là chấm dứt chiến tranh. Ghêron Pho (Gerald Ford) lên thay Níchxơn làm Tổng
thống cũng khơng cưỡng nổi xu thế này. G.Pho tuyên bố rằng, cần theo đuổi chính
sách kiềm chế tương đối ở Đơng Nam Á và Thái Bình Dương. Thực tế hành động của
G.Pho đã chứng minh chính sách đó có nghĩa là bỏ rơi ngụy quyền Sài Gịn.
Ngày 13-8-1974, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra thơng báo nhận
định: Trước tình cảnh khốn cùng, giai cấp thống trị Mỹ đã dùng Níchxơn làm vật hy
sinh, hịng làm dịu mâu thuẫn của Chính phủ Mỹ và nhân dân Mỹ. Thơng báo vạch rõ:
Ta khơng có ảo tưởng về sự thay đổi tổng thống ở Mỹ, đây chỉ là một thủ đoạn thay
ngựa giữa dòng của tập đồn tư bản lũng đoạn Mỹ để cứu vãn tình thế.
Việc Níchxơn từ chức có ảnh hưởng trực tiếp tới nguỵ quyền Sài Gịn. Trong ngày
Níchxơn từ chức, Nguyễn Văn Thiệu ra lệnh báo động toàn miền.
Ngày 28-8-1974, giáo hội Thiên chúa thành lập "Phong trào nhân dân chống tham

nhũng để cứu nước và kiến tạo hồ bình". Trong tháng 9 và tháng 10, các tổ chức
"Lực lượng hồ bình và hoà hợp dân tộc", "Mặt trận nhân dân cứu đói", "Uỷ ban đấu
tranh địi thả tù chính trị" ra đời. Ngày 8 và 15-9-1974, hàng vạn đồng bào Huế xuống
đường biểu tình chống khủng bố báo chí, bóp nghẹt tự do dân chủ, đòi Nguyễn Văn
Thiệu từ chức.
Trước cuộc khủng hoảng sâu sắc của nguỵ quyền Sài Gòn, đại sứ Mỹ G.Matin- trùm cố
vấn Mỹ, buộc Nguyễn Văn Thiệu phải làm dịu tình hình bằng cách cách chức 4 thành
viên trong chính phủ, cách chức 400 tướng tá và thuyên chuyển 3 tư lệnh quân khu.
Có những dấu hiệu Mỹ đang xoay con bài mới, trở lại Hiệp định Pari, đưa lực lượng thứ
ba ra sân khấu chính trị Sài Gịn.
2. Quyết định lịch sử của Bộ Chính trị tháng 10-1974 và tháng 1-1975 về
giải phóng hồn tồn miền Nam
Những cuộc phản công và tiến công thắng lợi của qn giải phóng đã đẩy nhanh thời
cơ chín muồi cho việc giải phóng hồn tồn miền Nam.
Ngày 21-7-1974, tại thị xã Đồ Sơn, đồng chí Lê Duẩn - Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành
Trung ương Đảng, đã nghe các đồng chí lãnh đạo Bộ Tổng tham mưu báo cáo về sự
chuyển biến mới của chiến trường miền Nam. Đồng chí Lê Duẩn phân tích âm mưu
mới của đế quốc Mỹ và các thế lực thù địch là chia vùng ảnh hưởng và chia cắt lâu
dài nước ta. Đảng và nhân dân ta phải nắm vững thời cơ để giành thắng lợi sớm,
trước khi các thế lực đó thực hiện âm mưu của chúng. Bộ Tổng tham mưu được giao
nhiệm vụ chuẩn bị kế hoạch chiến lược giành thắng lợi năm 1975, giành thắng lợi
quyết định năm 1976 trình Bộ Chính trị.
Từ ngày 30-9 đến ngày 8-10-1974, Hội nghị Bộ Chính trị đợt 1 bàn về chủ trương giải
phóng hồn tồn miền Nam.
Đánh giá về khả năng Mỹ có can thiệp trở lại miền Nam Việt Nam hay không, Hội nghị
cho rằng: Mỹ rất ngoan cố và còn nhiều âm mưu thâm độc, nhưng đã rút quân ra thì
việc quay lại khơng phải dễ; dù Mỹ có can thiệp trở lại chừng mực nào đó thì cũng
khơng xoay chuyển được tình thế. Nhân dân ta vẫn thắng.



Từ kết luận trên, Hội nghị đề ra nhiệm vụ trung tâm trước mắt của nhân dân cả nước
ta là: Động viên những nỗ lực lớn nhất của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ở cả hai
miền, mở cuộc tổng tiến công và nổi dậy cuối cùng, đưa chiến tranh cách mạng phát
triển đến mức cao nhất, tiêu diệt và làm tan rã quân ngụy, đánh chiếm Sài Gòn, sào
huyệt trung tâm của địch cũng như tất cả các thành thị khác, đánh đổ ngụy quyền
trung ương và các cấp, giành tồn bộ chính quyền về tay nhân dân, giải phóng hồn
tồn miền Nam, hồn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, tiến
tới thống nhất nước nhà. Hội nghị quyết định giải phóng miền Nam trong hai năm
1975 - 1976.
Ngay sau Hội nghị Bộ Chính trị tháng 10-1974, một khơng khí khẩn trương chuẩn bị
cho cuộc tổng tiến công toả xuống các chiến trường, các quân binh chủng và các địa
phương.
Ngày 8-10-1974, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam ra
tuyên bố đòi Mỹ chấm dứt mọi can thiệp, đòi đánh đổ Nguyễn Văn Thiệu và phe cánh
- trở ngại chính cho việc giải quyết các vấn đề chính trị ở miền Nam Việt Nam.
Đợt 2 của Hội nghị Bộ Chính trị họp từ ngày 8-12-1974 đến ngày 7-1-1975. Hội nghị
cho rằng, thế và lực mới của cách mạng đã thể hiện trên các mặt sau đây:một là, ta
đã giành quyền chủ động tiến công địch trên khắp các chiến trường;hai là, những
binh đoàn chủ lực cơ động và những nguồn dự trữ chiến lược của ta đã được xây dựng
đủ; ba là, phong trào đấu tranh chính trị địi hồ bình, độc lập, hồ hợp dân tộc đã
được phát động; bốn là, thế giới đồng tình, ủng hộ ta trừng trị bọn lấn chiếm.
Ngày 6-1-1975, tin giải phóng thị xã Phước Long làm cho Hội nghị càng thêm tin chắc
rằng quân Mỹ không thể trở lại miền Nam và việc giải phóng miền Nam có thể tiến
hành với nhịp độ nhanh hơn.Tiếp tục quán triệt Nghị quyết của Hội nghị đợt 1, Hội
nghị đợt 2 vạch rõ:Nắm vững thời cơ lịch sử, mở nhiều chiến dịch tổng hợp liên tiếp,
đánh những trận đánh quyết định, kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ, hoàn thành
cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam, tiến tới tổng tiến công và nổi dậy, thắng
địch tại sào huyệt quan trọng nhất của chúng là Sài Gịn.
Trả Lời Với Trích Dẫn


