Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Vai trò, kỹ năng của nhân lực trong môi trường thư viện số và trách nhiệm của các cơ sở đào tạo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (177.08 KB, 10 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>THƯ VIỆN SỐ VÀ TRÁCH NHIỆM CỦA CÁC CƠ SỞ ĐÀO TẠO</b>


<b>Nguyễn Thị Ngà</b>

<b>1</b>


<b>*</b>

<b><sub> - Phạm Thị Thành Tâm</sub></b>



<b>2</b>


<b>**</b>


<b>Tóm tắt: Nguồn nhân lực là yếu tố then chốt của một thư viện </b>
<i>số. Vai trò và kỹ năng của người làm công tác thư viện trong môi </i>
<i>trường thư viện số có nhiều thay đổi so với môi trường thư viện </i>
<i>truyền thống. Các đơn vị đào tạo nguồn nhân lực thư viện cần </i>
<i>thay đổi nội dung, chương trình và phương thức đào tạo để đảm </i>
<i>bảo cung cấp nguồn nhân lực đáp ứng được yêu cầu khi làm việc </i>
<i>trong thư viện số. Bài viết phân tích vai trị và kỹ năng của nguồn </i>
<i>nhân lực trong thư viện số và bàn luận về trách nhiệm của các cơ </i>
<i>sở đào tạo trong việc đổi mới chương trình đào tạo nguồn nhân </i>
<i>lực đáp ứng nhu cầu của thực tiễn.</i>


<b>Từ khóa: Nhân lực; Đào tạo nhân lực; Thư viện số.</b>

<b>ĐẶT VẤN ĐỀ</b>



Việc hiện đại hóa công tác thư viện là một nhu cầu tất yếu trong
xu thế chung của thời đại. Các thư viện đã và đang tiến hành xây dựng
thư viện số. Và thực tế, thư viện số đã và đang trở thành một phần tất
yếu của xã hội tri thức. Thư viện số giúp chúng ta trong việc truy cập,
tìm kiếm cũng như sử dụng thơng tin và tri thức trong các kho lưu giữ
tri thức số được kết nối mạng trên phạm vi toàn cầu. Sự phát triển của
khoa học công nghệ trong thời gian vừa qua, đặc biệt là công nghệ
thông tin, đã tạo ra những chuyển biến mạnh mẽ, tác động sâu sắc đến


mọi lĩnh vực đời sống, trong đó có lĩnh vực thư viện số.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

Có nhiều tổ chức, học giả và nhà nghiên cứu đã đưa ra định nghĩa
về thư viện số, trong đó có định nghĩa của một số thành viên Hiệp hội
Thư viện số Hoa Kỳ (Digital Library Federation). Theo Hiệp hội Thư
viện số Hoa Kỳ, Thư viện số là các tổ chức cung cấp tài nguyên, gồm
các nhân viên chuyên biệt giúp lựa chọn, tổ chức, cung cấp khả năng
truy cập thơng minh, chỉ dẫn, phân phối, bảo quản tính toàn vẹn và
sự thống nhất của các bộ sưu tập số theo thời gian để đảm bảo làm sao
chúng ln sẵn có để truy xuất một cách dễ dàng và kinh tế nhất đối
với cộng đồng người dùng hoặc một nhóm cộng đồng người dùng.


Trong q trình xây dựng thư viện số, các thư viện đã gặp phải
những khó khăn, vướng mắc như nguồn kinh phí, nguồn tài liệu số, cơ
sở vật chất và nguồn nhân lực. Trong khuôn khổ bài viết này, chúng tôi
xin đi sâu vào vai trò cũng như các kỹ năng cần thiết của nguồn nhân
lực trong môi trường thư viện số và trách nhiệm của các cơ sở đào tạo
nguồn nhân lực thư viện trong việc đào tạo ra nguồn nhân lực đáp ứng
yêu cầu đặt ra của mơi trường thư viện số.


<b>1. VAI TRỊ VÀ KỸ NĂNG CỦA NGUỒN NHÂN LỰC TRONG THƯ VIỆN SỐ</b>



Con người ln đóng vai trị quan trọng trong bất kỳ một cơ quan,
tổ chức hay một hệ thống nào. Xây dựng một thư viện nói chung và
thư viện số nói riêng đều phải giải quyết các nhiệm vụ liên quan đến
thu thập, tổ chức và phân phối thông tin. Người làm công tác thư viện
là yếu tố quan trọng cấu thành thư viện, là chủ thể của hoạt động thư
viện dù là trong thư viện truyền thống hay thư viện số. Chính vì vậy,
để giải quyết được các nhiệm vụ của mình, nhân lực tham gia vào triển
khai hoạt động xây dựng thư viện số cần có sự đa dạng và được đào tạo


từ các lĩnh vực khác nhau.