5.

12-20-2009 08:51 PM #3

Dĩ Vãng 10
Thành viên
Join Date
May 2009
Bài gởi
1,557


Thanks
0
Thanked 544 Times in 388 Posts

III. BA ĐÒN CHIẾN LƯỢC, TỔNG TIẾN CƠNG VÀ NỔI DẬY GIẢI PHĨNG HỒN
TỒN MIỀN NAM
1. Chiến dịch Tây Nguyên
Cuộc tổng tiến công và nổi dậy bắt đầu bằng chiến dịch Tây Nguyên, với trận mở màn
đánh vào thị xã Buôn Ma Thuột. Đánh chiếm Bn Ma Thuột, làm chủ Nam Tây
Ngun, ta có ba hướng phát triển: lên phía Bắc, giải phóng Plâycu, Kon Tum; tiến
xuống đồng bằng ven biển Trung bộ; thọc thẳng vào miền Đơng Nam bộ và Sài Gịn.
Chiến dịch Tây Nguyên thắng lợi sẽ tạo ra bất ngờ lớn, làm đảo lộn thế phịng thủ của
địch trên tồn chiến trường.
Bộ Chính trị quyết định cử Đại tướng Văn Tiến Dũng, Uỷ viên Bộ Chính trị, Tổng tham
mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam vào chiến trường Tây Nguyên thành lập cơ
quan đại diện của Quân uỷ Trung ương và Bộ Tư lệnh trực tiếp chỉ đạo chiến dịch. Bộ
tư lệnh chiến dịch Tây Nguyên được thành lập. Các đoàn xe vận tải, xe chở quân xuất
phát từ hậu phương lớn miền Bắc bí mật và hối hả hướng về chiến trường Nam Tây

Nguyên. Cán bộ chiến sĩ ra trận phấn khởi, tự tin, sung sức.
Ngày 17-2-1975, Bộ Tư lệnh chiến dịch Tây Nguyên bàn kế hoạch đánh chiếm thị xã
Buôn Ma Thuột theo đúng tư tưởng chỉ đạo của Bộ Chính trị là tranh thủ bất ngờ cao
độ, bảo đảm thắng giịn giã. Bộ Tư lệnh đã giữ bí mật tuyệt đối, hướng tác chiến chủ
yếu là Buôn Ma Thuột, tích cực hoạt động nghi binh trên hướng Plâycu, Kon Tum.
Ngày 4-3-1975, quân ta đánh và cắt các con đường chiến lược số 19, 21 và 14. Việc
giao lưu của địch giữa đồng bằng miền Trung với cao nguyên bị ngưng trệ hoàn toàn.
Trên chiến trường toàn miền, địch vẫn tập trung vào hướng phịng thủ chính là Trị
Thiên.
1 giờ 55 phút sáng ngày 10-3-1975, quân ta nổ súng tiến công thị xã Buôn Ma Thuột.
Trưa hôm sau, bộ đội ta đánh chiếm Sở chỉ huy Sư đoàn 23 ngụy. Hơn 1000 tên địch
bị bắt sống trong đó có đại tá tỉnh trưởng Đắk Lắk, đại tá phó Sư đồn 23 ngụy, đại
diện lãnh sự qn Mỹ. Trận Bn Ma Thuột là "một đòn điểm đúng huyệt", tác động
đến toàn bộ binh lực ngụy quyền, tới cả nước Mỹ. Thế bố trí lực lượng và tồn bộ hệ
thống phịng thủ của quân ngụy bị đảo lộn.
Ngay trong ngày 11-3, Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương họp đánh giá: Ta có khả
năng giành thắng lợi to lớn với tốc độ nhanh hơn dự kiến. Bộ Chính trị chủ trương
nhanh chóng nắm bắt thời cơ, sử dụng lực lượng và tiến công linh hoạt, tập trung,
khẩn trương và mạnh bạo. Hướng tiến cơng tiếp theo có thể là Huế, Đà Nẵng và khi
có thời cơ đánh mạnh vào Sài Gòn.
Từ ngày 12 đến ngày 18-3, bằng một loạt trận đánh xuất sắc, quân ta đập tan hoàn
toàn cuộc phản kích "tái chiếm Bn Ma Thuột" của qn đồn 2 nguỵ, tiêu diệt hoàn
toàn Sư đoàn 23 - một sư đồn được quận ngụy suy tơn là "Nam bình, Bắc phạt, Cao
nguyên trấn".
Được tin Buôn Ma Thuột thất thủ, đại sứ Mỹ Matin điện trả lời Nguyễn Văn Thiệu rằng,
bỏ hay khơng bỏ Bn Ma Thuột là do chính ơng ta quyết định. Thất bại ở Buôn Ma


Thuột và thái độ của Mỹ làm cho những kẻ đứng đầu ngụy quyền Sài Gịn chống
váng. Ngày 13-3-1975, Nguyễn Văn Thiệu họp khẩn cấp Hội đồng an ninh quốc gia,

chủ trương "co hẹp trận địa".
Theo dõi từng bước phát triển của tình hình, ngày 13-3-1975, Bộ Chính trị và Quân uỷ
Trung ương dự kiến: Bị tiêu diệt một bộ phận sinh lực lớn, mất thị xã Buôn Ma Thuột
và nhiều quận lỵ, đường 19 bị chia cắt, do đó, có khả năng địch sẽ tập trung các lực
lượng cịn lại về Tây Nguyên và Plâycu, và cũng có khả năng chúng buộc phải rút bỏ
Tây Nguyên.
Trước sức tấn công như vũ bão và bất ngờ của quân ta, Nguyễn Văn Thiệu cùng ngụy
quyền Sài Gòn chủ trương rút lui chiến lược khỏi Tây Nguyên.
Theo chủ trương của Bộ Chính trị, Quân uỷ Trung ương và Bộ chỉ huy chiến dịch, quân
ta triển khai lực lượng nhanh chóng với quyết tâm nắm thời cơ, tiêu diệt hoàn toàn
quân địch bỏ chạy.Cuộc truy kích thần tốc 8 ngày đêm (từ ngày 17 đến ngày 24-3)
thắng lợi giịn giã. Tồn bộ cánh quân địch rút khỏi Tây Nguyên bị tiêu diệt.
Ngày 18-3-1975, Bộ Chính trị chủ trươnggiải phóng miền Nam trong năm 1975, trước
mắt diệt ngay Qn đồn 1 ngụy, khơng cho chúng rút chạy về Sài Gịn.
Ngày 25-3-1975, Tây Ngun hồn tồn giải phóng. Chế độ Sài Gịn đứng trước nguy
cơ sụp đổ hoàn toàn.
2. Chiến dịch Huế - Đà Nẵng.
Từ đầu tháng 3-1975, theo chỉ thị của Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương, khi chiến
dịch Tây Nguyên mở màn, các tỉnh miền Trung Trung bộ cũng triển khai cuộc tiến
cơng, chuẩn bị giải phóng các thành phố, thị xã khi có thời cơ.
Ngày 18-3, Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương chỉ thị cho quân dân Trị Thiên phải
đánh mạnh, tích cực tiêu diệt địch, khơng cho chúng rút lui an toàn khỏi Quảng Trị,
Huế; đồng thời gấp rút chuẩn bị đánh vào Đã Nẵng.
Đêm 18-3-1975, địch bỏ Quảng Trị chạy về Huế và Đà Nẵng. Quân và dân ta nhanh
chóng chuyển sang tấn cơng. Chiều ngày 19-3, Quảng Trị hồn tồn giải phóng.
Ngày 20-3, Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương chỉ thị tiếp cho quân khu Trị Thiên:
Sau khi bỏ Quảng Trị, địch có thể bỏ cả Thừa Thiên và Huế, ta phải táo bạo, khẩn
trương, tích cực chuẩn bị mọi mặt để giải phóng tồn bộ đồng bằng, giải phóng Huế
và Đà Nẵng.
Qn ta tiến cơng từ ba phía: Bắc, Tây và Nam. Ngày 20-3, Nguyễn Văn Thiệu ra lệnh

rút quân khỏi thành phố Huế, Quân đoàn 1 ngụy lập tức bỏ Huế chạy về Đà Nẵng
bằng đường không. 10 giờ 30 phút ngày 25-3, hai mũi tiến công của bộ đội địa
phương Quảng Trị và Quân đoàn 2 gặp nhau trong Thành Nội, làm chủ Tồ Khâm cũ,
khách sạn Thuận Hố, trại Phan Sào Nam, các công sở nhà máy điện, nước... Lá cờ
cách mạng tung bay trên đỉnh Phú Văn Lâu. Thành phố Huế hồn tồn giải phóng.
Ngày 24-3, qn và dân ta giải phóng thị xã Tam Kỳ (Quảng Nam).
Tiếp sau Tây Nguyên, hai tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên và thành phố Huế được giải
phóng là một địn mới đánh vào nguỵ quân, ngụy quyền các cấp, làm cho ngụy
quyền ở Đà Nẵng rệu rã, hoảng loạn. Ngày 25-3, Tổng thống G.Pho cấp tốc cử tướng
Uâyen sang Sài Gòn nắm tình hình và tìm kế hoạch cứu vãn.