Có thể phân chia nguồn nhân lực trong thư viện số thành hai
nhóm chính:


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

Nhóm 2: Những người có trình độ về cơng nghệ thơng tin – đảm
nhận các nhiệm vụ liên quan đến thiết kế, cài đặt, tùy biến vận hành
và quản trị hệ thống.


Trong thư viện số, nội dung các quy trình như bổ sung, xử lý, tổ
chức, bảo quản nguồn lực thông tin, khai thác và phổ biến thơng tin đã
có sự thay đổi căn bản. Môi trường làm việc của người làm cơng tác thư
viện có đặc điểm: khả năng tiếp cận nguồn tin nhiều hơn; tốc độ thu
nhận thông tin ngày càng tăng; việc định vị, phân tích và kết nối thơng
tin có tính chất phức tạp hơn. Nhân lực trong thư viện số phải là người
quản trị thư viện số, quản trị thông tin, tri thức; phổ biến, cung cấp các
dịch vụ số; số hóa tài liệu, bảo quản và lưu trữ dữ liệu số; cung cấp khả
năng truy cập và khai thác nguồn tài liệu số đến người dùng... Để đảm
bảo đảm nhận được các vai trị đó, nhân lực trong thư viện số cần có ba
nhóm kiến thức, kỹ năng, bao gồm:


Nhóm 1: Kiến thức, kỹ năng chuyên ngành thông tin thư viện,
bao gồm: biên mục, xử lý thông tin; đào tạo và phục vụ người dùng tin
số; lưu trữ, bảo quản tài liệu số.


Nhóm 2: Kiến thức công nghệ thông tin và ngoại ngữ, bao gồm:
kiến thức về hạ tầng công nghệ thông tin, kiến thức về Web, khai thác
và quản trị dữ liệu.


Nhóm 3: Kiến thức và kỹ năng bổ trợ khác, bao gồm: kỹ năng


nghiên cứu, kỹ năng marketing và truyền thông, bản quyền số.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

kiếm thơng tin, trình độ sư phạm để đào tạo người dùng tin. Hơn nữa,
ngoài các kỹ năng mang tính kỹ thuật, người làm cơng tác thư viện cịn
cần khả năng thích nghi, làm việc hiệu quả với môi trường năng động
và luôn tiềm ẩn sự thay đổi như mơi trường Internet.


Những thay đổi nhanh chóng trong mơi trường của thư viện số
tạo ra khó khăn cho người làm công tác thư viện – người trực tiếp thực
hiện công việc trong thư viện số. Do đó, để người làm cơng tác thư viện
có thể đảm bảo hồn thành tốt vai trị của mình, đối với đội ngũ cán bộ
được đào tạo từ ngành khác cần được đào tạo, bồi dưỡng thêm những
kiến thức căn bản về lĩnh vực thông tin thư viện. Đối với cán bộ đã
được đào tạo chuyên ngành thông tin thư viện nhưng theo các chương
trình cũ, khác với chương trình đào tạo hiện tại của các cơ sở đào tạo,
cần được đào tạo, bồi dưỡng, cập nhật thêm các kiến thức mới về lĩnh
vực chuyên mơn trong thư viện hiện đại thơng qua các hình thức đào
tạo, bồi dưỡng khác nhau.


<b>2. TRÁCH NHIỆM CỦA CÁC CƠ SỞ ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC THƯ VIỆN</b>



Những yêu cầu và kỹ năng đặt ra cho người làm công tác thư viện
làm việc trong thư viện số đã đặt các cơ sở đào tạo ngành thông tin
thư viện phải nhanh chóng đổi mới chương trình đào tạo để cung cấp
nhân lực đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn ngành nghề.


Hiện nay, ở Việt Nam có nhiều trường tham gia đào tạo nguồn
nhân lực thơng tin thư viện từ trình độ cao đẳng trở lên, trong đó có
9 cơ sở đào tạo người làm cơng tác thư viện trình độ đại học, 3 cơ sở
đào tạo ở trình độ thạc sĩ và 2 cơ sở đào tạo tiến sĩ thông tin thư viện.