Sau 5 ngày đêm tiến công và nổi dậy, quân và dân Quân khu V đã tiêu diệt và làm
tan rã một nửa chủ lực cơ động của địch trên địa bàn. Đà Nẵng bị bao vây, chia cắt
hoàn toàn với ngụy quyền trung ương Sài Gòn.
Theo sát bước phát triển mới của chiến trường miền Trung, ngày 25-3-1975, Hội nghị
Bộ Chính trị chủ trương: nắm vững thời cơ chiến lược, tập trung lực lượng vào phương
hướng chủ yếu, hành động táo bạo, bất ngờ làm cho địch không kịp trở tay, hồn
thành nhiệm vụgiải phóng Sài Gịn trước mùa mưa. Phương châm chỉ đạo là kịp thời
nhất, nhanh chóng nhất, táo bạo nhất, bất ngờ nhất, chắc thắng. Mục tiêu trước mắt
là tập trung lực lượng giải phóng thành phố Đà Nẵng.
Quân đoàn 1 và Quân đoàn 2, Quân khu Trị Thiên và Quân khu V được lệnh gấp rút
tiến về Đà Nẵng. Ngày 26-3, Ngô Quang Trưởng - Tư lệnh Quân đoàn 1 và Quân khu 1
ngụy, được Mỹ đánh giá là tướng giỏi nhất trong hàng ngũ tư lệnh quân đoàn ngụy đã bỏ sở chỉ huy chạy ra một tàu Mỹ ở ngoài biển. Nhiều đơn vị khơng tn lệnh chỉ
huy, tự động bỏ vị trí phòng thủ, rút về tuyến sau. Ngày 27-3, gần 3.000 binh sĩ ngụy
trung tâm huấn luyện Hoà Cầm làm binh biến, bỏ về gia đình. Tàn quân ngụy từ Huế
chạy vào, từ Chu Lai, Tam Kỳ chạy ra, gieo thêm tâm lý hoảng hốt, tuyệt vọng trong
hàng ngũ sĩ quan, binh lính ngụy. Ngày 28-3, lãnh sự quán Mỹ chạy khỏi Đà Nẵng.
Trước tình hình đó, ngày 27-3, Qn uỷ Trung ương điện cho Quân khu V và Quân
đoàn 2: Tình hình Đà Nẵng rất khẩn trương cần có những biện pháp đặc biệt nhanh

chóng tiến cơng địch, bỏ qua những mục tiêu dọc đường, đánh thẳng vào Đà Nẵng
nhanh nhất, kịp thời nhất, táo bạo nhất với những lực lượng có thể chuyển tới sớm
nhất.
Ở thành phố Đà Nẵng, thực hiện chỉ thị của Khu uỷ khu V về chuẩn bị phát động quần
chúng nổi dậy phối hợp với địn tiến cơng qn sự, ngày 21-3, Tỉnh ủy Quảng Đà
(Quảng Nam - Đà Nẵng) bàn kế hoạch nổi dậy. Các xã ở vùng ven đô, các khu phố,
các phường, các xí nghiệp, các trường học đều thành lập uỷ ban khởi nghĩa.Các
huyện, xã trong tỉnh đều chuẩn bị sẵn lực lượng và có phương án tự giải phóng bằng
lực lượng của địa phương. Ngày 27-3, Tỉnh uỷ Quảng Đà cử một đồng chí uỷ viên
thường vụ vào Thành phố trực tiếp chỉ đạo khởi nghĩa.
5 giờ 30 phút sáng 28-3, bộ đội pháo binh mở đầu cuộc tiến công giải phóng Đà Nẵng
bằng địn tập kích hoả lực mãnh liệt vào các vị trí quân sự địch. Từ các hướng, các
binh đồn thọc sâu có xe tăng dẫn đầu ào ạt tiến vào trung tâm Thành phố. Nhân
dân dẫn đường cho bộ đội đánh chiếm cầu Trịnh Minh Thế, ty cảnh sát, tồ thị chính
và nhiều mục tiêu khác... Hàng vạn người đổ ra đường, chặn xe tăng địch, kêu gọi
binh lính nguỵ hạ vũ khí, đầu hàng cách mạng. 11 giờ trưa ngày 19-3, quần chúng và
tự vệ vũ trang đã nổi dậy làm chủ tất cả các khu phố. Công nhân, viên chức, học sinh
cùng bộ đội chiếm lĩnh và bảo vệ bến cảng, sở hoả xa, nhà máy điện, nhà máy nước,
bệnh viện, trường học, truy quét tàn binh, kêu gọi binh sĩ ngụy đầu hàng. Nhiều xe
ca, xe lam chở dân di tản ra khỏi nội thành, khi gặp bộ đội ta đã quay trở lại, nhanh
chóng đưa bộ đội vào đánh chiếm các mục tiêu trong thành phố.
15 giờ ngày 29-3-1975, Đà Nẵng hoàn tồn giải phóng. Ngày 1-4-1975, qn và dân
3 tỉnh Bình Định, Phú n, Khánh Hồ kết hợp tiến cơng với nổi dậy giải phóng tồn
tỉnh. Ngày 2-4, qn ta giải phóng Nha Trang. Ngày 3-4, giải phóng Cam Ranh và
tồn tỉnh Khánh Hoà, Đà Lạt và toàn tỉnh Lâm Đồng.
Trong vịng một tháng, qn dân ta giải phóng hồn tồn Tây Nguyên và miền Trung
Trung bộ gồm 16 tỉnh với 8 triệu dân. Lực lượng so sánh giữa ta và địch đã thay đổi
tận gốc.
3. Chiến dịch Hồ Chí Minh giải phóng Sài Gịn



Sự thất bại nặng nề và đổ vỡ nhanh chóng của ngụy quyền Sài Gòn trong tháng 31975 làm cho đế quốc Mỹ vô cùng bối rối, nội bộ chia rẽ sâu sắc. Ngày 4-4, tướng
Uâyen về Caliphoócnia báo cáo với Tổng thống G.Pho: Tình hình miền Nam Việt Nam
đang ở bên bờ thất bại hoàn toàn về quân sự. Tổng thống Mỹ xin Quốc hội chấp
thuận viện trợ vũ khí cho ngụy quyền Sài Gịn, song nhiều nghị sĩ Mỹ cho rằng đã quá
muộn để làm bất cứ việc gì nhằm lật ngược tình thế ở miền Nam Việt Nam.
Chiến lược dùng quân ngụy Sài Gòn độc chiếm miền Nam của Mỹ - ngụy đến đây
hoàn toàn thất bại. Mỹ âm mưu trở lại Hiệp định Pari, "cải tổ chính phủ", hạ bệ
Nguyễn Văn Thiệu, lập một chính phủ Sài Gịn mới có khả năng nói chuyện với cách
mạng, gửi công hàm cho Liên Xô, Trung Quốc đề nghị họp lại Hội nghị quốc tế ở
Giơnevơ bàn việc thực hiện ngừng bắn.
Để có thêm lực lượng phịng thủ, ngụy quyền Sài Gòn cố sức thu thập tàn quân, điều
chỉnh thế bố trí lực lượng, lập tuyến phịng ngự từ xa ở Phan Rang nhằm ngăn chặn
quân ta.
Sau chiến thắng miền Trung, Hội nghị Bộ Chính trị ngày 31-3-1975 đánh giá: "Về
chiến lược, về lực lượng quân sự, chính trị, ta đã có sức mạnh áp đảo, địch đang đứng
trước nguy cơ sụp đổ và diệt vong. Mỹ tỏ ra hồn tồn bất lực, dù có tăng viện cũng
khơng thể cứu vãn được tình thế của ngụy. Cuộc chiến tranh cách mạng ở miền Nam
không những đã bước vào giai đoạn phát triển nhảy vọt, mà thời cơ để mở tổng tiến
cơng và nổi dậy tại Sài Gịn - Gia Định đã chín muồi". "Hiện nay ta có đầy đủ lực
lượng và khả năng để giành thắng lợi hoàn toàn trong một thời gian ngắn hơn dự kiến
rất nhiều".
Bộ Chính trị nhấn mạnh: Toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta cần nắm vững thời cơ
chiến lược hơn nữa, với tư tưởng chỉ đạo thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng, thực
hiện tổng cơng kích, tổng khởi nghĩa trong thời gian sớm nhất, tốt nhất là trong tháng
4-1975, không thể để chậm. Bộ Chính trị chỉ rõ bất ngờ hiện nay khơng cịn ở phương
hướng lớn nữa mà chủ yếu là ở khâu thời gian. Bộ Chính trị quyết định một số mặt
công tác lớn cấp bách sau đây:
Một là, khẩn trương điều động lực lượng dự bị, bao vây, cơ lập Sài Gịn từ các hướng.
Chuẩn bị sẵn những binh đồn mạnh để khi có thời cơ sẽ đánh thọc sâu vào trung

tâm thành phố, chiếm những mục tiêu quan trọng nhất.
Hai là, phát triển tiến công quân sự với nổi dậy của quần chúng ở các tỉnh đồng bằng
sơng Cửu Long.
Ba là, giải phóng các đảo trong hải phận của Tổ quốc.
Bốn là, thành lập Đảng uỷ và Bộ tư lệnh mặt trận Sài Gòn.
Năm là, động viên lực lượng cả nước đáp ứng mọi yêu cầu của chiến trường trọng
điểm.
Quyết tâm chiến lược, tư tưởng chỉ đạo thần tốc, táo bạo của Đảng được quán triệt
đến toàn dân, toàn quân. Năm quân đoàn binh chủng hợp thành cùng nhiều đơn vị
cơng binh, pháo binh, phịng khơng, xe tăng, đặc công ào ạt tiến quân về chiến
trường trọng điểm, sào huyệt cuối cùng của Mỹ - ngụy. Các đơn vị vừa đi vừa đánh
địch, vừa mở đường, bắc cầu. Cả dân tộc lên đường, cả nước ra trận.
Để đảm bảo cuộc tổng tiến công giành được thắng lợi thật chắc chắn cho đến khi


tồn thắng. Bộ Chính trị và Qn uỷ Trung ương chủ trương tập trung đầy đủ các binh
đoàn chủ lực và đẩy mạnh hoạt động trên các chiến trường.
Ngày 8-4-1975, phi công Nguyễn Thành Trung ném bom xuống Dinh Độc Lập, làm
cho ngụy quân Sài Gòn thêm hoảng hốt. Ngày 16-4, cánh quân Duyên hải của ta đập
tan tuyến phòng thủ Phan Rang của địch, bắt sống hai tướng ngụy và đại tá cố vấn
Mỹ, giải phóng thị xã Phan Thiết, tồn tỉnh Bình Thuận (ngày 18-4), thị xã Bình Tuy
(ngày 19-4).
Trước nguy cơ bị tiêu diệt hoàn toàn, ngày 20-4, lực lượng còn lại của địch ở thị xã
Xuân Lộc bỏ chạy về Bà Rịa, bị bộ đội ta truy kích, diệt một bộ phận. Thị xã Xuân Lộc
và tồn tỉnh Long Khánh được giải phóng.
Ngày 18-4, Tổng thống Mỹ G. Pho ra lệnh di tản người Mỹ ra khỏi Việt Nam. Các sĩ
quan cao cấp và nhân viên ngụy quyền Sài Gịn lo thu vén của cải, tìm cách đưa gia
đình chạy trốn ra nước ngồi.
Ngày 20-4, G.Pho và Kitxinhgiơ chính thức thơng báo cho đại sứ Matin biết chủ trương
của Chính phủ Mỹ là Nguyễn Văn Thiệu phải từ chức. Ngày 21-4, Nguyễn Văn Thiệu