</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

liên quan. Để khắc phục tình trạng thiếu giảng viên, các trường đã mời
giảng viên thỉnh giảng, thậm chí là mời chun gia nước ngồi đến
giảng dạy. Tuy vậy, thời lượng dành cho các mơn học này ít, trong khi
kiến thức của mơn học lại là kiến thức mới và nhiều kiến thức, cộng với
phần lớn chỉ dừng lại ở lý thuyết, sinh viên chưa có hoặc ít có điều kiện
thực hành nên chất lượng đào tạo chưa cao.


Dựa vào cách phân loại năng lực của SLA (Special Library
Association – Hiệp hội Thư viện đặc biệt), thuộc Đại học Washington,
Hoa Kỳ, năng lực của sinh viên nói chung và sinh viên ngành thơng tin
thư viện nói riêng được đánh giá theo 3 nhóm:


Nhóm A: Nhóm năng lực chun mơn.
Nhóm B: Nhóm năng lực cá nhân.
Nhóm C: Nhóm năng lực cốt lõi [6].


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

các cơng việc đúng với chun mơn được đào tạo. Và nhóm năng lực
cốt lõi (tính cộng tác trong cơng việc, đạo đức nghề nghiệp và lòng yêu
nghề) đảm bảo cho hai nhóm năng lực trên được phát huy có hiệu quả,
tạo nên các giá trị nghề nghiệp và đảm bảo “sức sống” lâu dài của nghề
thông tin thư viện. Việc quan tâm rèn luyện và phát triển ba nhóm kỹ
năng trên bắt đầu được các cơ sở đào tạo quan tâm thông qua việc đổi
mới chương trình đào tạo và đổi mới phương pháp giảng dạy, nhằm
đào tạo ra những người làm công tác thư viện tự tin, năng động, sáng
tạo, có kiến thức chun mơn, có khả năng đáp ứng các u cầu của
thực tiễn xã hội và tạo ra các giá trị nghề nghiệp.


Khoa Thông tin Thư viện, Trường Đại học Văn hóa Hà Nội được
thành lập năm 1961, là một cơ sở đào tạo nguồn nhân lực thơng tin thư


viện có truyền thống và uy tín. Gần 60 năm đào tạo, tính đến nay, Khoa
đã đào tạo được gần 50 khóa đại học chính quy với hơn 4000 sinh viên
tốt nghiệp. Hệ đại học vừa học vừa làm cũng được triển khai đào tạo
rộng khắp trong cả nước và đã đào tạo được gần 4000 sinh viên. Trong
những năm gần đây, để đa dạng hóa các loại hình và cấp bậc đào tạo,
Khoa đã mở các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ thông tin thư viện theo các
chuyên đề khác nhau. Khoa được Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch giao
nhiệm vụ tổ chức các lớp bồi dưỡng chức danh thư viện viên theo quy
định hiện hành. Những sinh viên tốt nghiệp từ Khoa đã được xã hội
đón nhận, trở thành người làm cơng tác thư viện, đang cơng tác ở mọi
loại hình thư viện và cơ quan thông tin trong cả nước. Họ đã và đang
vận dụng những kiến thức được đào tạo vào thực tiễn cơng việc, đóng
góp vào việc phục vụ và thỏa mãn nhu cầu của người đọc – người
dùng tin, góp phần thúc đẩy nhanh cơng cuộc xây dựng và phát triển
đất nước. Họ đã cống hiến cơng sức và trí tuệ góp phần vào mục tiêu
nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho xã hội trong
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và bảo tồn, phát
triển văn hóa Việt Nam.


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7></div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

giảng viên của Khoa xây dựng. Các môn học có sự tư vấn của chun
gia trong và ngồi nước đã được các giảng viên phụ trách của Khoa thay
đổi, điều chỉnh và đã bắt đầu tiến hành lên lớp.