lên đài truyền hình chỉ trích Mỹ bỏ rơi đồng minh và tun bố từ chức.
Ngày 23-4, Tổng thống Mỹ tuyên bố cuộc chiến tranh ở miền Nam Việt Nam đã kết
thúc đối với Mỹ. Cùng ngày, Tổng thống ngụy quyền mới Trần Văn Hương cử đại diện
đến sân bay Tân Sơn Nhất xin gặp phái đồn qn sự Chính phủ cách mạng lâm thời.
Bộ Chính trị nhận định: Đây là một âm mưu mới của Mỹ nhằm tìm cách trì hỗn cuộc
tiến cơng của ta vào Sài Gịn.
Từ đầu tháng 3-1975, khi bước vào chuẩn bị trực tiếp cho kế hoạch giải phóng thành
phố Sài Gịn - Gia Định, Thành uỷ Sài Gòn - Gia Định đã điều động 1.700 cán bộ quân
sự, chính trị vào các quận nội thành và các xã vùng ven đô cùng với các cấp uỷ địa
phương vận động tổ chức quần chúng sẵn sàng nổi dậy, phối hợp với địn tiến cơng
của bộ đội chủ lực.
Ngày 14-4-1975, chiến dịch giải phóng Sài Gịn - Gia Định mang tênChiến dịch Hồ Chí
Minh được Bộ Chính trị phê chuẩn với 5 mục tiêu quan trọng nhất là: Dinh Độc Lập,
Bộ Tổng tham mưu, Sân bay Tân Sơn Nhất, Biệt khu Thủ đô, Tổng nha cảnh sát.
Bảy lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh khi quân và dân ta mở cuộc tiến công và nổi dậy
Tết Mậu Thân năm 1968 được quán triệt sâu sắc đến từng chiến sĩ: 1-Ý chí phải thật
kiên quyết; 2- Kế hoạch phải thật tỷ mỷ; 3- Kiểm tra phải thật kỹ càng; 4- Phối hợp
phải thật ăn khớp; 5- Chấp hành phải thật chu đáo; 6- Cán bộ phải thật gương mẫu;
7- Bí mật phải giữ triệt để.
17 giờ ngày 26-4-1975, cuộc tổng cơng kích đánh chiếm thành phố Sài Gịn - Gia Định
bắt đầu.
Bộ đội pháo binh đã phát huy uy lực của các loại pháo tầm xa, bắn tập trung mãnh
liệt vào sân bay Tân Sơn Nhất, Biên Hoà, kiềm chế và tiêu diệt các trận địa pháo binh
địch. Bộ đội đặc công "luồn sâu đánh hiểm", phối hợp với lực lượng biệt động thành
phố đánh chiếm tất cả các cầu lớn trên các con đường tiến vào Sài Gòn. Từ các hướng
Đông, Đông Nam, Bắc, Tây Bắc và Tây Nam, các binh đồn thọc sâu có xe tăng dẫn
đầu đập tan các khu vực phịng thủ vịng ngồi của địch, nhiều trận đánh ác liệt diễn
ra ở Nước Trong, Đồng Dù, Trảng Bom, Hố Nai, Biên Hồ... Phía Nam, quân ta cắt đứt
đường số 4, các sư đoàn chủ lực ngụy bị tiêu diệt và tan rã, không kịp rút lực lượng về
nội thành.



Ngày 26-4, do sức ép của Mỹ, Tổng thống ngụy Trần Văn Hương từ chức, Dương Văn
Minh được cử lên thay. Ngày 28-4, "phi đội quyết thắng" của không quân ta sử dụng
máy bay A.37 vừa thu được của địch ném bom sân bay Tân Sơn Nhất. Cùng ngày, thị
xã Vũng Tàu và tồn tỉnh Bà Rịa được giải phóng. Qn địch ở Sài Gịn khơng cịn
đường rút chạy ra biển. Đường số 4 xuống vùng châu thổ Cửu Long đã bị cắt đứt.
Quân ta áp sát, bao vây chặt Sài Gòn trên tất cả các hướng, khống chế chặt đường
bộ, đường thuỷ và đường không. Ngày 28-4, Tổng tham mưu trưởng quân ngụy Cao
Văn Viên, nguyên thủ tướng Nguyễn Bá Cẩn cùng nhiều sĩ quan và nhân vật cao cấp
ngụy quyền tranh nhau lên máy bay lên thẳng của Mỹ để chạy ra nước ngoài.
Sáng 29-4, quân ta mở đợt tiến công mới, tiêu diệt và làm tan rã phần lớn các sư
đoàn 5, 25, 18, 22, 7 của quân ngụy ở vùng ven thành phố. Nhiều viên tướng ngụy tự
sát, bỏ chạy hoặc bị bắt sống. Trước nguy cơ bị tiêu diệt hoàn toàn, Dương Văn Minh
cho người liên hệ với ta xin được ngừng bắn và bàn giao chính quyền, nhưng bị ta bác
bỏ. Sáng ngày 30-4-1975, quân ta đồng loạt đánh chiếm các mục tiêu trong thành
phố. Quân đoàn 3 chiếm sân bay Tân Sơn Nhất. Quân đoàn 1 đánh chiếm Bộ Tổng
tham mưu ngụy. Đoàn 232 đánh chiếm Biệt khu Thủ đô, Tổng nha cảnh sát và Bộ tư
lệnh hải quân ngụy. Quân đoàn 4 giải phóng thành phố Biên Hồ, cùng với Qn đồn
2 vượt qua cầu xa lộ tiến về Dinh Độc lập.
9 giờ 30 phút ngày 30-4, đài phát thanh Sài Gòn phát bản tuyên bố của Dương Văn
Minh kêu gọi quân ngụy đơn phương ngừng bắn và bàn giao chính quyền cho cách
mạng.
10 giờ 10 phút, Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương chỉ thị cho Bộ tư lệnh và Đảng uỷ
mặt trận Sài Gịn "tiếp tục tiến cơng vào Sài Gòn theo kế hoạch". 10 giờ 45 phút,
chiếc xe tăng của Quân đoàn 2 húc đổ cánh cổng sắt của dinh Tổng thống ngụy
quyền. Cán bộ, chiến sĩ ta tiến vào phòng họp của Dinh Độc Lập bắt sống Dương Văn
Minh cùng toàn bộ nội các ngụy quyền, buộc Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng
không điều kiện.
11 giờ 30 phút, lá cờ cách mạng được cắm lên nóc Dinh Độc Lập. Thành phố Sài Gịn Gia Định hồn tồn giải phóng.