Với chương trình đào tạo mới này, chuẩn đầu ra phải đảm bảo
5 mục: <i>Kiến thức, Kỹ năng, Thái độ, Vị trí - khả năng cơng tác sau khi tốt </i>
<i>nghiệp và Khả năng học tập nâng cao trình độ sau tốt nghiệp. </i>


Với chương trình đào tạo được đổi mới, nguồn nhân lực thông tin
thư viện được đào tạo tại Khoa Thông tin Thư viện, Trường Đại học Văn
hóa Hà Nội ngồi sự hiểu biết chun mơn, họ cịn được trang bị kiến


thức nhiều lĩnh vực khoa học khác, có trình độ cơng nghệ thơng tin và
ngoại ngữ, kèm theo đó là sự năng động, cần mẫn và nhiệt tình. Tính
đúng đắn trong chương trình đào tạo của Khoa đã được chính các đơn vị
đang sử dụng trực tiếp nguồn nhân lực được Khoa đào tạo khẳng định.


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

<b>KẾT LUẬN</b>



Người làm công tác thư viện là một trong những yếu tố cấu thành
thư viện và được đánh giá là yếu tố then chốt quyết định chất lượng của
thư viện. Một cơ quan thơng tin thư viện có nguồn lực thông tin phong
phú và đầy đủ đến đâu; một nguồn lực tài chính dồi dào đến bao nhiêu;
một cơ sở vật chất và trang thiết bị hiện đại đến bao nhiêu cũng sẽ không
thể thành công nếu nguồn nhân lực không được đảm bảo, không đáp
ứng được yêu cầu. Trong môi trường thư viện số, yêu cầu và kỹ năng đối
với người làm cơng tác thư viện ngày càng địi hỏi cao hơn. Điều đó đặt
các cơ sở đào tạo nhân lực thư viện phải ln đổi mới chương trình cũng
như cách thức đào tạo để cung cấp cho xã hội một nguồn nhân lực đáp
ứng được yêu cầu của thực tiễn ngành nghề và xã hội.


<b>T</b>

<b>ÀI LIỆU THAM KHẢO</b>



1. Bùi Loan Thùy (2009), Đặc điểm lao động thông tin – thư viện và tiêu chí


đánh giá hiện nay, <i>Thông tin và Tư liệu</i>, Số 4, Tr. 8-13.


2. Bùi Loan Thùy (2009), Nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực bậc


đại học và cao học thư viện thông tin trong không gian phát triển mới,


<i>Thư viện Việt Nam</i>, Số 1, Tr.3-12.



3. Đặng Thị Nguyệt Ánh (2017), Định hướng xây dựng thư viện số tại Học


viện Kỹ thuật Quân sự - Thực trạng và giải pháp, <i>Xây dựng và phát triển </i>


<i>thư viện số Việt Nam quá khứ - hiện tại – tương lai</i>, Đại học Quốc gia Hà Nội,
Tr. 23 – 36.


4. Hoàng Thị Thu Hương (2011), Những năng lực cần thiết của một thủ


thư nhìn từ góc độ nhà tuyển dụng, <i>Kỷ yếu Hội thảo 50 năm đào tạo nguồn </i>


<i>nhân lực thư viện – thông tin</i>, Trường Đại học Văn hóa Hà Nội, Tr.169 – 175.


5. Nguyễn Minh Hiệp (2003), Chiến lược đào tạo ngành thư viện – thông


tin ở Việt Nam, <i>Bản tin Liên hiệp Thư viện</i>, Tr. 2-5.


6. Nguyễn Thu Thảo (2011), Năng lực cần thiết cho nghề thông tin trong


thế kỷ 21 theo quan điểm của SLA, <i>Thông tin và Phát triển</i>, Số 7, Tr. 8-13.


7. Nguyễn Văn Thiên (2017), Những vấn đề cần quan tâm khi xây dựng


thư viện số và những kinh nghiệm từ thực tiễn xây dựng thư viện số tại


Trường Đại học Văn hóa Hà Nội, <i>Xây dựng và phát triển thư viện số Việt </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

8. Trần Thị Quý (2011), Đào tạo nguồn nhân lực ngành thông tin – thư viện



ở Việt Nam 50 năm nhìn lại, <i>Thư viện Việt Nam</i>, Số 1, Tr. 11-15.


9. Vũ Thị Ngọc Liên (2011), "Tổng quan tình hình phát triển thư viện số các trường


đại học Australia và Việt Nam", Tạp chí <i>Thư viện Việt Nam</i>, Số 1 (27), Tr. 24 – 28.


10. Vũ Dương Thúy Ngà (2005), Suy nghĩ về phẩm chất và năng lực của


người cán bộ thư viện – thông tin trong điều kiện hiện nay, <i>Thư viện Việt </i>


</div>

<!--links-->

×