Cùng với nhân dân ta ở miền Nam, nhân dân cả nước reo mừng khi được tin Thành
phố Sài Gịn - Gia Định được giải phóng. Nhân dân thành phố Hà Nội và các thành
phố, thị xã, thị trấn miền Bắc đổ ra đường, theo dõi tin chiến thắng từ các loa truyền
thanh công cộng.
Trong kế hoạch giải phóng hồn tồn miền Nam, đồng bằng sơng Cửu Long là một
hướng chiến lược quan trọng. Từ đầu tháng 3-1975, nhân dân và các lực lượng vũ
trang ở đây đã đẩy mạnh tiến công và nổi dậy, mở rộng vùng giải phóng, đưa lực
lượng áp sát các đường giao thơng, các thị xã, thị trấn, kìm giữ các sư đồn chủ lực
ngụy, chia cắt Quân khu IV của địch với Sài Gịn, kìm chân Qn đồn 4 ngụy.
Ngày 30-4, hầu hết các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long được giải phóng. Một số tỉnh
cịn lại được giải phóng vào ngày 1-5.
Đồng thời với việc giải phóng các tỉnh, thành phố trong đất liền, Bộ Chính trị đã chỉ
đạo từ rất sớm việc giải phóng các đảo trong hải phận Tổ quốc. Từ Quảng Trị đến Hà
Tiên, tất cả các đảo dọc theo bờ biển đều được giải phóng cùng với các vùng đất của
mình.
Tại Cơn Đảo, ngày 1-5-1975, những người tù được thả tự do tổ chức lực lượng vũ
trang giải phóng, tổ chức chính quyền tự quản và đánh chiếm các cơng sở của ngụy
quyền, giải phóng tồn bộ tù nhân, làm chủ tồn bộ Cơn Đảo. Ngày 5-5, tàu hải quân


ta ra đón 4.000 tù chính trị và tiếp quản Côn Đảo.
Ở đảo Phú Quốc, ngày 30-4, nhân dân phối hợp với lực lượng vũ trang giải phóng thị
trấn Dương Đơng và tồn đảo.
Ở các đảo thuộc vùng biển phía Nam, các Đảng bộ đã kịp thời lãnh đạo nhân dân và
lực lượng vũ trang nổi dậy, tiến công giành quyền làm chủ trong các ngày 30-4 và 15-1975. Ở Trường Sa, từ ngày10-4 đến ngày 29-4-1975, quân ta đã giải phóng các
đảo do qn ngụy Sài Gịn chiếm giữ.
Chiến dịch Hồ Chí Minh đã tồn thắng. Ngày 30-4-1975 trở thành ngày hội lớn của
dân tộc Việt Nam. Ngày 7-5-1975, hơn một triệu đồng bào Sài Gòn và các tỉnh lân cận
đã tham dự cuộc mít tinh lớn mừng miền Nam hồn tồn giải phóng và chào đón Uỷ
ban qn quản Thành phố Sài Gòn.

Trải qua 50 ngày đêm chiến đấu thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng, quân và dân
ta đã tiêu diệt và làm tan rã hoàn tồn lực lượng ngụy qn đơng hơn 1 triệu tên, thu
tồn bộ vũ khí, phương tiện chiến tranh và căn cứ quân sự của Mỹ - ngụy, đập tan bộ
máy ngụy quyền từ trung ương đến cơ sở, xoá bỏ ách thống trị thực dân mới của đế
quốc Mỹ, giải phóng hồn tồn miền Nam, thống nhất nước nhà.
Thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 giải phóng hồn tồn
miền Nam đã biến lời tiên đoán sáng suốt và điều mong ước thiết tha của Chủ tịch Hồ
Chí Minh thành sự thật:
"Cuộc chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta dù phải kinh qua gian khổ, hy sinh nhiều
hơn nữa, song nhất định thắng lợi hoàn toàn".
Đánh giá về thắng lợi này, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng tháng 121976 cho rằng: Năm tháng sẽ trôi qua nhưng thắng lợi của nhân dân ta trong sự
nghiệp chống Mỹ, cứu nước mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trong
những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa
anh hùng cách mạng và trí tuệ con người, và đi vào lịch sử thế giới như một chiến
công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính
thời đại sâu sắc.
Trải qua 21 năm chiến đấu, nhân dân ta đã đánh thắng cuộc chiến tranh xâm lược
thực dân mới quy mô lớn, dài ngày nhất, ác liệt và dã man nhất từ sau Chiến tranh
thế giới lần thứ hai. Âm mưu của đế quốc Mỹ biến miền Nam Việt Nam thành thuộc
địa kiểu mới và chia cắt lâu dài đất nước ta đã bị đập tan.
Thắng lợi của nhân dân ta trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước kết thúc quá trình 30
năm chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc, chấm dứt ách thống trị hơn
một thế kỷ của chủ nghĩa đế quốc, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ lịch sử giải phóng
dân tộc và thống nhất nước nhà, mở ra bước ngoặt vĩ đại thiết lập quyền làm chủ của
nhân dân trên toàn bộ đất nước, đưa cả nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Với thắng lợi này, nhân dân Việt Nam chứng minh trước tồn thế giới sự phá sản
khơng thể tránh khỏi của chủ nghĩa thực dân mới. Cũng như trước đây, thắng lợi của
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp xâm lược năm 1954 đã chứng minh với thế giới sự sụp đổ tất yếu của chủ nghĩa
thực dân cũ. Quân ngụy Sài Gòn - đội quân tay sai mạnh nhất được Mỹ dồn sức lực,

tiền của nuôi dưỡng và bảo vệ bị tiêu diệt đã làm cho các đồng minh Mỹ ở châu Á,
châu Phi, Mỹ Latinh bắt đầu mất lòng tin vào khả năng của Mỹ. Niềm tin về "tính bất
khả chiến thắng" của đế quốc Mỹ đã bị lung lay.


Thắng lợi của nhân dân Việt Nam đã đẩy lùi và làm suy yếu trận địa của chủ nghĩa đế
quốc, phá vỡ một phòng tuyến quan trọng của đế quốc Mỹ ở Đơng Nam Á, làm đảo
lộn chiến lược tồn cầu phản cách mạng của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù
địch, làm lung lay vị trí chính trị của Mỹ trên trường quốc tế, làm phá sản "thần tượng
Mỹ" và tâm lý phục Mỹ, sợ Mỹ - tên đế quốc hùng mạnh nhất và tên sen đầm quốc tế
hung ác nhất.
Thắng lợi của nhân dân Việt Nam đã mở rộng trận địa của chủ nghĩa xã hội, tăng
thêm sức mạnh và thế tiến cơng của ba dịng thác cách mạng của thời đại, đem lại
lòng tin và niềm phấn khởi của hàng triệu người dân trên trái đất đang đấu tranh vì
hồ bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
Trong toàn bộ lịch sử 200 năm của Hoa Kỳ, đây là thất bại lớn nhất. Đế quốc Mỹ bị
suy yếu nghiêm trọng về qn sự, chính trị, kinh tế và cịn phải tiếp tục gánh chịu
nhiều hậu quả nặng nề và lâu dài. Vết thương nhức nhối mà đế quốc Mỹ gọi là "hội
chứng Việt Nam" đã dằn vặt giai cấp thống trị và cả nhân dân Mỹ trong nhiều năm
cho đến nay vẫn chưa lành. Chiến tranh Việt Nam làm cho nhân dân Mỹ hiểu thêm
những bệnh hoạn và mâu thuẫn vốn có của xã hội tư bản.
Thời kỳ sau Việt Nam, đế quốc Mỹ buộc phải điều chỉnh chiến lược toàn cầu, chuyển
sang chiến lược "diễn biến hồ bình" gây đủ mọi sức ép nhằm phá hoại phong trào
giải phóng dân tộc, phá hoại Liên Xô, Đông Âu, hệ thống xã hội chủ nghĩa, phong trào
cộng sản quốc tế từ trong lịng các phong trào và các nước đó.
Tất cả những điều đó nói lên tầm quan trọng quốc tế và tính thời đại của cuộc kháng
chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược mà cả loài người tiến bộ, những ai có lương tri đều
thừa nhận, dù Nhà Trắng và Lầu Năm Góc có tìm trăm phương nghìn kế để xố bỏ
cũng uổng công, dù năm tháng đã trôi qua nhưng sự thật lịch sử vẫn là sự thật.
Sau khi chiến tranh của Mỹ xâm lược Việt Nam thất bại, đã có hàng nghìn ấn phẩm

của các nhà qn sự, các nhà chính trị, các nhà nghiên cứu Mỹ viết về cuộc chiến
tranh này. Các tác phẩm đó đã nói lên ít nhiều sự thất bại, nhất là của các tổng thống
và các tổng chỉ huy quân đội xâm lược Mỹ. Nhưng chưa có ấn phẩm nào nói rõ thực
chất cuộc chiến tranh này, càng chưa nói rõvì sao đế quốc Mỹ thua, vì sao nhân dân
Việt Nam thắng. Đối với Mỹ, đến nay câu hỏi ấy vẫn còn và đòi hỏi được trả lời. Với
cách nhìn nhận và vì lợi ích của họ, Mỹ khó có thể nhận ra những sự thật hiển nhiên,
mà nhân dân ta và cả loài người tiến bộ đều nhận thấy. Đó là:Cuộc chiến tranh xâm
lược của Mỹ là phi nghĩa, cuộc kháng chiến của nhân dân ta là chính nghĩa, vì thế
tồn thể dân tộc Việt Nam đều tham gia kháng chiến. Nhân dân ta đánh xâm lược Mỹ
trong điều kiện nhân dân ta đã làm chủ đất nước trải qua Cách mạng Tháng Tám và
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Chế độ nhân dân làm chủ đất nước đã nâng
cao lên trình độ mới truyền thống yêu nước, kiên cường, bất khuất, cả nước chung
lịng đánh giặc trong hàng nghìn năm của dân tộc Việt Nam. Toàn dân đánh Mỹ, cả
nước đánh Mỹ dựa trên nòng cốt quân đội nhân dân gan dạ, mưu trí, biết sử dụng
những vũ khí hiện đại. Toàn dân đánh Mỹ, cả nước đánh Mỹ dựa vào hậu phương miền
Bắc hùng hậu và các hậu phương tại chỗ của từng chiến trường, được Liên Xô, Trung
Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa chi viện, nhân loại tiến bộ đồng tình, có sự phối
hợp chiến đấu của nhân dân ba nước Đơng Dương. Tồn dân đánh Mỹ, cả nước đánh
Mỹ dưới sự lãnh đạo của Đảng ta- Đội qn tiên phong tơi luyện, giàu trí tuệ, đồn
kết nhất trí, gắn bó với nhân dân, có đường lối kháng chiến đúng đắn, sáng tạo. Đó là
những nhân tố thắng lợi cơ bản của Việt Nam mà Mỹ không thể nào có được.
Thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ đã để lại những bài học qúy
giá trong lịch sử giữ nước:


Một là: Toàn dân đánh Mỹ, cả nước đánh Mỹ, đồng thời tiến hành hai chiến lược cách
mạng nhằm mục tiêu chủ yếu là giải phóng miền Nam.
Hai là: Chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện, tạo ra sức mạnh tổng hợp của
chiến tranh.
Ba là: Lựa chọn phương thức chiến tranh thích hợp.

Bốn là: Ba tầng mặt trận thống nhất chống Mỹ: ở trong nước, giữa ba nước Đông
Dương và trên thế giới.
Năm là: Không ngừng nâng cao sức chiến đấu và hiệu lực lãnh đạo của Đảng trong
chiến tranh.



×